Hải Vân Quan
Ngọc Thủy
Hải Vân mây trắng đường ra Huế
Mình ước về thăm Vỹ Dạ chơi
Bằng chiếc đò ngang băng nước biếc
Ngó ra Mang Cá thấy chân trời...
n.t.
Sau khi ở Non Nước, rời bãi biển Mỹ Khê và Cảng Tiên Sa, chúng tôi thẳng đường ra Huế. Tôi vui thích lắm vì mong ước từ lâu. Lớn lên từ quê hương khói lửa, chiến tranh cứ mãi lan tràn, tôi luôn ước ao có một ngày đất bình, tôi sẽ được đi thăm tất cả danh lam thắng cảnh của quê hương. Nào Huế với bao cổ kính mộng mơ, Hà Nội ba mươi sáu phố phường với Đồ Sơn, chùa Hương, Hạ Long.v.v... mà tôi chỉ được biết và mến yêu qua những trang sách mà khi quê hương ngừng tiếng súng, đời sống tôi lại bị đẩy ra xứ người bởi không thể sống được dưới xã hội cộng sản. mãi cho đến hôm nay, tôi mới có dịp ra thăm Huế lần đầu.
Xe chạy một đoạn theo con đường ven biển, chầm chậm lên dốc qua đèo Hải Vân. Phong cảnh bắt đầu mở rộng phóng khoáng, rồi choáng ngợp cả hồn tôi khi trước mắt hiện ra một giải núi non biển rộng trải dài dưới chân đèo trắng lướt theo làn sóng bạc nhấp nhô xa xa tít trùng khơi. Từ nền trời một màu xanh lơ hòa cùng màu đại bích, ngời biếc lên ánh xanh lam của núi, tươi xanh của lá cây rừng, lóng lánh bãi cát trắng chạy dài ôm ấp lượn bờ biển bao la. Đẹp tuyệt vời!
Đường đèo dốc quanh co, rừng núi điệp trùng, lại thêm mùa này có hoa dây leo màu trắng nở khắp sườn núi với cảnh thiên nhiên thêm phần mỹ lệ thắm tươi dưới nắng chiều long lanh. Tới eo biển Lăng Cô, cảnh đẹp càng thắm xinh với hàng dừa xanh lả ngọn bên ven bờ cát trắng, làng chài san sát thuyền bè neo bến hoặc đang ra khơi tung lưới biển êm đềm.
Trên đỉnh đèo Hải Vân hôm đó, tôi đã rung động đến lặng người trước cảnh đẹp như bức tranh thủy mạc mơ ngũ sắc chiếu từ không gian lồng lộng chiếu xuống làn nước biếc, lung linh... Đứng từ đỉnh núi cuối cùng của dãy Trường Sơn độ cao 496m này, mới thấy hết cái vẻ đẹp hoành tráng và kỳ ảo của trời mây non nước thấm nhập vào hồn lúc nào mà lặng say ngây ngất thế. Tôi muốn nói thật to cho những ai chưa qua đèo Hải Vân, chưa từng đến Huế rằng, đường đi của núi qua sông biển Thừa Thiên đẹp như gấm bạc tơ trời dệt nên. Vì thế, tôi vội bước vào gian nhà nhỏ ngay đấy mua mấy tấm thiệp chụp cảnh núi Hải Vân ngó xuống lòng biển Đông Hải, gởi ngay cho người yêu cô bé Thủy Tiên vài hàng chia xẻ cảm xúc của tôi trong lúc này. Dù đang đứng trước khúc quẹo vòng nguy hiểm chiều xe lên xuống, nhưng tôi cũng ráng băng qua đường bằng sự thận trọng để đến gần ngôi thành lũy cũ, đã mùa mưa nắng rêu phong vẫn sừng sững đứng giữa ranh giới Quảng Nam và Thừa Thiên. Trường Sơn mây trời bay. Đường đi này năm xưa đã in bao gót giày hành quân xuôi ngược của những người lính trận sơn khê sương gió để tạo nên yên bình cho đất nước thắm tươi. Trong những lớp mây bàng bạc kia, hình như có hồn thiêng người chiến sĩ VNCH can trường đã hy sinh cho bờ cõi miền Nam Tự Do thân yêu, lãng đãng bay trên bầu trời thênh thang, bởi khí hùng xương máu ấy vẫn kết tụ nơi đỉnh trời này, chưa tan!
