• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Truyện dài Mưa ở kiếp sau - Đoàn Minh Phượng

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Truyện dài Mưa ở kiếp sau - Đoàn Minh Phượng

    Mưa ở kiếp sau - Đoàn Minh Phượng


    Ngày sẽ đến khi em nhận ra chúng ta đều là nước.
    Cuộc đời trôi bên trong em và bên ngoài em...
    George Harrison

    1. Con thuyền bên cửa sổ

    Những năm thơ ấu tôi ngủ chung với mẹ trên chiếc giường nhỏ trong căn hộ một gian của chúng tôi ở Hà Nội. Năm tôi mười lăm tuổi, mẹ tôi xin được một tấm ván ngang sáu tấc, dài một mét tám từ một bộ phản xưa người ta bỏ đi vì để chật nhà. Trên đường đi học về, tôi đi quanh những con đường có người sửa nhà để lấy cắp một hai hay viên gạch thẻ bỏ vào cặp mang về. Tôi mài những viên gạch trên nền nhà xi măng để khi xếp cạnh nhau chúng vừa vặn hơn và ít chông chênh. Gần hai tháng tôi có đủ gạch để dựng hai chân bàn thấp cạnh cửa sổ để tôi gác miếng ván lên. Ban ngày tấm ván làm nơi ăn cơm, là quần áo, học bài, ban đêm tôi ngủ trên đó. Dù tôi đã mài những viên gạch, đã gấp giấy chêm vào những khe hở, tấm ván gác lên những viên gạch vẫn chông chênh khi tôi trở mình.

    Tôi tưởng tượng mình nằm trên ván một con thuyền nhỏ, chung quanh tôi là dòng nước, chung quanh tôi vắng lặng, tôi có cả một dòng sông cho riêng mình. Trên mảnh thuyền ấy tôi nằm ngủ, mắt nhắm, nhìn thấy đủ thứ ác mộng lẫn vào những giấc mơ êm đềm. Trên mảnh thuyền ấy tôi nằm thức, mở mắt nhìn khung cửa sổ. Tôi nhớ ngày còn bé khi nhìn thấy cửa sổ tôi ngó thấy một mảnh trời. Tôi thấy sao, đôi khi có mặt trăng lơ lửng trong mảnh trời trong suốt hay mù sương của tôi. Ngày tôi lớn, chỉ còn thấy những bức tường của những căn nhà phía bên kia khoảng sân nhỏ. Những bức tường không biết mọc lên vào hôm nào, bầu trời mỗi năm một hẹp lại và cao hơn, phải thò đầu ra khỏi cửa sổ nhìn lên thì mới thấy được nó. Một hôm, mẹ tôi đặt làm một cái khung sắt có hoa văn, người ta mang tới khoan lỗ bắt vít khung hoa sắt ấy vào cái cửa sổ nhỏ để phòng bọn ăn trộm, tôi không còn thò đầu ra nhìn trời được nữa. Chỉ còn thấy những bức tường ở chung quanh, phía sau những thanh sắt uốn hình cánh hoa.

    Giường mẹ tôi ở góc tường đối diện. Dọc theo tường nơi đầu giường là cái bàn kê làm bếp. Mẹ tôi may một tấm màn giăng từ trên trần để che nơi nấu nướng, tấm màn vải in lá cây rừng xanh, hoa và chim chóc vàng, đỏ và da cam, nhưng mảnh rừng nhiệt đới đó bây giờ ám khói bếp, trông vừa sặc sỡ vừa u tối, buồn thảm khó tả. Nhưng từ lâu chúng tôi không còn nhìn thấy tấm vải ấy nữa, nó vẫn treo ở đó, nhưng nhìn hoài dường như nó đã trở nên vô hình. Đối diện chân giường của mẹ tôi là tủ quần áo bằng gỗ hương, gỗ này chỉ để đóng hòm chôn người chết, tôi không biết tại sao cái tủ của chúng tôi lại là tủ hương. Trong tủ, phía trên treo quần áo gấp lại, mấy tấm chăn, mấy cái khăn lông. Dưới nữa là bốn hộc tủ. Ngăn duy nhất có khoá là ngăn của mẹ tôi. Trong đó mẹ cất cuốn sổ tiết kiệm và những thứ khác tôi không biết. Có thể có một đôi hoa tai vàng, những bức ảnh chụp thời con gái, những phong thư thời ấy. Mẹ tôi không bao giờ dỡ ra cho tôi xem. Có thể thỉnh thoảng mẹ tôi dỡ ra xem một mình, lúc tôi không ở nhà, tôi mong như vậy, vì tôi muốn mẹ tôi có kỷ niệm, dù mẹ tôi suốt đời im lìm về chúng.

    Một đôi lần, mẹ tôi có kể về căn nhà của ông ngoại tôi ở Huế. Căn nhà cổ có mười tám cột gỗ lim, mái lợp ngói âm dương. Trước sân, ông tôi xây một cái bể cạn hình chữ nhật dài mười hai mét để trồng sen. Những hôm trời mưa, mẹ tôi đứng trong gian trướcnhìn xuyên qua những hàng nước rơi song song từ mái ngói, ngó mưa rơi nhạt nhoà trên lá sen và bông sen. Năm hai mươi hai tuổi mẹ tôi chửa hoang, ông bà ngoại tôi cấm mẹ tôi ra vào nhà bằng cổng chính, cấm bước lên nhà trên. Mẹ không còn thời con gái, không còn mơ màng vịn cột gỗ lim, ngó mưa rơi trên lá sen và bông sen sân trước. Sen là kỷ niệm duy nhất mẹ tôi mang theo khi ra đi. Không, đó là kỷ niệm duy nhất được nói ra. Những kỷ niệm khác nằm trong niềm im lặng của mẹ tôi, niềm im lặng dài hai mươi hai năm, dài bằng đời tôi và nửa đời của mẹ. Tôi không biết gì về bên ngoại. Ông bà tôi làm gì, tôi có bao nhiêu cậu, dì. Tôi không biết gì về cha tôi. Tôi không biết gì về khoảng thời gian giữa ngày mẹ tôi là cô học trò Đồng Khánh đứng trong một gian nhà xưa ở Huế nhìn ra mưa, và ngày mẹ tôi là thiếu phụ một con không hộ khẩu, bán rau trong một cái chợ ở quận Ba Đình, Hà Nội.

    Mỗi năm một lần, tôi hỏi:

    "Cha và mẹ gặp nhau như thế nào? Sao cha không cưới mẹ?".

    "Bao giờ con đủ lớn, mẹ sẽ kể".

    Nhưng tôi không bao giờ đủ lớn. Hoặc là sự yên lặng đã trở thành cuộc đời của mẹ mà nếu nó mất đi, mẹ không biết sống tiếp tục cuộc đời mìnhnhư thế nào. Tôi hai mươi hai tuổi, không có một nét phác nào dù rất nhạt về cha tôi. Nếu mẹ cho tôi một vài nét thôi, tôi sẽ vẽ những nét còn lại bằng trí tưởng tượng, tôi sẽ nối những nét của mẹ và những nét của tôi lại vớinhau, để tôi có được bức hoạ về cha mình. Nhưng mẹ tôi mãi im lặng và tôi không có nơi nào để bắt đầu. Vậy mà tôi vẫn luôn luôn biết mình có một người cha, máu của ông chảy trong người tôi, dù sự thật ấy rất tê tái, tôi cũng không thay đổi nó được. Những lần đi học về gặp trời mưa, tôi đứng trú dưới một hiên nhà bên đường. Tôi trông sang bên kia đường, dưới mái hiên những căn nhà đối diện, có những người khác cũng đang trú mưa. Tôi thường nghĩ cha tôi đang đứng ở bên đó, lẫn trong đám đông, khuất trong một góc thiếu sáng, cách tôi một con đường, cách tôi một màn mưa. Và tôi không bao giờ hiểu tại sao cha tôi không băng qua con đường, băng qua màn mưa để qua bên này với tôi. Tôi ao ước cha tôi làm như vậy trước khi tôi trưởng thành. Tôi muốn cha tôi nhìn thấy tôi, chưa lớn, đáng yêu và chưa biết cuộc đời, thực sự là một đứa con gái nhỏ, chứ không phải là một người lớn độc lập và ưu phiền.

    Gần sang xuân bà ngoại tôi ở Huế mất. Một trong những ngày mưa mù trời trắng đất cuối mùa đông, mẹ tôi nhận được thư của ông ngoại tôi. Ông kêu mẹ tôi về cho đủ mặt các con ngày đám tang bà. Đó là lá thư đầu tiên ông viết từ hai mươi hai năm. Trong thư ông không hỏi han gì đến tôi. Buổi chiều mẹ tôi đọc thư xong, cứ ngồi thẫn thờ, thỉnh thoảng quệt nước mắt bằng lưng bàn tay đến khi trời tối lúc nào không hay. Tôi nghĩ mẹ tôi khóc vì mẹ của mẹ mất, khóc vì sắp được về quê, khóc vì hai mẹ con tôi nghèo khó, mẹ tủi thân không muốn dắt con gái về nhà. Mẹ tôi khóc vì không biết vay đâu cho ra tiền đi tàu, khóc vì không biết ông ngoại có nhìn nhận tôi, một đứa con gái không cha là cháu của ông không. Bức thư làm cho mẹ tôi ốm, bỏ chợ đã hai hôm. Mẹ nằm trên giường, đến hôm nay thì nước mắt không còn, chỉ còn sự yên lặng. Tôi nghĩ nếu mẹ nói chuyện với tôi được thì sẽ bớt buồn. Tôi đến ngồi ở chân giường, hỏi mẹ về bà ngoại, về hoa sen và lá sen, về những mùa mưa ở Huế, nhưng mẹ tôi không nói gì.

    Tôi nói:

    "Ông ngoại gọi mẹ về làm đám tang bà, vậy ông vẫn nhìn nhận mẹ là con gái. Mẹ không vui sao?".

    "Không."

    "Bà ngoại mất, ông đang buồn. Cả nhà đang buồn. Đây là lúc gia đình cần có nhau. Mẹ nên về nhà.".

    "Không."

    "Nếu không vì ông, cũng phải về vì bà ngoại."

    "Không."

    "Mẹ không biết đến tình cảm mẹ con nữa sao? Mẹ làm con sợ."

    Mẹ tôi khóc oà, tôi không còn thấy nước mắt, nhưng tôi nghe những tiếng nấc dài từ một lồng ngực như có ai đè làm nghẹn mất hơi thở. Tôi không ngờ tôi nhắc đến tình mẹ con lại làm mẹ tôi đau đớn đến như vậy.

    Sau đó lâu lắm tôi mới hiểu vì sao mẹ tôi khóc uất trong một ngày mẹ không còn nước mắt.

    Hai hôm sau, mẹ tôi ngồi dậy, đi chợ, và không còn nhắc một lời nào về bức thư của ông ngoại nữa. Tôi lén mẹ viết thư cho ông, thưa rằng mẹ bị ốm, yếu lắm, không đi tầu hoả được. Làm tuần 49 ngày của bà, mẹ sẽ về. Tôi xin ông nhớ tới cháu trong ngày lễ phát tang bà ngoại. Cháu đang học đại học năm thứ hai, ngành y, hệ chính quy, cháu học chăm, cháu kính gửi lời thăm ông vạn an. Tôi viết thư chọn từng chữ, từng dòng, trau chuốt từng nét bút, mong cho người đọc thư hiểu rằng tôi là một đứa con gái có giáo dục và ngoan hiền, đáng yêu. Tôi định bỏ vào phong thư một bức ảnh của mẹ tôi và tôi chụp ở hiệu ảnh năm tôi mới đỗ vào đại học, nhưng rồi lại thôi.

    Tôi mong chờ ông viết thư cho tôi, xưng ông và gọi tôi bằng cháu. Chỉ đôi dòng trên một trang giấy trắng, chỉ vài giọt mực thôi thì tôi sẽ có dòng họ, có quê nhà, xoá đi hết hai mươi hai năm tôi là con hoang của một người mẹ lầm quê lạc chợ.Những ngày chờ thư, tôi thường nghĩ tới căn nhà cổ của ông ở Huế, tưởng tượng ông tôi biết chữ Nho và chữ Pháp, ông tôi hay đọc sách, quê nhà tôi xanh như ngọc và hồng như sen, mơ màng trong những mùa mưa nhiều thương nhớ. Tôi mơ ước được về thăm quê mẹ.

    Ông ngoại tôi không bao giờ trả lời thư tôi viết cho ông. Có lẽ ông không muốn hoang phí những giọt mực và một ngăn dù rất nhỏ trong trái tim cho chút tình máu mủ. Đêm đêm tôi sẽ lặng lẽ đem thả trôi sông từng mảnh tình yêu dành cho Huế, nơi tôi chưa bao giờ đến, sẽ không bao giờ đến. Đêm đêm tôi sẽ nằm trên con thuyền nhỏ của riêng mình, sẽ xé nhỏ tình yêu quê hương dòng họ, rồi vứt đi từng mảnh xuống nước và nhìn chúng chìm nhanh trong một dòng mênh mông thăm thẳm.
    Đã chỉnh sửa bởi nhé; 22-03-2009, 08:23 AM.
    Tôi yêu tiếng nước tôi

    Audio Truyện Kiều
    Similar Threads
  • #16

    16. Gương nhật nguỵêt, dao quỷ thần

    Chi làm chủ thân thể tôi, một tầng nào đó của tâm tưởng và ý thức mà tôi không đến được, vào những giờ mà nó muốn. Chi có thể đến Muôn Hoa, và làm việc đó trong lúc tôi không có ở đó; trong lúc tôi nghĩ là tôi đang ngủ, không mơ gì, khi tôi thức dậy, mọi việc đã xong rồi. Nhưng tôi biết rằng Chi muốn tôi làm chuyện đó trong khi tỉnh táo, chứ không phải trong cơn mê. Vết cắt có gây mê không còn là vết cắt. Nó muốn những giọt máu hồng sẽ chảy ra và thấm vào làn vải trắng là những giọt chảy từ ý chí của tôi.

    Tôi biết là tôi không thể làm điều Chi muốn. Và tôi không thể từ chối Chi. Chi đã xé nát tôi rồi. Một hồn Mai tả tơi sẽ chiều lòng Chi, làm tất cả những điều Chi muốn một cách chu toàn, để Chi có thể thoát kiếp, hai mươi hai năm sau cái chết trẻ thơ buồn tủi.

    Chi đã toan liệu mọi việc thật hoàn hảo, theo ý nó. Ý chí của tôi yếu đuối, chỉ vừa đủ để làm kẻ tuân hành. Nhưng nó không biết rằng ý chí tôi mạnh mẽ hơn nó nghĩ, và tôi sẽ đi thêm một bước xa hơn, bước cuối cùng, để cơn bão được tuyệt đối, và không ai còn có đường về. Tôi mua một con dao Thuỵ Sĩ gấp lại được, lưỡi dao bằng thép thật mỏng, thật sắc. Tôi giáấ con dao dưới nệm, ở chân giường.

    Khi mọi việc đã xong, cha tôi đã hiểu. Ông sẽ không còn nhiều thì giờ để ngẫm nghĩ về tội lỗi. Tôi sẽ đâm ông, ở cổ, nơi cái ngấn phía trên chính tâm xương bả vai. Tôi sẽ phải thật dứt khoát và chính xác, vì nếu ông kịp phản ứng, tôi yếu hơn sẽ thất bại. Tôi phải giết cha tôi, để trên thế gian không ai đã nhìn thấy những gì xảy ra trong căn phòng này mấy mươi phút trước đó. Và ông phải chết sau khi phạm tội lỗi cuối cùng. Và ông phải chết sau khi phạm tội lỗi cuối cùng, sau khi chạm được sự thật, chứ không phải trước đó. Ông không thể chết như một người vô tội.

    Sau đó, tôi sẽ rút con dao ra và tự cắt mạch máu ở cổ tay bên trái. Tôi sẽ rọc một đường theo chiều dọc, đủ sâu rồi mới xoay ngang mũi dao cắt đứt lìa đường nối từ trái tim đến bàn tay.

    Phòng treo màn nhung, có ghế bọc nhung màu rượu đỏ. Giữa phòng kê một chiếc giường lớn bằng sắt với bốn cột cao gần đến trần ở bốn góc. Một tấm gương lớn treo che gần khuất hết bức tường đối diện chiếc giường.
    Tôi không mặc quần áo, ngồi trên hai đầu gối của mình nơi chân giường bên trái. Tôi ngồi như vậy và chờ, rất lâu.

    Cha tôi ăn uống trong một gian phòng nào đó với những người bạn của ông, có những cô gái hầu hạ. Rồi họ kéo nhau qua một gian phòng khác, để uống một chai rượu khác, hút thuốc và tiếp tục câu chuyện họ đang nói, trong lúc một hay nhiều cô người mẫu giải trí cho họ, như tôi đã làm trong hơn bốn tuần qua ở Muôn Hoa. Căn phòng có thể có hoa, hoặc nến, hoặc những dải lụa dùng để trói những cổ tay và những cổ chân con gái mềm mại và phủ phục. Tôi chờ cha tôi trong lúc ông làm tất cả những việc đó không nôn nóng, vì để tôi đợi chờ lâu làm cho ông thấy thoả mãn hơn, tôi biết như vậy.

    Quá nửa đêm ông mới bước vào phòng. Tôi thấy buốt khắp toàn thân.
    Ông đã uống rượu, nhưng không nhiều. Tôi cúi xuống, không dám nhìn lên. Ông ngồi trên cạnh giường, tôi dưới đất. Thứ định mệnh nào đã bắt tôi ngồi đây, trên hai đầu gối của mình, dưới chân ông, đợi chờ tội lỗi xảy ra, tội lỗi cuối cùng đốt cháy tất cả tội lỗi trước đó. Để ông, và tôi chạm được sự thật, trong giây phút đời ông và đời tôi đang vỡ tan. Ông vuốt tóc tôi. Tôi chợt nhớ đây là bàn tay, đây là sự vuốt ve mà tôi đã chờ suốt hai mươi hai năm, bàn tay của người cha, của hơi ấm từ mặt trời, của thương yêu, bảo bọc.
    Rồi trong giờ khắc đó, sự lầm lẫn nghiệt ngã nhất xảy ra: tôi cảm thấy một chút ngọt ngào êm ái lan toả ra từ bàn tay đang vuốt tóc tôi. Cũng ngay cùng lúc đó, tôi nhận ra mình bị giác quan của mình lừa dối. Tôi nhận ra khả năng lừa dối kinh khiếp trong cử chỉ con người; và khả năng sẵn sàng hiểu lầm của một thứ giác quan mê muội đã quá lâu ngày thiếu vắng sự thân ái. Sự êm ái mê muội làm lạc đủ ngọt ngào làm cho tôi muốn khóc oà, như khi sự buồn tủi được vỗ về. Trong khi cha tôi chỉ màng tới nhục dục và sự hưởng thụ tàn tệ, thì tôi đói khát ảo tưởng ngỡ mình nhận ra một thứ tình thân trong sự vuốt ve đó.

    Không, tôi không thể tiếp tục cảm nhận bàn tay, ảo tưởng rằng có một sự dịu dàng đang làm toả ra từ những ngón thận trọng đó. Tôi phải nghĩ đến một thứ, một thứ thôi, tê cóng tâm tưởng lại trên một hình ảnh duy nhất: hình ảnh của con dao gấp bằng thép mỏng tanh đang nằm ở cuối giường, bên dưới tấm nệm. Thế giới không còn gì khác ngoài con dao đó. Trái đất không còn xoay, mọi thứ đang mất hết đường viền và tan vào thinh không. Chỉ còn lại con dao. Con dao là tự do, là danh dự, là sự trung trinh, là thành trì không bao giờ đổ được của đời con gái. Con dao biến tôi thành một thánh nữ không có gì xâm phạm được.

    Tôi cố gắng vượt qua nỗi kinh sợ. Tôi kinh sợ vì chuyện đang xảy ra, đạo đức không cho phép. Nhưng đạo đức là gì? Tất cả chỉ là những giá trị do con người đặt ra để kiểm soát lẫn nhau. Quên nó đi thì nó không làm gì được mình. Tôi sẽ quên, đang quên mọi thiêng liêng, mọi cấm kỵ, mọi tội lỗi.
    Nhưng khi những thành trì đó đang bị xô ngã, tôi chợt nhận ra rằng đạo đức là những cái một con người đã dựng nên giữa trời chơi vơi để chống giữ điều duy nhất mà họ biết, đó là nòi giống. Nếu nó đổ, họ sẽ tan tác dưới vòm trời quá rộng, vực thẳm không có đáy.

    Chỉ một khoảnh khắc nữa thôi.

    Sau khi những giọt máu chảy ra, tôi sẽ nói câu đó. Con tên là Phan Kỳ Mai... Con là con gái của cha.

    Chỉ một khoảnh khắc nữa thôi.

    Nhưng tôi không vượt qua được khoảnh khắc đó.

    Trong lúc vẫn đang cúi mặt làm những điều được dặn dò, chỉ dẫn, tôi hạ thấp cổ tay phải để nó khuất khỏi tầm nhìn của cha tôi. Thật khẽ khàng, cẩn trọng, bàn tay phải tôi đi dọc theo đường viền của thân thể tôi, dọc xuống sống lưng, đến phần trên của đôi chân đang quỳ, đầu gối, rồi dần băng qua một khoảng không, đến thành giường. Những ngón tay tôi bám lấy khung giường bên dưới tấm đệm. Đầu những ngón tay lần đi dần vào bên dưới. Tôi chạm được một đầu của con dao đã xếp lại.

    Tôi chợt linh cảm có người đang nhìn những ngón tay của tôi. Tôi nhớ lại là tôi đang quỳ xoay lưng lại một tấm gương lớn treo trên mảng tường đối diện. Cha tôi có thể nhìn thấy tôi từ một phía.

    Tôi buông bàn tay xuống. Tôi cúi người thấp hơn, cố nén hai vai không rung lên vì tiếng nấc. Tôi nói nhỏ:

    "Em xin phép cho em vào nhà tắm một chút."

    Cha tôi buông một tiếng ứ thất vọng.

    "Nhanh nghe em."

    Tôi lùi ra trên hai đầu gối, rồi đứng dậy. Tôi không muốn đi vào phòng tắm trong phòng, tôi không muốn cha tôi là người đầu tiên tìm thấy xác tôi. Tôi đi đến cửa. Cha tôi thoáng ngạc nhiên nhưng không nói gì, hoặc chưa kịp nói gì. Tôi mở cửa ra ngoài, và đi vào một phòng tắm ở cúôi dãy hành lang. Tôi khoá chốt trong.

    Người tôi quặn đau. Tôi gục mặt xuống bồn rửa mặt nôn ra một chút nước đắng lờ lờ. Tôi khóc, nhưng không có nước mắt. Tôi không lấy được con dao, và tôi cũng không thể trở lại căn phòng đó.

    Tôi tìm một thứ gì nặng để đập vào tấm gương treo trước mặt, nhưng tôi không tìm thấy gì, đành phải đập bằng hai tay trần. Đến lần thứ ba, tôi thấy gương mặt tôi rạn rồi vỡ ra. Những mảnh gương rơi loảng xoảng. Hai tay tôi có máu.

    Tôi cúi tìm một mảnh gương nhọn. Tôi ngồi xuống đất, dựa vào tường. Tôi bắt đầu rạch cổ tay trái. Mảnh gương không sắc, tôi phải ấn rất mạnh nhiều nhát. Máu bắt đầu ứa ra. Tôi cắn môi đâm nữa. Máu đã đủ nhiều để chảy thành dòng xuống khuỷu tay, rồi nhỏ xuống chân, xuống thềm. Tôi không có dao để cắt một đường ngọt ngào. Tôi cứ phải đâm nữa, vì tôi sợ máu ngừng lại. Tôi căm thù Chi, tôi muốn đâm em tôi, đâm nữa, cho tới bao giờ máu nó chảy hết khỏi thân thể tôi.

    Có tiếng người xoay tay nắm để mở cửa, nhưng cửa đã khoá. Tôi hoảng loạn cầm mảnh gương đâm vào người tôi, bất kể đâu, miễn sao cho máu chảy ra ngoài, chảy hết, cho tim tôi cạn kiệt trước khi người ta phá cửa vào.

    Có tiếng gọi tên tôi, rồi tiếng chìa khoá mở cửa. Chị Hoa bước vào. Tôi xoay mặt vào tương, cố ngồi im nhưng vẫn run rẩy từng chập. Chị Hoa nắm lấy cổ tay tôi, những ngón tay chị ấn xuống để chận những mạch máu lại. Tôi nghe tiếng chuông điện thoại của chị reo. Chị mở điện thoại bằng tay trái.

    "Dạ. Em tìm được nó rồi, nhưng không ổn chị ạ, nó không quay vào được, nó cắt cổ tay... Thưa em hiểu, người ta bỏ ngần ấy tiền để mua lấy cái hên mà lại thế này... Vâng... Đón cái Thanh Hồng nhanh không ạ? Ông khách không biết gì đâu, nó xin ra ngoài đi toilet... Để em tìm cách nói, quan trọng là phải có cái Hồng ngay..."

    Chị Hoa gọi bà giúp việc đến băng tạm các vết thương và lau rửa cho tôi bằng khăn ướt. Bà ấy mặc cho tôi một bộ quần áo cũ và quá rộng rồi dắt tôi ra đường bằng cổng sau. Bà mang lên vai tôi túi xách của tôi do chị Hoa trả lại, gọi xe ôm, dặn họ chở tôi đến bệnh viện. Trên đường đi, máu vẫn tiếp tục thấm ra ngoài mấy lớp vải quấn quanh cổ tay tôi. Áo tôi cũng có máu. Tóc tôi ướt rũ rượi.
    Tôi yêu tiếng nước tôi

    Audio Truyện Kiều

    Comment

    • #17

      17. Lá ngọn sầu đâu

      Ở phòng cấp cứu của bệnh viện người ta khâu các vết thương. Tôi được tiếp máu, rồi nằm lại để tiếp nước biển. Tôi nằm nhìn các giọt nhỏ chậm từ cái chai treo ngược và vì hình như bác sĩ có tiêm thuốc ngủ cho tôi, tôi ngủ thiếp đi trên chiếc giường sắt nhỏ kê ở giữa lối đi đông người qua lại. Họ để yên cho tôi ngủ đến gần tối mới gọi tôi dậy để đi về. Lúc ký phiếu nộp tiền, nhìn ngày tháng cô thu ngân ghi trên đó, tôi chợt nhớ rằng sáu ngày nữa là sinh nhật tôi. Tôi sẽ được hai mươi hai tuổi và bước qua năm thứ hai mươi ba. Số các vết thương được khâu trên cổ tay trái và bàn tay phải, cánh tay, ngực, cổ, bụng, đùi bên trái, cũng xấp xỉ tuổi tôi. Vào ngày sinh nhật tôi, những năm trước, mẹ tôi mang về nhà giò, bánh gối, ô mai, và một bó hoa nhỏ. Chúng tôi cắm hoa vào một cái ly, và ngồi ăn bánh cạnh tấm ván, nơi tôi viết, đọc, là quần áo, nơi tôi ngủ, nơi tôi nằm mơ. Sinh nhật trên chiếc thuyền bên cửa sổ, bốn bề là nước, dòng sông đen ngăn ngắt lúc đêm khuya và trắng xoá những ngày mưa bụi. Năm nay, mẹ tôi sẽ mang bánh gối và hoa về một căn nhà không có tôi. Con thuyền chỏng chơ, sông đã cạn khô rồi. Tuổi thơ của tôi đâu? Tuổi thơ của mẹ tôi đâu? Tôi đứng đón xe ở cổng bệnh viện, nghĩ đến chuyện đó và nó làm tôi khóc.

      Tôi không muốn về phòng tôi bây giờ trên cao ốc, vì tôi sợ Chi đến đó. Cũng có thể cô Tâm cho người đến để lấy lại tiền, tiền cha tôi đã đưa trước để mua tôi. Tôi đã gửi gần hết số tiền tôi nhận được đi Hà Nội.

      Tôi lang thang ngoài đường, không có nơi nào để đến. Gần khuya, đuối sức, tôi mới nhớ ra tôi còn có người quen ở dãy nhà trọ tôi đã ở lúc còn đi làm cho các quán bia.

      Hai ba người tôi quen không còn ở đó nữa. Một cô gái làm công nhân chừng mười bảy tuổi, mười tám còn nhớ mặt tôi, tuy chúng tôi chưa bao giờ nói chuyện. Nó tên Hạnh. Mặt nó xinh nhưng người nó nhỏ xíu, như một bé gái mười hai mười ba. Nó nhường cho tôi chiếc giường, tôi từ chối, nó nói người tôi đầy vết thương, tôi phải nằm trên giường. Nó trải một tấm vải mỏng nằm dưới đất, giữa chiếc giường tôi đang nằm và giường của cô bạn thuê chung phòng.

      "Vì sao mà người chị đến nỗi như vậy?"

      "Chị bị tai nạn."

      "Chị nói vậy không có ai tin chị đâu, người chị dao đâm tùm lum như vầy. Chị bị đánh ghen chứ gì. Ghê quá, may mà họ đâm chị không chết."

      Tôi không biết nói sao. Nó nói tiếp:

      "Chị may thiệt đó. Mặt không có vết nào hết. Đánh ghen là người ta đâm vào mặt trước để tàn phá sắc đẹp."

      Tôi nghe nó thở dài:

      "Đẹp càng khổ. Kiếm miếng ăn ở thành phố thiệt nguy hiểm."

      Tôi không muốn nói chuyện về tôi nữa. Tôi hỏi:

      "Em may ở xí nghiệp nào, xa không?"

      "Em không phải thợ may. Em làm thuỷ tinh ở Gò Vấp."

      Nó nói xong tắt đèn. Chúng tôi im lặng, một lúc sau con bé đã ngủ. Tôi nằm mãi. Những tiếng guốc dép, tiếng nói chuyện, tiếng ăn uống bên ngoài hành lang đã tắt. Đêm im lặng. Tôi sợ Chi về. Tôi sợ Chi.

      Tôi ôm chăn xuống đất nằm cạnh Hạnh. Tất cả các lần Chi về, nó đều vì khi tôi có một mình. Tôi nắm cánh tay Hạnh để biết chắc có một người khác đang ở sát cạnh tôi. Hạnh mở mắt. Nó nói khẽ:

      "Chị nằm một mình chị sợ hả?"

      "Ừ!"

      "Mấy người đánh ghen có thấy chị vô đây không mà sợ?"

      "Không. Không phải chị sợ họ. Chị không sợ gì cả."

      Hạnh quá buồn ngủ, nó không hỏi thêm gì nữa. Tôi nằm hoài. Gần bốn giờ sáng cô bạn cùng phòng đi làm ca đêm về, tôi giả vờ ngủ, để cô gái khỏi hỏi chuyện tôi.

      Lúc tôi thức dậy cô bạn đang ngủ còn Hạnh đã đi làm từ lúc nào. Nó để lại mẩu giấy trên bàn: Em nấu cháo cho chị ở ngoài bếp tập thể. Em không múc đem vô, sợ cháo nguội. Có bịch thịt chà bông ở trong ngăn dưới tủ đầu giường. Rồi nó viết thêm, cách một khoảng trống, ở bên dưới: Chị đừng đi ra ngoài nguy hiểm. Chiều tan tầm em đi mua bông băng và đi chợ về nấu cơm.

      Tôi nhìn quanh phòng, Hạnh không có gì, chỉ có vài bộ quần áo, một đôi dép, một cái thau đựng nước, chai nước gội đầu, vài cái khăn lông thưa. Trong cái tủ thấp ở đầu giường Hạnh có mấy viên thuốc cảm, trong một bao nilon có mấy túi nhựa đựng ruốc, muối vừng, mì gói. Cuộc đời Hạnh ở đây chỉ có thế. Hạnh nhỏ xíu,sẵn sàng bao bọc tôi.

      Phiếu tái khám của bệnh viện hẹn tôi trở lại cắt chỉ các vết khâu, nhưng tôi không thể ở lại thành phố này được nữa. Mười một giờ, đứa con gái ở chung phòng Hạnh thức dậy. Tôi rút cái thẻ sim từ điện thoại di động vứt đi. Tôi đưa điện thoại cho cô bạn cùng phòng, nói tôi thiếu tiền Hạnh, nhờ nó đưa Hạnh trừ nợ. Biết đâu tôi chết nay mai, tôi không muốn thiếu nợ ai, dù chỉ một bát cháo. Tôi cũng không còn cần điện thoại để nói chuyện với ai nữa. Hạnh được trả công, chắc sẽ giận tôi. Tôi ra phố mua mấy bộ quần áo, áo có tay dài để che cổ tay tôi, và găng tay, rồi tôi đi ra ga. Tôi mua vé, chờ tàu đi Huế. Tôi sẽ kể tất cả mọi chuyện với dì Lan, rồi tôi đi tu hay chết hay đi đến bất cứ nơi nào mà Chi không thể theo tôi.

      Tối, tàu đi trong mưa. Tôi nằm mộng thấy Chi. Tôi không biết có phải nó về trong giấc mộng hay không, vì tôi không còn nhớ là tôi thức hay ngủ. Nó không nói gì, mặt buồn vô hạn, nó giận tôi vô hạn. Không, tôi không thật sự thấy mặt Chi, nó luôn luôn quay lưng lại với tôi. Người nó mỏng như sương, lãng đãng chập chờn, nhạt đi mỗi khi tôi ngước nhìn, nhưng tôi luôn luôn biết rằng nó đang ở đó, nơi khung cửa sổ của toa tàu. Bên ngoài mưa cứ rơi mãi, âm thầm, dai dẳng và buồn rưng rức. Những hành khách trong toa đều ngủ, chỉ có hai chị em tôi thức. Thức trong giấc chiêm bao. Không nói với nhau một lời nào.

      Ở Huế, tôi đi tìm nhà của dì Lan theo địa chỉ trên những lá thư dì gửi cho tôi. Tôi đến một căn nhà ở một thôn nằm bên sông Hương, cách thành phố một chuyến xe và hai chuyến đò. Nhà phía trước có bán quán, phía trong có hai cái máy khâu. Nhưng đó không phải là nhà của dì Lan, mà của một dì bạn của dì Lan. Dì chỉ mượn địa chỉ đó để thư từ với tôi. Bạn dì đưa tôi đến nhà dì cách nhiều con đường.

      Trước nhà dì Lan có một khoảng sân, bên hông có một cái giếng. Sân rộng nhưng căn nhà rất nhỏ. Dì ở với chồng. Tôi ngạc nhiên vì dì chưa bao giờ nói với tôi là dì có chồng. Có lẽ vì ông lớn tuổi hơn dì quá nhiều. Dì nói với ông tôi là con của một người bạn. Tôi hơi ngạc nhiên sao dì không nói tôi là cháu, nhưng lúc đó tôi không hỏi, và sau này, lúc chỉ có hai dì cháu, tôi cũng không hỏi. Tôi chỉ hỏi dương làm gì, dì nói trước thì làm ruộng nhưng lâu rồi không làm gì cả. Tôi không biết gì thêm về dượng tôi. Họ không có con.

      Dượng tôi đi ra phía sau. Dì Lan hỏi tôi:

      "Mi ra bất ngờ quá. Mi đang đi học mà sao lại đi xa. Bao giờ mi quay lại trường? Cha có khoẻ không?"

      "Dì cho cháu ở đây vài hôm. Cháu ra đây là để nói chuyện với dì, chuyện dài, cháu không nói bằng thư được."

      Dì Lan đưa tôi trở lại nhà dì thợ may, căn nhà mà dì đã mượn địa chỉ để thư từ với tôi.

      "Mai con gái chị Liên đây. Kỳ Mai. Cho em gửi hắn ở nhà chị vài hôm."

      "Mai, hắn lớn chừng ni rồi sao?"