Ngừng lại hơn nửa tiếng để ngắm cảnh, chụp hình, đoàn xe lại tiếp tục chạy quanh vòng núi xuống chân đèo. Đi Huế lần đầu với tôi hôm nay xôn xao bao cảnh đẹp như thơ khiến lòng tôi thêm yêu mến dạt dào.
Đường quanh co vượt đèo qua núi qua sông, qua Phú Vang – Hương Trà – Hương Thủy rồi đưa chúng tôi vào Thành Nội khi nắng chiều còn vàng tươi óng ả. Giòng sông Hương từ những trang thơ, nhạc đang hiện ra êm ả chảy nhẹ vào tôi giòng nước mát xanh dưới chân cần An Hòa. Giòng sông uốn khúc dài gần một trăm cây số, xuôi chảy khắp đồi núi đất Thần Kinh với bao huyền thoại nắng đục mưa trong, đã tạo nên bao nguồn thơ văn lai láng cho nhân dân Cố Đô để truyền cảm lại nỗi niềm yêu mến Huế đến bao người khách lạ phương xa.
Viếng Lăng Minh Mạng
Lăng tẩm đầu tiên chúng tôi dừng chân ghé thăm là lăng vua Minh Mạng (Hiếu Lăng). Đường vào Lăng đi qua rừng hoang vu trên đồi núi Hiếu Sơn (Cẩm Kê) nằm thoai thoải vắt ngang giòng sông xanh biếc. Xe ngừng ở đầu đường chúng tôi đi bộ vào. Bên lề đường phía tay phải là những gian hàng bán quà lưu niệm, nước giải khát, trái cây, người bán hàng đua nhau lên tiếng mời mọc nhưng chúng tôi lắc đầu từ chối hẹn lúc trở ra vì còn phải vào trên bước chân người hướng dẫn.
Đoàn người đi vào bằng cánh cổng phụ Tả Hồng Môn, bên trong khuôn viên La Thành nằm vuông bắn xinh đẹp chiều êm ả. Ngay cổng vào có tấm bảng lớn ghi Lăng Minh Mạng được xây từ năm 1940 đến 1943 gồm khoảng trình kiến trúc được bố trí đối xứng qua trục chính (thần đạo) dài 700m. chúng tôi đi qua con đường làng khoảng ngắn có khu vườn râm bóng mát đại thụ hai bên rồi rẽ trái bước lên cầu đá để tới sân chầu nối từ cổng Môn (cửa chính tam quan chỉ mở cho vua ra vào, và đã khép lại từ ngày vua băng hà cho tới nay) đến Bi Đình thờ văn bia ghi tiểu sử, công đức và công trạng của nhà vua trong suốt thời trị vì được khắc trên tấm bia đá cẩn xám xanh to lớn. Qua sử sách ghi chép, được biết vua Minh Mạng tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, con thứ của vua và Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, lên ngôi hoàng đế năm 1820 cho đến năm 1941, trị vì quốc thái dân an được hai năm thì mất lúc mới năm mươi tuổi trong sự thương tiếc của triều đình và muôn dân. Lăng tẩm này vừa được một năm còn dở dang nên vua Thiệu Trị lúc lên ngôi kế vị tiếp tục cho xây cất theo đúng đồ án của vua cha để lại, và năm sau mới hoàn thành xong tốt đẹp.
Đúng giữa vuông sân chầu lát gạch Bát Tràng có tượng lính, voi, ngựa hầu hai bên, vừa ngắm cánh cổng Đạo nghiêm trang khép kín từ lần cuối tiễn vua vào mộ Bào Thành, những mái vòm rêu phủ vẫn ngước nhìn trời cao từng áng mây ngày tháng trôi qua dẫu cánh cửa vàng son thuở nào đã loang màu mưa nắng phai nhạt với thoáng nhìn hoa sen nở trên mặt hồ Trừng Minh cùng cảnh núi đồi bao quát chung quanh, tôi thấy những giây phút mìn kích cảnh trí này thật là thú vị.