      Dì Thư đưa tôi ra sân sau rửa mặt. Bây giờ là mùa mưa, vườn nhà dì xanh mướt. Dì múc nước từ những vại nước mưa đặt dưới hiên đổ vào chậu sành. Dì đưa cho tôi chiếc khăn lông nhỏ và xà phòng. Dì nói tôi cởi áo ra mà lau mình, nhà chỉ đàn bà con gái, tôi không phải e thẹn. Tay tôi vẫn còn mang găng. Tôi không dám tháo chúng ra. Tôi không dám mở cúc, người tôi đầy vết thương. Tôi ngồi co ro trên chiếc ghế đẩu thấp, giả vở rửa mặt thật lâu. Dì Thư đi vào nhà rồi tôi vẫn không dám mở một chiếc cúc áo nào.

      Dì Lan phải về làm cơm cho chồng, tôi ăn cơm với dì Thư, cơm có cá kho, thân chuối xắt mỏng và nhiều loại rau tôi không biết. Ăn xong dì Thư bảo tôi vào nằm ở phòng trong, trên một bộ phản rộng kê cạnh một khung cửa sổ lớn. Trời bắt đầu mưa lâm râm. Dì Thư đội nón, bảo tôi cứ ngủ đi, dì đi một chút về ngay. Tôi nằm sát cửa sổ, nhìn ra bầu trời bên ngoài. Có một cây xoan, và mưa đang rơi trên những lá xoan và những trái xoan xanh mướt. Tôi ngủ trong tiếng mưa êm đềm.

      Lúc tôi thức dậy, dì Thư mang bông băng và thuốc đỏ vào để thay băng cho tôi. Dì biết người tôi nhiều vết thương, dù tôi vẫn còn mang găng, dù tôi chưa mở cái cúc áo nào trước khi ngủ. Tôi nói:

      "Con không sao hết, chỉ có vài vết xước. Con lo được."

      "Dì đoán các vết thương cũng sâu. Con cởi áo ra để dì thay băng cho."

      "Con tự làm được."

      "Hồi nhỏ đi thanh niên xung phong dì có học y tá. Con để dì."

      Dì Thư ngồi xuống phản, bảo tôi ngồi dậy rồi tháo găng cho tôi và mở từng chiếc cúc áo. Tôi không biết làm sao từ chối.

      "Ui cha, con làm chi mà để tấm thân ra nông nỗi này."

      Dì Thư bắt đầu mở từng vết thương ra.

      Tôi không trả lời, cắn răng để không khóc dù vì tủi thân hay vì đau.

      Một lúc lâu sau, dì mới thay băng xong từng vết thương ở vai trái, ngực, bụng và đùi. Lúc dì chạm vào miếng băng ở cổ tay trái, tôi rút tay lại. Dì Thư lặng yên ngồi chờ một lúc, rồi dì lấy cây lược trong túi áo cẩn thận chải tóc cho tôi. Tóc tôi bẩn, và có máu khô lẫn trong đó. Dì nói:

      "Con chưa tắm được, để lát dì nấu nước gội đầu cho. Bây giờ thì đưa tay cho dì thay băng cho xong đi con. Con giấu thì dì cũng biết rồi. Con cầm lưỡi dao hay mảnh kính bằng tay phải, tự đâm cho nên các vết thương nằm bên phía trái."

      Tôi đành để cho dì tiếp tục mở băng. Cổ tay trái tôi nát hết, và bàn tay mặt cũng chồng chéo những vết cắt của mảnh gương.

      Các vết thương đã băng lại xong, dì Thư đưa cho tôi một chiếc áo rộng và chiếc quần lụa trắng để thay.

      "Con buồn chuyện chi kể cho dì nghe được không?"

      "Con về đây, là để kể hết mọi chuyện từ ngày con vào Sài Gòn cho dì Lan con nghe. Mà sao không thấy dì ấy qua?"

      "Chồng hắn khó khăn, không muốn cho vợ đi đâu. Nhưng mà tối hay mai Lan cũng sẽ qua thôi.

      Sao con lại đâm mình như thế?"

      "Con muốn đâm người khác, nhưng không được. Lúc đó không có ai, nên con đâm con."

      "Người khác đó là ai mà làm con thù giận đến như vậy?"

      Tôi nhớ lại. Buổi tối đó tôi mang dao vào phòng để giết cha tôi rồi tự tử sau khi tội lỗi xảy ra. Nhưng tội lỗi đã không xảy ra. Khi nhìn thấy máu, tôi nghĩ đó là máu của Chi chảy ra từ những mạch máu của tôi. Tôi muốn máu nó chảy hết khỏi tim mình trước khi người ta mở được cửa. Tôi đâm vào ngực mình cho Chi không còn nơi cư trú, cho nó tan đi, biến đi.

      Tôi không nói được bất cứ điều gì của câu chuyện này cho bất cứ ai. Tôi hỏi dì Thư:

      "Con có một đứa em sinh đôi, dì có biết nó không?"

      Dì Thư ngạc nhiên:

      "Không. Dì Lan con không có kể cho dì. Mạ con thì từ lúc ra đi đến nay ai thăm hỏi cũng không có một lời một chữ đáp lại. Em con tên gì, ở đâu?"

      "Em con tên Chi. Nó chết rồi, chết vì mẹ không đủ sữa để nuôi cả hai chị em. Con ước gì con chết, còn nó sống. Nó dũng cảm, còn con yếu đuối quá, không biết cách sống."

      "Sao con biết?"

      Tại sao tôi biết? Chi là đứa đã nhìn thấy tia chớp từ cái đuôi sao chổi đã rơi vào vũ trụ của chúng tôi. Nó là đứa giữ ngọn lửa đó. Tôi không biết tia chớp có màu của ánh sáng trên thiên đường, hay của lửa địa ngục. Tôi chưa nhìn thấy tia chớp ấy một lần.

      Sáng sớm, dì Lan ghé qua, nói dì phải về quê chồng làm đám giỗ ba hôm. Dì không bước vào nhà, vì sợ trễ đò.

      Tôi sống ba ngày êm đềm trong căn nhà của dì Thư. Ba ngày không có Chi, không có Muôn Hoa, và Hà Nội đã xa mờ. Mỗi sáng sớm dì dẫn tôi đi chợ quê họp ở gần bến sông. Về nhà dì Thư ngâm nếp, rọc lá chuối, gói bánh. Buổi chiều dì gom củi thổi lửa luộc bánh ở sân sau, để ngày mai bán trong cái quán nhỏ xíu lợp lá của dì ở khoảng sân trước. Tay tôi đau, không phụ giúp gì được cho dì. Tôi nằm ở võng trong quán đọc sách, cùng trông quán với cô thợ may. Rồi tôi ngủ quên trong tiếng đạp máy khâu, tiếng chó sủa, tiếng gà trưa, tiếng máy đò vẳng lại từ dưới bến sông, tiếng bọn trẻ tan trường hay đuổi bò ngang xóm. Và tiếng mưa, hoặc tiếng gió ở trên những ngọn cây xoan (ở đây gọi là cây sầu đâu).

      Dì Thư là bạn thân của mẹ tôi, đã hơn hai mươi năm rồi không gặp. Căn nhà này là nơi dì Lan đã đến may tã cho tôi và Chi, từ những mảnh vải vụn mà dì đã mua và xin ở chợ, ở nhà người quen. Dì đã may bằng chính chiếc máy khâu này, bây giờ đã quá cũ. Vậy là tôi cũng có một nơi chốn, một thứ gì như quê hương, nơi người ta đã tìm cách giúp mẹ, đã lo lắng cho sự ra đời của chúng tôi.

      Buổi chiều rảnh, dì Thư kêu tôi ngồi cho dì chải tóc. Dì luồn những ngón tay mềm mại vào chân tóc tôi, giữ từng lọn tóc để gỡ những sợi rối, sự thân ái làm cho tôi nao nao. Tôi ước gì căn nhà này, hàng sầu đâu này, những cơn mưa này là quê tôi, cái quán nhỏ, những tàu lá chuối rọc ra để gói bánh, lũ gà vịt trong sân là cuộc đời tôi, người đàn bà này là mẹ tôi. Cùng lúc đó tôi cảm thấy tôi có tội với mẹ của tôi ghê gớm, người mẹ lưu lạc vì con, mẹ còn bao nhiêu sức lực và đời còn bao nhiêu điều phản trắc mẹ phải đi qua?

      Tôi nói với dì Thư:

      "Dì đừng chải đầu cho con nữa."

      "Hai bàn tay con thế kia có cầm nổi cây lược không?"

      "Thì cứ để tóc rối."

      "Tóc rối trông như ma."

      "Thì như ma. Hay là thôi để con cắt phứt mái tóc cho xong. Con cũng sắp đi tu rồi."

      Tôi không biết sao tôi lại nói những lời đó. Tôi không biết mình nói gì, chỉ biết chút thời khắc ngắn ngủi ở thiên đường đã qua rồi. Tôi không thuộc về nơi đây. Tôi không có quê hương. Tôi lưu lạc từ ngày mới sinh, lưu lạc với chính mẹ mình, với chính đời mình. Tôi cũng không thể nằm đây, nghe mưa và quên nỗi lưu lạc đó.

      Ngày thứ ba dì Lan về. Dì đưa tôi đi chơi đền Chén. Dì mặc chiếc áo lụa mỡ gà dì đã mặc ở Hà Nội, áo vẫn còn mới, có lẽ không thường mặc. Tôi nhớ lại ngực và vai dì cũng trắng như áo lúc dì cởi áo lau mình ở nhà mẹ tôi, trắng như hoa ngọc lan. Chúng tôi lên đền thờ thắp hương rồi đi bộ ra ngoài, ngồi trên khoảnh đồi thấp ở mé sông, nhìn dải sông Hương mênh mang mờ nhạt trong một ngày không nắng và không gió.

      Dì Lan nói giọng buồn rầu:

      "Mi ngồi xuống đây nói cho dì biết tại sao mà mi lấy dao đâm vào người như vậy?"

      "Chuyện dài lắm. Con cũng không biết bắt đầu từ đâu. Chuyện bắt đầu từ ngày dì ra thăm mẹ. Dì cho con địa chỉ của cha, để con vào gặp cha, để cha lo cho con đi học."

      Tôi kể cho dì Lan mọi chuyện từ ngày tôi đi tàu vào Nam. Tôi đến nhà cha tôi. Khi đứng ở cổng, biết cha tôi có vợ và con gái bằng tuổi tôi, tôi bỏ đi. Tôi không biết tôi không bước vào căn nhà ấy được vì nó quá to hay vi cha có con gái. Tôi thuê phòng trọ, đi bưng nước ở quán bia. Tôi nhận được thư của dì gửi vào hộp thư ở bưu điện, dì nhờ tôi hỏi Chi chết như thế nào. Tôi đến nhà cha tôi. Vợ ông ấy nói họ không biết gì, chối hết mọi chuyện, hăm doạ và xua đuổi tôi.

      "Sau hôm đó con nghĩ đến Chi hoài. Không phải con nghĩ đến Chi, con gặp Chi. Chi đến với con trong mơ. Rồi Chi đến với con không phải trong mơ. Chi luôn luôn ở đâu đây, trong thân thể và hồn trí con. Dì hiểu không?"

      Dì Ngọc Lan úp mặt vào hai đầu gối khóc. Tôi thấy thương dì vô hạn. Tôi muốn ôm lấy dì, dì là đứa con gái nhỏ chứ không phải tôi. Tôi muốn nói, muốn chạm được nỗi ấm ức và cơn run rẩy của dì, nhưng miệng tôi không nói được, tay tôi không ôm lấy người dì được.

      Một lúc lâu sau dì Lan mới hỏi:

      "Chi có nói với con sao mà nó chết không?"

      Tôi không thể nói với dì một lời nào về Muôn Hoa, về những bức thư Chi viết cho tôi, về những chuyện nó muốn tôi làm.

      "Chi không nói nó chết thế nào. Chi chỉ nói cha giết nó."

      Dì Lan oà khóc, khóc thẫn thờ, u uất. Và dì cố gắng nói từng chữ một, giữa những tiếng nấc.

      "Chính dì ẵm nó đến trao cho cha mà. Tội lỗi của dì... Nói cho dì biết, có phải dì đã giết Chi không hả Mai? Mà dì có biết gì đâu... mới mười lăm tuổi, có biết đâu lòng người."
      Tôi yêu tiếng nước tôi

      Audio Truyện Kiều

      Comment

      • #18

        18. Chia lìa

        Ngày những vết thương đã bắt đầu kéo da non, dì Lan đưa tôi tới trạm y tế để họ cắt chỉ. Tôi vẫn chưa nói cho dì Lan nghe vì sao người tôi có những vết cắt này. Tôi không bao giờ có thể nó cho ai biết được tôi đã đâm tôi - hay đã đâm Chi, vào một đêm như thế, trong một căn phòng ở nơi nào.Tôi trả lời dì Lan:

        "Con không nhớ."

        "Mi nói thế ai tin mi."

        "Chuyện này chết con cũng không nói được."

        Dì Lan thở dài. Dì không hỏi nữa. Nỗi buồn của dòng giống tôi là đây: mỗi người có một câu chuyện chết không nói được. Chúng tôi đắm chìm trong những lòng sông buồn lặng, không bao giờ thực sự tìm thấy nhau.

        Nhưng Chi không chịu nằm dưới lòng sông. Nó trồi lên, bơi về, đêm đêm. Ngày tôi vẫn phụ đong nếp, rọc lá chuối, trông quán, tối tôi vẫn ngủ trên bộ phản kê cạnh cửa sổ. Bên ngoài cửa sổ, cành lá của cây sầu đâu lớn luôn luôn nghiêng ngả êm đềm trong gió trên cao, hay trong mưa rớt từ trời, nhưng sự thanh bình không còn nữa. Chi về nói chuyện, bằng tiếng của lá, bằng tiếng của mưa và những cơn gió đêm không bao giờ ngủ. Tôi không hiểu lời Chi nói, nhưng tôi vẫn nghe, đêm đêm, tiếng của những đốt xương không mồ chôn và của tình yêu không mồ chôn đang trăn trở, đang chờ đợi tôi nơi nơi, ngoài sân, trong nhà, giữa trời đêm và trong lồng ngực.

        Đêm đêm tôi nói chuyện với em tôi. Có khi Chi nó nói còn bé lắm, nó kêu tôi hát ru cho nó ngủ, vì ngày xưa mẹ hát chưa xong câu đã mang nó đi bỏ. Tôi hát trong giấc mơ, nhưng lời hát tắt ở giữa lưng chừng ngực, cô hỉ có những tiếng gọi u mê thoát ra ngoài giữa đêm lặng lờ đồng vọng. Có khi Chi múa cho tôi xem, khăn áo nửa đục nửa trong, mơ màng buông trôi, êm ái quấn quýt lấy thân mình tôi, rồi kéo chặt làm tôi không thở được. Chợt chỉ còn mình tôi đang nằm loã lồ, những dải lụa dài siết lấy tấm thân, giữa một nơi đầy hơi thở hàng trăm đàn ông lạ, mắt tôi bị bịt không thấy gì, chỉ có bóng đêm.

        Tôi thức giấc, đầy sợ hãi. Tôi sợ những giấc mơ, không dám ngủ lại. Tôi không dám thức, sợ Chi sẽ đến ngồi nơi đầu bên kia của tấm phản, buông mái tóc ma lỵ xuống hai vai, u uất nhìn tôi bằng cặp mắt của chính tôi. Bên ngoài, gió vẫn không ngủ trên đầu ngọn sầu đâu cành mềm. Tôi nhớ có người nói nếu đêm nằm thấy ác mộng, hãy đem một con dao theo người lúc đi ngủ. Tôi ra bếp lấy con dao đem vào để dưới gối. Tôi mơ màng giữa tỉnh và mê. Một lúc, tôi sợ lỡ mình chưa đi lấy dao thì sao, biết đâu con dao chỉ mới nằm trong ý nghĩ, hay biết đâu nó không còn đó, vì một lý do nào mà tôi chẳng biết. Tôi thò tay xuống gối. Con dao vẫn còn đó. Tôi nắm con dao trong tay, để ngủ được yên lành.

        Buổi sáng, tay tôi có máu, vài giọt thấm ra áo gối. Tôi đã nắm lưỡi dao quá chặt, nó cắt vào mấy ngón tay tôi, trên những vết thương chưa lành, mà tôi không hay. Tôi sợ dì Thư biết, lén chùi máu trên phản, rửa dao, tôi giặt áo gối bằng tay trái, phơi trên hàng rào sân sau, ở một góc khuất.

        Nhưng dì Thư vẫn biết. Dì không cho tôi rọc lá chuối nữa. Dì cũng không rọc, dì mua lá đã rọc sẵn ở chợ. Dì mang rau và thịt cá sang nhà hàng xóm thái. Ở nhà không còn một con dao, một tấm gương, một cái ly thuỷ tinh nào, dì đã mang đi gửi hết. Tôi nói tôi chỉ giấu dao dưới gối để đuổi ác mộng, chứ không định tự tử. Dì Thư nói dì tin tôi, nhưng dì vẫn không dám để những thứ sắc bén trong nhà.

        Dì Thư gọi dì Lan sang. Hai người nói chuyện về tôi hết một buổi chiều. Dì Lan nhờ cô thợ may đến nhà nói với dượng là dì ở lại nhà dì Thư đến tối. Chúng tôi ăn cơm muộn. Dì bưng bát cơm, nhìn tôi lại khóc. Tôi không biết vì sao. Vì tôi nắm con dao ngủ, hay vì dì nhìn tôi và nghĩ là Chi đang ngồi đó, đang ăn cơm như người còn sống?

        Dì Thư khuyên đưa tôi đi bác sĩ, nhưng dì Lan lắc đầu. Tôi nói:

        "Con có bệnh gì đâu mà sao lại đi bác sĩ? Con hoàn toàn khoẻ mạnh mà."

        "Dì không nói là con bệnh. Con ngủ thường mê sảng, la hét trong đêm. Tay con vết thương chưa lành, đã có vết cắt mới, dì nghĩ con cần đến bác sĩ khám."

        Tôi xin phép đứng dậy. Tôi mang bát đũa của tôi ra nhà sau, rồi thay áo đi ngủ sớm.

        Tôi nằm trên phản, ngước nhìn lên ngọn sầu đâu bên ngoài cửa còn in bóng trên bầu trời chưa tối hẳn. Tôi vừa sợ Chi, vừa thương nhớ em tôi. Tôi chỉ còn có Chi.

        Tôi yêu mẹ. Nhưng mẹ chỉ là một chiếc bóng. Mẹ không chịu đựng nổi những mất mát quá lớn, nên thôi thà không có một cuộc đời, còn hơn có một cuộc đời quá nhiều hao hụt. Mẹ không dám đứng soi gương, nhìn thấy gương mặt mình, cùng những nỗi buồn và ước mơ bên trong. Mẹ đi qua cuộc đời lặng lờ, thấp thoáng, không dám bước mạnh chân, nói to tiếng. Mẹ không dám mua một thỏi son hồng, một chiếc khăn tay thêu hoa để chặn nước mắt, một quyển sổ để viết những câu chuyện của riêng mình. Mẹ không dám thực sự có mặt trong cuộc đời của mẹ. Mẹ chờ tôi lớn, chờ tôi sống thay cho mẹ, thành công thay cho mẹ, hạnh phúc thay cho mẹ. Mẹ hy sinh hết cho tôi, và sự hy sinh đó, sự chờ đợi đó làm cho tôi oằn xuống rồi gãy đôi. Mẹ vẫn không hiểu cuộc đời như mẹ chưa từng hiểu nó một lần nào.

        Chỉ có Chi hiểu tôi tận cùng. Tôi chỉ còn có Chi. Nhưng Chi tàn ác, Chi không nương tay, không cho phép tôi vùi mặt vào nỗi buồn, vào số phân, vào một mai sau nào vị tha quên hết ưu phiền. Chi bắt tôi mở to mắt nhìn cuộc đời dù tôi có đủ hồn phách để hiểu cuộc đời hay không. Chi bắt tôi vùi dập thân mình, để tàn phá cuộc đời đó, đập vỡ mặt trăng, để sự thật được hiểu đúng vào lúc nó trở thành những mảnh vụn. Để Chi cũng sẽ trở thành cát bụi cùng với những mảnh vỡ của mặt trăng. Chi sẽ đi, khi câu chuyện của nó, nỗi buồn của nó, sự thật của nó đã được hiểu. Dù trong một giờ tan tác nhất. Nhưng điều đó đã không xảy ra.

        Chi còn ở đây làm gì, đâu có ai yêu em đâu. Trong suốt hai mươi hai năm, mẹ đã không nhắc đến Chi một lần nào. Trong căn nhà của mẹ không có một dấu vết gì của Chi. Người thỉnh thoảng vào những đêm mồng một trăng non thắp ngọn đèn dầu cho Chi là dì Lan, người nhờ Mai hỏi thăm cha về cái chết của Chi là dì Lan. Tại sao là dì Lan chứ không phải mẹ? Vì dì Lan đã đem Chi đi vất. Vì mặc cảm tội lỗi lâu bền hơn tình yêu, vì nỗi hoang mang, lo sợ dai dẳng hơn tình yêu. Ngọn đèn dầu đốt cho Chi còn sáng là vì chưa có ai giải tội cho dì Lan, cô hứ không phải vì tình yêu dành cho Chi chưa tắt. Tại sao nuôi dưỡng hồn ma bằng sự lo sợ, bằng tội lỗi, bằng hối hận và oan khiên của người khác. Chi phải đi, Mai sẽ tìm mọi cách để đuổi Chi cho dù Mai phải một trăm ngày không ăn cơm hay trầm mình giữa sông Hương, làm sao cho Chi không còn nơi trú ngụ.

        Dì Lan đưa tôi lên chùa. Sư cho tôi mặc áo tràng, quỳ dưới đất, nơi chân ghế của ông. Ông đặt chiếc mõ bằng gỗ lên đầu tôi, rồi gõ vào đó tụng niệm. Tiếng mõ vang dội trong đầu, làm rùng mình từng chân tơ kẽ tóc, từng mạch máu, từng đường đi của dây thần kinh. Nhưng Chi vẫn không nghe thấy, ba ngày nó vẫn không nghe. Dì Lan đưa tôi đến một ngôi chùa khác, rồi một ngôi chùa khác.

        Sư ông nói cửa Phật không mở ra để trừ ma đuổi quỷ. Chỉ mong những oan hồn nghe tiếng chuông thì sầu hận lắng xuống, rũ bỏ dục vọng, xa lìa trần thế. Dì Lan lập đàn cầu siêu cho Chi. Dì gửi tôi ở lại chùa nghe kinh công phu ban chiều. Chùa có một cái chuông lớn, tiếng ngân lan khắp một khúc sông, một thôn làng, một cánh đồng bát ngát. Nhưng nó vẫn không làm rung được niềm từ tâm trong lồng ngực của Chi. Tôi đứng tựa cửa chùa chắp tay nghe kinh, lòng ước mơ về một cõi bình yên an tĩnh, nhưng tôi chỉ là một người đứng tựa cửa, Chi chỉ là một người đứng tựa cửa. Không có chỗ cho chúng tôi trong thiên đường này.

        Những đêm sau đó, tôi bị sốt. Tôi không nhớ tôi đã ăn cháo, uống thuốc, chiêm bao ra sao. Tôi chỉ nhớ mỗi lần tôi mở mắt ra tôi đều thấy trời mưa. Mưa suốt ba ngày, hay một tuần, và tôi mênh mang chìm nổi trong một thứ ý thức mong manh, thời gian trôi đi rất chậm, hoặc là không trôi nữa.

        Rồi tôi khỏi ốm. Dì Thư gội đầu cho tôi. Buổi sáng trời thôi mưa, dì Lan đến đưa tôi lên một thôn trên đường đi Tam Giang, dì Thư cũng đi cùng. Không ai nói đi đâu, tôi cũng không hỏi. Tôi biết lần này không phải là một ngôi chùa nào nữa. Tiếng chuông ban chiều ngân vọng khắp cánh đồng bát ngát đã không làm nỗi buồn đã kết tinh thành Chi nhắm mắt buông lơi thân mình vào thinh không, tan vào trong gió như tiếng chuông tĩnh mịch hơn cả sự yên lặng này.

        Không còn lời của trầm hương. Chỉ còn nỗi phũ phàng.

        Chúng tôi xuống xe ở giữa đường, đi vào những lối nhỏ. Dì Lan hỏi thăm đường đến nhà một thầy pháp. Mấy người ở đầu ngõ chỉ đường xong, cứ nhìn chúng tôi mãi. Đi được một đoạn đường cát trắng và lá dương khô, dì Lan chùng bước. Dì đứng lại nói với tôi:

        "Hay là mình quay lại đường cái đón xe quay về?"

        Mắt dì đỏ, từ nãy giờ dì khóc mà tôi không biết. Tôi nói:

        "Chưa đuổi được Chi thì con không về."

        Tôi đứng trước bàn thờ trập trùng những bức tượng lạ. Thầy pháp đặt một cái đĩa nhỏ lên đầu tôi, trên có một lá bùa. Ông châm lửa đốt. Tro từ đầu lá bùa bay xuống tóc. Trong tro còn một chút than hồng, làm cho tóc cháy, dù lửa không thành ngọn. Thầy pháp vẩy nước cho nó tắt. Tôi nghe mùi khói, mùi tóc cháy, mùi rong lẫn trong nước. Thầy pháp nắm tay tôi dắt ra ngoài. Trong khoảng sân nhỏ ông bôi máu lên tóc tôi mới gội, lên hai cánh tay trần, lên áo dì Thư mới may cho tôi. Sáng nay hình như họ đã giết một con chó.
        Thầy pháp chắp những cành dâu tằm còn lá tươi vừa niệm chú vừa đánh tôi. Tôi nhận lấy cái quất đầu tiên. Cái đau lạ lùng làm tôi muốn gục xuống. Cái đau không sắc nét, không phải từ da thịt, như thể cái roi dâu đã không quất xuống lưng, hay vai. Nó quất xuống một nơi nào khác tôi không biết, tôi không biết có một nơi nào như thế trên thân thể hay trong tâm trí mình. Tôi không muốn gục. Tôi lấy hết sức vùng bỏ chạy trong khi thân thể tôi vẫn còn đứng lại, tiếp tục nhận những cái quất tiếp theo đó. Tôi ở bên ngoài, nhìn người ta đánh Chi, vì tôi biết em tôi còn ở trong tôi. Nó ương ngạnh, không gục, không lui, nhưng người nó co lai mỗi khi các cành dâu quất xuống. Tôi nghe tiếng nó kêu la, và nước mắt chảy không ngừng. Tiếng kêu của Chi làm cho tâm linh tôi rát buốt. Và lần này thì nỗi đau sắc nét, như những vết cắt bằng dao có ánh thép xanh ngăn ngắt. Tôi không còn hơi thở, không còn cảm giác, không thấy buồn, chỉ thấy buốt. Nó còn khóc bằng đôi mắt của tôi, nên người ta còn đánh nó. Và nước mắt của nó - của tôi, cứ còn chảy mãi.

        Rồi tôi gục, dù tôi ở bên ngoài và những cành dâu kia không quất xuống tôi. Tôi gục vì tiếng kêu oan hờn buồn thảm của em tôi. Tôi không biết Chi có hiểu vậy không. Khi tôi gục xuống, cùng lúc tiếng kêu của nó tắt đi, dòng nước mắt tắt đi, tấm thân ở ngoài kia ngã xuống. Mọi thứ đều chợt im lìm tắt ngấm. Dì tôi chạy lại. Mọi người dìu tấm thân vừa ngã xuống vào chiếc giường tre. Giữa tôi và họ có một làn kính, tôi trông thấy, nhưng không nghe âm thanh từ phía bên kia. Tôi thấy dì tôi ngỡ ngàng không tiếng động, khóc than không tiếng động, và tôi nằm đó không tiếng động.

        Hai dì đưa tôi về, như thế nào, tôi không nhớ. Tôi bị ốm. Dì Lan nấu cháo cho tôi ăn. Tôi nghĩ đó là thứ cháo người ta ăn ở gian phòng cuối của địa ngục trước khi đầu thai, để quên đi kiếp trước, quên đi đày đoạ. Tôi ăn thấy cháo đăng đắng. Trong suốt một tuần thứ gì tôi động tới cũng mằn mặn, đăng đắng như có pha nước mắt của Chi. Tôi ăn nước mắt của Chi, uống nước mắt của Chi, để mà quên nó. Nước mắt là một bài thuốc, tôi không biết sao? Dùng ưu phiền để trị ưu phiền, dùng thương nhớ để xô tô rơi vào quên lãng, mất mát, mù khơi. Tôi ăn xong phần cháo dành cho mình, thì mới đầu thai trở lại kiếp người được. Để làm gì. Tôi hỏi dì Lan, có phải dì hứng nước mắt của Chi rồi nấu cháo, pha trà cho tôi không. Dì Lan nói tôi sốt cao, nói chuyện nghe lạ. Rồi dì Lan khóc, dì khóc làm mắt tôi cũng mờ đi, thế giới nhạt nhoà, không còn nét.

        Tôi đã ăn cháo quên hết một tuần. Và Chi đã đi thật rồi.
        Tôi yêu tiếng nước tôi

        Audio Truyện Kiều

        Comment

        • #19

          19. "Hồn bướm mơ tiên"

          Tôi nằm mơ, thấy mình đi lạc trên một cánh đồng rộng lớn. Trời sắp tối, và từ chân trời phía Bắc, một cơn bão đang chuyển về. Trong gió có lất phất những hạt nước, gió không vần vũ, nhưng đã báo trước cơn tàn phá đang đến gần. Cánh đồng lạ, tôi không biết nhà cửa của loài người ở hướng nào. Các lối đi băng qua cánh đồng đã bị cỏ dại che khuất. Tôi chạy một lúc, rồi đổi hướng. Bây gời các lối đi đều đã mất, bầu trời như thấp xuống, như sắp chạm lấy những ngọn cỏ ngả nghiêng.

          Tôi nhìn thấy một căn nhà. Tôi chạy về hướng đó, căn nhà màu trắng, trắng toát giữa cánh đồng đầy cỏ đen, giữa bầu trời đầy mây vần vũ, đùn về từ mọi hướng.

          Khi tôi bước vào căn nhà, gió bỗng nhiên im bặt.

          Căn nhà hoàn toàn trống. Còn đầy những bức tường hoang, ngăn chia những gian bỏ không. Không còn những cánh cửa, chăn màn, bàn ghế. Chỉ còn những bức tường. Giữa những bức tường đó không dấu vết của sự sống hay cái chết, không có âm thanh, cũng không còn yên lặng.

          Tôi ngồi xuống giữa những bức tường, đợi chờ cơn bão tới.

          Nhưng ngoài kia, mọi chuyển động đã lắng xuống. Bầu trời chùng xuống thật thấp, rồi loãng ra, không gian kéo mãi vào vô tận, mặt đất bên dưới đồng cỏ đã vụn vỡ.

          Tôi không dám bước ra ngoài. Nhưng bên trong căn nhà, giữa những bức tường không, chính tôi cũng đang loang đi, mất đi. Tôi là một đám mây không giữ được hình dáng của mình trong một cơn bão đang tan.

          Tôi nói với dì Lan tôi muốn về với mẹ. Tôi nhớ mẹ, nhớ Hà Nội. Nhưng làm sao về sống với mẹ mà mẹ đừng biết gì về tất cả những thứ đã xảy ra với tôi ở Sài Gòn. Làm sao để trở về nhà làm con gái mẹ chứ không phải là một người đi lạc, một người hoang mang, nhục nhằn, tội lỗi và sợ hãi. Làm sao cho thân thể không còn những vết sẹo. Làm sao cho mẹ còn nhận ra con mình.

          Dì Lan nói:

          "Nếu mi muốn mẹ không biết thì chính mình phải quên đi."

          Tôi đã uống hết nước mắt của Chi vào người, nhưng vẫn chưa quên.

          "Dì đưa mi về quê bà ngoại ở thôn Cẩm Hà, gửi mi về chùa với sư bà và các ni cô. Mi mang kinh về đọc, lâu lâu lên chùa Từ Lam nghe thầy giảng đạo. Mi nghe đạo, rồi sẽ quên. Cần hỏi chi, mi cứ hỏi thầy. Mi nhớ đọc kinh cầu siêu cho em của mi."

          "Đến bao giờ?"

          "Dì không xui mi đi tu. Chừng nào mi thấy tâm mi an định trở lại rồi, thì mi về Hà Nội với mẹ."

          Những buổi sáng ở chùa tôi dậy sớm, tưới rau ở khoảnh sân sau trước khi mặt trời lên. Chúng tôi không được phép bắt sâu. Có khi chỉ qua một đêm đàn sâu đã ăn sạch đám lá mới nhú của một bụi rau non. Chúng ăn xong thân căng ra, có khi rơi cả xuống đất. Tôi tiếc công trồng rau, chỉ muốn bắt từng con ném xuống ao. Rồi tôi tự nhủ cứ để chúng vậy, vườn sẽ nhiều bướm, tôi sẽ được ngắm chúng. Nhưng rồi tôi không thấy bướm. Khi rời kén những nàng tiên bay đi hết, chỉ trở về để sinh những cái trứng mới nở ra những đàn sâu mới.

          Thầy đọc cho tôi viết, không hẳn viết, mà là vẽ vào tâm tường tấm bản đồ của một đại dương có tên là trầm luân. Bản đồ có những đường vạch, những dòng chảy, những đường đi, những vòng tròn. Tất cả mọi kinh nghiệm, mọi lầm lạc, mọi khổ luỵ đều phân minh và có một cái tên, chứ không mịt mùng như cái đại dương bên ngoài, như cuộc đời. Thập nhị nhân duyên trói buộc con người bằng mười hai móc xích: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, chấp, nghiệp, sinh, lão tử, rồi trở lại vô minh. Tôi không hiểu đường ranh của mười hai nhân duyên đó. Hãy bẻ gẫy cái vòng xích nhân duyên ở nơi thầy dặn dò, giữa móc xích thứ bảy và thứ tám, giữa thọ và ái, để thoát khỏi trầm luân. Bản đồ chỉ cho tôi: thọ có thọ lạc và thọ khổ. Thọ lạc đưa tới ái dục, dính mắc, tức là móc xích thứ tám. Thọ khổ đưa tới sân ưu, oán thù. Cả hai đều đưa tới chấp thủ, mắt xích thứ chín và tạo nghiệp, móc xích thứ mười.

          Bao giờ thì tôi tìm được những tương quan giữa tấm bản đồ của đại dương này và đại dương thật? Không, tôi sẽ không trở về đại dương này ngoài kia nữa. Tôi sẽ ngồi lại suốt đời ở đây, trước mặt một bức tường, để học nằm lòng tấm bản đồ nhỏ bé của cái đại dương mênh mông mà tôi đã từ bỏ. Những ngón tay tôi sẽ lần mò đi theo những đường đi, những vòng tròn trên tấm bản đồ đó, đi tìm mình, tìm nơi bẻ gãy mình. Nơi đây, giữa thọ và ái. Tôi nghĩ tới mẹ tôi, tới em tôi. Đầu ngón tay tôi lờ mờ tìm những đường vạch đã được khắc xuống ghi dấu, đâu là nơi thọ lạc bắt đầu, đâu là nơi tôi có những kinh nghiệm đầu tiên về hạnh phúc, đâu là nơi tôi biết sự ấm êm và nó đã biến thành tình yêu tự lúc nào, với tất cả luyến lưu, mong mỏi. Đâu là nơi nỗi thất vọng giữa mẹ tôi và tôi bắt đầu? Rồi chia lìa, rồi im lặng. Không, nếu tìm cách bẻ gẫy mình ở nơi tình yêu biến thành thương đau thì đã trễ rồi. Phải cắt đứt vòng xích ở một nơi trước đó, như thầy dạy, trước khi hơi thở êm ái của mẹ biến thành tình yêu, sự quyến luyến, đợi chờ...