Lối kiến trúc theo một đường thẳng xuyên từ Đại Hồng Môn tới các cổng Hiển Đức Môn, Hoàng Trạch Môn bằng dãy tẩm điện nguy nga với cảnh đối xứng hai bên ngắm nhìn rất thuận lợi, chẳng hạn từ cầu Trung Đạo nằm tâm sẽ thấy được Nghênh Lương Quán bên tay phải và Điếu Ngư Đình bên tay trái song song. Từ lâu các Mi giữa đồi Tam Tài Sơn có Bình Sơn và Thành Sơn hai bên tả hữu, bắt qua chiếc cầu dài Thông Minh Chính Trực cuối góc La Thành là ngôi mộ vua nằm trên đồi thông khuất dấu trong bờ tường cao đã phủ xám rêu phong. Lúc sắp ngả về Tây, nên ánh chiều bỗng rực bóng hoàng hôn trước lúc tàn ngày, soi chiếu xuống rừng thông trên nét vẻ vừa u trầm tịch mịch vừa tráng lệ nên thơ. Có lễ đã mỏi chân và nhìn chiếc cổng im lìm đóng kín lâu năm giờ mở cửa ra như lời Vũ cho biết, mọi người đứng lại bên này chiếc cầu gỗ nhìn sang. Nhưng chính chiếc cổng bằng im lìm khóa kín đó đã lôi cuốn tôi và vài người nữa đi qua chiếc cầu gỗ khá dài, leo lên ba mươi sáu bậc đá gạch xem bên trong vòng cung bức tường Bảo Thành này ra sao. Kiểng chân lên, ghé sát mắt vào, tôi chẳng thấy được cây cỏ mọc đầy (đến bây giờ cũng không ai biết được long thể vua nằm ở đâu vì đã bị xóa mất dấu sau khi canh phần cẩn mật), rừng thông lao xao cùng tiếng gió vút qua từng chập tựa chuyện đời thoảng như gió cuốn, như gác tía, lầu son hay cung điện, đền rồng rồi cũng chỉ còn lại chốn hư không, u tịch như thế này thôi. Nhưng mấy ai và thật sự chỉ có vài vị vua diễm phúc mới hưởng dược cõi sống chết huy hoàng như thế cùng với lăng tẩm xây dựng được giữa lòng đất nhân gian.
Ngó lui một lần cuối nơi an giấc ngàn thu của vị vua tài đức nhà Nguyễn mà tôi rất kính ngưỡng về bác học uyên thâm và hiếu thảo, nhân từ luôn lấy trí nghĩa trị dân, sính chuộng thơ văn của ngài đã bày tỏ tâm tình qua những câu tuyên truyền bá như:
“học đạo suy ra làm đạo trị,
Lòng dân lòng trẫm một tam can”.
Và ngài cũng không quên việc ca ngợi sông Hương đã mang lại không những vẻ nên thơ cho kinh thành điều lợi ích khác:
“nguồn sạch lại dài đường
đâu chỉ có thơm hương
vị ngọt giúp dân uống
lặng lẽ khỏi đề phòng
uốn khúc chầu đất phước
quanh co thế ao vàng
Thuận Hóa non nước đẹp
mưu đồ vạn thế xương”.
Tâm hồn vua cũng chứa chan bao cảm xúc rung động trước vẻ đẹp tạo hóa luôn tiềm ẩn triết lý sống mà ngài đã ghi lại:
“trăng quá mười lăm vẫn sáng trong
còn hơn đêm trước có sương giăng
lung linh như vậy còn chưa đủ
sợ thế gian kia khó tỏ tình”
Vừa đi vừa nhẩm đọc mấy câu thơ của vua Minh Mạng, tôi dừng lại giữa cầu nhìn xuống mặt hồ Tân Nguyệt trên nước êm êm chảy vòng quanh chân đồi Bảo Thành, vài cụm sen trắng nở đưa lên mùi thơm thoảng dịu chẳng được qua bên kia rừng thông yên vắng cho hồn thơ người nằm đó chút hương xưa gợi nhớ những đêm trăng mơ, thanh nhssã. Nhìn bóng mình cũng nhập nhòa dưới làn nước lung linh, tôi thầm nghĩ không biết đến bao giờ trở lại nơi đây, nếu không còn dịp nữa, xin chút hương sen bay tỏa hôm nay thơm đọng mãi trong lòng người đây dừng chân soi bóng, luyến lưu cảnh tình xinh đẹp giữa thiên nhiên thoáng đãng của một Lăng Tẩm thơ mộng với lối kiến trúc dày công tinh xảo, uy nghi.