          Và tình yêu dành cho em tôi. Tôi biết làm gì xoá bỏ nó bây giờ? Nó không bắt đầu từ sự êm ái. Nó bắt đầu từ nỗi băn khoăn, từ lòng thương hại đứa bé con xấu số. Nhưng sau đó có một điều gì đó rất kỳ lạ đã xảy ra. Tình yêu đó vỡ bờ, tràn qua mọi vách ngăn, mọi đê chắn, nó ngập lụt, nó nhấn chìm tôi trong lòng sông. Tôi trao thân mình tôi, tâm tưởng tôi cho Chi ngụ. Buổi tối tôi nằm, nghe Chi thở lạ lùng trong lồng ngực của mình. Ban ngày tôi ngồi, thấy Chi chải mái tóc yêu ma của nó mọc ra từ da đầu của tôi. Chi nghĩ, Chi làm toàn những chuyện lạ thường. Lạ lùng thay, sự sợ hãi, nốt bất bình của tôi càng lớn, thì tình yêu càng dâng cao như những cơn sóng thần dữ dội. Tôi yêu Chi hơn yêu tôi.

          Nhưng tại sao Chi không bỏ trần gian này hai mươi hai năm trước, lúc đứa bé con chưa biết cuộc đời để mà yêu nó. Vì nó hận cha? Không có nỗi uất ức nào đủ giữ một hồn ma vương vất hai mươi hai năm chờ ngày báo oán. Tôi không tin. Chỉ có tình yêu mới có sức tàn phá đó, mới là thứ keo sơn nghiệt ngã dán chặt con người vào nỗi đau đớn mê muội này. Nếu chỉ hận cha, nó đã quên và đã đi rồi. Hay là Chi yêu cha? Không thể nào được.

          Tôi chợt hiểu. Chi không biết cuộc đời này. Chi cũng không yêu cha. Chỉ có tôi. Tôi khao khát cuộc đời của mình, sống nó, hiểu nó. Tôi đã bắt đầu yêu cha tôi từ những năm mới biết suy nghĩ. Chi không thể thù cha như vậy, nếu nó chưa từng yêu ông. Tình yêu đó, thứ keo sơn đó Chi lấy từ tim tôi, vì nó thở bằng lồng ngực của tôi. Rồi Chi nhớ lại chiế gối cha đã thuê tên tài xế úp lên mặt nó khi nó là đứa bé con, nên tình yêu đó bị đốn ngã lại, trở thành nỗi hận thù xương tuỷ. Nếu dì Lan không mang nó đến nhà cha mà mang tôi, thì bây giờ tôi là hồn ma chứ không phải Chi. Tôi biết như vậy, và tôi hận thù cha tôi. Nhưng tôi không đủ sức lực hay can đảm để hiểu điều đó. Tôi nhờ đến Chi. Tôi cần có Chi để sống mối thù tôi không dám cưu mang, nỗi buồn không dám lắng nghe, phần hồn tôi không dám ôm ấp. Tôi yêu Chi vì tôi cần Chi.

          Tôi đã cắt đứt tình yêu đó rồi. Tôi đã bẻ gãy tôi ở một nơi không có tên trên bản đồ vòng tròn thập nhị nhân duyên của biển khổ. Chi đi rồi, tôi buồn hơn, buồn hơn nước mưa, buồn hơn thinh không, buồn hơn khói. Tôi không biết làm sao đi tiếp cuộc đời mình, cuộc đời không có Chi.
          Tôi yêu tiếng nước tôi

          Audio Truyện Kiều

          Comment

          • #20

            20. Niềm im lặng của hoa

            Lúc dì Lan cầm mẩu giấy ấy đến, tôi ngồi trên một chiếc ghế gỗ kê trong một góc của gian bếp rộng sau chùa. Tôi ngồi đó đã lâu, gần như bất động, không có ý nghĩ gì, chỉ có một cảm giác mơ hồ rằng tôi không muốn gặp ai hoặc đi đâu, ngay cả quay về căn nhà êm đềm của dì Thư. Tôi không muốn thế giới chạm vào mình, vì tôi không nguyên vẹn. Tôi cảm thấy làn da của mình - đường viền phân chia một bên trong và bên ngoài của một con người, thật mong manh. Tôi thấy sự cô đơn, nỗi bất an nằm ngay trên da thịt chứ không phải trong tim - con tim tôi trống, lênh đênh vô cảm. Tôi thấy sợ thời gian, mỗi lần nó nhích tới phía trước, thì có một chuyện gì đó vừa xảy ra, thêm vào những chuyện trước đó, càng lúc càng đầy. Những chuyện tôi không biết nhưng vẫn có đó, trập trùng vây quanh, như tiếng sóng của một dòng sông vô hình, như tiếng sóng của định mệnh. Mỗi lần thời gian nhích tới phía trước, tôi lại đến gần hơn một biến cố nào đó tôi chưa muốn nó xảy ra. Trong lúc tôi ngồi đây, bất động, thì dòng sông vẫn chuyển động, những dòng nước nhỏ từ những hốc đá, những ngõ ngách tối đen qua những miền đất lạ lùng, dù không tiếng động vẫn đang đổ vào dòng sông và dòng sông dâng lên, cơn lụt sẽ về. Thời gian không bất động, nó luôn luôn nhích về phía trước, về thời khắc của sự gãy đổ.

            Dì Thư nhận được mẩu giấy lúc quá ba giờ chiều, lúc đó cơm đã dọn. Dì bỏ bữa ăn, chạy đi đến nhà dì Lan. Và bây giờ dì Lan đang ở đây.

            Mẩu giấy là một bức điện tín. Những chữ trên đó là:

            CHI PHAN NGOC LIEN BI NGHEN MACH MAU NAO DANG HON ME NHAN NGUOI THAN CUA CHI VE HA NOI NGAY KHONG CO DIA CHI DE GUI TIN NAY DEN CON GAI CHI LIEN

            Tên người gửi là bác Đàm ở cùng nhà tập thể của chúng tôi. Bác đã lục tất cả túi áo của mẹ và mọi nơi trong nhà tôi, địa chỉ của dì Thư mà dì Lan dùng là địa chỉ người thân duy nhất mà bác ấy có thể gửi đến được một dòng tin.

            Tôi mượn điện thoại chùa để gọi bác Đàm. Mẹ tôi ngã trong sân nhà tập thể lúc trời chưa sáng. Lúc năm giờ gần bốn mươi bác xuống rửa mặt nhìn thấy mẹ tôi nằm thếp trong góc sân ẩm ướt, mặt úp xuống đất. Bác gọi mọi người khênh mẹ lên xe đưa tới bệnh viện BM. Tới giờ này mẹ vẫn còn hôn mê.

            Chúng tôi ra sân bay nhưng đã lỡ chuyến cuối cùng trong ngày. Dì Lan và tôi ngủ lại trong một cái quán trên quốc lộ. Chúng tôi mua được vé để đi chuyến sáu giờ ba mươi sáng ngày hôm sau. Đó là lần đầu tiên tôi đi máy bay.

            Mẹ nằm trong một gian nhỏ với một dãy giường. Bác sĩ nói mẹ hôn mê cấp độ 5 hoặc 4 GCS, đâu đó giữa 5 và 3. Tôi không hiểu điều đó có nghĩa gì. Tôi chỉ biết mẹ đang ngủ rất sâu. Bác sĩ nói khó biết mẹ tôi có còn thức dậy từ giấc ngủ này hay không. Dì Lan oà khóc. Tôi cũng khóc, nhưng tôi không hiểu, tôi chưa hiểu. Mẹ tôi chỉ trông tiều tuỵ hơn lúc tôi đi, chứ không giống như người bệnh nặng. Có ống tiếp khí và ống tiếp dưỡng chất nối vào mũi và miệng, nhưng ngoài ra trông mẹ như đang ngủ êm đềm, không có vết thương hay nét đau đớn chết chóc. Tôi ôm mẹ lay, tôi gọi, tôi rờ người mẹ. Mẹ ngủ sâu hơn tất cả các giấc ngủ từng ngủ trong đời, nhưng mẹ vẫn còn đây, và sáng mai mẹ sẽ dậy, khi mở mắt ra mẹ sẽ nhìn thấy tôi, biết rằng tôi đã về Hà Nội.

            Dì Lan và tôi ngồi chờ. Chờ mãi. Chúng tôi không có việc gì làm. Cũng không có câu chuyện nào để nói, tất cả những chuyện trước đây bỗng dưng chìm vào một nơi nào đó rất xa. Buổi chiều tôi ra ngoài mua cho mẹ một chiếc áo lụa nhuộm màu cánh sen, tên mẹ là Liên, là hoa sen. Mẹ mới hơn bốn mươi mà đã nghĩ mình quá già để mặc áo màu của tên mình. Mẹ nhỏ bé co ro, đi đứng khẽ khàng, mẹ không bao giờ nhìn vào gương để biết đôi mắt mẹ rất dài và rất đen, mẹ có chiếc mũi thanh tú như một bà tần phi ngày xưa, chi rnhờ một chiếc mũi đẹp mà suốt đời không phải làm việc nặng. Tôi mua một chiếc lược, vì lúc đi quá vội đã bỏ lược lại chùa, trong cái túi đựng quyển kinh và cái áo ngắn. Lúc chọn cây lược, không biết sao tôi lấy thêm cây son trong trên cùng quầy hàng, không biết cho tôi hay cho mẹ.

            Tôi xin nước ấm từ cái phích nước của người đi thăm bệnh cùng phòng, đổ ra một cái bát. Tôi và dì Lan nhúng và vắt khăn âm ấm để lau người cho mẹ. Tôi ngồi hẳn lên giường, chải đầu xong rồi mới thay áo cho mẹ. Khi mái tóc buông ra, trông mẹ trẻ hơn nhiều, trước mẹ không bao giờ dám để tóc rơi xuống vai, lúc nào cũng búi. Tôi yêu mẹ và thấy đau nhói ở trong ngực, bao nhiêu năm mẹ luôn giấu đi vẻ yêu kiều, giờ nằm ngủ thanh thản, dù tiều tuỵ, tôi vẫn thấy mẹ đẹp đẽ, dịu dàng.

            Tôi bảo dì Lan về lấy chìa khoá ở chỗ bác Đàm vào nhà để tắm. Bao giờ dì quay lại sẽ đến lượt tôi. Nhưng khi dì ra, tôi sợ không muốn bước vào nhà một mình, căn nhà tuổi thơ mà tôi đã ruồng rẫy. Tôi chỉ lau mặt và thay áo ở bệnh viện.

            Buổi tối tôi và dì Lan ăn mấy tấm bánh chưng rồi không biết làm gì. Chúng tôi không về nhà. Hai dì cháu đến mấy băng ghế ngoài hành lang ngồi đến khuya. Bây giờ tiếng ồn ào ban ngày đã lắng xuống, trời vương hơi lạnh. Mặt trăng hạ tuần mờ nhạt sau những hàng mây mỏng. Tôi bắt đầu thở lại không khí của một bầu trời Hà Nội tháng mười một.

            Tôi hỏi dì Lan:

            "Nếu dì là mẹ, dì có bao giờ tha thứ cho cha con không?"

            Không biết sao câu hỏi đó làm cho dì Lan oà khóc. Một lúc sau dì mới nói được.

            "Dì sợ chị Liên không qua được... không quay lại nữa."

            "Dì không nghe mẹ thở, không nhìn mặt mẹ sao? Mẹ thở đều, mẹ ngủ rất êm ái. Mấy tháng qua mẹ buồn khổ, mẹ cần một giấc ngủ dài. Mai mẹ sẽ dậy."

            "Lúc nãy lau người cho mẹ, dì nâng người mẹ lên, dì thấy... mẹ không còn cảm giác gì, không biết gì, người mẹ như..."

            "Mẹ chỉ ngủ sâu hơn một giấc ngủ thường thôi. Bác sĩ cũng nói mà, một giấc ngủ rất sâu. Chưa bao giờ mẹ ngủ sâu như vậy."

            Chờ dì Lan hết khóc, tôi nhắc lại câu hỏi:

            "Nếu dì là mẹ dì có bao giờ trong đời tha thứ cho cha con không? Con không thể hỏi mẹ được, vì mẹ không bao giờ nói về những chuyện đã qua."

            Dì Lan im lặng.

            "Tha thứ để chính mình không bị nõi buồn tàn phá. Con biết là khó lắm, nhưng vẫn phải cố. Nếu hỏi thầy, thầy sẽ dạy: hãy tha thứ. Nhưng mẹ không bao giờ đi chùa. Mẹ có tha thứ không?"

            "Dì có thể tha thứ cho cha con không?"

            Dì Lan cúi đầu:

            "Chi là con của dì với cha con. Không phải của mẹ con. Dì mới mười bốn tuổi, sinh nó, vừa qua tuổi mười lăm."

            Tôi sững sờ. Dì Lan khóc. Và tôi khóc. Bây giờ trăng đã lặn, bầu trời không có gió.

            "Đây là câu chuyện của dì, câu chuyện chết cũng không nói được. Hôm nay... hôm nay mẹ con sắp mất, dì nghĩ vậy. Dì không dám để mẹ gánh nỗi buồn lớn nhất. Dì không biết... Giờ phút ra đi là giờ phút người ta phải nói thật vì, vì không biết bao giờ, không còn bao giờ có thể nói được nữa. Nếu chỉ còn một lần để nói thì phải nói thật.

            Dì mới mười bốn tuổi. Buổi tối mẹ giả vờ đi ngủ rồi trốn ra ngoài đi chơi với cha. Cha đưa mẹ về. Mẹ quyến luyến. Cha quyến luyến. Cha không chịu về. Cha vào phòng của hai chị em. Người cha và mẹ đầy mùi cỏ ướt. Cha nằm giữa hai chị em. Cha con hôn chị Liên mãi. Tay ông đặt lên ngực dì trong lúc ông hôn chị Liên. Chị Liên quay mặt ra ngoài khóc. Ông xoay người lại, lấy tay bịt miệng dì, tay kia cha cởi áo dì, và kéo lưng quần. Dì sợ quá. Dì muốn ngất di."

            "Sao dì không la lên? Sao mẹ con không la lên?"

            "Dì không biết. Mai ơi dì không biết. Dì thấy chị Liên khóc. Dì sợ cha mẹ mình nghe thấy chị khóc, và sợ nhiều thứ khác nữa. Mọi thứ đều lạ kỳ. Đôi bày tay ông ấy cứng như sắt. Đêm đó, rồi nhiều đêm nữa..."

            Tôi muốn nói với dì Lan là tôi biết bàn tay ấy. Nhưng đó là một chuyện chết cũng không nói được. Dù chỉ còn một lần này. Thời khắc của sự thật không bao giờ đến.

            "Dì sinh con sau mẹ chín ngày. Chị Liên nuôi hai đứa. Dì phải về tựu trường. Mẹ con không đủ sữa nuôi. Mẹ con không còn tiền, không còn sức. Dì sợ chết cả hai đứa mất. Dì mang đi một đứa cho cha nuôi, sống được đứa nào hay đứa ấy. Không ngờ cái chết của Chi dì không bao giờ quên được.

            Hai mươi hai năm trước, dì đã mang bé Chi đến đặt vào tay cha. Hai mươi hai năm sau, dì lại dẫn con đến trước cửa nhà cha lần nữa. Cả hai lần đều vì một lý do. Mẹ nghèo không nuôi nổi. Nhưng nếu nghĩ cho cùng, dì gửi Mai vào cho cha, là vì dì đã thả một cái gàu xuống giếng và sợi dây đã đứt rồi, nên dì muốn thả htêm một cái gàu nữa để mong tìm cái gàu trước nó chìm nơi đâu. Lần này thì dì nghĩ là dì nắm được sợi dây, vì con đã lớn, con biết nói, biết viết thư, chứ không nhỏ bé mong manh như Chi năm đó.

            Dì có ngờ đâu nơi ấy tàn hại đến như vậy. Lần này dì cũng không nắm giữ được sợi dây. Con nguy nan mà dì không hề biết. Giống như lần trước Chi gặp nguy nan mà dì nào có ngờ nào có tin. Nhưng may con không chết. Nếu con chết, dì không biết còn sông biển nào rửa được tội dì mang với mẹ con. Con về đến Huế, mặt xanh mướt, tóc còn dính máu khô, người đầy vết thương, dì mới biết con đã cận kề cái chết đến đâu.

            Con không chịu kể, con nói con đến chết cũng không kể được chuyện gì đã xảy ra và vì sao con tự đâm mình. Con không kể thì sợi dây nối gàu dì đời đời đã làm vuột mất, dì không có thứ gì để đo, để biết cuộc đời. Tại sao người đàn bà nào trong họ ta cũng có một chuyện không nói được? Có một thứ định mệnh như vậy sao?

            Lúc gần sáng, cô y tá trực đi ra hành lang tìm chúng tôi, để báo tin mẹ tôi vừa đi rồi.

            Niềm im lặng của mẹ đã trở nên tuyệt đối.

            Dì Lan và tôi lãnh xác mẹ mang đi thiêu, rồi đem chiếc bình tro về Huế. Tôi không biết người ta có phải luôn luôn mang tro người chết về quê hương không. Tôi không biết đối với mẹ, Huế có còn là quê hương không. Mẹ đã mất hai mươi hai năm không về. Bà tôi mất mẹ cũng không về. Dường như người chết cần một quê hương hơn người sống. Tôi cũng không biết quê hương là gì và tại sao chết ở quê người lại buồn hơn sống ở quê người.

            Chúng tôi gửi bình tro ở một cái chùa nhỏ. Bàn thờ có tám dãy bình. Những bình mới đặt phía trước, mỗi bình có một bát hương riêng. Những bình cũ ở phía sau, có bình có ảnh, có bình chỉ có tên người. Linh hồn của họ có quanh đây không? Sao họ yên lặng quá.

            Tôi lên chùa TL, xin thầy cho tôi ngồi tịnh tâm, tịnh khẩu cho đến ngày thứ 49. Thầy không cho, nói rằng tôi chưa đủ thức tỉnh để yên lặng trong lúc đau buồn. Bây giờ là lúc tôi cần đi lại, làm việc, nói chuyện với người khác. Bây giờ là lúc lời nói và công việc đều đặn hàng ngày trở thành cần thiết, hãy dựa vào những thứ dó như dựa vào bàn tay của Phật nâng cho tôi không ngã. Thầy cũng không cho tôi ở lại chùa. Thầy khuyên tôi về trông quán, gói bánh với dì Thư. Khi gói bánh thì chăm chút, chứ đừng nghĩ ngợi nhiều. Sầu não lan toả xuống đôi bàn tay, cầm lấy lá chuối lá sẽ héo vội và bánh không xanh. Thầy nói con muốn lên chùa thì cứ lên, thỉnh thoảng ngủ lại đêm cũng được. Nhưng phải ở nhà dì Thư, và làm việc với dì.
            Tôi yêu tiếng nước tôi

            Audio Truyện Kiều

            Comment

            • #21

              21. Vô minh

              Tôi khép mắt ngồi thiền đến gần nửa đêm. Khi mở mắt, tôi không thấy bình an. Tôi không bước qua được nỗi buồn, sự hối hận và tuyệt vọng từ hôm mẹ mất. Tôi có lỗi với mẹ, lỗi ấy lớn lao và sẽ còn trì kéo tôi xuống vực sâu trong trăm năm còn lại. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu hết tội lỗi ấy. Tôi đã làm mẹ thất vọng, và chết trong nỗi thất vọng đó. Tôi đã bỏ mẹ đi, không gọi điện, không viết thư về. Tôi đã bắt đầu hiểu tại sao có khi con người không có chọn lựa nào khác ngoài sự im lặng. Những gì tôi đã trải qua, tôi đời đời không nói được. Tôi chỉ giống mẹ mà thôi. Không ngờ điều đó đã giết mẹ. Tôi không thực sự biết có phải mẹ chết vì thất vọng hay không, nhưng tôi biết mẹ đã chết trong thất vọng. Có khác gì đâu. Sự thất vọng đã được cái chết khắc vào mây vào núi, trở thành vô tận. Tôi không còn một dịp nào để thay đổi nó, mọi sám hối đều vô vọng. Nhưng cho đến đêm nay, tôi vẫn chưa hiểu chiều sâu và sự mênh mang của nỗi thất vọng mẹ tôi mang. Mẹ thất vọng vì trong đời mẹ, tất cả đều sai, chỉ có tôi có thể làm cho tất cả trở nên đúng, nhưng tôi đã không làm. Tôi đã trở thành điều sai lớn nhất trong đời mẹ. Tôi hiểu tất cả những chữ trong những câu đó. Nhưng cộng lại, tất cả vẫn mơ hồ, và quá rộng lớn. Tôi muốn được khóc, được kể lể như một đứa con gái úp mặt vào lòng mẹ trút hết mọi nỗi niềm. Nhưng tôi không làm được. Tôi khóc, nhưng không kể lể được, giữa mẹ và tôi vẫn là sự im lặng. Mẹ chết rồi, tôi vẫn không phá vỡ nó được. Mẹ vẫn yêu tôi, tôi biết, và tôi yêu mẹ, hơn tất cả mọi thứ trên đời. Nhưng tôi hoang mang, mẹ chết rồi nỗi hoang mang vẫn còn đó, lớn thêm lên từng ngày. Làm sao cho mẹ hiểu tôi, cho tôi hiểu mẹ. Làm sao cho tôi hiểu tôi, cho mẹ hiểu mẹ. Còn có nơi chốn nào, thời khắc nào? Hai mươi hai năm tôi sống với mẹ. Và bây giờ, tôi mong một lần, úp mặt vào lưng mẹ, thôi đã trễ rồi.

              Tôi khóc, và trong lúc khóc, tôi cầu xin Đức Phật Bà đến với tôi. Tôi buồn và tôi sợ. Sao tôi có một mình, nhỏ bé và lạc đường. Tôi sẽ tan thành nước, thành gió đêm nay, tôi biết như vậy, tôi không còn gánh vác được nỗi buồn này nữa. Tôi khấn vái, van nài, xin Đức Phật đến với con, một lần, trong giờ phút con cần nhất, để con không tan rã trong nỗi khổ đau này. Hãy cho con biết là Phật Bà nghe thấy tiếng khóc của con, hãy làm cho xào xạc một chiếc lá trong phòng, hay bừng cháy một đốm nhỏ nơi chân hương, hay vẳng lại một tiếng chuông rất nhẹ từ thỉnh không, hãy cho con một dấu hiệu của sự huyền diệu, và nghìn lần từ bi.

              Chợt tim tôi lạc nhịp, tôi nín thở. Tôi thấy bóng ai vừa đi qua cửa. Dù tôi không quay lại, nhưng tôi vẫn thấy. Tôi đang ngồi trước bàn thờ, lưng xoay ra ngoài.

              "Mai đã Lăng nghiêm, Bát nhã bao nhiêu ngày để diệt ngã?"

              Tiếng nói vang leê từ trước mặt, bên phải. Chi đã đến ngồi trên bậc thềm, dưới chân những bức tượng. Mặt nó nghiêm nghị, nhưng dịu dàng, và rất buồn.

              "Mai chưa đi đến đó đâu. Mai chỉ mới đi vài bước nhỏ nhoi đầu tiên của một con đường rất dài."

              "Vài bước ấy là vài bước gì, nói em nghe."

              "Mai học tha thứ."

              "Mẹ mất rồi Mai học giùm mẹ, tha thứ cho cha?"

              "Chi có gặp mẹ Mai không? Mẹ như thế nào?"

              "Mẹ của Mai yên lặng và vẫn sẽ còn yên lặng còn vương vất trong nỗi buồn cho tới khi chúng ta nói được với cha điều cần nói, bằng thứ ngôn ngữ duy nhất mà ông hiểu. Thứ ngôn ngữ đó rất giống với sự trả thù."

              "Oán cừu này chồng lên oán cừu kia, người ta không thoát ra được. Phải học tha thứ để thế giới tốt đẹp hơn."

              "Người ta tha thứ nhau thì thế giới tốt đẹp hơn sao?"

              "Ừ. Ít nhất là nó thanh thản, an lành hơn."

              "Chỉ có Mai an lành hơn chứ thế giới không an lành hơn đâu Mai à. Mai đã hèn, lại còn ảo tưởng."

              "Một thế giới bớt oán cừu không phải là một thế giới an lành hơn sao?"

              "Có một thứ được an lành, đó là tội lỗi. Khi tội lỗi được an lành thì tất cả những thứ khác không còn an lành. Tội lỗi được an lành thì tiếp tục, đời này qua dời khác. Nó thản nhiên bước vào những ngôi nhà có tường nhưng không bảo vệ được những người ở bên trong nó, thản nhiên đi qua những trái tim trinh trắng và ngu khờ, thản nhiên vùi dập những đời người, những đời người rất dài."

              "Tất cả tai ương không phải một mình cha gây ra."

              "Không phải một mình cha?"

              "Ông ngoại đã đuổi mẹ ra khỏi nhà khi bụng mẹ bắt đầu to không giấu được nữa."

              "Ông ngoại không có chọn lựa nào khác. Ông thuộc về một thế hệ, một nề nếp mà trong đó một chuyện như vậy có thể giết ông."

              "Và cha không biết điều đó, không biết trước sự trừng phạt của nề nếp đó đối với mẹ của Mai và mẹ của Chi. Rồi sau đó có lẽ cha không biết được hết chiều sâu và chiều dài của nỗi buồn mà cha gây ra."

              "Cha không biết vì không thèm biết mà thôi."

              "Ừ, người ta chọn không biết những thứ không êm ấm cho họ."

              "Vậy thì phải nói cho cha biết chứ. Phải cứu cha khỏi sự mê muội chứ."

              "Cha không cần Chi hay ai cứu ông hết. Ông muốn sống cuộc đời như vậy, đó là lựa chọn của ông. Và nếu trời cho ông những gì ông muốn, hãy cứ để mặc ông."

              "Những điều ông muốn là tội lỗi, cũng để mặc ông à?"

              "Tại sao chúng ta lại phải sửa lại điều đó?"

              "Nếu không là chúng ta thì ai bây giờ?"

              "Mai không biết cách nào để nói hết. Vả lại, cha biết để làm gì? Có làm cho mẹ sống lại, cho mẹ và dì Lan và bắt đầu lại cuộc đời họ vào mười bốn và hai mươi hai tuổi của những cô gái mặc áo màu cánh sen mang guốc gỗ trong một thành phố êm đềm được đâu."

              "Và mẹ chết rồi, Mai vào chùa, Mai châm trà cho thầy, Mai tưới hoa cho thầy, Mai mua dép cho thầy mang, để thầy dạy Mai biết tha thứ. Mai hèn hạ trốn những việc mà Mai còn phải làm mà tưởng mình thanh cao. Nếu thờ Phật, sao không làm cái việc Phật làm, là đưa người ta ra khỏi chốn u mê, đưa cha mình ra khỏi chốn u mê? Tụng tụng niệm niệm một vạn ngày có làm cho ai thức tỉnh đâu. Chỉ có ném tội lỗi họ làm vào ngay trước mặt họ. Ngay trước mặt và không có lời lẽ nào hết."

              "Vậy thì Mai hèn hạn. Mai không làm được việc đó. Nó quá sức chịu đựng của Mai."

              "Mấy người tu thiền có khi chịu chặt một cánh tay để tỉnh ngộ, thầy chưa kể cho Mai nghe mấy chuyện đó sao? Sợ đau thì làm sao biết được sự thật."

              "Thôi cứ để Mai hèn hạ."

              "Không ai có quyền nói ừ, tôi hèn hạ hết."

              "Tại sao không?"

              "Vì cha đã thuê tên tài xế úp mặt lên con bé con một chiếc gối, chỉ sáu phút thôi thì em phải bỏ xác thân em để làm một con ma mồ côi. Mai tưởng cái chết mềm mại như cái gối đó à? Không đâu. Tên tài xế chưa dám sờ mũi em ngay. Hắn lấy xe đạp đi ăn một đĩa lòng, uống ba cốc rượu rồi quay lại. Lúc hắn thò tay xuống dưới gối, ấn mấy ngón tay sát nhân vào mặt đứa bé con xem em đã chết thật chưa, thì dưới làn da mỏng manh thịt đã bắt đầu cứng..."

              "Thôi Chi đừng nói nữa. Chi kể chuyện đó để làm gì?"

              "Để Mai không quên. Để Mai muốn hèn hạ cũng không được."

              "Hèn hạ thì đã sao? Nếu Mai can đảm thì có khác gì đâu? Những thứ đó có nghĩa gì khi chính đời sống không có ý nghĩa gì."

              "Đời sống vô nghĩa khi Mai so sánh nó với cái gì?"

              "Với sự bình an vĩnh cửu ở Niết bàn, khi con người đã thoát khỏi nơi đây."

              "Không có một nơi như thế Mai à. Niết bàn là thứ ảo ảnh lớn hơn tất cả mọi ảo ảnh."

              "Thế giới này mới không có thực. Dục vọng dựng lên thế giới, chứ thế giới không có thực. Niết bàn không có dục vọng. Mai biết rõ như vậy. Chúng ta chưa bừng tỉnh dậy khỏi giấc mơ này."

              "Nếu vậy thì Mai đang nằm mơ thấy mình nằm mơ. Niết bàn là giấc mơ ở trong giấc mơ."

              "Chi đừng nói như vậy. Mai biết đường Mai đi còn xa lắm, nhưng ít ra, thầy đã đốt lên một đốm sáng ở phía xa làm phương hướng, để Mai bước đi,lần mò đặt bàn chân này sau bàn chân kia trên con đường dài băng qua rừng. Lời nói Chi như những thứ dây leo cỏ dại chằng chịt vướng mắc trên đường đi. Mai không muốn nghe nữa. Không bao giờ.

              Chi đi đi. Mai đã đuổi Chi đi một lần rồi. Chi không nhớ sao? Mai không muốn nghĩ tới cây roi bằng dâu tằm của ông pháp sư thêm một lần nữa. Chi không sợ đau sao?"

              "Mai hiểu sai hết rồi. Em đi không phải vì em bị đánh đau, mà vì em thương Mai không chịu được những ngọn roi người ta dành cho em. Em chết nhỏ dại, chết vô tội, em đã trở thành thiên thần rồi. Không ai đánh em đau mà đuổi em đi được. Chỉ có tình yêu."

              "Chi không phải thiên thần đâu. Chi là ma quỉ".

              Tôi chợt nghe những chữ cuối tôi nói vang lên trong căn phòng vắng và sau đó, căn phòng im lặng lạ thường. Mọi thứ chợt ngưng bặt, không có tiếng thở của gió ngủ trên đám lá cây bên ngoài, tiếng côn trùng và lũ chim đêm muôn thuở xạc xào. Sự im lặng kéo dài, tím ngắt, thẫn thờ. Chỉ còn tiếng tim tôi đập phập phồng, điêu linh. Tôi chợt sợ tiếng tim của mình trong đêm tối, tôi sợ lồng ngực tôi, tôi không biết nó ôm ấp, chứa chấp những đam mê nào, lắng nghe những tiếng gọi nào từ mịt mùng.

              Tôi cúi đầu, nhắm mắt niệm nhanh:

              "A di đà Phật. Nam mô Anh di đà Phật".

              Một lúc sau tôi nghe tiếng của Chi, rất khẽ và rất chậm, từ phía sau bức tường ở trước mặt tôi.

              "Không có Phật đâu. Chỉ có em thôi. Mấy bức tượng này là Phật của mấy người kia, còn em là Phật của Mai. Ánh sáng Mai đi tìm nó trong mắt em chứ không đâu hết. Mai chưa bao giờ nhìn vào mắt em một lần, nhìn thật sâu. Mai phải nhìn xuyên qua biển đen và vô số hang động tối tăm, ở nơi mặt trăng mặt trời không rọi tới, mới tới nơi có ánh sáng từ đuôi chiếc sao chổi đã vỡ ra, đã lạc đường rơi vào vũ trụ của chúng ta. Mai chưa bao giờ dám nhìn. Mai sợ. Còn sợ thì chưa tu được đâu."

              Tôi nhắm siết mắt, ôm chặt tai.

              "Không. Không bao giờ. Chi đi đi."

              "Qua rằm Mai vào Sài Gòn nhé. Không, em không đưa Mai tới Muôn Hoa nữa đâu. Mọi chuyện của em Mai đã làm hỏng tan hoang rồi trước khi nó xảy ra, em không thể làm lại được. Em buồn ghê gớm. Em không ngờ ý chí của Mai lại mạnh mẽ như vậy. Em không ngờ sự lầm lạc, dại khờ cũng có sức mãnh liệt của nó, em đành buông tay. Em gọi Mai vào Sài Gòn không phải để nhờ vả Mai chuyện gì nữa. Em không còn cần Mai. Em không còn tin ở Mai. Em gọi Mai vào đó, để chị em mình chia tay. Không phải Mai đuổi em, mà em bỏ Mai. Lần này là thật. Vĩnh viễn. Em sẽ trả lại cho Mai: thân thể của Mai, tâm tưởng của Mai. Đôi mắt em đã mượn để nhìn, cái miệng để nói chuyện, mái tóc để mơ màng. Em sẽ trả lại cho Mai: da thịt để biết sự êm ái cùng những lằn roi,trái tim để yêu mến và uất hận, nước mắt để thương nhớ và quên lãng."

              "Thôi đừng nói nữa."

              Tôi biết sự trống vắng sau khi Chi đi rồi. Nó tan hoang hơn tất cả các nỗi buồn. Không phải chỉ là sự hụt hẫng thương nhớ, mà là nỗi sợ hãi căn cơ nhất của một sinh linh trước sự hư vô, trước sự huỷ diệt. Có lẽ sự thật của chúng tôi là đây, và nó làm cho tôi run sợ: Chi là tôi và không toàn vẹn, chúng tôi chỉ là một phần của nhau. Khi rời nhau ra, chúng tôi không trấn áp được nỗi chênh vênh của mình để tiếp tục tồn tại bằng một cách nào đó. Chúng tôi chỉ là một, một nguyên tử. Khi bị đập tan, những mảnh vỡ không còn là những mảnh vỡ của nguyên tử đó, chúng không còn là mình, cũng không thể biến mất đi; chúng thay đổi khi nhân cái đã vỡ. Tôi sẽ không còn biết mình là ai. Sự thay đổi giống như cái chết để được tái sinh, nhưng sau khi tái sinh, tôi linh cảm, sẽ không còn dấu vết của tôi nên tôi không thể màng tới sự sống sau đó.

              Trời ơi, tôi còn ngụp lặn trong cái ngã như thế này sao?

              "Tại sao chúng ta không chia tay nơi đây, bây giờ? Tại sao lại phải trở lại Sài Gòn?"

              "Tuy em đã ở với Mai từ lâu, nhưng Sài Gòn là nơi chúng ta gặp nhau lần đầu. Với lại, em muốn Mai nhìn thấy em đi khỏi trong thanh thản. Mai phải vào Sài Gòn, chúng ta sẽ chia tay trong đúng cái khung cảnh mà chúng ta đã gặp nhau. Để mai sau nhớ lại, sắp xếp lại ký ức, em thuộc về Sài Gòn. Em không muốn ám ảnh Hà Nội của Mai, dù là trong trí nhớ. Mai sẽ gọi em là kỷ niệm, hay một giấc mơ cũng được, của Sài Gòn."