Trên đường về, xe chúng tôi đi qua Lăng vua Thiệu Trị (Xương Lăng) tọa lạc khiêm cung xinh xắn bên chân núi thuộc huyện Hương Thủy, với diện tích chu vi nhỏ hơn Lăng vua Minh Mạng nhưng cảnh trí không kém phần êm đềm bởi đường nét kiến tạo uy nghiêm, giản dị như đức tính hiền hòa nhân ái nơi vị vua trẻ tuổi mà người dân ca tụng ngợi ca dù ngài chỉ ở ngôi báu tròn đúng bảy năm rồi đột ngột từ trần với tuổi ngoài bốn mươi.
Người có cái tên khá lạ và đẹp là Nguyễn Phúc Miên Tông, cũng rất yêu chuộng thơ văn và cảnh đẹp thiên nhiên rất nhiều bài thơ Đường vịnh cảnh như bài thơ cảm xúc về buổi sớm dạo Sông Hương:
"Nhất phái uyên nguyên hộ đế thành
Thanh lưu sấn tảo nhạ lương sinh
Ba bình Hương Thủy lung yên sắc
Chu trục thần phong động lỗ thanh
Thiên tửu vị can nhu ngạn thọ
Sơn hoa do luyến kết vân anh
Ký hồi hà yết Thương lang khúc
Song khuyết phương thăng thọ nhật mình"
Hoặc ngài nói lên lời cảm xúc vào một đêm trăng sáng ở hồ Tĩnh Tâm:
"Mênh mông vắng vặc phủ hồ trong
thấu suốt dòng xanh ánh cõi không
khoe sắc lâu đài tầng mây vút
lung linh tinh tú điểm theo dòng
bên cầu bóng quế lần theo bước
dưới mái làn sen nhẹ thoáng hương
trăng sáng tận soi trời cao thấp
sơn hà vạn dặm mãi nhìn trông".
Qua hết dãy đồi thấp, xe đổ dốc xuống đàn Nam Giao mà vua Gia Long đã chọn địa điểm làng Dương Xuân để lên đỉnh Trời hằng năm. Khuôn viên đàn Nam Giao hình chữ nhật được bao bọc bằng rừng thông xanh ngát. Sở dĩ nơi đây rừng thông vi vút như vậy vì nghe truyền rằng, từ lúc mới xây Đàn, vua ra lệnh mỗi vị quan hoặc hoàng thân trong triều thần và chính bản thân vua cùng tự trồng một cây thông (biểu tượng người quân tử) để gây cây thông xanh mướt tăng thêm phần thanh nghiêm tươi đẹp. Vậy mà sau ngày miền Nam thân yêu bị CSBV cưỡng chiếm luôn di tích văn hóa lịch sử của tổ tiên này làm nghĩa trang liệt sĩ cho họ để rừng thông tốt tươi xưa kia tơi tả, các án đàn thờ phượng bị phá hỏng hư nát tiêu điều. May nhờ làn sóng du lịch ở hải ngoại muốn được thăm viếng các di tích cố đô, họ mới vội cho chỉnh đốn phục trang để giữ lại di tích đổi lấy ngoại tệ thu về. nếu còn xảy ra nhiều cảnh đổ nát hư hao đáng tiếc nữa.
Tôi nhớ đến vị Tướng công Nguyễn Công Trứ thời nhà Nguyễn đã thán những câu rằng: "Kiếp sau xin chớ làm cây thông đứng giữa trời mà reo", không biết trước cảnh xâm chiếm phá hoại ngày nay ông có còn muốn được làm cây thông đứng giữa đàn Nam Giao xơ xác ám bụi tham tàn kia không? Và liệu có reo lên được những tiếng cười hay phải than khóc ngậm ngùi bởi lớp cháu con đó chẳng biết gìn giữ, quý trọng gì đến công lao xây đắp của tiền nhân chắc là không. Vì thà làm thân cây chết khô hơn sống bằng giòng nước không trong sạch, bởi người quân tử sống cùng những tiểu nhân gian manh hiểm độc.
Ngọc Thủy
Hải Vân mây trắng đường ra Huế
Mình ước về thăm Vỹ Dạ chơi
Bằng chiếc đò ngang băng nước biếc
Ngó ra Mang Cá thấy chân trời...
n.t.
Sau khi ở Non Nước, rời bãi biển Mỹ Khê và Cảng Tiên Sa, chúng tôi thẳng đường ra Huế. Tôi vui thích lắm vì mong ước từ lâu. Lớn lên từ quê hương khói lửa, chiến tranh cứ mãi lan tràn, tôi luôn ước ao có một ngày đất bình, tôi sẽ được đi thăm tất cả danh lam thắng cảnh của quê hương. Nào Huế với bao cổ kính mộng mơ, Hà Nội ba mươi sáu phố phường với Đồ Sơn, chùa Hương, Hạ Long.v.v... mà tôi chỉ được biết và mến yêu qua những trang sách mà khi quê hương ngừng tiếng súng, đời sống tôi lại bị đẩy ra xứ người bởi không thể sống được dưới xã hội cộng sản. mãi cho đến hôm nay, tôi mới có dịp ra thăm Huế lần đầu.
Xe chạy một đoạn theo con đường ven biển, chầm chậm lên dốc qua đèo Hải Vân. Phong cảnh bắt đầu mở rộng phóng khoáng, rồi choáng ngợp cả hồn tôi khi trước mắt hiện ra một giải núi non biển rộng trải dài dưới chân đèo trắng lướt theo làn sóng bạc nhấp nhô xa xa tít trùng khơi. Từ nền trời một màu xanh lơ hòa cùng màu đại bích, ngời biếc lên ánh xanh lam của núi, tươi xanh của lá cây rừng, lóng lánh bãi cát trắng chạy dài ôm ấp lượn bờ biển bao la. Đẹp tuyệt vời!
Đường đèo dốc quanh co, rừng núi điệp trùng, lại thêm mùa này có hoa dây leo màu trắng nở khắp sườn núi với cảnh thiên nhiên thêm phần mỹ lệ thắm tươi dưới nắng chiều long lanh. Tới eo biển Lăng Cô, cảnh đẹp càng thắm xinh với hàng dừa xanh lả ngọn bên ven bờ cát trắng, làng chài san sát thuyền bè neo bến hoặc đang ra khơi tung lưới biển êm đềm.
Trên đỉnh đèo Hải Vân hôm đó, tôi đã rung động đến lặng người trước cảnh đẹp như bức tranh thủy mạc mơ ngũ sắc chiếu từ không gian lồng lộng chiếu xuống làn nước biếc, lung linh... Đứng từ đỉnh núi cuối cùng của dãy Trường Sơn độ cao 496m này, mới thấy hết cái vẻ đẹp hoành tráng và kỳ ảo của trời mây non nước thấm nhập vào hồn lúc nào mà lặng say ngây ngất thế. Tôi muốn nói thật to cho những ai chưa qua đèo Hải Vân, chưa từng đến Huế rằng, đường đi của núi qua sông biển Thừa Thiên đẹp như gấm bạc tơ trời dệt nên. Vì thế, tôi vội bước vào gian nhà nhỏ ngay đấy mua mấy tấm thiệp chụp cảnh núi Hải Vân ngó xuống lòng biển Đông Hải, gởi ngay cho người yêu cô bé Thủy Tiên vài hàng chia xẻ cảm xúc của tôi trong lúc này. Dù đang đứng trước khúc quẹo vòng nguy hiểm chiều xe lên xuống, nhưng tôi cũng ráng băng qua đường bằng sự thận trọng để đến gần ngôi thành lũy cũ, đã mùa mưa nắng rêu phong vẫn sừng sững đứng giữa ranh giới Quảng Nam và Thừa Thiên. Trường Sơn mây trời bay. Đường đi này năm xưa đã in bao gót giày hành quân xuôi ngược của những người lính trận sơn khê sương gió để tạo nên yên bình cho đất nước thắm tươi. Trong những lớp mây bàng bạc kia, hình như có hồn thiêng người chiến sĩ VNCH can trường đã hy sinh cho bờ cõi miền Nam Tự Do thân yêu, lãng đãng bay trên bầu trời thênh thang, bởi khí hùng xương máu ấy vẫn kết tụ nơi đỉnh trời này, chưa tan!
Ngừng lại hơn nửa tiếng để ngắm cảnh, chụp hình, đoàn xe lại tiếp tục chạy quanh vòng núi xuống chân đèo. Đi Huế lần đầu với tôi hôm nay xôn xao bao cảnh đẹp như thơ khiến lòng tôi thêm yêu mến dạt dào.
Đường quanh co vượt đèo qua núi qua sông, qua Phú Vang – Hương Trà – Hương Thủy rồi đưa chúng tôi vào Thành Nội khi nắng chiều còn vàng tươi óng ả. Giòng sông Hương từ những trang thơ, nhạc đang hiện ra êm ả chảy nhẹ vào tôi giòng nước mát xanh dưới chân cần An Hòa. Giòng sông uốn khúc dài gần một trăm cây số, xuôi chảy khắp đồi núi đất Thần Kinh với bao huyền thoại nắng đục mưa trong, đã tạo nên bao nguồn thơ văn lai láng cho nhân dân Cố Đô để truyền cảm lại nỗi niềm yêu mến Huế đến bao người khách lạ phương xa.
Viếng Lăng Minh Mạng
Lăng tẩm đầu tiên chúng tôi dừng chân ghé thăm là lăng vua Minh Mạng (Hiếu Lăng). Đường vào Lăng đi qua rừng hoang vu trên đồi núi Hiếu Sơn (Cẩm Kê) nằm thoai thoải vắt ngang giòng sông xanh biếc. Xe ngừng ở đầu đường chúng tôi đi bộ vào. Bên lề đường phía tay phải là những gian hàng bán quà lưu niệm, nước giải khát, trái cây, người bán hàng đua nhau lên tiếng mời mọc nhưng chúng tôi lắc đầu từ chối hẹn lúc trở ra vì còn phải vào trên bước chân người hướng dẫn.
Đoàn người đi vào bằng cánh cổng phụ Tả Hồng Môn, bên trong khuôn viên La Thành nằm vuông bắn xinh đẹp chiều êm ả. Ngay cổng vào có tấm bảng lớn ghi Lăng Minh Mạng được xây từ năm 1940 đến 1943 gồm khoảng trình kiến trúc được bố trí đối xứng qua trục chính (thần đạo) dài 700m. chúng tôi đi qua con đường làng khoảng ngắn có khu vườn râm bóng mát đại thụ hai bên rồi rẽ trái bước lên cầu đá để tới sân chầu nối từ cổng Môn (cửa chính tam quan chỉ mở cho vua ra vào, và đã khép lại từ ngày vua băng hà cho tới nay) đến Bi Đình thờ văn bia ghi tiểu sử, công đức và công trạng của nhà vua trong suốt thời trị vì được khắc trên tấm bia đá cẩn xám xanh to lớn. Qua sử sách ghi chép, được biết vua Minh Mạng tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, con thứ của vua và Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, lên ngôi hoàng đế năm 1820 cho đến năm 1941, trị vì quốc thái dân an được hai năm thì mất lúc mới năm mươi tuổi trong sự thương tiếc của triều đình và muôn dân. Lăng tẩm này vừa được một năm còn dở dang nên vua Thiệu Trị lúc lên ngôi kế vị tiếp tục cho xây cất theo đúng đồ án của vua cha để lại, và năm sau mới hoàn thành xong tốt đẹp.
Đúng giữa vuông sân chầu lát gạch Bát Tràng có tượng lính, voi, ngựa hầu hai bên, vừa ngắm cánh cổng Đạo nghiêm trang khép kín từ lần cuối tiễn vua vào mộ Bào Thành, những mái vòm rêu phủ vẫn ngước nhìn trời cao từng áng mây ngày tháng trôi qua dẫu cánh cửa vàng son thuở nào đã loang màu mưa nắng phai nhạt với thoáng nhìn hoa sen nở trên mặt hồ Trừng Minh cùng cảnh núi đồi bao quát chung quanh, tôi thấy những giây phút mìn kích cảnh trí này thật là thú vị.
Lối kiến trúc theo một đường thẳng xuyên từ Đại Hồng Môn tới các cổng Hiển Đức Môn, Hoàng Trạch Môn bằng dãy tẩm điện nguy nga với cảnh đối xứng hai bên ngắm nhìn rất thuận lợi, chẳng hạn từ cầu Trung Đạo nằm tâm sẽ thấy được Nghênh Lương Quán bên tay phải và Điếu Ngư Đình bên tay trái song song. Từ lâu các Mi giữa đồi Tam Tài Sơn có Bình Sơn và Thành Sơn hai bên tả hữu, bắt qua chiếc cầu dài Thông Minh Chính Trực cuối góc La Thành là ngôi mộ vua nằm trên đồi thông khuất dấu trong bờ tường cao đã phủ xám rêu phong. Lúc sắp ngả về Tây, nên ánh chiều bỗng rực bóng hoàng hôn trước lúc tàn ngày, soi chiếu xuống rừng thông trên nét vẻ vừa u trầm tịch mịch vừa tráng lệ nên thơ. Có lễ đã mỏi chân và nhìn chiếc cổng im lìm đóng kín lâu năm giờ mở cửa ra như lời Vũ cho biết, mọi người đứng lại bên này chiếc cầu gỗ nhìn sang. Nhưng chính chiếc cổng bằng im lìm khóa kín đó đã lôi cuốn tôi và vài người nữa đi qua chiếc cầu gỗ khá dài, leo lên ba mươi sáu bậc đá gạch xem bên trong vòng cung bức tường Bảo Thành này ra sao. Kiểng chân lên, ghé sát mắt vào, tôi chẳng thấy được cây cỏ mọc đầy (đến bây giờ cũng không ai biết được long thể vua nằm ở đâu vì đã bị xóa mất dấu sau khi canh phần cẩn mật), rừng thông lao xao cùng tiếng gió vút qua từng chập tựa chuyện đời thoảng như gió cuốn, như gác tía, lầu son hay cung điện, đền rồng rồi cũng chỉ còn lại chốn hư không, u tịch như thế này thôi. Nhưng mấy ai và thật sự chỉ có vài vị vua diễm phúc mới hưởng dược cõi sống chết huy hoàng như thế cùng với lăng tẩm xây dựng được giữa lòng đất nhân gian.
Ngó lui một lần cuối nơi an giấc ngàn thu của vị vua tài đức nhà Nguyễn mà tôi rất kính ngưỡng về bác học uyên thâm và hiếu thảo, nhân từ luôn lấy trí nghĩa trị dân, sính chuộng thơ văn của ngài đã bày tỏ tâm tình qua những câu tuyên truyền bá như:
“học đạo suy ra làm đạo trị,
Lòng dân lòng trẫm một tam can”.
Và ngài cũng không quên việc ca ngợi sông Hương đã mang lại không những vẻ nên thơ cho kinh thành điều lợi ích khác:
“nguồn sạch lại dài đường
đâu chỉ có thơm hương
vị ngọt giúp dân uống
lặng lẽ khỏi đề phòng
uốn khúc chầu đất phước
quanh co thế ao vàng
Thuận Hóa non nước đẹp
mưu đồ vạn thế xương”.
Tâm hồn vua cũng chứa chan bao cảm xúc rung động trước vẻ đẹp tạo hóa luôn tiềm ẩn triết lý sống mà ngài đã ghi lại:
“trăng quá mười lăm vẫn sáng trong
còn hơn đêm trước có sương giăng
lung linh như vậy còn chưa đủ
sợ thế gian kia khó tỏ tình”
Vừa đi vừa nhẩm đọc mấy câu thơ của vua Minh Mạng, tôi dừng lại giữa cầu nhìn xuống mặt hồ Tân Nguyệt trên nước êm êm chảy vòng quanh chân đồi Bảo Thành, vài cụm sen trắng nở đưa lên mùi thơm thoảng dịu chẳng được qua bên kia rừng thông yên vắng cho hồn thơ người nằm đó chút hương xưa gợi nhớ những đêm trăng mơ, thanh nhssã. Nhìn bóng mình cũng nhập nhòa dưới làn nước lung linh, tôi thầm nghĩ không biết đến bao giờ trở lại nơi đây, nếu không còn dịp nữa, xin chút hương sen bay tỏa hôm nay thơm đọng mãi trong lòng người đây dừng chân soi bóng, luyến lưu cảnh tình xinh đẹp giữa thiên nhiên thoáng đãng của một Lăng Tẩm thơ mộng với lối kiến trúc dày công tinh xảo, uy nghi.
Trên đường về, xe chúng tôi đi qua Lăng vua Thiệu Trị (Xương Lăng) tọa lạc khiêm cung xinh xắn bên chân núi thuộc huyện Hương Thủy, với diện tích chu vi nhỏ hơn Lăng vua Minh Mạng nhưng cảnh trí không kém phần êm đềm bởi đường nét kiến tạo uy nghiêm, giản dị như đức tính hiền hòa nhân ái nơi vị vua trẻ tuổi mà người dân ca tụng ngợi ca dù ngài chỉ ở ngôi báu tròn đúng bảy năm rồi đột ngột từ trần với tuổi ngoài bốn mươi.
Người có cái tên khá lạ và đẹp là Nguyễn Phúc Miên Tông, cũng rất yêu chuộng thơ văn và cảnh đẹp thiên nhiên rất nhiều bài thơ Đường vịnh cảnh như bài thơ cảm xúc về buổi sớm dạo Sông Hương:
"Nhất phái uyên nguyên hộ đế thành
Thanh lưu sấn tảo nhạ lương sinh
Ba bình Hương Thủy lung yên sắc
Chu trục thần phong động lỗ thanh
Thiên tửu vị can nhu ngạn thọ
Sơn hoa do luyến kết vân anh
Ký hồi hà yết Thương lang khúc
Song khuyết phương thăng thọ nhật mình"
Hoặc ngài nói lên lời cảm xúc vào một đêm trăng sáng ở hồ Tĩnh Tâm:
"Mênh mông vắng vặc phủ hồ trong
thấu suốt dòng xanh ánh cõi không
khoe sắc lâu đài tầng mây vút
lung linh tinh tú điểm theo dòng
bên cầu bóng quế lần theo bước
dưới mái làn sen nhẹ thoáng hương
trăng sáng tận soi trời cao thấp
sơn hà vạn dặm mãi nhìn trông".
Qua hết dãy đồi thấp, xe đổ dốc xuống đàn Nam Giao mà vua Gia Long đã chọn địa điểm làng Dương Xuân để lên đỉnh Trời hằng năm. Khuôn viên đàn Nam Giao hình chữ nhật được bao bọc bằng rừng thông xanh ngát. Sở dĩ nơi đây rừng thông vi vút như vậy vì nghe truyền rằng, từ lúc mới xây Đàn, vua ra lệnh mỗi vị quan hoặc hoàng thân trong triều thần và chính bản thân vua cùng tự trồng một cây thông (biểu tượng người quân tử) để gây cây thông xanh mướt tăng thêm phần thanh nghiêm tươi đẹp. Vậy mà sau ngày miền Nam thân yêu bị CSBV cưỡng chiếm luôn di tích văn hóa lịch sử của tổ tiên này làm nghĩa trang liệt sĩ cho họ để rừng thông tốt tươi xưa kia tơi tả, các án đàn thờ phượng bị phá hỏng hư nát tiêu điều. May nhờ làn sóng du lịch ở hải ngoại muốn được thăm viếng các di tích cố đô, họ mới vội cho chỉnh đốn phục trang để giữ lại di tích đổi lấy ngoại tệ thu về. nếu còn xảy ra nhiều cảnh đổ nát hư hao đáng tiếc nữa.
Tôi nhớ đến vị Tướng công Nguyễn Công Trứ thời nhà Nguyễn đã thán những câu rằng: "Kiếp sau xin chớ làm cây thông đứng giữa trời mà reo", không biết trước cảnh xâm chiếm phá hoại ngày nay ông có còn muốn được làm cây thông đứng giữa đàn Nam Giao xơ xác ám bụi tham tàn kia không? Và liệu có reo lên được những tiếng cười hay phải than khóc ngậm ngùi bởi lớp cháu con đó chẳng biết gìn giữ, quý trọng gì đến công lao xây đắp của tiền nhân chắc là không. Vì thà làm thân cây chết khô hơn sống bằng giòng nước không trong sạch, bởi người quân tử sống cùng những tiểu nhân gian manh hiểm độc.