              Tôi đi không xin phép thầy, không xin phép dì Lan và dì Thư. Buổi sáng, lúc dì Thư đi chợ, tôi nhờ cô thợ may nhắn lại là tôi đi, không biết có còn quay lại Huế hay không. Tôi đến ga chờ tàu. Tôi biết là tôi chưa thể về Hà Nội được dù tôi không có một lời giải thích nào cho chuyện đó. Tôi lấy vé vào Sài Gòn.
              Tôi yêu tiếng nước tôi

              Audio Truyện Kiều

              Comment

              • #22

                22. Quỳnh hoa

                Tôi lấy phòng riêng ở một nhà trọ trên một con đường nhỏ giữa Quận 3 và Quận 10. Mệt mỏi sau chuyến đi, tôi ăn tối sớm và đi ngủ sớm, lúc đó có lẽ mới bảy giờ. Sau mười hai giờ Chi lay tôi dậy, như đã hẹn (tôi không nhớ rõ, hình như Chi có đến với tôi lúc tôi ở trên tàu và nói chị em mình sẽ gặp nhau đêm hôm sau, lúc nửa đêm). Tôi ngồi trên giường, dựa lưng vào vách. Phòng hẹp, không có chỗ kê bàn và ghế, Chi ngồi rất gần tôi, nhưng tôi chỉ thấy Chi một phần, vì Chi bị cạnh giường che khuất từ ngực trở xuống, và chỗ Chi ngồi rất tối. Dù vậy, tôi cũng thấy Chi rất buồn, nghiêm trang và cứng rắn. Tôi thấy hơi nhói ở tim, vì tôi đã thương nhớ Chi, nhưng Chi giữ một khoảng cách nào đó suốt từ đầu cho đến cuối lần gặp lại này.

                "Chúng ta có một đứa em gái, Mai có nhớ như vậy không?"

                "Có chứ. Tên nó là Quỳnh. Quỳnh đang học ở Thuỵ Sĩ."

                "Quỳnh học thứ gì, Mai có biết không?"

                "Mai không biết."

                "Quỳnh chẳng học gì cả. Quỳnh đang ở Sài Gòn."

                "Không thể nào. Mẹ Quỳnh nói Quỳnh đi du học. Mai đã đến nhà, đã vào phòng của Quỳnh. Căn phòng của nó để trống."

                "Trống là vì Quỳnh không ở đó."

                "Tại sao? Căn phòng thật là đẹp."

                "Vì nếu nó ở đó thì cha mẹ nó sẽ không gởi tiền sang Thuỵ Sĩ nữa. Quỳnh lúc nào cũng cần tiền."

                "Quỳnh không đi Thuỵ Sĩ sao? Chuyện thật lạ lùng."

                "Quỳnh yêu một nhạc sĩ nghiện xì ke. Quỳnh đi Thuỵ Sĩ, rồi Quỳnh bỏ về sống với người yêu, không cho cha mẹ biết. Cha mẹ Quỳnh cứ tiếp tục gửi tiền."

                "Lỡ gặp cha mẹ ngoài phố thì sao?"

                "Ông bà ấy có bao giờ ra phố đâu. Họ đi đâu cũng đi bằng một trong hai chiếc xe màu đen, và Quỳnh biết họ đi những nơi nào. Đó không phải là thế giới của Quỳnh."

                "Quỳnh sống như vậy đã bao lâu rồi?"

                "Có lẽ ba tháng. Hay bốn."

                "Quỳnh có nghiện không?"

                "Không."

                Một lúc sau Chi hỏi:

                "Quỳnh đẹp lắm. Mai có thấy vậy không?"

                Câu hỏi làm cho tôi thấy bất an. Tôi lờ mờ linh cảm chuyện không lành.

                "Sao hôm nay Chi lại kể cho Mai nghe chuyện của Quỳnh?"

                "Quỳnh là em gái của chúng ta. Mai không quan tâm tới em mình sao? Quỳnh đang gặp nạn."

                "Nạn gì?"

                "Chuyện nhỏ thôi. Nếu không đến hôm nay, nó sẽ đến vào một hôm khác. Người yêu của Quỳnh bị bắt."

                "Vì sao?"

                "Anh ta tìm cách để có tiền."

                "Anh ta đã làm gì?"

                "Em không biết."

                "Chuyện gì Chi cũng biết mà."

                "Em không biết thật. Em không cần biết thì em không biết."

                "Chi không cần biết thì kể Mai nghe làm gì?"

                "Em kể chuyện của Quỳnh, không phải chuyện anh kia. Quỳnh đang cần tiền, một khoản lớn. Cha mẹ có nhiều lắm, mà không xin được. Không có gì mà Quỳnh không làm để cứu người yêu."

                "Chi không được đưa Quỳnh đến Muôn Hoa."

                "Em không cần phải đưa Quỳnh đến Muôn Hoa, vì đã có người khác làm chuyện đó rồi."

                "Ai?"

                "Cha đọc một cuốn sách rút từ kệ sách của Quỳnh. Ông dùng một tờ danh thiếp để đánh dấu trang rồi bỏ quên trong sách. Khi thấy cái danh thiếp Quỳnh nghĩ nó của chủ cũ cuốn sách, vì Quỳnh mua cuốn sách đó ở hàng sách cũ, sách in cách đây gần bốn mươi năm rồi. Quỳnh thích cái câu in trên tờ danh thiếp đó, nó làm Quỳnh tò mò. Quỳnh lưu số điện thoại vào máy, rồi từ máy vào sổ. Tuần trước Quỳnh gọi đến đó."

                "Câu đó là Live out your dreams, and fantasies. Mai vẫn còn nhớ. Nó cũng đã từng làm Mai tò mò."

                "Cha đưa Quỳnh tới Muôn Hoa chứ không phải em. Em chỉ đến làm bạn với Quỳnh, an ủi Quỳnh trong lúc người yêu nó ở trong tù."

                "Mai không tin Chi tốt với Quỳnh."

                "Đúng rồi. Chi không bao giờ tốt với Quỳnh đâu. Quỳnh có mọi thứ, và Chi không có gì cả. Người ta không cho Chi thở, để dành cho Quỳnh hết tất cả."

                "Chi đang đưa Quỳnh vào câu chuyện kinh khủng nào đây?"

                "Người đưa Quỳnh đến Muôn Hoa không phải là em. Quỳnh đã được chọn để làm cái việc mà Mai đã không làm."

                "Không bao giờ. Vả lại, cha con nhận ra nhau ngay."

                "Việc của Quỳnh dễ hơn việc Mai định làm rồi không làm. Quỳnh không phải phân vân, vì Quỳnh không biết chuyện. Và chuyện loạn luân sẽ không xảy ra. Nhưng như thế cũng đủ rồi."

                "Chuyện như thế nào?"

                "Mai có nhớ những người đàn ông đến đốt nến sinh nhật ở Muôn Hoa không? Những cây nến cắm vào một cái giá treo bên trên một cái bàn. Trên mặt bàn đó là một đứa con gái. Nếu đứa con gái đêm đó là quà của những người bạn mua tặng người có sinh nhật, người ta sẽ gói nó trong giấy gói, hoặc phủ lên nó một tấm lụa có đính nơ. Uống xong vài chai rượu, người có sinh nhật sẽ mở món quà của mình, và..."

                "Và họ làm gì Mai biết rồi."

                "Và nếu mọi người hứng thú thì người đó sẽ tận hưởng món quà của mình trước mặt những người khác. Mà họ thì lúc nào cũng có hứng thú.

                Thứ sáu này cha sẽ ăn sinh nhật ở Muôn Hoa. Bạn bè cha, những người dưới quyền cha đã góp tiền mua món quà đó rồi. Món tiền đã được trao cho cô Tâm. Họ tin ở sự lịch lãm của cô, nhờ cô ấy chọn một đứa con gái đẹp, và còn rất mới. Cô Tâm đã tìm được Quỳnh rồi.

                Mọi việc đã được sắp xếp xong. Tối mai, họ uống rượu hút thuốc xong, khoảng mười một giờ thì quà sẽ được mở trước mặt mọi người."

                "Chi không cần phải nói tiếp nữa. Mai không đồng ý. Chi không được để cho chuyện này xảy ra. Mai sẽ làm bất cứ chuyện gì để ngăn nó."

                "Mai sẽ không đồng ý, nhưng chuyện vẫn xảy ra, Mai không có cách gì ngăn được. Ở Muôn Hoa, Mai đã gây khó khăn cho cô Tâm hai lần rồi, cô ấy nghĩ Mai chỉ đem tới xui xẻo. Họ không bao giờ mở cửa cho Mai ở Muôn Hoa nữa. Và họ có cách để cho Mai không dám tới bấm chuông chứ. Còn buổi lễ mừng sinh nhật, Mai đâu biết nó diễn ra ở căn phòng nào, trong căn nhà nào. Muôn Hoa ở mọi nơi. Với lại, Mai còn nợ cô Tâm một khoản tiền lớn, không đến đó là hơn."

                "Mai sẽ đi tìm Quỳnh và nói cho Quỳnh biết.

                "Nếu Sài Gòn này chỉ có một con đường duy nhất, Mai cũng không tìm được. Nhưng Mai cứ đi tìm đi, biết đâu em sẽ chỉ cho Mai."

                "Không. Chi không được hại Quỳnh. Quỳnh không có tội gì hết."

                "Cha giết em để thế giới sung túc của nó được bảo đảm. Tuy vậy em không ghét Quỳnh, nó có biết gì đâu. Em không hại Quỳnh, chỉ nhờ nó giúp em cái việc mà chị không chịu làm và chị đã phá hỏng, để giúp cha thức dậy. Việc của nó không khó như việc của chị, em đã nói rồi."

                "Quỳnh sẽ thấy nhục. Sẽ đau đớn lắm."

                "Ừ thì đau đớn. Nó đã được hưởng tất cả mọi thứ em vì nó mà không được hưởng. Nó nợ em một ít. Thôi cứ xem như nó làm việc này để trả nợ em đi."

                "Cái nhục sẽ làm Quỳnh khổ suốt đời. Không có sông biển nào rửa được."

                "Nhưng còn em, người ta đã giết em mà."

                "Cái nhục ghê gớm hơn cái chết."

                "Mai biết gì về cái chết! Mai biết gì về nó: khi em không có miệng để nói và mắt để khóc; khi em ước ao có lại cảm giác ấm áp và mềm mại trong lúc chính em chỉ là một làn hơi lạnh làm người khác rùng mình.

                Và nếu mới có bảy mươi ngày mà Mai đã quên, thì để em nhắc: mẹ đã chết rồi. Chết vì bị hãm hại, vì nghèo khổ, vì bị bỏ rơi. Mẹ chết vì ai, Mai có biết không?"

                Chúng tôi không giã từ nhau, như Chi đã hứa. Hoặc là đối với Chi, đó là những lời từ giã. Tôi hụt hẫng, tôi nao lòng. Tôi không biết cách nén nỗi buồn, cũng không biết để lộ nó ra. Chúng tôi ngồi yên một lúc lâu. Rồi một lúc sau, Chi không còn đó nữa.

                Buổi chiều tôi đi tìm Quỳnh, đứa em tôi chỉ nhìn thấy ảnh một lần, trong một thành phố tám triệu người. Tôi đi, tôi không biết mình đã đi qua những con đường nào. Tôi đi vào các ngõ hẻm, quanh quẩn, rồi lại đi ra đường lớn, rồi lại vào những con hẻm khác. Khi trời bắt đầu tối, một cơn mưa nhỏ bắt đầu rơi xuống thành phố. Tôi không có áo mưa, cứ mặc cho ướt áo, tôi vẫn tiếp tục đi tìm Quỳnh. Đường phố nhạt nhoà, những âm thanh hỗn độn trập trùng trong mưa. Sự vô vọng làm tê đi một phần ý thức, tôi bước đi trong mộng du, không biết giờ nào mình sẽ tỉnh lại.

                Bỗng nhiên, trên đường phố nhập nhoè màu của một giấc mơ, tôi nhìn thấy Quỳnh. Tôi không biết đó có phải là Quỳnh không, cùng lúc tôi nghĩ đứa con gái này phải là một người nào đó trong câu chuyện của tôi, trong đêm mưa này, trong thành phố này, vào khoảnh khắc này.

                Đứa con gái vừa từ trước mặt đi lướt qua tôi. Tôi quay lại, bây giờ tôi chỉ còn thấy cái lưng của nó. Tôi gọi: "Quỳnh." Nó chùng lại nửa bước, rồi đi tiếp. Tôi lại gọi: "Quỳnh." Hai giây sau nó quay nhìn tôi, rất nhanh, tôi không kịp nhìn kỹ gương mặt nó, nó đã quay đi và bước vội. Tôi đi nhanh theo Quỳnh, nó cũng bước nhanh hơn, gần như chạy. Tôi đứng lại và chỉ trong nửa phút tôi bàng hoàng không biết mình phải làm gì, đứa con gái đã rẽ vào một con hẻm và mất tăm. Tôi chạy theo vào hẻm. Nó còn thấp thoáng ở chỗ gần ngã rẽ, chỉ còn là một cái bóng mơ hồ. Tôi bước nhanh lại, chiếc bóng đó biến mất, rồi lại thấp thoáng ở đàng trước, rồi lại mất. Tôi đi theo bóng người đó mãi, rồi một lúc nào đó tôi chợt thấy cơn buồn ngủ đến trong lúc chân vẫn bước. Tôi nhắm mắt lại trong vài giây, chợt ý thức tôi loãng dần, tôi đang chìm trở lại vào một giấc mơ - dường như tôi đang ở trong một giấc mơ, trong một thành phố lênh đênh phai nhạt.

                Tôi mất cảm nhận về thời gian. Tâm tưởng tôi là một chiếc lá khô vừa rơi xuống mặt đất. Mưa xuống và nắng lên, ngày đi và đêm tới, trí nhớ tôi dần vùi tan vào mặt đất ẩm mục.

                Một thời khắc nào đó, tôi thấy mình đi với Quỳnh lên cầu thang bằng gỗ lên căn phòng của Quỳnh. Hai người leo một tầng, rồi một tầng nữa dọc theo tường bên trái của một căn nhà hẹp nằm trong ngõ. Trời đang mưa nhỏ. Quỳnh mở khoá, bên trong phòng tối, Quỳnh đi đến cuối phòng, nơi có kê một cái bàn, Quỳnh bật chiếc đèn nhỏ trên bàn. Một vùng ánh sáng nhỏ loang ra, chỉ đủ làm sáng một góc trong phòng. Quỳnh vào phòng tắm lấy ra hai cái khăn, đưa cho tôi một cái. Quỳnh nói gì đó, nhưng tôi không nghe thấy tiếng. Tôi chợt nhận ra rằng tôi đứng ở bên ngoài thân thể mình, đứa con gái vừa bước vào gian phòng cùng với Quỳnh là tôi, nhưng tôi đang ở bên ngoài nó. Tôi đang ở đây, cùng chung không gian với Quỳnh, nhưng Quỳnh không thấy tôi, chỉ thấy đứa con gái kia. Tôi thấy mọi thứ trong gian phòng nửa tối, nhưng tôi không nghe gì cả. Không có tiếng nói, tiếng động, chỉ có một âm thanh nửa âm u nửa thầm thì, rất nhỏ, như tiếng gió lùa qua những lối hẹp. Tôi thấy Quỳnh và tôi đang lau tóc, vì chúng tôi vừa đi ngoài mưa. Quỳnh ngồi xuống trên hai gót chân, mở cánh cửa một cái tủ thấp, lấy ra hai bộ quần áo mặc ở nhà. Hai đứa con gái cởi ra bộ quần áo ướt trên người, rồi lau mình bằng chiếc khăn lúc nãy. Tôi nhìn thân thể Quỳnh, và thân thể tôi. Trong chút ánh sáng hắt lại từ cây đèn ở góc phòng đàng kia, làn da hai đứa con gái màu trắng, gần như trong suốt, ẩn hiện, và đường nét của những bầu vú chưa đầy, ngọt ngào mong manh làm cho tôi thấy cảm động. Trên cánh tay, trên vai, trên ngực trần của tôi, phía bên trái, có những vết cắt đã thành sẹo, tôi thấy Quỳnh đưa những ngón tay vuốt những vết sẹo đó, thật dịu dàng. Rồi hai đứa con gái mặc quần áo, nằm xuống ngủ trên tấm nệm dưới đất. Hình như hai đứa nói chuyện gì với nhau. Quỳnh cuộn người, quay mặt ra ngoài, hình như Quỳnh khóc rất lâu. Tôi quay đi. Nơi bức tường đối diện, phía trên cái bàn kê sát tường, có một cái cửa sổ nhỏ. Lúc đi ra Quỳnh đã quên đóng cửa, nên nước mưa hắt vào làm ướt một khoảng trên mặt bàn và những giấy tờ trên đó. Mưa đã tạnh, và lạ lùng thay, bên ngoài, một con trăng hạ tuần đang treo trên bầu trời trong vắt đằng sau khung cửa sổ.

                Tôi đi quanh căn phòng nhỏ. Phòng chật và không ngăn nắp, quần áo của Quỳnh và người yêu, sách vở và đĩa hát, vương vãi đây đó. Dọc tường bên phải có một cái kệ sách, một cái tủ thấp. Trước mặt, dọc khoảng tường rất hẹp, kê một cái bàn nơi cửa sổ. Ở góc bên kia có máy hát, âm li, loa, tai nghe, dựa tường có một cây đàn guitar điện. Trên hai bức tường có những tấm ảnh được ghim hay dán bằng băng keo lên vách. Ảnh chụp Quỳnh ngoài trời: Quỳnh cười, Quỳnh ngó lên trời, Quỳnh ngó xuống đất, Quỳnh cột dây giày, Quỳnh buộc tóc. Và ảnh chụp Quỳnh trong nhà: ảnh cận một bờ vai, bờ vai của Quỳnh; ảnh chụp đường cong của cái mông lúc Quỳnh nằm sấp, cái bụng với một chút xương hông nhô lên lúc Quỳnh nằm nghiêng; ảnh chụp hai bầu ngực Quỳnh êm ái; ảnh chụp đầu và lưng Quỳnh chụp từ phía sau, lúc Quỳnh đang nằm, tóc rơi xuống gối, để lộ chiếc gáy với những sợi lông tơ óng ánh. Không biết sao tôi nghĩ những tấm ảnh chụp trong nhà đều đã được chụp lúc họ vừa làm tình xong, lúc Quỳnh đang mệt lả và mơ màng, tất cả các cơ thịt đều buông lơi. Sự đằm thắm trong căn phòng làm cho thấy môi tôi tê lịm và tim tôi buôn buốt. Tôi chưa bao giờ biết tình yêu giữa một người con trai và một đứa con gái như thế nào. Hôm nay, trong căn phòng này, trong lúc Quỳnh đang nằm khóc ở đây và một người đàn ông Quỳnh yêu đang ngủ ở một nơi nào đó trong tù, tôi hiểu tình yêu. Không phải tôi hiểu ý nghĩa, mà là sự hiện diện của nó. Tình yêu đổ đầy mỗi phân không khí, nó ngọt lịm vào một đêm rất buồn.

                Quỳnh vẫn ngủ say. Tôi thấy tôi cựa mình. Khi nhìn hai hàng mi mở ra chầm chậm, đôi mắt dài và đen nhìn lên trần nhà, khi nhìn thấy gương mặt và một nửa mái tóc nằm trong bóng tối, tôi chợt nghĩ rằng người tôi nhìn thấy là Chi. Lúc ở Huế, Chi nói Chi sẽ trả lại cho tôi thân thể này, chúng tôi sẽ chia lìa vĩnh viễn. Bây giờ Chi còn nằm đó, còn hưởng chút ấm áp mềm mại bên trong một làn da, chỉ còn đôi ba giờ nữa thôi. Tôi thấy buồn khủng khiếp.

                Tôi đi tìm Quỳnh để nói một điều gì đó rất quan trọng. Tôi nhớ như vậy, nhưng tôi không còn nhớ đó là điều gì. Dù tôi có nhớ ra thì cũng không nói được. Quỳnh đã ngủ rồi, và nếu thức, Quỳnh cũng không nhìn thấy tôi, nghe tiếng tôi nói. Tôi phải về thôi.
                Tôi yêu tiếng nước tôi

                Audio Truyện Kiều

                Comment

                • #23

                  23. Đóng cửa

                  Tôi thức dậy trong phòng trọ vào buổi chiều. Căn nhà vắng, mọi người đều có việc ở bên ngoài. Tôi nhớ lại rằng tôi cũng phải đi ra ngoài. Tôi nhớ lại chiều nay, cha tôi sẽ có một buổi mừng sinh nhật ở Muôn Hoa với những người bạn giàu sang quyền thế. Ông sẽ mở dây gói một món quà đẹp và mới. Tôi sẽ không để cho chuyện đó xảy ra. Tôi không còn thì giờ, không còn cả sức lực và tâm trí để hiểu quyết định của mình. Tôi chỉ biết đó là một việc phải làm. Nó cấp bách như việc cứu người, dù tôi không biết mình cứu ai. Cha tôi? Không thể nào. Hay Quỳnh? Hay chính tôi? Cùng lúc đó, tôi cũng sẽ đang phản bội ai đó. Những nạn nhân của cha tôi? Hay chính cha? Ông sẽ trong kiếp này và tất cả những kiếp khác chỉ biết một cách sống duy nhất, là sống trên sinh mệnh những con người. Hay là tôi sẽ phản bội sự thật, chặn lấy hơi thở của nó, như tên tài xế đã chặn một cái gối lên mặt em tôi.

                  Tôi không thể suy nghĩ tiếp. Tôi kiệt sức rồi. Tôi phải đi làm việc đó ngay, ngăn chặn tai ương đang chờ Quỳnh, và cha tôi.

                  Tôi đi taxi đến nhà cha nhưng không dám gọi cửa, vì biết người ta sẽ không mở cửa cho tôi. Không bao giờ. Tôi đi lên đi xuống trên lề đường phía bên kia. Tôi tìm được một cái quán cà phê nhỏ. Tôi vào đó ngồi chờ. Một lúc nào đó, chiếc xe của cha tôi sẽ chạy ra để đi đến Muôn Hoa. Tôi sẽ nhăn chiếc xe lại.
                  Tôi chờ rất lâu. Bầu trời chiều tái đi, không có ráng chiều, vì mây xám giăng kín mảnh trời phía Tây. Mặt trời đã thấp, trời sẽ tối rất nhanh.

                  Vào khoảng sáu giờ rưỡi, cánh hai cổng của nhà cha tôi mở ra. Tôi cuống cuồng chạy về phía đó.

                  Chiếc xe màu đen của ông chạy ra. Tôi nhìn thấy ông ngồi ở băng sau. Người tài xế chính là người đã mở cái khung nhỏ nơi cánh cổng nói chuyện với tôi ngày tôi đến đây lần đầu, cũng là người mang tiền đến Muôn Hoa hôm nào. Tôi đứng chặn ở đầu xe. Tài xế ngưng lại. Tôi đến cửa sổ để nói chuyện với cha tôi, nhưng tất cả cá cửa kính của xe đều đóng, tôi gị nhưng không ai nghe. Trời đã tối, có lẽ cha tôi không nhìn thấy mặt tôi, đứa con gái ông đã mua hôm nào, đã bỏ chạy và cô Tâm đã thế vào cho ông một đứa khác. Tôi thấy cha tôi hỏi gì đó và người tài xế lắc đầu, tôi thấy cha tôi rất bực mình và ra hiệu cho anh cứ lái xe đi. Tôi chạy nhanh ra phía trước đầu xe, ôm lấy cái đèn xe phía trước vào bụng. Họ chỉ tiến xe tới một chút, là cán lên tôi ngay, vì tôi đứng ở ngay bánh xe trước. Tôi thấy đuối sức và đầy lo sợ, không phải tôi sợ họ cán tôi, mà sợ vì không biết phải bắt đầu nói như thế nào cho cha tôi hiểu. Ông sẽ bước ra khỏi xe, hỏi tôi có việc gì mà cản xe ông như thế. Tôi sợ phải đứng trước mặt ông, nhìn vào mắt ông, nghe tiếng ông hỏi, sợ tất cả những thứ gì thuộc về ông. Tôi cần thêm một chút can đảm, một chút nữa thôi, để ngăn chặn câu chuyện kinh hoàng sắp xảy đến với em Quỳnh. Tôi phải nói tất cả trong một câu, một câu thôi, vì can đảm của tôi không dài hơn một câu được. Tôi sẽ đứng ôm lấy đầu xe như thế này, bất kỳ bao lâu, cho đến khi cha tôi bước khỏi xe và tôi có thể nói cái câu đó. Tôi gom hết sức lực mà mình có, giữ cho hai đầu gối tôi khỏi quị.

                  Nhưng lúc đó, từ phía cánh cổng, mẹ của Quỳnh, chị giúp việc và một người đàn ông bước ra. Họ ôm lấy tôi, kéo tôi ra khỏi chiếc xe. Tôi vùng vẫy, họ đã nhấc tôi lên khỏi mặt đất và kéo lê tôi sang một bên. Chiếc xe của cha tôi chạy đi.

                  Người đàn ông dằn tôi xuống đất. Mẹ Quỳnh đã nhận ra tôi. Bà hỏi:

                  "Mày muốn gì?"

                  Tôi chỉ muốn quị xuống vì kiệt sức và ê chề. Tôi không thể trả lời được. Người đàn ông nói với mẹ Quỳnh:

                  "Có khi trong lúc phải đi ăn uống giao tiếp trong công việc, chú bo cho một đứa phục vụ rộng tay một lần, nó tưởng nó có thể theo xin nữa. Thôi cô không phải để ý làm gì."

                  Họ bỏ tôi ở đó, đi vào và đóng hai cánh cửa cổng lại. Tôi lặng người trong vài phút.

                  Có vài người từ bên kia đường đến xem, họ giữ một khoảng cách, không ai đến gần tôi.

                  Tôi phải làm gì bây giờ? Cha tôi đang trên đường đến Muôn Hoa. Làm sao ngăn ông lại. Tôi phải nói mẹ Quỳnh gọi điện cho ông.

                  Tôi bước đến cánh cổng sắt và nhấn chuông. Không ai mở cửa. Tôi nhấn chuông nữa. Tôi đập vào hai cánh cửa, nó vẫn im lìm. Tôi đập bằng hai tay, rồi hai cánh tay, rồi bằng cả thân người. Họ không mở cửa cho tôi. Tôi kiệt sức, đứng chờ. Một lúc sau, tôi lại nhấn chuông và chờ, không biết là bao lâu. Tôi muốn khóc, nhưng không khóc được. Tôi lo lắng, tôi rã rượi. Tôi không còn biết là mình đang làm gì và tại sao. Tôi chỉ biết là có một việc vô cùng quan trọng và tôi phải làm, đến cùng, dù tôi có quị xuống đây, dù tôi có chết đi, vẫn phải làm cho được điều đó, phải nói với mẹ Quỳnh gọi điện thoại cho cha tôi và gọi ông quay về.

                  Tôi nghe tiếng xe phía sau lưng. Tôi quay lại. Đó là một chiếc xe không cửa của công an.

                  Hai người bước xuống xe. Một người nói:

                  "Cho xem chứng minh."

                  Tôi mở cái túi đang mang trên vai. Tôi đưa giấy tờ cho ông ấy. Ông ấy xem xong không trao lại cho tôi. Ông nói:

                  "Cô về đồn làm việc."

                  "Tôi có làm gì đâu."

                  Tôi được thả vào sáng hôm sau. Những tàng lá của những cây cao hai bên đường xao động trong nắng va trong gió ở trên cao, ngút cao. Tôi đi bộ đến một quán bán thức ăn sáng ở đường LQĐ. Giờ này, phần lớn khách ăn đã rời quán đến sở làm, chỉ lưa thưa vài khách. Tôi ngồi trong vườn sân trước, dưới những tàn cây.

                  Buổi tối ngủ ngồi, cổ tay trái bị còng vào song cửa sắt trong một gian phòng trắng toát đèn neon, và buổi sáng thêm một cuộc hỏi cung vô nghĩa... tất cả giống như một dòng sông nước đục lờ đờ, tôi rơi vào đó, dòng nước làm mờ nhạt tâm tưởng và các giác quan. Nó rất giống cảm giác của sự thanh bình, nhưng là một sự thanh bình mờ đục, vô cảm. Lần đầu tiên sau một thời gian dài, tôi thấy mình hờ hững. Tôi không biết cảm xúc, ý nghĩ của mình và không cảm thấy buồn vì điều đó. Tôi không cảm thấy buồn vì bất cứ điều gì khác. Thành phố yên lặng, nhẹ hẫng. Sức hút của trái đất đã mất rồi.
                  Tôi yêu tiếng nước tôi

                  Audio Truyện Kiều

                  Comment

                  • #24

                    24. Đi trong thung lũng

                    Tôi thức giấc sau nửa đêm, tôi nằm im lặng một lúc, và chợt nhận ra mình đang khóc. Đêm của tôi thanh bình, vắng ngắt, tôi hiểu rằng Chi đã đi rồi. Chi bỏ tôi và tôi đang buồn vô hạn. Tôi dần dần nhớ lại tại sao mình đang ở đây, chuyện gì đã xảy ra, và tôi đang chờ đợi điều gì.

                    Đêm qua, tôi đã làm tất cả mọi thứ để ngăn chặn một điều gì đó, nhưng tôi làm không được. Bây giờ thì mọi việc đã quá trễ. Tôi vừa làm lỡ một việc rất quan trọng, rất to lớn, mặc dù tôi không có chữ nghĩa nào để nói về nó. Những con sóng từ biển cả khôn lường đang di chuyển vào, tôi đáng lẽ phải xây một con đê chắn sóng, dù tôi không biết con đê đó bảo vệ cho điều gì, dù tôi không biết con đê đó bảo vệ cho điều gì, thứ thành trì nào trong cuộc đời này. Tôi không biết đó là sự tha thứ, sự làm lành với cuộc đời - bất cứ cuộc đời nào - hay đó là sự bất lực của trí óc và sự hèn hạ của con tim, từ bỏ mọi sự chống cự, để cho mọi thứ trôi đi. Tôi muốn bảo vệ một thứ gì đó, tôi không biết tên của nó, và làm tan hoang đổ vỡ một thứ gì khác, tôi cũng không biết tên của nó.

                    Tôi nhớ lại đêm tôi đến phòng của Quỳnh và người yêu trong con hẻm, tôi nhớ lại Quỳnh khóc, Quỳnh sẽ đến Muôn Hoa ngày hôm sau. Hôm sau tôi đã cố hết sức tôi ngăn cha Quỳnh đừng đến đó, nhưng tôi đã không làm được.

                    Quỳnh, nếu khi người ta mở giấy gói hay kéo tấm lụa dày phủ lên món quà sinh nhật người ta tặng cha em, khi em mở mắt và nhìn thấy cha, em chỉ muốn ngất đi. Không, không phải ngất, em chỉ muốn chết đi. Em sẽ oán hận biết bao nhiêu những tình cờ hoặc định mệnh đã đưa em vào nơi chốn đó, giờ khắc đó. Nhưng em biết không, dù kinh hoàng đến đâu, điều em nhìn thấy, nhận lấy, không phải là một thứ bất công hay tai hoạ từ trời, điều em thấy chỉ là sự thật. Cha của chúng ta đã xây nhà cho ông, cho mẹ em và cho em trên một ngọn đồi, trong lòng ngọn đồi đó là nắm xương nhỏ xíu của bé Chi. Và bây giờ sự tan vỡ xảy ra. Em chỉ thấy một thứ đã có đó lâu rồi. Tai ương như một bông hoa tang thương nở từ một cái chồi trong lòng đất u khuất đã nuôi dưỡng nó rất lâu, nó không rơi xuống từ trời.

                    Có thể Quỳnh không hề muốn biết những điều tôi muốn nói. Cũng như tôi có thể hỏi thăm tin tức về cha tôi và Quỳnh, nhưng tôi không làm. Tôi quyết định không bao giờ muốn biết gì về đêm thứ sáu đó, và những ngày, những đêm kế tiếp trong đời của cha tôi và trong đời của Quỳnh. Tôi đã đến nơi biên giới, và tôi không muốn bước qua nó.

                    Biết được bao nhiêu thì sự thật là sự thật? Nhiều khi tôi tự hỏi, tại sao tôi đã phải đi qua đoạn đường đó. Tại sao tôi phải biết nỗi buồn của mẹ tôi, của dì Lan, của Chi, và của Quỳnh nữa. Tôi đã không an ủi hay giải oan được cho ai. Tôi gánh vác nỗi buồn của họ để làm gì?

                    Có thể sự an bình và vô ưu không phải là điều chúng ta đi tìm. Chúng ta đi tìm những mối dây gắn mình với một thứ gì đó rất bao la tôi không biết tên. Tên nó là cội nguồn? Tên nó là duyên kiếp? Nó ánh sáng của một mảnh vỡ từ cái đuôi sao chổi đã rơi vào vũ trụ của tôi ngày mẹ tôi đậu thai. Nó là ánh sáng, hay chỉ là ký ức của ánh sáng từ một cái mặt trời đã vỡ? Dù thế nào, ký ức đó cũng đã gắn liền tôi với một Ngân hà ngoài xa. Cội nguồn của tôi, duyên kiếp của tôi. Hình như đó là một linh cảm về sự thật.

                    Biết được sự thật không phải là biết được câu chuyện gì, nó xảy ra như thế nào. Biết được sự thật là biết được mình sẽ làm gì khi câu chuyện đó đẩy mình đến vách núi giữa biển lúc những cơn sóng đang chuyển động trên đường đi của nó đập vào vách núi. Trong cả hai lần ở Muôn Hoa tôi đều đã cảm thấy mình sẽ không chịu được sức va chạm giữa những làn sóng và vách đá. Lần đầu tôi thoát ra ngoài bằng cách để máu của mình thoát ra khỏi thân mình. Lần thứ hai tôi muốn quay đầu lại ngăn ngọn nhưng, nhưng có ai đó, những nhân duyên trùng điệp nào đó, nhấc tôi ra khỏi chỗ đứng giữa những cơn sóng và vách núi. Tôi đã không chạm được những mảnh của mặt trăng khi nó vỡ ra. Sự thật, cuối cùng, vẫn còn ở bên trên những đám mây trời. Vẫn còn một khoảng cách từ đây tới đó. Và có lẽ, tôi man mác nhận ra, cái khoảng cách đó giữ tôi còn sống. Tôi còn sống và còn ngước nhìn. Ngày tôi hoà vào ánh sáng, cũng là ngày tôi chết. Sự thật chỉ đến, toàn vẹn và trinh nguyên, cùng với cái chết. Còn sống là còn bước đi - đặt bàn chân này đàng trước bàn chân kia - trong vô minh, trong thung lũng sương giăng, với linh cảm về sự thật như những ánh chớp trong bầu trời phía trên.

                    Hôm sau tôi đến trường xin lại hồ sơ, rồi ra ga lấy vé xe. Tôi sẽ ghé Huế, trước khi về Hà Nội. Tôi muốn đứng nhìn bình tro của mẹ tôi đặt ở chùa. Tôi muốn nói với dì Lan rằng Chi đã đi rồi, đã thật sự đi về nơi của những linh hồn đã rũ được oan khiên. Dì không tìm được xương của Chi để làm cho nó một nấm mồ. Có lẽ chúng tôi nên đốt một cành mai, để gió trên mặt sông Hương thổi chút tro đó bay đi, và thôi không thắp ngọn đèn dầu nhỏ vào những đêm trăng non đầu tháng nữa.

                    Lời cuối cùng dì Lan nói với tôi trước khi tôi về Hà Nội là không, Chi chưa chết. Hôm đó dì đã gói Mai trong tám lần tã đưa đến nhà cha, chứ không phải Chi. Chi được chị Liên nuôi lớn bằng khai sinh của Mai, con chị Liên, để cho không một dấu vết gì còn sót lại là dì Lan đã chửa hoang và sinh con vào năm mười lăm tuổi.

                    April 4, 2007.
                    Tôi yêu tiếng nước tôi

                    Audio Truyện Kiều

                    Comment

                    Working...
                    X
                    Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom