TUYỂN TẬP VĂN XUÔI.
Của PHAN-VINH.
HỒI-KÝ
LỜI NÓI ĐẦU
Mùa mưa gió ruộng đồng ngập lụt. Ở nhà rảnh-rỗi thất nghiệp chẵng có việc gì làm, xem sách báo lâu cũng hết chẵng kiếm đâu ra tiền để mua thêm, mở truyền-hình coi ngày nọ qua ngày kia cũng chán, đi nhậu thì bạn-bè trang-lứa hợp gu đã chết gần hết, còn lại một vài người già-yếu bệnh-tật kiêng-cử từ-chối. Con cháu ăn ở vẫn còn đông, ban ngày mỗi đứa một việc đi tẩu-tán chẵng còn ai, nhà cửa trống-vắng.
Tuổi già thấy cô-đơn lạnh-lẽo có khi hơi buồn. Tôi nghĩ một cách, thời-gian rảnh-rổi vắng-vẽ này nên làm một việc gì đó có ý-nghĩa của đời mình để lưu lại cho con cháu đọc, hiểu và thương mình hơn sau khi mình không còn trên thế-gian này nữa. Tôi nghĩ ra ý định ngồi viết hồi-ký, từ trước cho đến bây giờ, tôi chưa hề viết được một bài văn bài thơ nào cả. Đây là do tôi động nảo nhớ ra những sự việc quá khứ và hiện tại của bản-thân, bạo tay viết ra trong khoảng thời-gian sáu mươi lăm năm cuộc đời do bản-thân hành-động và những điều tai nghe mắt thấy của thế-kỹ 20 qua thế-kỹ 21.
Những câu văn ghi lại chất-phát mộc-mạc của tâm hồn nông-dân, hoàn-toàn sự thật để con cháu đọc cho vui, tìm hiểu cuộc đời tôi thời còn trai trẻ sống trong hai cuộc chiến-tranh gian-nan, vất-vả, nguy-hiểm như thế nào ? Khi thất cơ lở vận khốn-đốn cùng-cực như thế nào ? Khi được tự-do làm ăn sinh sống phải nổ lực gắng sức làm sao để vươn lên với mọi người.
Đất nước trên đà phát-triển, con cháu có khi nó cũng giàu có lên, sẳn tiền ăn chơi trác-táng, đọc quyển hồi-ký này tôi tin rằng nó có thể ăn-năn giảm bớt một phần nào. Nếu đứa con có văn-hoá biết hiếu-thảo nó sẽ sống tốt hơn.
Cũng để làm quà tặng bạn-bè thân-mật xem cho đở buồn, nếu người ngoài có ai đó cầm được xem qua nhận xét tôi có viết gì sai trái không hài lòng quí vị, đó là sự trùng-lặp, ngoài khả năng trình-độ hiểu-biết của tác-giả, chỉ vô-tình không cố-ý.
Có câu nào sơ-xuất độc-giả không được hài lòng, tôi xin chân-thành nhận lỗi. Kính mong sự góp ý phê-bình của quí-vị, xin thành-thật cám ơn.
Bùi-Chu, ngày 20 tháng 9 năm 2003.
Tác giả : PHAN-VINH
Ngày 02 tháng 8 năm 2003 khai bút viết quyển Hồi-Ký này.
HỒI KÝ
PHAN-VĂN-VỊNH
CHƯƠNG I : TUỔI ẤU-THƠ & THỜI NIÊN-THIẾU
BÀI 1 : BỐI-CẢNH , THỜI-GIAN, SỰ VIỆC.
Sinh ra và lớn lên ai cũng có quê-hương, dù có đi khắp năm châu bốn bể họ cũng đều nhớ về quê-hương, có quê-hương mới khôn-lớn, nhớ quê-hương mới nên người, tôi tự giới-thiệu về quê-hương đôi nét.
Quê-hương tôi tính theo đường bộ từ Nam ra Bắc, quý-vị khách bộ-hành, du-lịch, hoặc cô bác, anh chị em, bạn-bè, con cháu, có dịp nào đó trên đường đi ngang qua địa-phận Tỉnh Thừa-Thiên. Địa đầu ranh-giới từ đèo Hải-Vân trở ra, nên để ý nhìn xem phong-cảnh hữu tình, núi cao biển xanh cảnh đẹp như một bức tranh sơn thuỷ.
Đi xe lửa qua khỏi đèo Đồng-Nhất đến ga Lăng-Cô, tàu chạy trên đường sắt men theo chân núi đến Hói-Mít bên trái dãy Trường-Sơn, bên phải đầm Lập-An, tàu chui qua khỏi cái hầm ngắn đó là quê tôi.
Nếu quí vị đi xe hơi xuống khỏi đèo Hải-Vân đến cầu Lăng-Cô cở 10 cây số là đỗ dốc hết đèo Phú-Gia, nhìn bên phải có nhà dân-cư dọc theo Quốc lộ 1 A là làng Phú-Gia, qua đoạn 850m bên phải có ngã ba Chân-Mây là con đường xuống hải cảng độ chừng 200m, áp sát đường hướng bắc đó là nhà ông Phan-Tường em ruột của tôi. Cha mẹ tôi ngày xưa còn trẻ đã sinh ra tôi tại đây vào ngày 16 tháng 10 năm 1939, nhằm năm Kỹ-Mão cầm tinh con mèo. Đó là nơi chôn nhau cắt rốn, có họ hàng, bà con, làng xóm quê-ương tôi.
Từ ngã ba Chân-Mây chạy theo quốc lộ 1 A đến Thừa-Lưu xã Lộc-Tiến là xã quê tôi. Xuôi theo đường đến Nước-Ngọt là xã Lộc-Thủy, qua đèo Phước-Tượng đến Cầu-Hai huyện Phú-Lộc, huyện quê tôi. Tiếp nữa Đá-Bạc, Truồi, Nong, Phú-Bài, Hương-Thủy, An-Cựu, thành phố Huế tỉnh Thừa-Thiên là quê hương tôi.
Khi tuổi ấu-thơ và niên-thiếu của tôi nằm trong thời-kỳ thực-dân phong-kiến, phát-xít Nhật đổ bộ cướp nước đè đầu cởi cổ. Kết thúc Đệ nhị thế chiến, Việt-minh lên nắm chính-quyền 1945. Qua 1946 tôi mới lên 8 tuổi, còn nhớ cha cỏng chạy giặc, ban đêm leo lên núi Khe Hang để trốn quân Pháp tái chiếm Việt-Nam. Lúc này tình-hình chính-trị rất rối-ren, toàn dân cả nước phải nỗ-lực đóng-góp tối đa từ tinh-thần lẫn vật-chất để cực-lực chiến-đấu chống quân Pháp. Quê-hương tôi hướng đông giáp biển, hướng tây sát núi Trường-Sơn, làng nằm giữa, có đường quốc lộ 1 A và đường xe lửa áp sát với làng bên trái hướng tây.
Thời chống Pháp trên địa-thế này là vùng xôi đậu, ban ngày của Pháp, ban đêm của V.M. Nhân-dân sinh-sống rất vất-vã, chật-vật, bị uy-hiếp đủ điều. Nhưng vẫn cứ bám đất bám làng để sống, góp phần chiến-đấu anh-dũng, chống quân Pháp suốt 10 năm gian-khổ, đến 1954 mới được đình-chiến, chứ chưa phải hòa-bình độc-lập. Trong khoảng thời-gian nói trên, gia-đình tôi rất khó-khăn, năm sáu tuổi đầu đã biết ra đồng mò cua bắt ốc hái rau, để gia-tăng bữa cơm đạm-bạc hằng ngày, lợi-dụng đi làm công việc nầy để nghịch bùn bơi sông tắm suối cho thỏa-thích. Kỹ-niệm một ngày anh em đi tát cá mò cua còn nhớ mải suốt đời, tôi với anh Doãn con ông bác rũ nhau vào phía trong đường rầy xe lửa ngang cầu 8 thước, be bờ quanh một góc ruộng. Hai anh em hì-hục tát hơn giờ đồng hồ mới cạn nước thì người đã mệt nhoài, đứng hết muốn nổi nên phải ngồi bẹp xuống sình để mò cua bắt cá. Anh Doãn mò mãi-mê thế nào mà một con đỉa trâu to bằng đầu chiếc đủa chui tuột vào hậu-môn của anh, cảm giác nhột-nhạt sờ tay nghe trơn lạnh. Anh kêu tôi : "Ĩa em ơi ! mi xem giúp tau hình như có con đỉa đang chui vào đít". Tôi vội-vàng chạy lại bảo anh chổng mông lên để xem thì thấy nó đã chui vào hết hai phần con, chỉ còn thò bên ngoài cở một phần, nhìn kỷ đúng là một chú đỉa trâu, nhanh-nhẹn thò tay dí hai móng bấm thật chặt cố gắng lắm mới kéo nó ra được. Hai thằng nhìn nhau sợ quá không dám mò nữa đi qua vũng cầu tắm rửa ra về.
Nhớ lại những lời kể chuyện của bà nội, đỉa mà chui vào lổ tai là nó ăn hết óc rồi đẻ đỉa con đầy đầu, chui vào bẹn, vào hậu-môn hút hết máu làm chết người, sợ quá từ nay về sau không dám ngồi bẹp xuống sình mò cua bắt cá nữa.
Năm 1945 anh em tôi được 7 tuổi đời, bác cho anh Doãn đi học trường Dì Phước dạy cạnh nhà thờ Đạo Công-giáo của ông Cố Vị, Cố Phương ngoài Tam-Vị. Từ nhà ra đến trường học độ chừng hai cây số có đi qua một cái cầu leo nguy-hiễm, đi không cẩn-thận là lọt tỏm xuống sông, bác gởi anh Doãn cho chị Xuyến và anh Khuê dắt qua cầu lúc đi cũng như khi về.
Còn tôi đã đến tuổi đi học mà chẵng được đi, vì không người giữ nhà trông em để cha mẹ đi làm công việc đồng-áng, một phần đường sá qua cầu nguy-hiễm, nên cha mẹ tôi chưa cho đi học.
Cách-Mạng mùa thu năm 1945 dành được thắng-lợi, nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa ra đời, mới có phong-trào bài trừ giặc dốt, Bác Hồ kêu-gọi toàn dân phải đi học từ già đến trẻ bắt buộc phải đọc thông viết thạo chữ quốc-ngữ. Ba tôi ngày đi làm lụng tối lại phải tập trung đến trụ-sở tham dự khoá học Bình-dân học-vụ, do Thầy khóa Nhượng dạy. Hồi đầu cha tôi mới học hai mươi bốn chữ cái, ông học được chữ nào về truyền dạy lại cho tôi. Thế là tôi được cha tôi làm thầy khai-trí học vở-lòng đầu-tiên. Tôi học tới học lui hai mươi bốn chữ cái mà u-mê đọc trước quên sau. Cha tôi có một cây roi mây nhỏ xíu bằng chiếc đủa, dài cở một mét rưỡi, đầu roi có chùm rễ xoè ra để ông cầm mà đánh. Một bữa nọ ham đi chơi rong quên hết, chiều ông đi làm về, khảo bài không thuộc, nổi nóng rút roi phết vào lưng lằn ngang lằn dọc đau điếng người. Mẹ thấy tôi bị ăn đòn xót ruột lắm, nhưng chẵng dám cự-nự ông một lời để an-ủi. Bà nghĩ rằng ông cũng thương con nên phải răn-đe đánh-đập cho nó nên người.
Tháng 2 âm-lịch mùa Xuân năm 1946, trong xóm có hai ông bà gia-đình khá giả mời gia-sư dạy học trong nhà cho con cháu của họ, dạy cả chữ quốc-ngữ lẫn chữ Hán. Được cha dẫn đến lớp học, trước xin hai ông bà chủ chấp-thuận, sau gởi tôi cho thầy dạy-dỗ. Đầu tiên thầy đặt tên cho tôi là Phan-Vinh, thầy dạy lễ phép chào kính người trên kẻ dưới, đã là học trò không được nghịch phá, tham-lam, trộm-cắp của bạn-bè, phải đoàn-kết thương yêu chỉ vẽ lẫn nhau, biết thi-đua học tập cho tốt.
Thế là năm nay tôi mới được ngồi lớp học tại trường có thầy giáo dạy, nói là trường chứ một gian chái gạnh ra bên hông nhà trên của hai ông bà chủ, kê mấy bộ bàn ghế thô-sơ, cả lớn bé đều ngồi chung một lớp. Học với Thầy Khóa Nhượng được tám tháng tập viết chữ ghép vần tiếng Việt, xem sách chữ in chưa thông-suốt, thì thầy xin nghỉ dạy về quê-hương gia-đình của thầy ở làng Thổ-Sơn.
Khi thầy còn dạy học tại làng Phú-Gia, tuổi thầy đã cao nên già yếu, ngày thì dạy lớp học trẻ từ sáng đến tối mới được nghỉ. Một lớp học trên dưới khoảng hai mươi trò lớn nhỏ, trình-độ cao thấp khác nhau, thầy soạn bài viết bài cũng vất-vả, tối lại bắt buộc thầy phải đi dạy học bình-dân học-vụ, sức thầy chịu đựng không nổi, nên thầy xin ông bà chủ cho nghỉ về nhà. Không còn thầy dạy sự học của tôi bị gián-đoạn từ đây, ở nhà đi chơi long-nhong. Dạo nầy em gái tôi đã biết bồng em giữ nhà nấu cơm, tôi giao việc cho em tôi làm, chạy rong nghịch phá. Cha tôi thấy vậy, đến gia-đình cùng xóm có một bầy trâu rất đông, năn-nỉ hai ông bà chủ xin chăn rẽ một nái để gầy giống và cày ruộng, đẻ nghé con thì chia ba, chủ hai còn người chăn giữ một. Được ông bà chủ chấp-thuận, làm giấy hợp-đồng dắt trâu nái mẹ về nhà, bắt đầu tôi được làm mục-đồng chăn trâu không còn rảnh-rỗi đi chơi rong lêu-lổng nữa. Làm mục-đồng chăn trâu có nhiều bạn-bè cũng thích-thú. Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ, được ngồi lưng trâu, được sờ đuôi trâu. Hằng ngày được ngồi trên lưng trâu di-chuyển một vài cây số là thường. Khi đến bãi chăn thả, bày ra các trò chơi như : đánh đu, đánh đáo, đánh bi, đá cầu, đá bóng, múa gươm múa gậy, chạy ô-ba, xúi nhau vật lộn, nghịch-ngợm đủ thứ v.v... Tôi đi chăn liên tiếp ba năm, trâu mẹ đẻ cho được hai chú nghé đực, một con ba tuổi, một con hai tuổi mập-mạp dễ thương, tôi yêu-mến chúng lắm.
Tháng 9/1950 lính Pháp mở cuộc hành-quân ra xóm Tre, xóm Đình làng Phú-Gia. Không hiểu mấy ông du-kích địa-phương dàn trận đánh thế nào bị thất-thế để chúng vây bắt được một ông, trói tay dắt về đồn Thừa-Lưu theo đường quốc lộ 1 A. Lính Pháp nhìn thấy năm bầy trâu chăn gần đường lộ ngã ba Chân-Mây bây giờ. Một ông quan hai người Pháp chỉ tay vào đàn trâu đang gặm cỏ la om-sòm, ra lệnh cho mấy tên Việt-gian đi theo Pháp lội xuống ruộng dí súng bắt anh em tôi đánh hết trâu về đồn, nó lấy cái cớ trong làng có V.M.
Lùa hết năm bầy trâu lên đồn Thừa-Lưu nhốt hết vào trong hàng rào đồn-luỷ của chúng, đóng chặt cổng trại rồi đuổi anh em tôi đi về. Tôi tiếc nuối buồn rầu, lủi-thủi ra về vừa đi vừa khóc, vì thương hại cho hai con nghé bé-dại yêu-quí của tôi. Hai anh em tôi với Sinh về đến cống Gạo tai nghe phía sau có tiếng xe chạy. Ngoảnh lại nhìn thấy một chiếc xe Dodge chở đầy lính súng-đạn mã-tấu, mấy anh lính người Việt kêu to : Ê, hai thằng tê. Tôi tưởng nó cho quá giang về làng, hai anh em co giò chạy theo cở năm mươi mét xe nó từ từ dừng lại tại cống Gạo ngang xóm Rú là xóm Núi, dắt xuống xe hai người bịt hết con mắt đưa xuống bờ ruộng gần suối để đứng tại đây. Mấy thằng lính người Việt nói hai thằng mầy đứng đó coi tụi tau cho hai thằng V.M. về chầu Diêm-vương. Tụi lính đánh thuê cho Pháp toàn người Việt, cả một tiểu-đội nó nằm sấp xuống đường lộ, ôm súng Mas 36 lên đạn nghe rốp-rốp. Thằng quan Tây ra lệnh bắn, chúng bóp cò súng nổ liên-thanh, đạn bay trúng vào người của hai ông nhảy cẫng lên trời rồi nhào đầu xuống đất dẫy chết. Tụi nó buông súng, xách mã-tấu chạy xuống bờ ruộng chặt đầu. Tôi nghe tiếng mã-tấu chạm xương cổ kêu cốp-cốp. Khi đầu lìa khỏi xác chúng xách lên đường, leo lên chạng ba của cây mù-u lớn trồng bên đường lộ để đầu lên đó, nhét vào miệng mỗi ông một điếu thuốc lá trắng lốp, rồi tụt xuống leo lên xe tài-xế lái chạy về đồn. Bạn Sinh nhìn thấy có run hay không lúc ấy tôi chẵng để ý. Riêng tôi thì mặt mày tái mét run cầm-cập hồn-vía bay hết lên ngọn cây. Thật căm-thù cho cái quân độc-ác, người Việt giết người Việt, tôi ngao-ngán cho đời có chiến-tranh xâm-lược. Anh em lủi-thủi đi về mà thương tiếc tội nghiệp cho hai ông ấy. Đêm hôm đó hể tôi nhắm mắt ngủ là mơ-màng ác mộng trước mắt nhan-nhản cảnh tượng hiện ra khi mình được chứng-kiến sự giết người tàn-bạo của bọn thực-dân Pháp.
Ngày hôm sau có một số cụ già lụ-khụ 65 tuổi trở lên 70, 80 tuổi, mặc quần dài trắng áo dài đen, chân mang guốc, đầu chít khăn đóng, che dù đen đội nón trắng, rủ nhau cuốc bộ lên Đồn Thưà-Lưu xin lại năm bầy trâu. Nghe mấy cụ đi về kể lại tụi Pháp không thèm tiếp, nên chẵng thương-lượng gì được.
Cách năm sáu ngày sau, vì trâu bị nhốt lâu ngày quá đói khát, phần nó sợ giết thịt, nên ban đêm xé rào tẩu-thoát về làng. Mỗi bầy bị giết hai hoặc ba con trâu tơ mập, để tiếp-tế cho lính Pháp ăn khắp cả địa bàn đồn trú trong huyện Phú-Lộc. Bầy trâu của tôi gồm ba con hai chú nghé dễ thương của tôi đã bị chúng giết thịt, chỉ còn lại con trâu mẹ già ốm về được. Tháng giêng năm sau bị một trận dịch nó cũng chết luôn, thế là toi cơm mấy năm chăn-dắt dãi-dầu mưa nắng.
Tháng 2 năm 1951, khủng-hoảng kinh-tế gia-đình vì quân Pháp chẵng cho cày ruộng cấy lúa trong đường quốc lộ 1 qua đường xe lửa giáp chân núi, vì chúng sợ phá đường giao-thông xe tàu. Hết gạo ăn thất nghiệp dói khát khuẩn-bất, cha tôi cũng trốn làng vào Lăng-Cô theo bác tìm việc làm kiếm sống, tiết-kiệm tiền gởi về cho mẹ nuôi anh em tôi. Vào được Lăng-Cô cha tôi nhờ bác kiếm việc, xin với ông Cửu-Sang làm bốc-xếp các đốt gỗ to tướng do trâu bò kéo trên rừng về để tại ga tàu lửa Lăng-Cô. Ba đến bốn chục người mới lập thế kéo lên toa tàu được một đốt súc Chò-chai to tướng nặng trịch, để ông chủ đưa vào Đà-nẵng hoặc ra Huế bán cho các trại mộc đóng đồ gỗ, mới có tiền mang về phát lương cho cu-li.
Còn mẹ tôi ở nhà đi khắp làng tìm hỏi mua tre chặt vác về, cây dài cưa làm bốn, cây ngắn cưa ba, tuỳ theo thước tấc mà cưa cho phù hợp, bó lại đưa lên vai vác đi, đến ga Thừa-Lưu bỏ lên toa tàu, mua vé và cước-phí, rồi chở vào ga Lăng-Cô bán lại cho mấy ông thuyền chài để họ đan dụng cụ đi làm nghề, kiếm tiền lời về đong gạo nuôi con, cứ sáng đi sớm chiều về nhà với con cái. Có bữa mua không có tre thì chặt một cây chuối nặng trịch một chuyến vác. Năm nay có chị Hai con của bác Cả chồng chết sớm không có nhà ở, một tay phải nuôi hai đứa con trai còn bé dại, ở chung trong nhà. Sáng sớm thím cháu vác chuối đi với nhau. Chị Hai khỏe hơn vác cây to, mẹ yếu hơn vác cây bé vừa, phải đi năm cây số mới đến nhà ga xe lửa bán cho thương-lái mua chở vào Lăng-Cô bán lại cho các người nuôi heo. Thời ấy nuôi heo mọi cho ăn toàn rau lang và chuối cây, làm gì có thực phẩm hổn-hợp như bây giờ.
Mẹ và chị bán được tre và chuối thì đong gạo về ăn được trong ngày, mai lại đi làm tiếp, cứ thế mà cứu gia-đình qua khỏi cơn đói khát ngặt-nghèo. Thời-gian cha vào Lăng-Cô làm việc ở nhà nhớ cha quá, xin mẹ cho đi theo vào ga Lăng-Cô thăm cha. Xuống tàu đi đến chỗ cha đang bốc cây, thấy cha lao-động nặng-nhọc vất-vã thương cha quá.
Một hai lần đầu vào thăm cha xong lên tàu về lại với mẹ. Lần sau nữa xin cha ở lại, ở với bác, chiều tối cha đi làm về ăn ngủ với cha. Mấy ngày sau cha đi làm, tôi ở nhà theo anh Doãn sang ga Lăng-Cô bán nước cho lính Pháp đi lại trên xe lửa. Anh Doãn thì khôn-ngoan lanh-lẹ hơn, anh chỉ-vẽ cho mà làm đi săn-nhặt vỏ chai thuỷ-tinh súc rửa cho sạch, hái lá bàng non vò nát nấu đậm đem pha trộn với nước lã cho có màu nâu lợt giống nước chè, đổ vào chai đóng nút kỹ, năm bảy chai bỏ hết vào giỏ cói mang đi rao bán. Chẵng thấy thằng Tây nào chịu mua bằng tiền, nó chỉ trao-đổi mà thôi, nó đổi cho phong bánh Bítqui, bánh kẹo, ổ mì, hộp cá hoặc hộp thịt nhỏ, nhiều ít cũng đổi. Có một vài thằng Tây xấu bụng kêu đưa nước cho nó, nó đỗ đầy binh đông, rồi nó đuổi mình đi chổ khác chẵng cho cái gì, hận quá chửi đ. m. mi, nó chẵng hiểu mình nói gì. Hôm nào lính Pháp đi hành quân đông trên tàu đổi được nhiều thứ. Cái nào còn nguyên vẹn bao bì tốt, đem bán lại cho mấy mụ bán quán lấy tiền, thứ không có bao bì thì để dùng hoặc mang về nhà cho các em.
Tháng 5 năm 1951 đến mùa lúa chín ở quê, mẹ bắt tôi vào Lăng-Cô kêu cha trở về làng thu-hoạch vụ mùa đông-xuân, cha con cùng về với nhau, dạo nầy không vào ở Lăng-Cô nữa. Thỉnh-thoảng cha con vào thăm hai bác và các anh chị một bữa, rồi trở lại sinh sống với xóm làng.
Mùa xuân năm 1952 thầy Khóa Sinh mở lớp dạy học hai thứ chữ Hán Việt, ai muốn học chữ gì tuỳ ý thầy vẫn dạy. Con nhà khá giả xin học cả hai thứ , tiền thầy mua sắm giấy bút phải gấp đôi. Nhà nghèo nên cha chỉ nhờ dạy một thứ chữ Việt mà thôi. Mẹ mua sắm cho đầy đủ giấy bút, may cho một bộ áo quần mới, một cái mủ đan lát thủ công bằng sợi cói, để đội đầu đi học che mưa nắng. Cha dắt đi đoạn đường năm cây số mới đến nhà ông Bân tại xóm Bàu làng Trung-Kiền nơi thầy dạy học gởi cho thầy. Tại xóm Chùa tức là xóm của tôi ở, chỉ có tôi với bạn Khảm được cha mẹ cho đi học mà thôi, các bạn trang lứa vì nhà quá nghèo không có cơm rau để ăn còn nói gì đến việc học hành, chỉ cho đi ở chăn trâu bò cho các nhà giàu kiếm cơm ăn để sống mà thôi.
Dạo nầy tôi với bạn Khảm sáng sớm cơm nước xong, cắp sách đội nón, mang theo một bữa cơm trưa, cuốc bộ bằng hai bàn chân trần năm cây số mới đến trường. Lớp học đến trưa nghỉ ăn cơm, học lại buổi chiều, vì đường xa thầy cho hai anh em được ưu-tiên nghỉ sớm, lại cuốc bộ năm cây số mới về thấu nhà. Cứ ngày qua ngày hai đứa cuốc bộ mỗi ngày mười cây số, mỗi tháng chỉ được nghỉ hai ngày rằm và mồng một âm lịch. Theo học một năm với thầy Sinh biết đọc biết viết, biết làm những bài toán cộng trừ.
Mùa xuân năm 1953 thầy khóa Thúy ở làng Bình-An lên mở lớp dạy học ở làng Thổ Sơn ranh giới sát làng Phú-Gia gần đường đi hơn, nên tôi từ-giả thầy Sinh về học với thầy khóa Thúy. Bạn Khảm cũng theo tôi học thầy mới bỏ thầy cũ, hai anh em tôi học cùng lớp chữ quốc ngữ. Thầy khóa Thúy dạy tốt hơn thầy khóa Sinh, ông nầy dạy giỏi học trò dễ hiểu mau tiến-bộ. Học với ông được năm tháng, đến tháng 6/1953, chợ Thừa-Lưu ban đêm tự nhiên bị hỏa-hoạn thiêu rụi, phải kiến-thiết lại chợ mới. Xã nhờ thầy viết văn tế lễ Khánh-thành chợ, viết bằng chữ Hán. Không biết thầy viết những gì trong tờ văn tế mà bị vi phạm chính-trị, thầy bị bắt đi tù. Thế là anh em tôi phải nghỉ học, vừa tiếc nuối mình bị nghỉ học dỡ-dang, vừa thương thầy không biết thân phận thầy tù-tội nơi đâu mà thăm-viếng.
Văn-chương phú-lục chưa hay,
Không thầy dạy chữ, phải học cày cho xong.
Tôi lại tiếp tục đi chăn trâu cày ruộng. Mùa xuân năm 1954 chiến tranh gần ngày kết-thúc rất ác-liệt. Lính Pháp đốt hết nhà cửa, cưởng bức cả làng phải di-cư lên làng Trung-Kiền khu-vực trảng trống, cho ở tập trung tại đây, chia lô cất lều trú-ngụ. Được cha cho học lại với thầy Sinh ít tháng, thì Pháp bị Việt-Minh đánh bại tại Điện-Biên-Phủ ngày 07.5.1954. Đôi bên được lệnh đình-chiến do hội nghị Giơ-ne-vơ (Thuỵ-Sỉ). Cả làng được cho về lại chốn cũ làng xưa, tôi cũng tạ-từ thầy về làng nghỉ học.
Năm nay tôi vừa được mười sáu tuổi đời, cùng cha dở lều chuyển về làng sinh sống. Tuy hoà-bình nhưng đất nước vẫn còn chia đôi lãnh-thổ. Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, miền Nam từ vĩ tuyến 17 cầu Hiền-Lương trở vào. Mỹ đưa cụ Ngô về làm Thủ Tướng miền Nam, cũng mở ra chiến dịch và các chính-sách để ổn-định lòng dân, viện-trợ cho dân nghèo đói, xóa nạn mù chữ v.v...
Thời gian nầy anh Sanh còn trẻ tuổi đẹp trai, con nhà giàu học giỏi. Anh tự nguyện làm việc nghĩa, đứng ra mở lớp dạy học bình-dân ban đêm cho con em mù chữ trong xóm chùa, học tại nhà ông Đê, mệ Đỉu. Ban ngày đi làm ăn, tối tập trung lại anh dạy cho học đến 23giờ mới giải-tán ra về. Trong lớp học được bốn anh em có trình-độ hơi khá ngang nhau, anh tách riêng ra Phan-Vịnh, Trịnh-Quyền, Lê- Diên, Hứa-Khảm dạy riêng chương trình học cao hơn và khuyến- khích thi-đua để học tốt. Trong-thời gian thọ giáo với anh trình-độ văn-hoá của tôi và các bạn cũng được nâng cao lên một ít, dù ít hay nhiều tôi cũng nhớ ơn anh ấy. Cho dù một chữ cũng thầy nửa chữ cũng thầy, nhờ vậy mà khi vào đời đi xa gia-đình cũng có mang theo chút ít văn-hóa tối thiểu để làm hành trang xử lý cho đời mình.
BÀI 2. MÁI NHÀ XƯA LÀNG XÓM CŨ
Từ năm 1955 đến năm 1959 tôi vẫn sinh sống với gia-đình làng xóm tại quê-hương. Khi đã được hồi hương về xóm cũ làng xưa, cha tôi dựng tạm lên một túp lều tranh cỏ che mưa nắng tạm thời để lo bắt tay vào làm kinh-tế ruộng vườn. Sau thời-gian một năm, kinh-tế gia-đình tạm ổn.
Vì cuộc chiến-tranh gần kết thúc nên rất căng thẳng ác-liệt. Pháp cưởng bức làng phãi dở nhà di cư ở tập trung cho chúng dễ kiểm sóat. Làng tranh-đấu không chịu dỡ nhà, chúng nổi nóng ra lệnh cho bọn tay sai phóng hỏa dốt sạch. Nhà tấm lợp tranh cỏ dễ cháy, mái nhà xưa chỉ còn một đống tro tàn. Toàn cả làng cùng chung số phận như nhau. Chỉ còn lại một cái nhà mái ngói có tường gạch của ông bà Sắc-Đ... Ông bà biết thương-lượng xin với Pháp nói là cái nhà thờ của gia-tộc, nên nó tha không đập phá, sau ngày đình-chiến gia-đình ông bà hồi hương về ở tốt lành nguyên vẹn, chỉ có một vài vết đạn nhỏ không đáng kể.
Toàn cả làng ai cũng dựng túp lều ở tạm, làng yêu cầu xã cho phép lên rừng khai-thác gỗ về cất lại nhà ở được chấp-thuận. Trong khi đi khai-thác phải làm đơn Thôn-trưởng chứng thực mang lên Xã phê chuẩn thuận cho, mới được mang theo lương-thực ở lại ăn làm. Nếu ai không xin tự tiện mang lương-thực đi bị Công-an chế-độ cũ xét gặp quy cho tội tiếp tế V.C, bị tù mục xương.
Mỗi đợt đi làm phải xin phép gia chủ gánh theo lương-thực, thợ rừng mang theo rìu, rựa, cưa, đục. Lộ-trình phải chui qua hầm tàu lửa Phú-Gia, thẳng đường rầy vào đến khe Bạch-Xà leo dốc núi đi mải cho đến trại Hang. Đây có một cái hang đá to ở được, mới dừng chân hạ trại ở lại cả tuần lễ đốn hạ cây to cưa xẻ ra thành kèo cột phách gỗ, đục lỗ bịn xỏ dây cột chặt kéo xuống núi vác ra đầm kéo về gần cửa hầm tàu mới vác vai đi về nhà. Đoạn đường đi trên núi dốc và dưới đường đằm ước chừng hơn mười cây số.
Cha tôi thuê mướn thợ rừng đi khai-thác bảy tám lần mới đủ nếp nhà, vì làm nhà rường theo kiểu Huế cổ-điển nên kèo cột nhiều lắm. Cây gỗ đã đủ mướn thợ mộc ông Bộ-Hòa làng Thổ-Sơn làm thợ cả, ông Tỏ học trò phụ, hai ông cặm cụi cưa bào đục đẻo hai tháng trời mới dựng nhà lên được. Cha mẹ cũng chuẩn bị tấm lợp bằng cỏ tranh đánh hom sáu chải-chuốt sạch-sẽ, dây buộc lạt lợp cả năm sáu tháng trước mới đầy đủ. Sườn nhà cây gỗ được thợ mộc bào trơn đóng bén, mái lợp sạch-sẽ gọn-gàng, trông lên cũng mát mắt, vây chung quanh sườn tre tráp tranh lát kín đáo, được tạm ổn cả nhà ở khỏi sợ các cơn mưa bão khắc-nghiệt tại miền Trung.
Lúc này anh Sanh được làng bầu làm Thôn trưởng nên nghỉ dạy học, anh em tôi cũng nghỉ học. Thời-gian nầy ngày tôi đi làm việc nhà, tối phải xuống xóm tre nhà mệ Tình để dạy cho các em nhỏ học bình-dân, những em nhà nghèo không có điều kiện đến trường.
Anh Sanh làm Thôn trưởng chỉnh-đốn tổ-chức lại, phân chia làng ra bốn liên-gia, mỗi liên gia phải bầu một liên-gia trưởng, tổ-chức các đoàn-thể thì có các lão-ông, lão-bà, nông-dân, phụ-nữ, mỗi đoàn-thể phải bầu Ban Chấp-Hành để lãnh-đạo.
Đầu tiên tôi được bầu Chấp-hành Thiếu-niên. Năm 20 tuổi sung vào đoàn-thể thanh-niên, tôi cũng được bầu làm Ban chấp-hành Thanh-niên. Làm chức-vụ nầy thỉnh-thoảng nhận được giấy mời đi họp đại hội tại Xã, phải cuốc bộ năm cây số mới đến địa-điểm họp, thường tôi chọn một chỗ ngồi sau cùng để an toạ. Cán-bộ xã khai-mạc cuộc họp tôi chỉ lắng tai nghe thuyết-trình thao-thao bất tuyệt, nghe hơi êm tai gió bên ngoài thoang-thoảng thổi vào phòng họp hiu-hiu mát-mẻ, tôi đánh một giấc ngũ. Ngũ gật mê-man ngon-lành, không đề-nghị không ý-kiến cho đến khi bế-mạc ra về.
Khi có Lễ Song-Thất hoặc Quốc-khánh 7/7, 26/10... nhiệm-vụ phải xắp chữ dán băng rôn những câu tung-hô và đả-đảo, tôi không tiện viết ra đây đọc kỳ lắm.
Mỗi khi đi dự lễ tôi phải thân-hành vác băng cờ khi đi cũng như khi về, chỉ làm tay sai cho các cấp lãnh-đạo thôn và đoàn-thể. Ăn cơm nhà vác ống loa hàng tổng, chẵng có được một tiếng khen ngợi, quyền-hạn gì cả, thêm mất công bỏ việc của gia-đình. Đôi khi báo với cha ngày mai con bận đi họp, nhìn nét mặt của cha thấy ông không được vui, nhưng chẳng nói gì, tôi hiểu ông chẳng phải nể-nang gì tôi, mà ông chỉ sợ mang vạ vào thân vu cho cái tội phản-đối chế-độ.
CHƯƠNG II. BỔN-PHẬN CÔNG-DÂN
BÀI 3. BỔN PHẬN, GIA-ĐÌNH, XÃ-HỘI
Lúc nầy tuổi đã trưởng-thành phải làm nghĩa-vụ đầu tiên cho làng, vì làng tôi có hương-ước ấn-định : Mỗi người nam trong làng khi tuổi đã trưởng-thành, không sớm thì muộn phải qua một khóa (một nhiệm kỳ) một năm đầu-xâu cho làng (tiếng Bắc là anh mõ) làm tay sai cho làng, để các vị bô-lão và ông Thôn-trưởng sai-khiến khi có việc cần. Mời làng họp, đi quyên tiền tế-tự xuân-kỵ, thu-thường, tống-đạt giấy báo thuế nông-nghiệp, khi làng cúng-tế bưng cỗ đến nhà cho các vị bô-lão bị ốm-đau không đi dự tiệc được, bị sai làm đủ việc v.v...
Làm chức-vụ nầy là một tay sai mà thấy nhàn hơn chức-vụ trên. Được bàn-giao Ban chấp-hành Thanh-niên cho người khác, được miễn đi canh-gác ban đêm giữ an-ninh trật-tự trong làng. Thu xong vụ thuế nông-nghiệp lại được tiền thù-lao, ông Thôn-trưởng trích quỹ thôn cho 10$, tỷ giá tiền bây giờ cỡ 100.000$. Nhưng ông chẳng đưa trực-tiếp cho tôi, mà lại gởi cho cha mang về sung vào quỹ gia-đình để mẹ chi-tiêu việc chợ-búa.
Trong làng có người qua đời tôi cũng đi gánh đám đưa các vị đến nơi an-nghỉ cuối cùng. Chiến-tranh chống Pháp đến lúc ác-liệt, đình chùa bị bom đạn tan-tành, nên phải đóng góp tiền bạc công sức xây-dựng lại. Thành-lập Đoàn Gia-đình Phật-Tử để hương-khói tụng-niệm ngày rằm, mồng một Âm-lịch hằng tháng tôi cũng có tham-gia.
Năm 18 tuổi cha đi nói vợ. Phải làm rể 3 năm mới được cưới, công việc làm rể phải đi cày ruộng, vun luống khoai lang cao ngang thắt lưng cho gia-đình bên vợ, làm một ngày là oải ba sườn. Mang tiếng thanh-niên nhưng sức còn yếu, lao-động không kịp ông già vợ. Nhờ ông có lòng thương con rể nên chẵng trách-móc gì.
Tôi lấy vợ là do cha mẹ quyết-định, vợ chồng tôi chẵng quen biết trước và tìm hiểu gì cả, nhìn nhau như mặt trăng, mặt trời, do cái tội mắc cở, chứ chẳng phải chê-bai gì nhau. Làm rể đã lâu ngày, cha vợ thấy hai đứa chẵng tâm-sự gì với nhau. Tôi nhớ có một hôm ông gọi cả hai chúng tôi đi theo ông ban đêm để thăm chẹp (đó), ông dàn cảnh cho ngồi trên đường quốc-lộ, ông lội xuống ruộng đi mất, cở một tiếng đồng hồ mới quay trở lại, hai đứa tôi cứ ngồi im-lặng chẵng đứa nào nói năng một điều gì. Bây giờ nhớ lại mới buồn cười. Đến năm 1960 nhà cửa làm xong xuôi ổn-định, cha mẹ lo cưới vợ cho tôi, đang hội ý với nhau, tôi rình nghe, hai ông bà bàn-bạc việc sắm-sanh lễ vật. Bà nói theo thông-lệ của phong-tục, phải làm một đôi hoa tai chạm lọng một chỉ vàng y (vàng 24 ca ra) là một số tiền hơi lớn nhưng phải có. Ông nói thời nầy làm bông chạm lọng là xưa chỉ có mấy bà già còn đeo mà thôi, hiện nay tôi thấy con gái toàn đeo hoa tai bèo, mình đi đặt cho thợ họ làm đôi hoa tai bèo hợp thời-trang cho con dâu nó thích. Bà nói : Hơi đâu mà ông đi chiều con dâu, theo tôi nghĩ, bông tai bèo là để đeo đi chơi các lễ thường, còn đây là mình sính lễ cưới xin, nhà mình con cái hiếm-hoi mà nó là con trưởng nam, làm bông tai bèo đi cưới vợ răng được. Bà nói tiếp, ông không nghe người ta nói : Lênh-đênh bèo nổi trên sông, bềnh-bồng trôi dạt biết về nơi mô. Ông chịu thua lý của bà, nhất trí đặt làm đôi hoa tai chạm lọng. Lại bàn qua cặp áo cưới, phong-tục ở Huế áo cưới cô dâu phải mặc hai chiếc áo dài. Bà nói : Mình mới làm nhà cửa vừa xong tiền bạc cũng thút-mút, may cả cặp áo dài mua vải tốt lấy đâu ra tiền, còn phải sắm sửa cổ bàn nữa, ít nhất cũng phải mời bà con họ-hàng, làng-xóm, tính sơ cũng bốn mâm, đãi họ đàn gái đưa dâu hai mâm, con cháu trong nhà nữa, vị chi phải bảy tám mâm chớ phải ít sao, mà đi vay mượn thì cũng phải trả. Cưới rồi bắt con dâu đi làm trả nợ là tội nghiệp cho chúng nó, mà mình cũng mang lấy tiếng tăm. Tôi nghĩ ông bà sui và con dâu họ cũng hiểu cho hoàn-cảnh gia-đình mình. Ông bà nhất trí may cặp áo cưới bằng vải nội-hóa loại xoàng, bàn xong việc bông hoa mua sắm áo quần. Cha đi nhờ thầy xem ngày lành tháng tốt để tổ-chức đám cưới, năm 1960 là cha mẹ cưới vợ cho tôi, rước nàng dâu mới về chung sống với gia-đình, vài tháng sau cô em gái cũng cất bước theo chồng. Vợ chồng tôi đi làm lụng với nhau cũng vất-vã, hết việc đồng-áng lên núi chặt củi đốt than. Trở lại mùa cấy gặt thì làm việc đồng-áng, chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tương-lai mù-mịt, lấy nhau cả một năm mà chưa dám sinh con.
Lúc này lại nhận được lệnh gọi đi quân-dịch, phải đi trình-diện khám tuyển, Bác-sĩ khám chưa đủ sức-khỏe, Hội-dồng tuyển-binh cho hoãn lại năm sau sẽ xét tuyển. Ở nhà được một năm, qua năm sau có lệnh gọi lại, tôi nghĩ lần nầy là phải đi thôi. Đi quân-dịch thời ấy nhà nước chỉ nuôi cơm, chẵng có lương-bổng gì. Tôi lo-lắng nhà thì nghèo mà đi các thứ lính không lương lấy gì ăn tiêu, phần tiết-kiệm được đồng nào gởi về phụ giúp gia-đình. Tôi tính-toán suy-nghĩ chắc phải tìm lính gì có lương bổng đi đăng-ký trước, dù gì mình cũng phải đi làm lính, không sớm thì muộn, chẵng ai cho ở nhà với vợ mãi được đâu. Tôi nhất quyết phải bỏ lại cha mẹ, vợ, em, làng-xóm để ra đi làm bổn phận nam-nhi hồ-thỉ.
đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với vợ (mẹ) biết ngày nào khôn.
CHƯƠNG III. NGHĨA-VỤ QUÂN-SỰ
BÀI 4. ĐĂNG-KÝ LÍNH BIỆT-ĐỘNG-QUÂN MIỀN NAM.
Đầu-óc tôi đang suy-nghĩ tìm-kiếm đăng-ký vào binh-chủng nào cho có lương, thì gặp dịp Xã đưa thông-tư về làng phổ-biến nhà nước đang tuyển-mộ lính Biệt-Động-Quân ai muốn đi đến Tiểu-Khu Thừa-Thiên để đăng-ký. Sau khi bế-mạc cuộc họp của thôn, về nhà xin cha mẹ đi đăng-ký lính nầy. Hồi đầu cha bảo đi lính nào phục-vụ gần địa-phương, thỉnh-thoảng về thăm gia-đình vợ con, tau nghe cái lính nầy ở mải trong Sài-gòn xa-xuôi quá chớ nên đi, tôi phải lựa lời lẽ năn-nỉ phải trái mãi, ông bà mới xiêu lòng cho tuỳ ý. Xong chuyện cha mẹ, cũng phải bàn qua với bà xã vài câu cho hợp lệ, tài gì mà bà xã giữ được chân, khi lòng tôi đã quyết.
Trong khi sắp đi xa mẹ tôi sắm một mâm cổ, để cha cúng bái Tổ-Tiên Ông-Bà, cha tôi khấn-nguyện được ơn trên phò-hộ tôi được bình-an mạnh-khỏe, ngày ra đi có ngày trở lại. Cha cũng dặn-dò tôi đủ điều không thể nhớ hết nổi, chỉ nhớ vài câu đại khái, nên làm việc thiện lánh việc ác, khôn-ngoan xão-quyệt quá người ta cũng ghét, dại-dột thiệt-thà quá thiệt cho bản thân, con liệu mà ăn ở đối-nhân xử-thế cho phải đạo là tốt, điều cần nhất giữ-gìn sức-khỏe là quí hơn tiền tài vàng bạc, kể cả ngọc ngà châu báu cũng không sánh bằng sức-khỏe của con người. Câu cuối ông dặn thêm phải biết thương cha nhớ mẹ, thương vợ nhớ đến các em và quê-hương tình làng nghĩa xóm. Chớ nên vui-vẽ quá trớn mà quên hết lời dặn dò của cha và nhiệm-vụ của cấp trên giao phó, quên gia-đình là con lỗi đạo, quên nhiệm-vụ bị khiển-trách phạt tù tội không có cơ-hội tiến thân, tôi cũng hứa xin giữ lời cha mẹ dạy con không khi nào dám quên. Sau khi cúng-bái Tổ-tiên Ông bà xong, cha mẹ dọn đồ cúng xuống bàn, quanh-quẩn cả gia-đình dùng bữa cơm thân-mật, ngày mai xách gói lên đường. Đồng hành có ba anh em Vịnh, Sâm, Sơn đã cùng rủ nhau từ mấy hôm nay, khi ra đến Tiểu-khu Thừa-Thiên (Huế) ba anh em vào xin đăng-ký lính Biệt-Động-Quân. Ngày vào Phòng xét tuyển, Vịnh, Sâm đủ tiêu-chuẩn được thu-nhận, Sơn bị rớt vì quá thấp không đủ chiều cao, thất-vọng lủi-thủi ra về một mình buồn da-diết, hai anh em được trúng tuyển ở lại cũng ngậm-ngùi thương hại cho Sơn.
Trong năm nay có một số đông anh em trong làng đồng trang lứa, họ đã rủ nhau đăng-ký lính Bảo-An đi gần ngót, anh em tôi thấy ở nhà cũng buồn nên rủ nhau đi .
Tôi khám sức-khỏe đã trúng tuyển, hai hôm sau Ban-Tuyển binh thu nhận hồ-sơ khai-sinh vợ, hôn-thú, thẻ căn-cước, để thiết-lập hồ-sơ quân-bạ. Binh 2 Phan-Vịnh số quân 60/202.413 nhập ngũ ngày 07/9/1961 Binh-chủng Biệt-Động-Quân tại Tiểu-khu Thừa-Thiên. Nay tôi đã chính thức là người của quân-đội Chính-phủ miền Nam. Phải ở tập-trung tại Mang-Cá Huế để đợi tuyển-dụng cho đủ số-lượng, thời-gian chờ-đợi tại đây cả hai tháng trời nhà nước phải nuôi ăn, lần đầu tiên tôi được ăn cơm nhà binh tập-thể tại đồn Mang-Cá, ở đây nhà bếp cho ăn cũng tạm được. Mỗi ngày chỉ có hai lần tập họp điểm danh sáng và tối mà thôi, chẵng có làm công việc gì cả, tập họp kiểm-danh buổi sáng xong, rủ nhau kéo ra Phu-Văn-Lâu chơi bơi lội tắm giặt trên sông Hương, trưa về dùng cơm lại đi chơi tiếp. Có một số anh em nhà quê mới lên tỉnh lần đầu tiên còn ngáo-ộp, đi xa cha mẹ cho ít tiền mang theo hộ thân khi cần đến không biết giữ-gìn, bị bọn du-đảng bụi-đời làm cò-mồi dụ-khị đánh tráo bài ba lá, mấy anh có máu mê cờ-bạc moi tiền ra đặt xuống bị chúng tóm hết sạch vấy. Bên phe lính mới thì đông, tụi đánh lận bài tráo chỉ có ba bốn đứa nó ăn hết tiền đã đầy túi vội la lớn có Cảnh-Sát đến bỏ chạy mất tiêu. Phát-hiện gian-lận, biết nó nơi đâu mà tìm, đành chịu thua, bị chúng cho một bài học đau hơn hoạn. Khi chờ-đợi tại đây tôi cũng xin phép cán-bộ tuyển-binh về thăm lại nhà ba bốn lần. Tháng 12/1961 mới đưa đi thụ-huấn, trước khi đưa đi huấn-luyện cán-bộ cho biết ngày giờ lên tàu lửa, để anh em về đông-đủ tập họp mà đi, tôi cũng về thăm nhà lần cuối cho bà xã biết tôi đi chuyến tàu đêm tại ga Huế, sáng 07g30 tàu chạy ngang qua địa-phương, tôi trông xuống bờ ruộng bên lề đường tàu, nhìn thấy bà xã đứng một mình, ngữa mặt nhìn lên tàu, tôi đứng sẳn ngoài cửa đưa bàn tay bai-bai vài cái, tàu đã chạy đến cửa hầm Phú-Gia chui qua mất hút, tôi bùi-ngùi thương vợ muốn ứa nước mắt. Tàu chạy một ngày ròng rã đến 24g00 đêm vào tới ga Nha-Trang thì xuống tàu. Có cán-bộ hướng-dẩn đến đoàn xe quân-vận chờ sẳn ở bên ngoài sân ga, cán-bộ ra lệnh cho anh em leo hết lên xe chở ngược lui Ninh-Hòa rồi rẽ về Dục-Mỹ là đã đến địa-điểm huấn-luyện. Năm ấy Trung-tâm huấn-luyện mới thành-lập, nhà cửa còn lụp-xụp, không đủ cho lính ở phải che thêm lều vải ở tạm, ban ngày trời nắng nóng lắm không chịu nổi. Qua ngày sau lãnh quân-trang quân-dụng đầy ăm ắp một xách maranh (túi đựng quần aó), lãnh vủ-khí mỗi người một khẩu súng Garan Ml, một sợi nịt lớn gọi là xăng-tuya-rông. Thành lâp Đơn-vị để huấn-luyện hai anh em tôi và Sâm chẳng được ở chung với nhau, tôi thuộc ĐĐ3/B Sâm ĐĐ4/B. Huấn-luyện thì ít mà đi làm tạp-dịch thì nhiều, xe GMC cũa Trung-Tâm chở khoá-sinh chúng tôi lên tới đèo Phượng-Hoàng, đường đi lên Banmêthuộc chặt cây cắt tranh chở về Trung-Tâm làm lều trại để ở.
Ăn tết dương-lịch, âm-lịch năm 1962 tại T.T.H.L. anh Sâm nhớ bồ dù về thăm ăn tết ở nhà, còn tôi thì nhát gan không dám làm việc phạm kỹ-luật, ở lại quân-trường ăn tết đầu tiên trong quân-đội, nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ vợ buồn muốn thúi ruột. Tết xong anh Sâm trở lại trình-diện bị phạt, trước tiên cạo đầu trọc-lóc như thầy chùa, nhốt vào chuồng cọp, kẽm gai đan kín, thấp, nhốt vào thì chỉ có ngồi còm lưng, bò bốn chân như con cọp, sau phạt đi nhảy tử-thần khô tại núi Đeo. Dây tử-thần là một sợi dây cáp dăng từ chóp núi xuống chân núi dài cở 150m, khi nhảy móc rõ-rẻ vào dây cáp, người nhảy hai tay cầm chặt hai chiếc vòng sắt gắn liền với rõ-rẻ chỉ co giò lên cho hỏng mặt đất, thế là bánh xe rõ-rẻ đưa người chạy xuống độ dốc của sợi dây, khi chạy xuống gần chạm mặt đất có người cầm cái cờ đỏ phất mạnh một cái là phải buông tay té theo thế nghiêng mình kê bả vai xuống bãi cát nhào-lộn theo trớn bốn năm vòng đúng tư-thế thì an-toàn, té thất thế thì bị thương tật cột sống, gãy cổ, có khi bị vở gan mật gây chết người, nếu không chết cũng bị tàn-phế suốt đời. Qua một thời-gian cho khóa-sinh bị phạt nhảy thử nghiệm, có gây ra chết người nên mới dẹp bỏ môn nầy, chỉ còn huấn-luyện dây tử thần nước mà thôi.
Tháng 2 năm 1962 bắt đầu vào khuôn-khổ huấn-luyện rất căng thẳng. Súng Garan M.1. không có dây mang, luôn-luôn cầm hai tay nghiêng đầu súng về bên trái 45 độ, vai mang ba-lô nặng 20 kg, đầu đội nón sắt hai lớp, chân mang giày Bốt-đơ-sô, khi di-chuyển ra bãi tập năm cây số, phải chạy đều bước hai hàng dọc, khi đi cũng như khi về, không bao giờ cho đi đều bước thong-thả, thời-gian nầy vừa làm tạp-dịch vừa huấn-luyện quân-sự, bị hành-hạ quần-thảo thật gian-khổ, có một số anh em không theo nổi đã đào-ngũ tại quân-trường.
Mấy ông Sĩ-quan huấn-luyện-viên nói thao-trường đỗ mồ hôi, chiến-trường bớt đỗ máu. Nhà bếp của Trung-Tâm nuôi ăn rất tệ hại mất vệ-sinh, cơm thì hai phần cơm một phần lúa, thức ăn canh rau muống già đựng trong sọt cần xé gánh xuống suối chao-đão vài lần đem lên đổ vào chảo nấu với nước lã và muối hột, món ăn mặn cá biển ươn ình kho với nước và muối thấy toàn xương ăn mặn chát. Nhưng đi tập dợt về bụng quá đói cũng dứt một gamen đầy ăm-ắp ngon-lành.
Khóa A và B nầy khai-giảng đầu tiên lúc Trung-tâm mới thành-lập nên rất thiếu-thốn mọi mặt. Trung-tâm phải giữ lại làm tạp-dịch kiến-thiết quân-trường, mọi người đều được lãnh lương hàng tháng, riêng mình tôi chỉ được nuôi cơm giống như đi quân-dịch, tôi tìm hiểu nguyên-nhân, anh thư ký quân-số báo-cáo đào-ngũ nhằm tên của tôi nên bị ngưng lương, tôi làm đơn khiếu-nại chẵng được giải-quyết, cũng ráng cố gắng chịu-đựng qua thời-gian huấn-luyện nầy. Ngày mãn khóa rời quân-trường ra-đơn vị hành-quân, xe quân-vận chở hết vào ga Nha-Trang lên xe lửa vào ga Saigòn, xe chở về Miền Tây tỉnh Long-An trình diện Đại-Đội 32 Hành-Chánh Quản-trị Biệt-Động-Quân, tôi lại làm đơn trình bày lý-do gần một năm tôi chưa có lương, Đại Đội-Trưởng cho tôi được lưu-trú tạm-thời với năm anh em cùng khóa hàng ngày canh-gác cổng ra vào, chờ đợi điều-chĩnh lương-bổng cả một tháng mới được, cho tôi ký lãnh một tháng để thanh-toán tiền cơm tháng khi lưu-trú tại đây. Điện đến Hạ-sĩ-quan Hậu-cứ tại Trại Lê-văn-Trúc Mỹ-Tho lái xe Dodge đến Long-An nhận lãnh sáu anh em tân-binh, về đến căn-cứ hậu-trạm, ra lệnh gởi hết rương xách túi quân-trang cồng-kềnh vào kho Đại-Đội, Hậu-cứ trang-bị súng-đạn xong, vai mang ba-lô tay cầm súng nạp đạn tư-thế sẳn-sàng chiến-đấu lên xe Dodge của Hậu-trạm tài-xế đưa đến bắc Rạch-Miễu đi Kiến-Hòa xuống phà chạy cặp bến xe leo lên đường chạy mãi về tới tỉnh Kiến-Hòa xuống xe, đến tàu thuỷ lên tàu chạy dọc theo sông Hàm-Luông. Trong khi đang di-chuyển trên tàu tôi nhìn thấy quang-cảnh mênh-mông, sông nước hai bên bờ sông nơi nào cũng trùng-trùng điệp-điệp toàn cây dừa nước rậm-rạp, chẳng thấy loại cây gì mọc xen lẫn.
Tàu chạy cả buổi sáng cho đến 15giờ chiều mới cặp bến chợ huyện Thạnh-Phú nơi đồn-trú của đơn-vị hành-quân. Tân binh chúng tôi có sáu anh em được bổ-sung về đây. Thường-vụ Đại-Đội hướng-dẫn trình-diện Đai-Đội-Trưởng, ông dặn-dò anh em chúng tôi đôi lời, rồi ra lệnh Thường-vụ bổ-sung cho các Trung-đội mỗi nơi hai người, tôi được bổ-sung về Trung-đội 1 trinh-diện Trung-đôï-trưởng nhận công-tác. Tôi được phân-công làm khói lửa cho Ban Chỉ-huy Trung-đội gồm có sáu miệng ăn, sáng nhận tiền ra chợ mua thức ăn về trại nấu cơm, dến 10 giờ dọn ra mời ăn bữa trưa, rửa dọn nghỉ-ngơi lo bữa chiều. Bổn cũ soạn lại cứ thế mà làm, khỏi đi hành-quân tuần-tiểu trong khu-vực của huyện, ban đêm phải gác hai giờ. Ở đây được ba tháng thì có lêïnh thuyên-chuyển cả Đại-Đôïi về Liên-Trường Võ- khoa Thủ-Đức. Về đây tôi nhận nhiệm-vụ mới, được bổ sung cho Tiểu đội 1 Hành quân tuần-tiểu ban ngày lẫn đêm, có khi đi phục-kích giữ an-ninh tại ấp Tân-Phong, Đình Phong-Phú, Bân Ông Thàn quanh khu-vực quân-trường để sinh-viên sĩ-quan đi huấn-luyện chiến-thuật ban đêm cũng như ban ngày, ở đây cũng nhàn-rỗi, chẳng có đánh đá đụng trận nào cả, một tháng sau Hạ-sĩ-quan hậu-cứ đến phát lương tôi được lãnh một lần tám tháng lương, thời-gian thụ-huấn chưa lãnh. Trả hết nợ cho bạn-bè, nợ quán của mấy mụ vợ lính bán quán cà-phê sáng ăn uống thiếu ghi sổ, tiền còn lại đi may sắm áo quần sơ mi quần tây, sắm đồ dùng cá-nhân, mua giày dép, mua khăn len, áo ấm để làm quà tặng cho gia-đình. Mua giấy ca-rô bút máy về trại viết đơn gởi Đại-đội-trưởng xin được nghỉ phép thường niên 15 ngày, ông nhận đơn xét thấy sự thật hơn năm chưa được nghỉ phép, ông chấp-thuận cấp phép, ra lệnh thư ký tiền-trạm làm giấy phép trình lên Đại-Tá Chỉ-huy-trưởng Liên-trường ký xong gọi trình-diện đưa cho, cầm được tôi không quên lời cám ơn Trung-uý rồi chào ông trở về phòng nghỉ của binh-sĩ, sung-sướng vô cùng, mừng hơn là trúng số độc-đắc, mang súng-đạn quân-trang gởi vào kho Tiền-trạm, giả-từ tạm biệt bạn-bè, xách túi hành-lý qua ga tàu lửa Thủ-Đức mua vé tàu đi Huế. Về phép lần thứ nhất trong đời đi làm lính, lại mới được truy-lãnh tám tháng lương tha-hồ mua sắm quà cáp về tặng gia-đình cháu-chắt. Năm nay về phép quê-hương vẫn còn an-ninh yên-ổn đi lại thăm-viếng bà con làng xóm khắp nơi chưa có cách-mạng bắt-bớ, đêm vẫn ngủ nhà với gia-đình được. Dẫn bà xã đi Huế ra chợ Đông-Ba mua sắm quần áo vải đẹp, đổi lại đôi hoa tai cho bà xã hài lòng. Chung sống với gia-đình 10 ngày qua mau quá, sắp hết phép, mẹ cũng sắm một mâm cỗ cho cha cúng ông bà tổ-tiên phù-hộ cho con và dâu ra đi được bình-an mạnh-khỏe, dùng bữa cơm gia-đình nghỉ-ngơi trò-chuyện. Sáng ngày mai dắt vợ lên đường từ-giả tất cả, trở về Đơn-vị trình-diện. Năm nay cha mẹ vẫn còn khỏe, ông 52 tuổi, bà 48 tuổi, nên tôi cũng yên lòng mà đi. Vợ chồng vào đến nơi trình-diện trả giấy phép đúng hạn, báo cho Đại-đội-trưởng có mang theo vợ. Ông ra lệnh cho Thường-vụ sắp xếp nơi ăn chốn ở tại Khu gia-binh Liên-trường. Ở đây vợ tôi chỉ đi chợ nấu cơm hai đứa ăn với nhau, những ngày tôi được đổi ca nghỉ ở nhà, còn khi đi công-tác bên ngoài thì bới cơm vào camen ba ngăn đậy nắp ràng dây thun kỹ, gởi cho xe GMC đưa cơm hàng ngày của quân-trường ngày hai lần trưa và chiều.
Thời-gian cứ trôi đi trôi đi sự việc cứ diển-biến như thường lệ, vợ chồng tôi sống với nhau được sáu tháng, thì bụng bầu vợ đã thấy bự, tôi khuyên bà xã nên về quê sinh nở để nhờ Bà ngoại lo cho một đứa con đầu lòng. Vợ đồng ý về quê, tôi đưa qua ga Thủ-Đức mua vé ra tàu về quê.
Tôi trở lui về đơn-vị công việc cũng như thường ngày, dạo nầy ăn cơm tháng vợ lính nấu, đến tháng lãnh lương trả tiền. Vào ngày 01.11.1963 Dương-Văn-Minh lật đổ Ngô-Đình-Diệm, tình-hình chính-trị lúc nầy rất rối-ren, Quân Giải-Phóng Miền Nam cũng lớn mạnh lên, Đại-Đội được lệnh rời khỏi Liên-trường Thủ-Đức, di-chuyển về Trung-Lương Mỹ-Tho để thành-lập Tiểu-Đoàn 52 Biệt-Động-Quân. Đưa đi huấn-luyện bổ túc tại Trung-tâm huấn-luyện Biệt-Động-Quân Trung-Hòa Củ-Chi Hậu-Nghĩa. Thời-gian huấn-luyện tại đây cũng đụng nhiều trận với quân Giải-phóng, ác-liệt nhất trận Hố-Bò bị chết Cố vấn Mỹ, nhiều lính Biệt-Động-Quân chết và bị thương, bản thân tôi được bình-yên vô-sự. Sau ngày mãn khóa học cả Tiểu-Đoàn di-chuyển về tại Mỹ-Tho.
Tiền trạm đóng tại chùa Ông, về đến đây Tiểu-Đoàn nhận lệnh hành quân liên-tục. Hành-quân Tiểu-khu Long-An vừa về đến trại, nhận lệnh hành-quân Định-Tường vừa chấm dứt lại nhận lệnh hành quân Tiểu-khu Kiến-Hòa, cứ xây quanh như chong-chóng, không có được một ngày nghỉ. Đi hành-quân băng sông lội rạch áo quần giày vớ lúc nào cũng dính đầy bùn lấm ẩm-ướt thật là gian-khổ không thể tưởng-tượng. Khi bình-thường còn nản chí, khi đụng trận lại càng bi-đát hơn. Bạn-bè người bỏ mạng sa-trường kẻ thương-tích tàn-phế, có đôi khi lội suốt từ sáng đến chiều tối bị đụng trận không được một hột cơm vào bụng đói muốn rã ruột. Cứ ngày đi đêm dừng nghỉ, hết xứ nầy đến nơi khác, cây cối rậm-rạp, sông-rạch chằng-chịt, tôi cứ mang một túi xách cứu thương và khẩu súng Carbin lủi-thủi đi theo đoàn quân tham-dự các cuộc hành-quân liên-tục không trốn tránh một ngày nào.
Sau Tiểu-đoàn dời Tiền-trạm về đóng tại Long-An, Đơn-vị cũng đi hành-quân hai ba tháng mới về tiền-trạm nghỉ được một hôm lại chuẩn-bị đi tiếp. Cũng có một số binh-sĩ không chịu-đựng được gian-nan nguy-hiễm bỏ đào-ngũ về đăng-ký lính khác. Sáu anh em tân-binh khóa của tôi được bổ-sung về đơn-vị 1962 người chết kẻ bị thương có một anh đào-ngũ, chỉ còn lại một mình tôi là mạnh-khỏe đang-phục vụ Đại-đội 4/52 Biệt-Động-Quân.
BÀI 5. MỘT TRẬN ĐÁNH NHỚ ĐỜI
Tôi tham-dự một trận đánh nhớ đời tại Lương-Hòa Thượng, thuộc huyện Đức-Hòa, Long-An. Vào O700H không nhớ ngày, nằm trong thời-gian tháng 12 năm 1964, Tiểu-đoàn được Giang-Đoàn 22 đưa hết binh-sĩ của đơn-vị qua bên kia sông Vàm-Cỏ Đông, Tiểu-Đoàn-Trưởng ra lệnh cho tất cả bốn Đại đội, mỗi Đại-đội một cánh quân di-chuyển trong rẩy mía đường, song song theo con sông Vàm-Cỏ-Đông về hướng tây huyện Đức-Hòa. Như mọi ngày tôi cũng mang một túi xách cứu thương đựng đầy những gói băng-bó cá-nhân để cấp-cứu cho thương binh khi lâm trận, tay cầm khẩu súng Carbin lên đạn sẳn, đi theo Ban chỉ-huy Trung-Đội 1 Đại-Đội 4, đơn-vị di-chuyển được một cây số thì nghe có tiếng súng AK trong các đám mía đường bắn ra, tôi trông thấy binh-sĩ của Đại-đội 1 đã có hai người bị thương y-tá đang băng-bó, tiến xa một quảng nữa, thì nghe anh mang máy truyền-tin PRC 25 của Trung-đội báo lại cho Trung- đội-trưởng, lệnh của Đại-bàng cho biết cánh quân Đại-đội 1 đang đụng-độ rất nặng, đã có số binh-sĩ bị thương và tử trận. Đơn-vị chúng tôi đi cánh quân sát bờ sông, nhìn thấy trực thăng đáp xuống tản thương, Trung-đội-trưởng ra lệnh binh-sĩ đề cao cảnh-giác, sẳn-sàng chiến-đấu, tôi vừa đi theo ban chỉ-huy Trung-đội nhìn kỹ phía trước bên trái bên phải từ sáng đến gần trưa chẵng thấy một bóng dáng VC nào mà nổ súng cho phí đạn. Khi cánh quân cùng Ban Chỉ-huy của Trung-đội tôi tiến đến sát con rạch nằm chận ngang phía trước mặt. Tai tôi nghe một phát súng bên kia rạch bắn qua rất gần, trúng phải đầu anh lính mang máy truyền-tin Trung-đội vở sọ ngã nhào chết liền tại chỗ, tôi thấy đã chết nên không băng-bó, ông Trung-đội-trưởng, cấp-bậc Chuẩn-uý mới về đơn-vị mang khẩu súng Colt 45 đầu đội mủ nâu đi ngóc-ngách bị một phát súng, đạn xuyên qua trước trán hơi sâu, té ngữa máu ra đầm-đìa, tôi chạy lại bên ông ngồi xuống xé băng để bó vết thương cho ông ấy, tai tôi nghe bỏm một cái sát mé rạch gần chỗ tôi đang ngồi, nổ ầm lên một tiếng điếc cả tai bùn nước khói bắn lên tung-toé phủ cả một vùng, tôi tưởng là đã chết theo các bạn rồi, khi hoàn hồn nghe đầu gối hơi đau nhói, biết mình mới bị thương chưa chết vẫn còn đi cà-nhót được, tôi đi lùi về phía sau gặp được TS1 Hớn tôi cho anh hay, anh lính truyền tin đã chết, Trung-đội-trưởng có lẽ cũng chết vì đã bị thương thủng trán quá nặng. TS1 Hớn là Trung-đội-phó từ lâu sống chung trong ban Chỉ-huy Trung-đội bạn chơi thân với nhau, ông ấy choàng vai tôi dìu lui phía sau cả hai trăm mét thì thấy một số binh-sĩ bị thương và tử trận được cứu ra khỏi làn đạn giao-chiến, nằm ngồi la-liệt chờ trực-thăng cứu thương đến di-tản, tôi ngồi xuống đây với anh em tự tay băng bó rịt lại vết thương cho kỹ, cở năm phút nghe có tiếng trực-thăng đến bốc hết số binh-sĩ bị thương và tử trận rồi cất cánh bay lên ra khỏi trận-địa, từ đây tôi mới hú hồn thở phào một cái nhẹ nhỏm, biết chắc mình đã được bạn bè cứu mạng.
Về đến Tổng-Y-Viện-Cộng-Hòa Saigòn, đầu gối của tôi bị sưng to nhức nhối không thể đi lại được nữa y-tá đưa vào phòng mỗ, Bác-sĩ gây mê mổ lấy mãnh đạn trên đầu gối ra để nằm trong phòng lạnh một đêm, ngày sau đưa ra ngoài điều-trị được ba ngày thì bó bột từ bắp đùi cho đến bàn chân, thế là cái chân phải của tôi to-tướng, trắng-lốp, nặng-trịch, ngay-chò, chẵng duỗi ra co vào được nữa, bệnh-viện cho ký nhận một cặp tó để chống nạnh di-chuyển khi cần, nằm tại đây được năm ngày sau có một số anh em bạn lính cùng đơn-vị chơi thân với nhau, họ được may-mắn sống sót mạnh-khỏe bình-an, rủ nhau sáu anh em đến thăm tôi tại bệnh-viện, họ kể chuyện lại cho tôi nghe, trực-thăng tải thương chuyến của mầy là cuối cùng.
Sau nầy VC xung-phong đánh tan-tành cả Tiểu-đoàn, Bộ-Chỉ-huy Tiểu-đoàn chết sạch, đứt liên-lạc, các Đại-đội bị thương và chết hết phân nữa, ai bị thương nhẹ chạy được may ra còn sống, ai bị thương nặng đi không được là chết hết, Trung-đội-trưởng, Tiểu-đoàn-trưởng đã bỏ xác tại trận.
Sau khi đứt liên-lạc với Tiểu-Đòan tan-rã hàng-ngũ chạy tán-loạn. Tụi tau chạy lui ra xuống bờ sông nhờ Giang-Thuyền cũa Tiểu-Khu Long-An cứu mạng bốc hết anh em còn sống sót đổ hết qua bên kia sông mới còn có ngày hôm nay đến thăm mày. Tôi nghe các bạn kể xong câu chuyện, hú hồn hú vía nói với các bạn, mạng cũa tau còn hên chưa tới số, nếu bị thương trễ năm mười phút sau là đã bỏ mạng sa-trường rồi, còn đâu nữa mà các bạn tới thăm. Mấy anh em chuyện-trò qua lại gần một giờ đồng hồ, các bạn chúc tôi điều trị chóng bình-phục rồi từ-giả ra về, anh em cho hay số còn lại đang an-dưỡng tại Quân-đoàn III Biên-Hòa chờ bổ-sung quân-số.
Tôi nằm Bệnh-viện Bác-sĩ cho uống thuốc viên 10 ngày thì cho xuất Viện về điều-trị tại gia 29 ngày tái khám. Về nhà xa quá trong khi người còn thương tích, về nhà sợ cha mẹ vợ con buồn. Hồi ấy Hậu-trạm Tiểu-doàn vẫn còn ở Long-An, tôi được nhận giấy xuất viện về thẳng Hậu-trạm trình-diện nghỉ-ngơi tại đây cho đến ngày tái khám nhập viện lại, Bác-sĩ cho cắt bột vết thương cũng lành, nhưng chân vẫn còn ngay-chò, chưa co vào duỗi ra được, Bác-sĩ cho nghỉ tiếp 29 ngày nữa để tập thể-dục cho cái chân trở lại bình-thường mới đi làm việc. Tôi nhận được giấy xuất viện lần thứ hai cũng được nghỉ dài ngày, mừng quá về lại đơn-vị xin đổi giấy phép nghỉ tại gia. Lúc nầy mặc áo quần thường dân đi xe khách về Huế, lần nầy về làng ấp chiến-lược đã bị phá huỷ tan-tành, ban ngày thì của quốc-gia, ban đêm của Cách-mạng, chỉ viếng về nhà ban ngày một vài tiếng đồng hồ thăm cha mẹ vợ và các em rồi vào Lăng-Cô ở lại nhà bác cho đến ngày hết phép từ-giả ra đi. Vào đến Long-An đi vô doanh trại thấy trống rỗng chẵng còn ai, hỏi ra mới biết Tiền-trạm và gia-đình binh-sĩ đã di-chuyển hết về Biên-Hòa.
BÀI 6. PHỤC-VỤ HẬU-CỨ & TIỀN-CỨ
HẠ-SĨ-QUAN, QUẢN-TRỊ QUÂN-SỐ & TIẾP-LIỆU
Hết phép dưõng bịnh tại gia, trở vào đơn-vị, thì đã di-chuyển hết về Biên-Hòa, thời ấy tôi chẵng biết Biên-Hòa ở nơi đâu cả, chỉ nhớ lại mang-máng trong đầu óc sáu tỉnh Miền Đông Nam-Bộ, có lẽ giáp ranh giới gần Saigòn. Suy nghĩ một lát nếu đi Saigòn Biên-Hòa thì xa lắm, phần nữa xa lạ chưa rành đường sá biết đâu mà tìm. Tôi quyết-định trở lại Mỹ-Tho trình-diện hậu-cứ Hạ-sĩ-quan Quân-số và Tiếp-liệu Đại-đội ở bên cạnh Đại-đội 32 Hành-chánh quản-trị Tiếp-liệu Biệt-Động-Quân. Thời-gian ấy TSI Trân giữ chức-vụ nầy, ông ấy bảo tôi ở đây làm việc, khi nào có chuyến liên-lạc tau sẽ gởi mầy ra trình-diện Đơn-vị, ông ấy bày việc cho mà làm, ông mở kho chỉ vào một đống súng-ống ngoài chiến-trận đưa về đủ loại bùn bám rỉ-rét, chưa lau chùi vào dầu mỡ để bảo-trì quân-dụng, ông bảo tôi làm việc nầy. Tôi nghĩ ăn lương thì phải làm việc, mà làm việc nầy chẵng phải nặng nhọc gì, tôi ước-ao được làm việc nầy vĩnh-viễn thì cũng chẵng cực-khổ gì, còn nhàn hơn một ngàn lần theo Đơn-vị đi hành-quân. Tôi cặm-cụi tháo ra từng loại súng chùi-rữa sạch-sẽ, vô dầu mỡ sắp-xếp lại ngăn-nắp theo vị-trí đâu vào đấy, ông ấy thấy tôi làm việc nhiệt-tình rất hài lòng, tôi làm hai ngày thì hoàn tất đâu vào đấy, ông lại giao cho việc khác, ông hỏi tôi mầy biết viết chữ không ? Tôi trả lời dạ thưa TS em viết được, ông đưa cho một tờ giấy mẩu Q.T.I và một bản danh-sách Đơn-vị, ông bảo viết hết danh-sách từ trên xuống dưới vào đây để làm phiếu gởi xin cấp quân-trang (áo quần). Tuổi còn trẻ mắt sáng tay viết chữ còn mềm-mại sắc-sảo, ngồi vào bàn viết nghiêm-túc, nấn-nót nét chữ rõ-ràng ngay-thẳng đẹp-đẽ, ông nhận-xét nét chữ của tôi viết và sự làm việc nhiệt-tình tận-tuỵ, ông rất mến giữ lại phục-vụ hậu-cứ với ông hai tháng tại Mỹ-Tho. Ban ngày ông giao công việc cho làm, đêm nghỉ tự-do, tôi mướn phòng trọ bên ngoài, ban đêm đi chơi tôi thấy trong thành-phố có lớp dạy đánh máy chữ, tôi xin đăng-ký học một khoá hai tháng, phải trả tiền trước hai phần mới thu-nhận vào học, tôi chấp-nhận đóng tiền để học, tôi học một tháng mười lăm ngày, đã sử-dụng máy thành-thạo, thao-tác đánh máy mười ngón tay, cách-thức trình-bày văn-bản phải cân-đối theo khổ giấy. Đêm đi học đánh máy chữ hết giờ về nghỉ nhà trọ bên ngoài, ngày vào hậu-cứ làm việc như thường-lệ, hôm nay là ngày báo-cáo quân-số định-kỳ bằng danh-sách, anh lính thư-ký vắng mặt. Xếp hỏi tôi lâu nay đi học đánh máy chữ đã đánh được chưa ? Tôi trả lời : dạ thưa em cũng đánh tạm được nhưng còn chậm, ông nói thì cứ thư-thả mà làm cho đàng-hoàng là được. Ông đưa cho một tờ mẫu với quyển sổ kiểm-danh, bắt lót ba tờ giấy đánh thành ba bản. Tôi thư-thả đánh cẩn-thận, trình-bày cân-đối đẹp-đẽ, làm hoàn-chỉnh trình lên cho ông xem ký tên đóng dấu để gởi đi, xếp rất hài-lòng và khen-ngợi. Ông giữ tôi lại giúp việc hậu-cứ được hai tháng thì có lệnh của Đơn-vị-trưởng bảo ông phải gởi số binh-sĩ xuất viện hết thời-gian nghỉ dưỡng bệnh ra hành-quân. Vì cấp số của mỗi Đại-Đội làm việc hậu-cứ chỉ được ba người : một hạ-sĩ-quan, hai binh-sĩ, chức-vụ HSQ/QSTL thư-ký đánh máy chữ, tài-xế, thêm tôi là thặng dư, anh thư-ký đang làm việc quan-liêu, ỷ lại, ham đi chơi, bỏ việc làm, thiếu trách-nhiệm, vô kỹ-luật. Nên ông không dùng nửa, ông ra lệnh cho tôi trang-bị súng-đạn như tất cả các anh em khác hết hạn nghỉ bệnh phải ra hành-quân. Ông giữ tôi lại làm việc hậu-cứ. Viết thư cho Đơn-vị-trưởng trình-bày lý-do thay đổi nhân-viên văn-phòng hậu-cứ, cũng được Đơn-vị-trưởng chấp-thuận. Từ đây tôi được chính -thức cơ-hữu của văn-phòng Quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4/52/BĐQ.
Bà xã và con gái đang ở với cha mẹ tôi tại quê nhà, có bà chị dâu vợ ông anh họ rủ nhau vào Nam tìm chồng, bà chị vào Thủ-Đức gặp chồng, còn bà xã tôi thì bơ-vơ, đường-sá xa-lạ đất rộng bao-la, chẵng biết chồng đang hành-quân nơi đâu mà tìm, ở tạm với anh chị mấy ngày sau, ông anh cũng lanh-lẹ đi tìm hỏi tới Biên-Hòa, Đơn-vị cho biết tôi đang làm việc tại hậu-cứ Định-Tường Mỹ-Tho, ông xin địa-chỉ đi đánh điện-tín về hậu-cứ, Xếp tôi nhận được nói cho tôi biết, ông bảo viết Sự-vụ-lệnh ông ký cho mà đi rước vợ con về (cột lý do công tác : Liên-lạc đơn-vị hành-quân Thủ-Đức) Tôi cầm Sự-vụ-lệnh mặc áo quần dân-sự đón xe ca đi Saigòn, sang xe về Thủ-Đức gặp vợ con rước về Mỹ-Tho mướn nhà trọ ở với nhau, từ nay gia-đình có 3 người mới sum-họp, vợ chồng ở tại đây được năm tháng. Đầu năm 1965 Đại-đội 32/ Hành-chánh/Tiếp-liệu được lệnh giải-thể, sáp-nhập Đại-đội 31/HCTL/BĐQ Thủ-Đức. Hậu-cứ Tiểu-đoàn và các Đại-đội cũng di-chuyển về Thủ-Đức, vợ con cũng đưa về đây mướn nhà trọ ở.
Ông TSI Trân được thăng cấp Thượng-sĩ Tiểu-đoàn-trưởng bổ-nhiệm chức-vụ khác Quyền Sỉ-quan Hoả-thực của Tiểu-đoàn, TS Soa thư-ký tiền trạm Đạ-đội thay thế Hạ-sỉ-quan quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4. Tôi vẫn tiếp-tục làm thư-ký Đại-đội, đợt nầy tôi cũng được thăng Hạ-sĩ vừa được hai tháng thì thay đổi Đai-đội-trưởng mới về thay-thế Đại-đội-trưởng cũ đi nơi khác. Ông nầy đưa đệ-tử vào làm thư-ký Văn phòng Đại-đội thay tôi ra ngoài Đơn-vị hanh-quân làm thư-ký quân số tiền-trạm, đơn-vị đang đồn-trú tại Quân-đoàn III Biên-Hòa. Công-tác của tôi hàng ngày vào buổi sáng Đơn-vị tập họp xong báo-cáo quân-số lên Tiểu-đoàn, hàng tuần lãnh lương-thực, thực-phẩm phân -phối cho Đại-đội, mỗi tháng nhận hàng Quân-tiếp-vụ phân-phối cho binh-sĩ đơn-vị ghi chép rành mạch để trừ vào dịp lính lĩnh lương hàng tháng hoàn tiền lại cho cửa hàng. Công-tác nầy tôi làm tốt chẵng có gì khó lòng. Cuối năm 1965 Tiểu-đoàn đã được bổ-sung đầy-đủ quân-số đưa đi huấn-luyện bổ-túc lần thứ hai tại Trung-tâm Huấn-luyện Biệt-động-quân Trung-Hòa Củ-Chi, Hậu-Nghĩa. Tôi cũng đi theo Tiểu-đoàn, dạo nầy đến đây nhìn thấy pháo-binh của Mỹ và xe Thiết-giáp đóng chung quanh Trung-Tâm rất đông. Trung-tâm cũng bị VC pháo-kích liên-miên, phía Mỹ cũng phản pháo bằng đại-bác hạng nặng 175 ly cài trên xe thiết-giáp bắn liên-tục 24/24 vào hướng mật khu cách-mạng Hố-Bò và địa-đạo Củ-Chi. Kỳ này quân giải-phóng lớn mạnh lấn-chiếm bao-vây thu hẹp tầm hoạt-động của Trung-Tâm, nên Tiểu-Đoàn chỉ học chiến-thuật quanh-quẩn gần hai bên hàng rào, không dám hành-quân ra xa bên ngoài như lần trước. Khi mãn-khóa học nầy Trung-Tâm cũng có huấn-luyện cho tân binh một thời-gian gần một năm. Được giải thể cuối năm 1967.
Tiểu-Đoàn được đưa về Long-Khánh, căn-cứ tiền-trạm đóng trên chóp đồi Tân-Phong Xuân-Lộc, hoạt động ba tỉnh Long-Khánh Bà-Rịa, Bình-Tuy. Tôi ở làm việc với Tiền-Trạm Tiểu-Đoàn được thăng Hạ sĩ I. Đến mùa xuân 1968, Tiểu-Đoàn được điều về giữ Saigòn đi hành-quân ven đô. Ban Quân-số Tiếp-Liệu Tiền-trạm Tiểu-đoàn đóng dưới móng cầu Saigòn tôi cũng theo tiền-trạm làm việc tại đây.
Tháng 12/1967 Đại-Đội 31 Hành-chánh Tiếp-Liệu/Biệt-Động-Quân dời căn-cứ Thủ-Đức về căn-cứ Long-Bình, Mỹ rút bàn giao lại tại Thanh-Hóa Hố-Nai, thuộc khu-vực trại gà bây giờ, để thành-lập Liên-Đoàn 3 Biệt-Động-Quân. Hậu-cứ Liên-Đoàn và 3 Tiểu-Đoàn trực thuộc đóng tại đây.
Thời-gian đơn-vị hành-quân chung-quanh Saigòn tôi làm đơn xin theo học khoá quản-trị tiếp-liệu, được cấp trên chấp-thuận. Bộ Chỉ-Huy 3 Tiếp-Vận căn-cứ tại trại Lê-Văn-Duyệt Saigòn gọi tôi trình-diện khai-giảng khóa học nầy, khóa-sinh theo học đủ các quân-binh-chủng 120 người học ba tháng thì mãn-khóa, tôi được tốt-nghiệp xếp hạng 45/118 bị đánh rớt hai anh không đủ điểm trung-bình. Mãn khóa học nhận Sự-Vụ-Lệnh trở về đơn-vị cũ.
Qua năm 1969 được đủ điều-kiện thăng cấp bậc Trung-sĩ cũng làm nhiệm-vụ Hạ-sĩ-Quan tiền-trạm. Năm 1970 Tiểu-Đoàn được lệnh đi huấn-luyện bổ-túc lần thứ 3, lúc nầy Trung-Tâm huấn luyện Trung-Hòa đã giải thể, Cách-mạng chiếm. Tiểu-Đoàn phải chuyển ra Trung- Tâm Dục-Mỹ Nha-Trang để huấn-luyện. Toàn-thể Tiền-trạm Hậu-cứ đều phải đi huấn-luyện hết.
Khi gần ngày mãn khóa có một anh lính gìa nhậu rượu đế say khước nằm ngũ giữa trời không căng bông-sô che sương đêm khuya lạnh cóng anh ta thả hồn theo gió, chết cứng-ngắc chẵng có ai biết, sáng ra khi anh em thức dậy đi làm vệ-sinh cá-nhân để chuẩn-bị tập-họp mới phát-hiện. Tiểu-đoàn cấp Sự-vụ-lệnh cho tôi và một Tiểu-Đội chở xác anh lính chết vào nhà xác quân-khu Nha-Trang để tẩm-liệm xin máy bay đưa về Saigòn. Khi chưa tẫm-liệm đang để trong nhà xác, Tiểu-Đội đi theo có nhiệm-vụ quân-phục chĩnh-tề cầm súng đứng canh giữ xác chết, khi được tẩm-liệm bỏ vào quan-tài hai lớp phía trong có bọc kẽm hàn kỹ đóng nắp thật chặt, xong xe đưa quan-tài ra phi-trường, thì Tiểu-Đội đi theo canh-gác trở về lại Quân-Trường Dục-Mỹ.
Lúc nầy tôi ngồi trong phòng trực phi-trường của Không-Quân Nha-Trang chờ-đợi máy bay đến chở quan-tài, ba anh lính Không-Quân trực sân bay bỏ ra bộ bài binh xập-xám ăn tiền, rủ tôi chơi một tay, tôi cũng vui-vẻ nhận lời ngồi vào bàn, cầm bộ bài xáo-trộn đều-đặng rồi để xuống một anh thò tay vào cân, một anh cầm bài lên chia mỗi người một con, ai lớn được làm cái ván đầu, phần tôi lật lên con ách tôi được làm cái, cầm hết bài lên trộn đều để xuống cho các anh ấy cân, tôi nhập bài lại chia xong, bắt bài lên binh, bài lớn dễ binh nên tôi binh nhanh bỏ xuống, còn ba anh bài xấu nên binh lâu, chờ cho các anh bỏ xuống hết, bắt đầu tôi xét từ trái qua phải, thấy bài cả ba anh đều thua, tôi gom tiền hết, đặt tiền lại, tới phiên anh kế tôi làm cái, chia bài xong bắt lên tôi thấy mậu binh bỏ xuống ngồi nhìn các anh binh xong chung tiền cho tôi trúng lần hai, thừa thắng lấy gậy ông đập lưng ông, tôi đặt hết tiền đã ăn được, nếu có thua thì tiền của các anh mình trả lại, thế mà bài cứ đỏ ăn liền năm sáu ván, ba anh ấy thua sạch tay. Thì gặp dịp máy bay vừa đến, tôi xin phép nghỉ ra phi-trường lên máy bay, ba anh không-quân nhìn theo tôi mà lòng thất-vọng, tôi nghe một anh thốt lên rằng : ba đứa mình bị cọp vồ, vì huy-hiệu Biệt-Động-Quân có may đầu cọp bên cánh tay trái. Tôi lên máy bay cất cánh ngồi nhớ lại thấy cũng diệu-kỳ, bình thường tôi cũng có binh xập-xám nho-nhỏ cỏn-con chơi giải-trí, nhưng ít khi được ăn ai, vì binh chậm thấp không biết gian-lận, nên ăn thì ít thua thì nhiều.
Hôm nay đi chuyến công-tác áp-tải quan-tài về quê của người bạn tử-sĩ sao mà hên quá, vớ được một số tiền bài xập-xám tại Nha-Trang về nhà tha-hồ uống bia với các bạn. Tôi nghĩ vong-hồn của anh lính nầy linh-thiêng phù-hộ cho tôi được bình-an hoàn-thành nhiệm-vụ và được phát tài. Máy bay về hạ cánh tại phi-trường Tân-Sơn-Nhất thì đã có xe GMC đợi sẳn, đưa quan-tài lên chở thẳng về gia-đình của anh ấy, mặc dầu thân-nhân của họ đã qua đời, cũng hỏi qua nguyên-nhân cái chết, tôi kể sự thật gia-đình cám ơn rối-rít. Tôi thay mặt Đơn-vị và anh em bạn-bè nói đôi lời phân-ưu với thân-nhân tử-sĩ, trao số tiền Đơn-vị quyên-góp phúng-điếu, báo cho tang-gia biết mai-táng xong-xuôi đến hậu-cứ tôi hướng-dẩn nạp hồ-sơ lãnh tiền tử. Tôi từ-tạ lên xe về hậu-cứ Hố-Nai với gia-đình. Cách tuần lễ sau Tiểu-Đoàn cũng mãn khóa về đến. Ông Tiểu-Đoàn-Trưởng nầy mới nhậm chức trước ngày Tiểu-Đoàn đi thụ-huấn bổ-túc, ông cũng-cố hệ-thống tổ-chức của Tiểu-Đoàn, sắp-xếp lại các ban-ngành, bổ-nhiệm cán bộ lãnh-đạo chỉ-huy, cán-bộ chuyên-môn làm việc hậu-cứ theo khả-năng thích-hợp đúng ngành-nghề, thay-thế những người không có chuyên-môn đưa ra hành-quân. Tôi cấp-bậc TS I có bằng chuyên-môn Tiếp-Liệu, được bổ-nhiệm chức-vụ Hạ-Sĩ-Quan Quân-số Tiếp-Liệu Đại-Đội 4/52/BĐQ, thay-thế TSI Soa giữ chức-vụ khác, tôi nhận chức-vụ nầy đầu năm 1970. Tiểu-Đoàn được lệnh hành-quân sang Campuchia, xáp trận liên-tục, bị tổn-thất nhân-mạng, quân-trang quân-dụng, văn-phòng hậu-cứ phải làm hồ-sơ báo cáo tổn-thất để xin bồi-hoàn bổ-sung cho đơn-vị. Lúc nầy hậu-cứ cũng làm việc rất căng, làm không kịp thời kịp lệnh bị Sĩ-quan chỉ-huy hậu-cứ chửi, ngoài tiền-tuyến cần những món quân-dụng gọi điện về chưa có gởi ra kịp cũng chửi. Nhưng được làm việc tại hậu-cứ, khỏi phải đi hành-quân gian-khổ, thỉnh-thoảng máy bay trực-trăng đưa đi tiếp-tế quân trang quân-dụng phát lương-bổng cho binh-sĩ một vài hôm là đưa về hậu-cứ làm việc.
Cuối năm 1971 Liên-đoàn rút khỏi Campuchia về đóng tại Binh-Long An-Lộc. Năm 1972, năm gọi là mùa hè đỏ lửa, lâm một trận lớn san bằng bình-địa tỉnh Binh-Long An-Lộc thành một đống gạch vụn. Hậu cứ không tiếp-tế không liên-lạc, thời-gian hơn hai tháng, chỉ có máy bay C.130 của Mỹ chở lương-thực đạn-dược tiếp-tế bằng cách thả dù, dù rơi đúng vị-trí thì quân bạn lấy dùng, dù bay lạc hướng ra ngoài thì chịu thua, ai xài cũng được. Trận nầy trung-gian mà nói đôi bên bạn địch đều tổn-thất nặng-nề. Phía Giải-phóng chỉ chiếm thêm một ít từ Lộc-Ninh trở về An-Lộc. Khu-vực thành-phố Bình-Long An-Lộc Liên-đoàn 3/BĐQ còn tử-thủ được. Sau thời-gian mới chịu bỏ di-tản về huyện Chơn-Thành, Bến-Cát, Bình-Dương.
Đầu năm 1973 tôi bị đưa đi học khóa tu-nghiệp Hạ-Sĩ-Quan tại Trung Tâm huấn-luyện Quang-Trung, khóa nầy chẵng có thăng quan tiến chức gì cả, thêm tốn công tốn tiền, bỏ một vợ và năm đứa con sống trong trại gia-binh nheo-nhóc, vợ một mình chăm con không kỹ để chết một thằng con trai vừa tròn một tuổi, tôi đang thụ-huấn tại trung-tâm, được tin báo, nóng ruột trốn trại đi về Hố-Nai lo chôn-cất con xong-xuôi trở lại trình-diện, bị ban an-ninh của Trung-Tâm gọi lên điều-tra xét hỏi, tôi cũng trình-bày hoàn-cảnh sự thật, các xếp cứ bắt-bẽ bảo sao không làm đơn xin phép, tôi trả lời thẳng-thắng, nếu tôi làm đơn lên Thiếu-Tướng Chỉ-Huy-Trưởng ký được giấy phép chắc con tôi đã thối vửa ra nước. Nếu các xếp không tin lời khai của tôi cứ điện về đơn-vị của tôi mà hỏi thì rõ hư thật. Sau khi các xếp xác-hận đúng cũng khoan-hồng cho tôi không phải bị phạt, tôi tiếp-tục tham-dự khóa học cho đến ngày mãn khóa trả về đơn-vị cũ, tôi cũng được phục hồi lại chức-vụ hiện-hành.
Đầu năm 1975 Liên-đoàn thất-thủ căn-cứ Chơn-Thành, Bến-Cát, ban đêm cho lệnh di-tản về Lai-Khê Bình-Dương, binh-sĩ bị xáp trận với quân Giải-phóng bỏ xác rải-rác trong rừng, số bị thương cũng chẵng được cứu-chữa, tản-thương, một số bị quân Giải-phóng bắt làm tù-binh gần muốn hết, còn lại một ít may-mắn sống sót chạy về hậu-cứ mình trần thân trụi, trình-diện hậu-cứ cái xác không hồn.
Đơn-vị xin bổ-sung thêm một số lao-công đào binh mới ân-xá, một số quân-dịch mới ra trường, cả cũ lẫn mới tập họp cả liên-đoàn quân số chưa được một Tiểu-đoàn, lệnh cấp trên cho thay đổi toàn bộ phận chỉ-huy Liên-đoàn. Liên-đoàn-trưởng mới về nhậm-chức ra lệnh cho hậu-cứ trang-bị lại quân-trang quân-dụng vủ-khí cá-nhân tập-thể đầy-đủ. Tập họp đưa đến sân bay Biên-Hòa. Máy bay C130 chở ra đổ hết xuống Phan-Rang để làm lá chắn được một ngày thì bị tan-rã. Thấy Đại-uý sĩ-quan Ban 3 của Tiểu-đoàn 52/BĐQ và một số binh sĩ cũng chạy về mình không trình-diện hậu-cứ, thế là toàn bộ phận lính chiến-đấu của Liên-đoàn 3/BĐQ đã bị quân Giải-phóng xóa tên lần cuối cùng tại Phan-Rang.
Hậu-cứ Liên-đoàn và ba Tiểu-đoàn trực-thuộc vẫn còn làm việc như cũ, ai làm việc gì cứ làm việc ấy, lúc nầy rất khuẩn-bất bi-thãm. Nhân viên hậu-cứ chúng tôi phải làm việc 24/24 giờ, quân Giải-phóng sắp đến bên lưng. Ông Trung-uý Mẫn Chỉ-huy hậu-cứ phát điên lên ngày nào cũng nhậu say tuý-luý, chửi anh em làm việc hậu-cứ như tát nước vào mặt, ông hối thúc phải làm nhanh các hồ-sơ khai-báo tổn-thất gởi đi, để xin bồi-hoàn kịp thời, quân-số, quân-trang, quân-dụng, lương-thực, hướng-dẫn làm hồ-sơ cho thân-nhân binh-sĩ chết mất tích lãnh tiền càng sớm càng tốt. Ví có ba đầu sáu tay cũng chẵng tài nào làm kịp. Một phần vợ con gia-đình của lính tử-trận, mất tích đến hậu-cứ khóc-lóc om-sòm, đòi lãnh tiền tử. Thân-nhân tử-sĩ họ cũng nghĩ rằng : quân giải-phóng đến chiếm căn-cứ thì còn đâu mà lãnh, nên họ khóc-lóc la-lối, có đôi người nóng-nảy chửi-bới tôi cũng phải cắn răng mà chịu đựng. Đến giờ nghỉ đi ăn cơm đạp xe về trại gia-binh nhìn thấy bà xã bụng thì bự gần ngày sinh, bốn đứa con dại khờ, ba đứa mạnh khỏe, một đứa bé nhất ốm nặng, chỉ mua thuốc viên về tán ra cho uống, bà xã một mình không thể nào đưa con đi bệnh-viện được, đưa đi thì bỏ nhà bỏ ba đứa con lại không ai nấu cơm nước cho tôi về ăn để đi làm. Đến giờ nghỉ về ăn cơm nhìn con càng ngày càng ốm nặng ra, người nó teo lại như con tép, cặp mắt lờ-đờ. Thở thom-thóp không ra hơi, tôi thương con quá muốn trào nước mắt. Tôi suy-nghĩ một lát quyêt-định, việc nhà cần phải lo trước, việc nước lo sau, bằng mọi giá phải cứu con của mình đã, cứ mãi-mê lo công-vụ rủi con chết như thằng em nó nửa thì ân-hận suốt đời. Tôi trở vào hậu-cứ gọi anh lính thư-ký ra ngoài phòng làm việc căn-dặn kỹ-lưỡng, chỉ-vẻ công việc ở nhà nên làm công việc gì trước sau, giao hết bộ chìa khoá kho-tàng cho anh ấy giữ, tôi chẵng cần-thiết gì nữa. Dặn lại chỉ-huy hậu-cứ có hỏi đến tôi, anh cứ nói thật con tôi gần chết nên trốn ở nhà đem con đi bệnh-viện. Tôi chẵng cần phải xin phép thêm rắc-rối, nếu xin lão già ấy chẵng cho mà còn chửi nữa thêm nhục. Đào-nhiệm trốn về nhà ẵm con đi chửa bệnh tại Bệnh-viện Tiểu-khu Biên-Hòa, đến tới bệnh-viện lúc 14g00 ngày 25/4/1975, được Bác-sĩ khám tiếp nước biển cho uống thuốc con tôi hơi tĩnh lại, 14 giờ ngày 28/4/1975 quân giải-phóng đã tiến đến Trà-Cổ Tân-Bắc, thuộc xã Bắc-Sơn bây giờ. Quân đoàn III và bệnh-viện cũng được lệnh di-tản. Tôi ẳm con leo lên xe Hồng-thập-tự chạy đến Saigòn thì trời đã tối, xuống xe tại bệnh-viện Trần-ngọc-Minh, bệnh-viện nầy chỉ tiếp nhận thương-binh, không nhận gia-đình vợ con binh-sĩ. Tôi mướn xe xích-lô máy chở cha con qua bệnh-viện Nhi-Đồng 2 xin cho con được nhập viện, được nằm tại đây đến 28, 29/4/75, rạng ngày 30/4/1975 tôi ngồi trên lầu 2 của bệnh-viện nhìn xuống ngã sáu Saigòn thấy đủ các lính quân-binh-chủng của chế-độ cũ, áo giáp nón sắt súng đạn đầy-đủ, súng to súng nhỏ có cả đại-bác pháo-binh 105 ly, xe pháo đầy ngã sáu, trong khoãng thời-gian cở 9 hoặc 10 giờ sáng 30/4/1975 nghe radio trên đài phát-thanh Sài-gòn ông Dương-Văn-Minh kêu-gọi anh em binh-lính chế-độ Sài-gòn ngưng bắn bàn-giao súng-đạn căn-cứ đồn-trại lại cho quân Giải-phóng. Một lát sau tôi nhìn xuống thấy súng-đạn xe-pháo nằm la-liệt hai bên lề đường, chẵng còn thấy một ông lính của chế-độ cũ nữa. Chế-độ Saigòn cũ sập-đỗ hoàn-toàn chấm-dứt từ đây.
Quân Cách-mạng thắng-lợi thống-nhất đất-nước hai miền Nam Bắc.
Cuộc đời binh-nghiệp của tôi cũng được chấm dứt từ đây. Trả hết món nợ tang-bồng của thời trai trẻ.
Trót sinh ra phải có chi-chi, Chẵng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
(Nguyễn-Công-Trứ)
Trong thời-gian 14 năm làm lính chế-độ Saigòn tôi đã bỏ ra 5.040 ngày, tỷ giá theo đô-la 50.400 USD chẵng mua được danh-vọng hay một tí tài-sản vật-chất gì cả, chỉ mua được cái nhục to-tướng, góp công chế-độ cũ gây ra bao nhiêu phiền-hà cho đất nước. Chẵng có công, mà chỉ là mang lấy tội, kéo dài một cuộc chiến vô nghĩa, huynh-đệ tương-tàn. Mạng sống ngàn cân treo sợi tóc. Biết giữ lấy đạo làm người của Đức Khổng-Phu-Tử, ghi nhớ làm theo lời dặn dò của cha trước khi xa gia-đình, nhờ có đức của cha mẹ, Ông bà Tổ-tiên, Phật Trời phù-hộ được còn sống sót đến ngày hôm nay.
Nhớ lại những ngày còn đi đánh trận bị thương rất nặng, nhờ anh em bạn-bè cứu mạng nếu chậm một chút xíu nữa là đã bỏ mạng sa-trường, bây giờ nghĩ lại mà rợn tóc gáy.
CHƯƠNG IV. SINH-HOẠT - CUỘC SỐNG CŨA BẢN THÂN VÀ GIA- ĐÌNH SAU NGÀY GIẢI-PHÓNG.
BÀI 7. NGƯỜI DÂN CHƯA ĐƯỢC THỪA NHẬN
Trước giờ phút đánh dấu bước ngoặt của lịch-sử, chấm dứt thời kỳ đen tối, chuyển sang thời kỳ vinh quang sán-lạn của đất nước được độc lập.
Hai cha con của tôi còn ở trên lầu 2 bệnh-viện Nhi-đồng, con tôi nhờ ơn Bác-sĩ cả hai nơi chữa trị nay đã được phục-hồi sức khỏe. Trong giờ phút giao-thời nầy, các Bác-sĩ và y-tá làm việc trong bệnh-viện cho các em nhi-đồng đang điều-trị và thân-nhân thăm nuôi ra khỏi bệnh-viện đóng chặt cửa khóa lại để bảo vệ cơ-sở vật-chất, phòng kẻ xấu thừa cơ-hội vào cướp-bóc phá-tán.
Tôi hiểu rõ lời Bác-sĩ và ý-thức liền ẳm bé Phú con tôi ra khỏi bệnh-viện, cuốc bộ về nhà ông anh vợ tại Hòa-Hưng ở bên cạnh Bộ-chỉ-huy Biệt-Động-Quân chế-độ cũ. Thời-gian nầy khoảng 11giờ ngày 30/4/1975, tôi rất lo lắng cho vợ đang mang bầu gần ngày sinh, ba đứa con còn bé nhỏ ngay-thơ không hiểu bây giờ còn ở nơi đâu? Mẹ con có được bình-an hay khônh? Súng ngoài đường thì vẫn nổ dòn như pháo tết ngày xưa. Sau khi tìm hiểu tiếng súng, không phãi đánh nhau, mà các dứa trẻ con thành-phố tinh-nghịch nhặt súng M.16 cũa lính chế-độ củ vứt bỏ bừa-bãi la-liệt hai bên lề đường cũa thành-phố bắn chỉ thiên cho thoả-thích. Sợ quá tôi chẵng ra khỏi nhà đi tìm vợ con. Một lát sau thì vợ con cũng đến đầy-đủ với hai anh bạn lính cùng đơn-vị họ đã bị thương xuất viện về nghỉ dưõng bệnh tại trại gia-binh, dắt dìu giúp đở gia-đình tôi cùng chạy loạn, tìm đến nơi đến chốn bình-yên vô-sự. Trước ngày giải-phóng vợ tôi đã biết địa chỉ nhà của ông anh. Giờ đây hai vợ chồng bốn đứa con đã được sum-họp, mừng-mừng tủi-tủi cứ ngồi yên trong nhà nhìn ra ngoài đường trông thấy một số ngưỡi xấu bụng, tham-lam chạy đi hôi của từng đoàn ngoài phố. Súng trẻ con cứ bắn nghịch họ cứ đi thản-nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Thấy họ mang về hàng quân-tiếp-vụ quân-đội Sài-gòn. Nào là gạo, đường, sữa, rượu bia, thuốc lá, nước ngọt, lẫn cả của cải thường dân họ sợ chết bỏ nhà trốn đi nước ngoài, tôi vô cùng chán nản chẵng ham muốn gì cả. Tôi nghĩ bụng đi làm lính 14 năm đã vào sinh ra tử mà không chết, chỉ có bị thương, đừng nên có lòng tham-lam đi theo họ làm việc phi-nghĩa, phi-pháp xui-xẽo bị tụi trẻ con bắn nghịch lạc đạn chết bỏ vợ con thì lãng xẹt. Ông anh cũng bảo bây giờ ngoài đường phố tình hình chưa ổn-định, o dượng cứ tạm ở lại đây một vài ngày chờ yên tiếng súng rồi hãy về, bây giờ mà về gấp là nguy-hiễm, cũng chưa có xe nào dám chạy về Hố-Nai đâu. Tôi nghe lời anh chị ở lại ba hôm tình-hình đã yên-ổn, vợ chồng dắt dìu con cái đón xe về Hố-Nai. Về đến nơi thấy anh chị em bạn lính ở cùng doanh trại họ đã trở về gần đầy đủ, vào căn nhà thấy cạy cửa đập khóa tanh-bành, rinh hết đồ-đạc trong nhà rỗng tuyênh từ trước ra sau vơ-vét sạch-sẽ, chẵng còn cái gì đáng giá một xu.
Gia-tài sản-nghiệp của tôi lúc nầy chỉ còn được mụ vợ bốn đứa con thơ dại. Anh chị em cùng ở chung trong trại ai có bà con gia-đình ở gần, họ cũng mướn xe chở đồ-đạc về quê sinh sống, dần-dần họ từ giả đi gần muốn hết. Chỉ còn lại gia-đình của tôi và Hai Cưu quê hương quá xa tại Đà-Nẳng và Huế chẵng đủ tiền bao nổi chuyến xe để về quê, nên còn nấn-ná ở tại đây.
Vợ chồng bàn bạc khi sinh nở xong tìm cách về làng sinh sống cùng cha mẹ và quê-hương. Cứ ở lì tại trại được 10 ngày thì quân giải-phóng đến tiếp-thu khu-vực quân-sự đuổi ra khỏi trại, tôi dắt dìu vợ con ra đến gia-đinh bác Hạp xin trú-ngụ tạm ít hôm để che mưa nắng cho vợ con tạm thời rồi sẽ lo liệu. Hồi đó gia-đình của bác có một căn nhà tranh vách đất lụp-xụp kê được hai chiếc giường để cho vợ lính mướn ở, bây giờ đang bỏ trống, Bác cho ở nhờ chẵng phải thuê mướn gì. Hai Cưu thấy tôi còn ở đây cũng mướn của bác Cương anh bác Hạp mấy mét vuông đất để che tạm một cái lều nhỏ xíu kê được chiếc giường để ở tạm rồi đi kiếm việc làm ăn, quen biết ông Chuẩn xin được đất mới dỡ lều ra Tây-Lạc. Thời-gian gia-đình tôi tá-túc tại căn lều Bác Hạp để đợi vợ sinh xong về quê chẵng biết có việc gì mà đi làm, thất-nghiệp ngồi nhà ăn không cả một tháng, gia-đình lớn nhỏ có sáu người mà kéo dài không làm gì có thu-nhập, ngồi không mà ăn thì sông cũng cạn núi cũng mòn, cả nhà sắp chết đói đến nơi. Khi vợ đến ngày sinh bé Phúc đưa đến trạm xá Bùi-Chu nhờ cô Huê giúp đở chẵng phải tốn kém, vợ sinh phải ở nhà nuôi đẻ giặt giũ, vì lúc ấy con còn bé chưa nhờ được. Sau một tháng nữa vợ tròn con vuông được khỏe-mạnh cứng cáp, giao cho bà xã ở nhà coi con nấu nướng mà ăn, tôi theo Hai Cưu đi tìm việc làm, cuốc cỏ tranh cho bà Quan một ngày được 500$ bạc của chế độ cũ, mua được ký gạo đủ cho một mình ăn, nhưng vẫn đi làm với nhau vô lẻ ngồi nhà hoài, đi vào sâu trong rẩy trong đồng ruộng mới thấy công ăn việc làm của bà con, anh em đổi ý về quê, rủ nhau đến Trưởng-ấp xin đăng-ký tạm trú. Vợ chồng cũng bàn lại bỏ ý định về quê. Bây giờ mà mình mang một bầy con lóc-nhóc về chỉ báo đời cha mẹ đôi bên, bây giờ thì cha mẹ đã già yếu kinh-tế khó-khăn, có một điều nữa xấu hổ với bạn bè làng xóm. Tôi mang sổ gia-đình và giấy căn-cước của hai vợ chồng đến Văn-phòng Ap Bùi-Chu nộp hết cho ấp xin được đăng-ký nhập cư thường-trú, ông Thận làm Phó ấp trực tại Văn-phòng nhận hồ-sơ cho được tạm trú để đi lao-động nuôi con, được yên chí nhận nơi nầy làm-quê hương thứ hai để sinh sống. Vợ mới sinh còn yếu chưa đi làm được ở nhà chăm bầy con dại năm đứa. Tôi phải đi tìm việc làm thuê cuốc mướn để kiếm tí tiền mua gạo sống qua ngày, ngày nào tìm không có việc thì bé Quang với tôi hai cha con đi mót củ mì trong Long-Bình Cầu-Cháy để đem về ăn độn, ngày nào cũng phải đi lao-động không việc nầy thì kiếm việc khác làm để có lương-thực nuôi con. Thời ấy người ta thường nói lao-đôïng là vinh-quang, bây giờ tôi suy nghĩ kỹ mới thấy câu văn hay và đúng lý.
BÀI 8. TỪ NGÀY ĐƯỢC NHẬP HỘ KHẨU,
ĐƯỢC HỌC CẢI-TẠO TẠI ĐỊA-PHƯƠNG.
Tôi làm lính 14 năm mới bò lên cấp bậc Trung sĩ I chức-vụ Hạ-Sĩ- Quan Quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4/52 Biệt-Động-Quân, nên cách mạng cũng khoan-hồng gọi tập-trung cải-tạo tại địa-phương, vì ấp Bùi-chu đông nguỵ-quân nguỵ-quyền, mà cán-bộ quản-giáo chỉ có hai ông Trung-uý bộ-đội, nên phải chia ra làm ba bốn ca, cải-tạo từng đợt ca một cải-tạo một tuần, cho về đi lao-động làm ăn, đến ca hai, rồi đến ca ba luân-lưu tuần-tự cho đến hết chương-trình thì cho nghỉ. Sau thời-gian cải-tạo có quyết-định được phục-hồi quyền công-dân. Hôm nay tôi mới được chính-thức làm phó thường dân Nam bộ.
Thất nghiệp vô tài bất tướng chẵng có nghề-nghiệp chuyên-môn gì, chỉ biết đi làm thợ đụng, đụng việc gì cũng làm, có tiền công là được. Có thời-gian đi bốc-xếp gỗ cho bộ-đội, sáng bới một lon gô cơm ra đường lộ chờ đợi xe, có ngày đợi hoài không thấy, mất toi cơm một ngày về không, có bữa chỉ vào đến rừng, cưa máy bị hư-hỏng không làm được lại về không mất công chẵng được gì. Thấy công việc làm rừng nầy khó ăn tiền, nghỉ đi nghề rừng, về tìm việc nghề nông làm mướn tuy ít tiền công hơn nhưng dễ kiếm việc thường hơn.
Đồ nghề nông cụ của tôi chỉ vỏn vẹn có hai chiếc, một cái mã tấu, một cái xẻng cá-nhân của Mỹ, tôi lấy trong kho khi còn làm lính, để vợ chẻ củi và dọn cỏ chung quanh nhà trại gia binh. Khi đi chặt mướn mía đường thì mang theo mã tấu, xẽng gấp tháo bỏ cán ngắn thay thế cái cán dài để cuốc đất mướn, mỗi ngày công chỉ được 500$ tiền chế độ cũ, mua được một ký gạo, có đôi lúc mua không có gạo, thì mua bo-bo về nấu ăn cũng ngon lành. Chiếc mã-tấu dùng đi chặt cây làm nhà ở và phá rừng làm rẫy. Đã quyết-định chọn ấp Bùi-chu làm quê-hương thứ hai thì phải kiếm miếng đất cất cái lều nho nhỏ để gia-đình trú-ngụ che mưa che nắng không lẽ ở nhờ ở đậu mải như thế nầy coi sao được. Lúc nầy anh em cựu lính rủ nhau đi làm mướn, gặp anh Vầy hỏi thăm khu-vực của anh ở có còn chổ nào chỉ cho tôi cất cái lều ở với cho vui, anh trả lời cứ vào nhà tôi chỉ cho mà làm, hai ngày sau đi vào anh dắt đến chỉ cho, anh bảo miếng đất nầy của thằng Hoa nó xí nhưng không ở bỏ đi nơi khác rồi, anh cứ ra đây làm mà ở với anh em cho vui, tôi cũng thích rồi, nhưng sang hỏi ông Út Một cho chắc ăn. Vì ông là người ở đây trước ngày chưa giải-phóng, để tránh sự rắc-rối về sau. Sang nhà ông Út Một ông cũng bảo đất hoang-vu vô chủ cứ ra làm mà ở, thằng nào nói gì có tôi, mới vững bụng, vác cuốc ra đắp một cái nền xí để đó. Có đất rồi phải lo vật liệu, xách mã-tấu vào rừng Cầu-Ba chặt cây.
Năm ấy rừng thiên-nhiên còn bao-la tha-hồ mà chặt, vào rừng cứ thấy cây thẳng vừa ý là đốn hạ rồi vác dồn lại một đống róc sạch vỏ, về ấp mướn xe bò vào chở. Hồi đầu nhờ Bác Tỳ bác nói rừng cấm khai-thác, để tôi hỏi ông Hai Hà cho phép mới dám chở, tôi nghĩ mình đã đi chặt trộm mà ông bảo hỏi Hai Hà Chủ-tịch xã lúc bấy giờ. Tôi sợ năn nỉ với ông, Bác không giúp em được thì em đi nhờ người khác Bác đừng báo Xã họ bắt tội nghiệp em. Em chỉ lén chặt một ít đủ che túp lều để gia-đình che mưa nắng, em hứa không làm việc phi pháp, ông lặng yên, tôi tạ từ ông về, đi mướn xe bò ông Bảy-Ép, ông nhận lời ngay, đánh xe vào bốc chở về, khỏi trình báo ai cả, ông chở về đường đi tự-nhiên chẵng thấy ai hỏi han gì, đến nơi đỗ xuống tôi trả tiền công song-phẵng và cám ơn Bác Bảy, ông đánh xe về. Đã có cây đầy đủ, tôi vào dốc đồng ruộng chặt tre chẻ hom vác về, vợ đi vào Phú-Sơn cắt tranh phơi khô mang về xếp đống, ngày nào không có việc làm ở nhà soạn tranh ra đánh thành tấm lợp bằng hom sáu, chuẩn bị đầy đủ vật-liệu, một mình tự cưa ngàm đục lổ sàm vài để sẳn, đi nhờ hai ông bạn Bác Vấn và Hai Cưu đến phụ giúp, ba anh em vừa dựng vừa lợp mái làm một ngày là xong, ngày sau một mình đóng bổ vách tấp tranh vào cho kín đáo. Nay đã có cái lều tranh kê được hai chiếc giường, chái thêm một khúc phía sau để nấu cơm.
Tạm thời đã có nơi trú-ngụ che mưa nắng, tôi từ-giả ông bà Hạp dọn về cái lều mới làm để ở. Tôi thưa với ông bà rằng : Dạ em kính thưa hai bác, thời buổi chiến-tranh ly-loạn, em buộc phải đi lính-tráng vào đến đây, nay bị lở đường giữa chốn xa xuôi không có người thân thuộc, chẵng biết nương-tựa vào đâu, may mắn gặp gia-đình bác mở rộng lòng thương, cho gia-đình em được tá-túc trong căn lều của hai bác đợi cho vợ sinh nở cứng-cáp tìm đường về quê, ở đây vợ em đã sinh nở mạnh khỏe mẹ tròn con vuông, thời-gian thấm-thoát đã bốn tháng trôi qua, vợ chồng em quyết-định không về quê nữa, em đã xin ấp cư-trú tại đây làm ăn nuôi con. Bấy lâu vợ chồng em đã lo liệu che được một túp lều tranh phía ngoài sân bóng đá kế nhà ông Út Một, xin hai bác cho em dọn về ngoài ấy để trú-ngụ, vợ chồng em trả lại căn lều cho hai bác. Dạ thưa hai bác ! một đêm nằm hơn năm ở, dù gì em cũng ở nhờ nhà hai bác hơn bốn tháng nay ơn nghĩa nầy quá lớn biết bao giờ em đền đáp được. Em cầu xin ơn trên ban phước lành cho toàn thể gia-đình bác. Bác Hạp gái cũng nói lại : Không có gì đâu, biết giúp nhau lúc hoạn-nạn mới là phải, rồi bác cũng chúc lại vợ chồng con cái vào trong ấy ở được mạnh khỏe, làm ăn mau khấm-khá. Tôi cám ơn bác rồi dọn nhà vào đây ở kể từ tháng 8 năm 1975 cho đến ngày hôm nay.
BÀI 9 : AN CƯ LẬP NGHIỆP
Được chính-quyền địa-phương chấp nhận cho cư ngụ, kiếm được miếng đất dựng lên cái lều tạm che mưa nắng cho gia đình trú-ẩn. Lúc nầy rất bi đát kinh tế gia đình đã cạn kiệt có ngày không gạo nấu, con cái phải ăn củ mì bo bo mà sống. Tôi ngày nào cũng đi làm mướn xạc cỏ lúa rẩy cho ông Chuẩn hai tháng, xong việc cỏ đi cuốc ruộng cho ông Chánh-Tôn, cuốc rẩy nhặt cỏ tranh cho bà Quang con gái bác Khương, đắp bờ phát cỏ ruộng cho cụ cố Phác, ai bảo làm gì cũng làm, miển trả công mỗi ngày tương đương một ký gạo là được, để nuôi bầy con sống qua ngày. ăn thì đều mà đi làm chẵng đều, có đôi lúc hết việc không ai mướn thất nghiệp ở nhà cũng phải ăn.
Khoảng trong tháng 9/1975, lúc nầy kẹt quá, gạo hết tiền chẳng làm gì có, con đói phải mang số nữ-trang của bà xã, tiết-kiệm sắm một chút để phòng cơ, còn 8 chỉ vàng 24 cara, một sợi dây chuyền có quả tim 5 chỉ, 3 cái nhẫn mỗi cái một chĩ. Vợ giữ kỷ trong người khi chạy loạn nên vẫn còn. Vợ chồng bàn với nhau mang đi bán, hỏi hết các nhà có tiền chẵng ai thèm mua tôi mang một cái khâu một chỉ ra bà Giáo-Luyện nhờ bà mua giúp cho, trả bao nhiêu cũng được miễn có tiền về đong gạo cho con ăn là cám ơn. Đây là nơi thân chủ quen biết đã từng mua bán với bà trước ngày chưa giải phóng, tôi nghĩ bà chỉ sợ mình khốn-đốn quá, có khi đem vàng dổm để lường-gạt, nên bà không dám mua. Bí quá không biết làm sao, bà xã rỉ tai thổ lộ sự thật nhờ bác Hạp bán giúp cho, nhà em đã mang đi hỏi bán mà chẳng ai mua. Bác nhận lời giúp đỡ mang tận Saigòn mới bán hết được, đem tiền về đưa cho vợ chồng tôi, mừng quá cám ơn bác, có tiền đi đong gạo gia-đình ăn, gạo lúc nầy đắt lắm, bán 8 chỉ vàng mà tính ra cả trước sau đong cả tạ gạo là sạch tiền. Có gạo ăn cứu nguy cơn đói. Tôi tự suy nghĩ để kinh nghiệm. Vàng bạc ngọc ngà châu báu chẳng quí bằng hạt gạo của trời. Khi bụng đói cồn cào không thể ăn vàng ăn bạc vào bụng mà sống được
Sau đó một thời-gian có tình trạng vượt biên sang Mỹ, vàng lên giá vùn-vụt nhiều người đi tìm mua, lúc này còn mà bán một chỉ có thể mua được hơn tạ gạo, 8 chỉ tính ra gạo cở 10 tạ, tôi đã bán sạch sẽ từ lâu, tôi cũng chẳng có tiếc nuối làm gì. Tôi tự nghĩ một miếng khi đói bằng gói khi no, may mắn có người giúp bán được để cứu đói là tốt rồi. Thế là của Tây trả lại cho Tàu, sạch trơn sạch trụi của cải vàng bạc tích-luỷ cả 14 năm làm lính nguỵ, hôm nay đã tiêu tán sạch sẽ theo cát bụi của thời gian.
Hết năm 1975 qua năm 1976 ăn Tết Ất-Mão âm lịch xong, tháng giêng nhìn thấy bà con trong ấp rủ nhau đi phá rừng làm rẩy, cũng vác mã tấu đi theo vào cầu ba phát đưòng ranh khoanh vùng một mẫu rừng xí để đó, về đi làm mướn kiếm gạo nuôi con, ngày nào không có việc đi làm mướn, thì bới cơm nước xách mã-tấu vào phát rừng, cứ vừa đi làm mướn vừa phá rừng, một mình cũng phát xong 5 sào, còn 5 sào để qua năm sau phá tiếp.
Tháng 12 năm 1975 cụ cố Phác cho mướn 2 sào ruộng cấy lúa thần-nông giống 732, cày cấy xong bỏ đó đi phát dọn rẩy, lâu lâu ghé thăm đắp nước vào, chẳng vải phân, không xịt thuốc, chỉ có làm vài ngày cỏ mà thôi, thời tiết tốt không sâu bọ phá, qua tháng 3 năm 1976 thu-hoạch được 20 bao lúa tính ra cả tấn, mừng quá còn hơn trúng số độc-đắc, chở về phơi khô khén vây cót đổ vào dự-trữ để ăn đi phá rẩy dọn rẩy, khỏi lo chạy gạo hàng ngày, nên bây giờ tôi vẫn nhớ ơn ông cố cho đến muôn đời.
Từ đây tôi chỉ đi làm việc nhà hết đi làm mướn. Chỉ có bà xã đến mùa bà con trong ấp cấy lúa nước, đi cấy mướn, lúc mới giải phóng ít có người biết cấy, đi cấy là nghề-nghiệp của bà xã, đến vụ cấy bà con mướn đi làm liên-tục. Mùa cấy năm 1980 mang bầu thằng con trai út, tên nó là thằng Đức bây giờ, đến ngày gần sinh tôi bảo ở nhà, đi cấy nửa coi chừng đẻ giữa ruộng, tôi đi làm ở lại trong rẩy, bà xã ở nhà ông Thiệp vào kêu đi cấy, nể nang cũng ra đi vào làm được nửa buổi, chuyển bụng đẻ ngay giữa bờ ruộng như vịt. Gặp chú Hùng Rô có xe bò làm kế bên, bỏ mẹ con lên chở về trạm xá cô Huê, đồn ra trên làng dưới xóm ai ai cũng biết, tin vào rẩy tôi chạy về gấp, vào trạm xá bà xã vẫn tĩnh-táo sức-khỏe mẹ tròn con vuông, tôi hú hồn hú vía hết hồi-hộp. Nghỉ lại có lẽ Trời Phật ở trên cao nhìn thấu, phù hộ cho mới được như vậy. Ngày sau đem về nhà giao cho con gái lớn chăm mẹ, cha con vào rẩy làm tiếp, cứ theo bà con học hỏi mà làm cho đúng mùa vụ, thấy bà con trồng trỉa giống gì cứ theo mà làm, có làm là có thu-hoạch mới có lương-thực mà ăn, hết thứ nầy thu-hoạch thứ khác
Nhưng cũng vất-vả vô cùng, làm việc bằng hai cánh tay chẳng có năng-xuất, phải làm hết sức lực may ra đủ ăn. Đi làm phải lội bộ 10 cây số đường rừng mới đến nơi, qua sông Lạnh còn đi vào tới Đồi-đất phá rẫy, cha con che trại ở làm tại chỗ, có khi hai tuần lễ hoặc cả tháng mới về thăm nhà một lần.
Mang lương thực về nhà nuôi con phải đi ban đêm tránh trạm kiểm soát, nếu xui bị bắt là không xin lại được. Sản-xuất cầm chừng vừa đủ ăn, không thể mang đi thành phố bán đổi để bà con tiêu-thụ được, kinh-tế gia-đình xã-hội thời bao cấp khó phát-triển, đời sống của nông-dân càng vất-vả hơn.
Nam 1977 qua phá rẩy bên kia sông Thao thuộc ranh giới huyện Vĩnh-cửu rừng nguyên-sinh còn nhiều, cây to nhỏ còn rậm-rạp, cây chò-chai, cây dầu cả hai người ôm vẫn còn nhiều, ông Hải ròn mướn thợ cưa vào xẻ về làm nhà ở, xẻ được ít nhiều có chở về bớt một vài xe bò, số còn lại có lẽ kẻ nào xấu bụng báo cáo du-kích Vĩnh-cửu sang tịch-thu bắt dân vác về Đồng-lu một số, gỗ còn lại chất đống nổi lửa đốt cháy sạch sẽ, xui cho hai anh đẩy xe thồ đi chặt cây rừng, bị đốt cháy xe còn phải bị bắt vác một chuyến cây về đến Đồng-Lu mới thả cho về. Lúc nầy tôi cũng vào đây để lựa chặt một nếp nhà, cứ kiếm cây khế, cây dấp cứ cây nào thẳng thử rựa thấy cứng vừa ý là hạ, dứt đúng thước tấc róc mặt đẻo vỏ, tính đủ làm, vác hết qua sông.
Buổi chiều du-kích sang bắt cây ông Hải, hai anh em tôi đang chuyển cây qua sông. Tôi biết trước nên trốn thoát khỏi bị bắt vác cây. Người em chuyển dùm cây với tôi là vợ của cậu Quý, ở ngoài quê vào Saigòn thăm chồng là sinh-viên Đại-học bách-khoa lúc mới giải phóng, mợ về thăm ở lại nhà tôi, nhờ mợ đi vác giúp. Hai anh em chuyển cả ngày mới qua hết bên kia sông, đi mướn xe bò chở hết về nhà chất lại, vào rừng chặt tre chẽ rui, mè, hom tranh, lạt buộc vác về mấy chuyến đầy đủ. Vợ chồng vào dốc đồng ruộng cắt tranh, năm ấy tranh mọc quá nhiều, tha hồ mà cắt, chải chuốt đàng hoàng sạch sẽ, phơi khô bó chặt lại từng bó, dồn lại một đống kêu xe bò ông Trầm-Ninh Tây-lạc vào chở, chất hết lên một chuyến quá nhiều, không nặng nhưng nó cồng-kềnh, tranh khô trơn, đường ổ gà xe bò kéo đi bị lắc-lư tuột đỗ mấy lần, phần trời tối đói bụng khát nước, hai anh em sắp xếp lại mệt muốn đứt hơi, nhờ ông Ninh hồi ấy rất khỏe, chịu khó làm nhiệt tình, xếp lại xong ràng-rịt kỷ-lưỡng cũng đưa được xe tranh về đến nơi. Tôi mừng quá cám ơn, uống nươc xong bỏ tranh xuống trả tiền xe cho ông về cũng hơi muộn. Làm sàng chất hết lên đậy lại che mưa nắng kỹ-lưỡng.
Đầu tháng 10/1980 về quê thăm cha mẹ anh em. Về xe lửa bước xuống ga Thừa-Lưu xách gói rảo bộ về làng, đi đến một quảng đường cở cây số, gặp một toán trẻ em đi lên xã học tiểu-học. Tôi hỏi các em ở thôn nào đi học xa rứa ? các em trả lời ở thôn Phú-Gia, các em có biết ông Đính không ? các em trả lời có biết, ông đã chết chôn hôm qua rồi. Một cú xốc bất ngờ đầu óc choáng váng bước hết muốn nổi vừa đi vừa khóc, bụng bảo dạ phải chi mình về sớm được vài ngày cha con nhìn mặt nhau lần cuối, đi đến nhà nhìn thấy bàn thờ bát nhang bài-vị, đứng khóc than một lát cho vơi bớt nổi lòng, tôi tự trách mình là người con trưởng bất hiếu, sống xa quê hương cũng vì tương-lai của con-cái, khi cha qua đời chẳng lấp được một lát đất, thật là vô dụng, cầm nén hương ra mộ thấy đống đất mới, thắp ba cây nhang xá nấm mộ ba xá khóc một lát rồi ra về nhà với mẹ. Bà con đến thăm họ cũng góp lời an-ủi. Ở lại với mẹ đến ngày 9/9 âm lịch là ngày chạp mã lúc ấy, bây giờ dời lui ngày 9/8 âm-lịch, chạp mả cúng bái xong. Rủ mẹ vào Nam sống với con cháu, bà chịu đi theo vào đến nơi nhìn thấy hoàn-cảnh nhà cửa của con cháu ở như cái ổ chuột chẵng giống ai, bà rưng-rưng nước mắt, mẹ ở được hơn tuần lễ thì vợ chồng đi thu-hoạch lúa rẩy, nhờ rẩy mới nên lúa tốt cũng trúng mùa, thu-hoạch 5 sào được 25 bao 50, chở về chuyến xe bò đầy, mẹ thấy cũng mừng, vợ chồng phải đi làm liên-tục, bà ở nhà với cháu bỏ tranh ra đánh hom sáu cả hai tuần lễ mới hết đống tranh, tôi sắp lại đếm được 400 tấm, mỗi tấm dài 1m20, tấm lợp đã đủ.
Công việc hơi vản, tháng 10 trời hết mưa, nhờ ông Khiêm một tay với tôi dỡ đống cây ra làm thợ mộc cưa ngàm đục lổ ráp 4 vài kèo làm nhà ba gian dài 6m ngang 4m làm mộc xong, buổi sáng sớm nhờ ít anh em trong xóm đến phụ dựng lên bỏ đòn dông chống chỏi vững vàng, anh em về nhà ăn cơm đi lao-động. Một mình tôi cắm cúi đóng hết đòn tay, làm hai mái rui tre đóng đinh buộc dây cưa tề bằng phẳng ngắm mấy hàng cột sửa lại cho thẳng nện cứng. Đóng bổ vách cột sườn vào để vắt vách đất.
Dở đống tranh ra tề đầu bằng phẵng chải sạch sẽ sắp có hàng lối tưới nước lên, cho tấm tranh nở cứng khi lợp đưa lên mái nhà khỏi tuột ra.
Tôi chuẩn bị sườn nhà sườn vách tiêm-tất, đi cậy nhờ anh em bạn-bè cũ và anh em trong khu-vực có ông Hải, ông Yến, ông Một ông Khiêm tập trung lại giúp cho, người lợp mái kẻ vắt vách ai biết việc gì làm việc ấy, làm một ngày là xong, buổi trưa nghỉ dùng cơm làm lại buổi chiều là hoàn tất, rửa tay chân bồi-dưỡng một chầu nhậu xã-giao, vui-vẻ, anh em không tính công cán gì, chỉ giúp đở nhau mà thôi, tôi cũng có lời cám ơn tất cả. Hôm nay có cái nhà tranh vách đất chắc-chắn cao-ráo rộng-rãi hơn, cái ở cũng tạm ổn, chỉ còn lo cái ăn.
Bắt tay vào làm kinh-tế vô sông Lạnh xẻ núi lấp suối làm ruộng lúa nước ngắn ngày, ngăn đập sông Lạnh làm thuỷ-lợi, đứng ra hô-hào bà con cùng làm. Sửa sang lều trại chắc-chắn, cha con ở làm có khi hai ba tuần khi một tháng mới về thăm mẹ, thăm nhà một lần, vợ sớm đi bộ vào làm một buổi chiều đường xa lo về sớm với con, tôi có về thì nghỉ tại nhà qua đêm sáng mai cũng đi ngay. Bà ở nhà với cháu bé, con dâu đi làm liên-tục, ít khi được ở nhà mẹ con chuyện-trò, thấy vắng-vẻ phần nữa xa lạ bà buồn quá nhớ quê, nhớ hai đứa con còn ở ngoài xứ bà đòi về, tôi giữ lại không cho, cầm chân bà được sáu tháng, có dượng Sinh con rễ của bà vào thăm, bà quyết một đòi về với dượng Sinh, tôi cũng phải chịu để mẹ về quê sống với hai em được bảy năm, rồi bà cũng đi theo ông. Kể từ năm 1987 tôi mất hết cả cha lẫn mẹ, cha thọ 70 tuổi, mẹ thọ 72 tuổi.
Của PHAN-VINH.
HỒI-KÝ
LỜI NÓI ĐẦU
Mùa mưa gió ruộng đồng ngập lụt. Ở nhà rảnh-rỗi thất nghiệp chẵng có việc gì làm, xem sách báo lâu cũng hết chẵng kiếm đâu ra tiền để mua thêm, mở truyền-hình coi ngày nọ qua ngày kia cũng chán, đi nhậu thì bạn-bè trang-lứa hợp gu đã chết gần hết, còn lại một vài người già-yếu bệnh-tật kiêng-cử từ-chối. Con cháu ăn ở vẫn còn đông, ban ngày mỗi đứa một việc đi tẩu-tán chẵng còn ai, nhà cửa trống-vắng.
Tuổi già thấy cô-đơn lạnh-lẽo có khi hơi buồn. Tôi nghĩ một cách, thời-gian rảnh-rổi vắng-vẽ này nên làm một việc gì đó có ý-nghĩa của đời mình để lưu lại cho con cháu đọc, hiểu và thương mình hơn sau khi mình không còn trên thế-gian này nữa. Tôi nghĩ ra ý định ngồi viết hồi-ký, từ trước cho đến bây giờ, tôi chưa hề viết được một bài văn bài thơ nào cả. Đây là do tôi động nảo nhớ ra những sự việc quá khứ và hiện tại của bản-thân, bạo tay viết ra trong khoảng thời-gian sáu mươi lăm năm cuộc đời do bản-thân hành-động và những điều tai nghe mắt thấy của thế-kỹ 20 qua thế-kỹ 21.
Những câu văn ghi lại chất-phát mộc-mạc của tâm hồn nông-dân, hoàn-toàn sự thật để con cháu đọc cho vui, tìm hiểu cuộc đời tôi thời còn trai trẻ sống trong hai cuộc chiến-tranh gian-nan, vất-vả, nguy-hiểm như thế nào ? Khi thất cơ lở vận khốn-đốn cùng-cực như thế nào ? Khi được tự-do làm ăn sinh sống phải nổ lực gắng sức làm sao để vươn lên với mọi người.
Đất nước trên đà phát-triển, con cháu có khi nó cũng giàu có lên, sẳn tiền ăn chơi trác-táng, đọc quyển hồi-ký này tôi tin rằng nó có thể ăn-năn giảm bớt một phần nào. Nếu đứa con có văn-hoá biết hiếu-thảo nó sẽ sống tốt hơn.
Cũng để làm quà tặng bạn-bè thân-mật xem cho đở buồn, nếu người ngoài có ai đó cầm được xem qua nhận xét tôi có viết gì sai trái không hài lòng quí vị, đó là sự trùng-lặp, ngoài khả năng trình-độ hiểu-biết của tác-giả, chỉ vô-tình không cố-ý.
Có câu nào sơ-xuất độc-giả không được hài lòng, tôi xin chân-thành nhận lỗi. Kính mong sự góp ý phê-bình của quí-vị, xin thành-thật cám ơn.
Bùi-Chu, ngày 20 tháng 9 năm 2003.
Tác giả : PHAN-VINH
Ngày 02 tháng 8 năm 2003 khai bút viết quyển Hồi-Ký này.
HỒI KÝ
PHAN-VĂN-VỊNH
CHƯƠNG I : TUỔI ẤU-THƠ & THỜI NIÊN-THIẾU
BÀI 1 : BỐI-CẢNH , THỜI-GIAN, SỰ VIỆC.
Sinh ra và lớn lên ai cũng có quê-hương, dù có đi khắp năm châu bốn bể họ cũng đều nhớ về quê-hương, có quê-hương mới khôn-lớn, nhớ quê-hương mới nên người, tôi tự giới-thiệu về quê-hương đôi nét.
Quê-hương tôi tính theo đường bộ từ Nam ra Bắc, quý-vị khách bộ-hành, du-lịch, hoặc cô bác, anh chị em, bạn-bè, con cháu, có dịp nào đó trên đường đi ngang qua địa-phận Tỉnh Thừa-Thiên. Địa đầu ranh-giới từ đèo Hải-Vân trở ra, nên để ý nhìn xem phong-cảnh hữu tình, núi cao biển xanh cảnh đẹp như một bức tranh sơn thuỷ.
Đi xe lửa qua khỏi đèo Đồng-Nhất đến ga Lăng-Cô, tàu chạy trên đường sắt men theo chân núi đến Hói-Mít bên trái dãy Trường-Sơn, bên phải đầm Lập-An, tàu chui qua khỏi cái hầm ngắn đó là quê tôi.
Nếu quí vị đi xe hơi xuống khỏi đèo Hải-Vân đến cầu Lăng-Cô cở 10 cây số là đỗ dốc hết đèo Phú-Gia, nhìn bên phải có nhà dân-cư dọc theo Quốc lộ 1 A là làng Phú-Gia, qua đoạn 850m bên phải có ngã ba Chân-Mây là con đường xuống hải cảng độ chừng 200m, áp sát đường hướng bắc đó là nhà ông Phan-Tường em ruột của tôi. Cha mẹ tôi ngày xưa còn trẻ đã sinh ra tôi tại đây vào ngày 16 tháng 10 năm 1939, nhằm năm Kỹ-Mão cầm tinh con mèo. Đó là nơi chôn nhau cắt rốn, có họ hàng, bà con, làng xóm quê-ương tôi.
Từ ngã ba Chân-Mây chạy theo quốc lộ 1 A đến Thừa-Lưu xã Lộc-Tiến là xã quê tôi. Xuôi theo đường đến Nước-Ngọt là xã Lộc-Thủy, qua đèo Phước-Tượng đến Cầu-Hai huyện Phú-Lộc, huyện quê tôi. Tiếp nữa Đá-Bạc, Truồi, Nong, Phú-Bài, Hương-Thủy, An-Cựu, thành phố Huế tỉnh Thừa-Thiên là quê hương tôi.
Khi tuổi ấu-thơ và niên-thiếu của tôi nằm trong thời-kỳ thực-dân phong-kiến, phát-xít Nhật đổ bộ cướp nước đè đầu cởi cổ. Kết thúc Đệ nhị thế chiến, Việt-minh lên nắm chính-quyền 1945. Qua 1946 tôi mới lên 8 tuổi, còn nhớ cha cỏng chạy giặc, ban đêm leo lên núi Khe Hang để trốn quân Pháp tái chiếm Việt-Nam. Lúc này tình-hình chính-trị rất rối-ren, toàn dân cả nước phải nỗ-lực đóng-góp tối đa từ tinh-thần lẫn vật-chất để cực-lực chiến-đấu chống quân Pháp. Quê-hương tôi hướng đông giáp biển, hướng tây sát núi Trường-Sơn, làng nằm giữa, có đường quốc lộ 1 A và đường xe lửa áp sát với làng bên trái hướng tây.
Thời chống Pháp trên địa-thế này là vùng xôi đậu, ban ngày của Pháp, ban đêm của V.M. Nhân-dân sinh-sống rất vất-vã, chật-vật, bị uy-hiếp đủ điều. Nhưng vẫn cứ bám đất bám làng để sống, góp phần chiến-đấu anh-dũng, chống quân Pháp suốt 10 năm gian-khổ, đến 1954 mới được đình-chiến, chứ chưa phải hòa-bình độc-lập. Trong khoảng thời-gian nói trên, gia-đình tôi rất khó-khăn, năm sáu tuổi đầu đã biết ra đồng mò cua bắt ốc hái rau, để gia-tăng bữa cơm đạm-bạc hằng ngày, lợi-dụng đi làm công việc nầy để nghịch bùn bơi sông tắm suối cho thỏa-thích. Kỹ-niệm một ngày anh em đi tát cá mò cua còn nhớ mải suốt đời, tôi với anh Doãn con ông bác rũ nhau vào phía trong đường rầy xe lửa ngang cầu 8 thước, be bờ quanh một góc ruộng. Hai anh em hì-hục tát hơn giờ đồng hồ mới cạn nước thì người đã mệt nhoài, đứng hết muốn nổi nên phải ngồi bẹp xuống sình để mò cua bắt cá. Anh Doãn mò mãi-mê thế nào mà một con đỉa trâu to bằng đầu chiếc đủa chui tuột vào hậu-môn của anh, cảm giác nhột-nhạt sờ tay nghe trơn lạnh. Anh kêu tôi : "Ĩa em ơi ! mi xem giúp tau hình như có con đỉa đang chui vào đít". Tôi vội-vàng chạy lại bảo anh chổng mông lên để xem thì thấy nó đã chui vào hết hai phần con, chỉ còn thò bên ngoài cở một phần, nhìn kỷ đúng là một chú đỉa trâu, nhanh-nhẹn thò tay dí hai móng bấm thật chặt cố gắng lắm mới kéo nó ra được. Hai thằng nhìn nhau sợ quá không dám mò nữa đi qua vũng cầu tắm rửa ra về.
Nhớ lại những lời kể chuyện của bà nội, đỉa mà chui vào lổ tai là nó ăn hết óc rồi đẻ đỉa con đầy đầu, chui vào bẹn, vào hậu-môn hút hết máu làm chết người, sợ quá từ nay về sau không dám ngồi bẹp xuống sình mò cua bắt cá nữa.
Năm 1945 anh em tôi được 7 tuổi đời, bác cho anh Doãn đi học trường Dì Phước dạy cạnh nhà thờ Đạo Công-giáo của ông Cố Vị, Cố Phương ngoài Tam-Vị. Từ nhà ra đến trường học độ chừng hai cây số có đi qua một cái cầu leo nguy-hiễm, đi không cẩn-thận là lọt tỏm xuống sông, bác gởi anh Doãn cho chị Xuyến và anh Khuê dắt qua cầu lúc đi cũng như khi về.
Còn tôi đã đến tuổi đi học mà chẵng được đi, vì không người giữ nhà trông em để cha mẹ đi làm công việc đồng-áng, một phần đường sá qua cầu nguy-hiễm, nên cha mẹ tôi chưa cho đi học.
Cách-Mạng mùa thu năm 1945 dành được thắng-lợi, nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa ra đời, mới có phong-trào bài trừ giặc dốt, Bác Hồ kêu-gọi toàn dân phải đi học từ già đến trẻ bắt buộc phải đọc thông viết thạo chữ quốc-ngữ. Ba tôi ngày đi làm lụng tối lại phải tập trung đến trụ-sở tham dự khoá học Bình-dân học-vụ, do Thầy khóa Nhượng dạy. Hồi đầu cha tôi mới học hai mươi bốn chữ cái, ông học được chữ nào về truyền dạy lại cho tôi. Thế là tôi được cha tôi làm thầy khai-trí học vở-lòng đầu-tiên. Tôi học tới học lui hai mươi bốn chữ cái mà u-mê đọc trước quên sau. Cha tôi có một cây roi mây nhỏ xíu bằng chiếc đủa, dài cở một mét rưỡi, đầu roi có chùm rễ xoè ra để ông cầm mà đánh. Một bữa nọ ham đi chơi rong quên hết, chiều ông đi làm về, khảo bài không thuộc, nổi nóng rút roi phết vào lưng lằn ngang lằn dọc đau điếng người. Mẹ thấy tôi bị ăn đòn xót ruột lắm, nhưng chẵng dám cự-nự ông một lời để an-ủi. Bà nghĩ rằng ông cũng thương con nên phải răn-đe đánh-đập cho nó nên người.
Tháng 2 âm-lịch mùa Xuân năm 1946, trong xóm có hai ông bà gia-đình khá giả mời gia-sư dạy học trong nhà cho con cháu của họ, dạy cả chữ quốc-ngữ lẫn chữ Hán. Được cha dẫn đến lớp học, trước xin hai ông bà chủ chấp-thuận, sau gởi tôi cho thầy dạy-dỗ. Đầu tiên thầy đặt tên cho tôi là Phan-Vinh, thầy dạy lễ phép chào kính người trên kẻ dưới, đã là học trò không được nghịch phá, tham-lam, trộm-cắp của bạn-bè, phải đoàn-kết thương yêu chỉ vẽ lẫn nhau, biết thi-đua học tập cho tốt.
Thế là năm nay tôi mới được ngồi lớp học tại trường có thầy giáo dạy, nói là trường chứ một gian chái gạnh ra bên hông nhà trên của hai ông bà chủ, kê mấy bộ bàn ghế thô-sơ, cả lớn bé đều ngồi chung một lớp. Học với Thầy Khóa Nhượng được tám tháng tập viết chữ ghép vần tiếng Việt, xem sách chữ in chưa thông-suốt, thì thầy xin nghỉ dạy về quê-hương gia-đình của thầy ở làng Thổ-Sơn.
Khi thầy còn dạy học tại làng Phú-Gia, tuổi thầy đã cao nên già yếu, ngày thì dạy lớp học trẻ từ sáng đến tối mới được nghỉ. Một lớp học trên dưới khoảng hai mươi trò lớn nhỏ, trình-độ cao thấp khác nhau, thầy soạn bài viết bài cũng vất-vả, tối lại bắt buộc thầy phải đi dạy học bình-dân học-vụ, sức thầy chịu đựng không nổi, nên thầy xin ông bà chủ cho nghỉ về nhà. Không còn thầy dạy sự học của tôi bị gián-đoạn từ đây, ở nhà đi chơi long-nhong. Dạo nầy em gái tôi đã biết bồng em giữ nhà nấu cơm, tôi giao việc cho em tôi làm, chạy rong nghịch phá. Cha tôi thấy vậy, đến gia-đình cùng xóm có một bầy trâu rất đông, năn-nỉ hai ông bà chủ xin chăn rẽ một nái để gầy giống và cày ruộng, đẻ nghé con thì chia ba, chủ hai còn người chăn giữ một. Được ông bà chủ chấp-thuận, làm giấy hợp-đồng dắt trâu nái mẹ về nhà, bắt đầu tôi được làm mục-đồng chăn trâu không còn rảnh-rỗi đi chơi rong lêu-lổng nữa. Làm mục-đồng chăn trâu có nhiều bạn-bè cũng thích-thú. Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ, được ngồi lưng trâu, được sờ đuôi trâu. Hằng ngày được ngồi trên lưng trâu di-chuyển một vài cây số là thường. Khi đến bãi chăn thả, bày ra các trò chơi như : đánh đu, đánh đáo, đánh bi, đá cầu, đá bóng, múa gươm múa gậy, chạy ô-ba, xúi nhau vật lộn, nghịch-ngợm đủ thứ v.v... Tôi đi chăn liên tiếp ba năm, trâu mẹ đẻ cho được hai chú nghé đực, một con ba tuổi, một con hai tuổi mập-mạp dễ thương, tôi yêu-mến chúng lắm.
Tháng 9/1950 lính Pháp mở cuộc hành-quân ra xóm Tre, xóm Đình làng Phú-Gia. Không hiểu mấy ông du-kích địa-phương dàn trận đánh thế nào bị thất-thế để chúng vây bắt được một ông, trói tay dắt về đồn Thừa-Lưu theo đường quốc lộ 1 A. Lính Pháp nhìn thấy năm bầy trâu chăn gần đường lộ ngã ba Chân-Mây bây giờ. Một ông quan hai người Pháp chỉ tay vào đàn trâu đang gặm cỏ la om-sòm, ra lệnh cho mấy tên Việt-gian đi theo Pháp lội xuống ruộng dí súng bắt anh em tôi đánh hết trâu về đồn, nó lấy cái cớ trong làng có V.M.
Lùa hết năm bầy trâu lên đồn Thừa-Lưu nhốt hết vào trong hàng rào đồn-luỷ của chúng, đóng chặt cổng trại rồi đuổi anh em tôi đi về. Tôi tiếc nuối buồn rầu, lủi-thủi ra về vừa đi vừa khóc, vì thương hại cho hai con nghé bé-dại yêu-quí của tôi. Hai anh em tôi với Sinh về đến cống Gạo tai nghe phía sau có tiếng xe chạy. Ngoảnh lại nhìn thấy một chiếc xe Dodge chở đầy lính súng-đạn mã-tấu, mấy anh lính người Việt kêu to : Ê, hai thằng tê. Tôi tưởng nó cho quá giang về làng, hai anh em co giò chạy theo cở năm mươi mét xe nó từ từ dừng lại tại cống Gạo ngang xóm Rú là xóm Núi, dắt xuống xe hai người bịt hết con mắt đưa xuống bờ ruộng gần suối để đứng tại đây. Mấy thằng lính người Việt nói hai thằng mầy đứng đó coi tụi tau cho hai thằng V.M. về chầu Diêm-vương. Tụi lính đánh thuê cho Pháp toàn người Việt, cả một tiểu-đội nó nằm sấp xuống đường lộ, ôm súng Mas 36 lên đạn nghe rốp-rốp. Thằng quan Tây ra lệnh bắn, chúng bóp cò súng nổ liên-thanh, đạn bay trúng vào người của hai ông nhảy cẫng lên trời rồi nhào đầu xuống đất dẫy chết. Tụi nó buông súng, xách mã-tấu chạy xuống bờ ruộng chặt đầu. Tôi nghe tiếng mã-tấu chạm xương cổ kêu cốp-cốp. Khi đầu lìa khỏi xác chúng xách lên đường, leo lên chạng ba của cây mù-u lớn trồng bên đường lộ để đầu lên đó, nhét vào miệng mỗi ông một điếu thuốc lá trắng lốp, rồi tụt xuống leo lên xe tài-xế lái chạy về đồn. Bạn Sinh nhìn thấy có run hay không lúc ấy tôi chẵng để ý. Riêng tôi thì mặt mày tái mét run cầm-cập hồn-vía bay hết lên ngọn cây. Thật căm-thù cho cái quân độc-ác, người Việt giết người Việt, tôi ngao-ngán cho đời có chiến-tranh xâm-lược. Anh em lủi-thủi đi về mà thương tiếc tội nghiệp cho hai ông ấy. Đêm hôm đó hể tôi nhắm mắt ngủ là mơ-màng ác mộng trước mắt nhan-nhản cảnh tượng hiện ra khi mình được chứng-kiến sự giết người tàn-bạo của bọn thực-dân Pháp.
Ngày hôm sau có một số cụ già lụ-khụ 65 tuổi trở lên 70, 80 tuổi, mặc quần dài trắng áo dài đen, chân mang guốc, đầu chít khăn đóng, che dù đen đội nón trắng, rủ nhau cuốc bộ lên Đồn Thưà-Lưu xin lại năm bầy trâu. Nghe mấy cụ đi về kể lại tụi Pháp không thèm tiếp, nên chẵng thương-lượng gì được.
Cách năm sáu ngày sau, vì trâu bị nhốt lâu ngày quá đói khát, phần nó sợ giết thịt, nên ban đêm xé rào tẩu-thoát về làng. Mỗi bầy bị giết hai hoặc ba con trâu tơ mập, để tiếp-tế cho lính Pháp ăn khắp cả địa bàn đồn trú trong huyện Phú-Lộc. Bầy trâu của tôi gồm ba con hai chú nghé dễ thương của tôi đã bị chúng giết thịt, chỉ còn lại con trâu mẹ già ốm về được. Tháng giêng năm sau bị một trận dịch nó cũng chết luôn, thế là toi cơm mấy năm chăn-dắt dãi-dầu mưa nắng.
Tháng 2 năm 1951, khủng-hoảng kinh-tế gia-đình vì quân Pháp chẵng cho cày ruộng cấy lúa trong đường quốc lộ 1 qua đường xe lửa giáp chân núi, vì chúng sợ phá đường giao-thông xe tàu. Hết gạo ăn thất nghiệp dói khát khuẩn-bất, cha tôi cũng trốn làng vào Lăng-Cô theo bác tìm việc làm kiếm sống, tiết-kiệm tiền gởi về cho mẹ nuôi anh em tôi. Vào được Lăng-Cô cha tôi nhờ bác kiếm việc, xin với ông Cửu-Sang làm bốc-xếp các đốt gỗ to tướng do trâu bò kéo trên rừng về để tại ga tàu lửa Lăng-Cô. Ba đến bốn chục người mới lập thế kéo lên toa tàu được một đốt súc Chò-chai to tướng nặng trịch, để ông chủ đưa vào Đà-nẵng hoặc ra Huế bán cho các trại mộc đóng đồ gỗ, mới có tiền mang về phát lương cho cu-li.
Còn mẹ tôi ở nhà đi khắp làng tìm hỏi mua tre chặt vác về, cây dài cưa làm bốn, cây ngắn cưa ba, tuỳ theo thước tấc mà cưa cho phù hợp, bó lại đưa lên vai vác đi, đến ga Thừa-Lưu bỏ lên toa tàu, mua vé và cước-phí, rồi chở vào ga Lăng-Cô bán lại cho mấy ông thuyền chài để họ đan dụng cụ đi làm nghề, kiếm tiền lời về đong gạo nuôi con, cứ sáng đi sớm chiều về nhà với con cái. Có bữa mua không có tre thì chặt một cây chuối nặng trịch một chuyến vác. Năm nay có chị Hai con của bác Cả chồng chết sớm không có nhà ở, một tay phải nuôi hai đứa con trai còn bé dại, ở chung trong nhà. Sáng sớm thím cháu vác chuối đi với nhau. Chị Hai khỏe hơn vác cây to, mẹ yếu hơn vác cây bé vừa, phải đi năm cây số mới đến nhà ga xe lửa bán cho thương-lái mua chở vào Lăng-Cô bán lại cho các người nuôi heo. Thời ấy nuôi heo mọi cho ăn toàn rau lang và chuối cây, làm gì có thực phẩm hổn-hợp như bây giờ.
Mẹ và chị bán được tre và chuối thì đong gạo về ăn được trong ngày, mai lại đi làm tiếp, cứ thế mà cứu gia-đình qua khỏi cơn đói khát ngặt-nghèo. Thời-gian cha vào Lăng-Cô làm việc ở nhà nhớ cha quá, xin mẹ cho đi theo vào ga Lăng-Cô thăm cha. Xuống tàu đi đến chỗ cha đang bốc cây, thấy cha lao-động nặng-nhọc vất-vã thương cha quá.
Một hai lần đầu vào thăm cha xong lên tàu về lại với mẹ. Lần sau nữa xin cha ở lại, ở với bác, chiều tối cha đi làm về ăn ngủ với cha. Mấy ngày sau cha đi làm, tôi ở nhà theo anh Doãn sang ga Lăng-Cô bán nước cho lính Pháp đi lại trên xe lửa. Anh Doãn thì khôn-ngoan lanh-lẹ hơn, anh chỉ-vẽ cho mà làm đi săn-nhặt vỏ chai thuỷ-tinh súc rửa cho sạch, hái lá bàng non vò nát nấu đậm đem pha trộn với nước lã cho có màu nâu lợt giống nước chè, đổ vào chai đóng nút kỹ, năm bảy chai bỏ hết vào giỏ cói mang đi rao bán. Chẵng thấy thằng Tây nào chịu mua bằng tiền, nó chỉ trao-đổi mà thôi, nó đổi cho phong bánh Bítqui, bánh kẹo, ổ mì, hộp cá hoặc hộp thịt nhỏ, nhiều ít cũng đổi. Có một vài thằng Tây xấu bụng kêu đưa nước cho nó, nó đỗ đầy binh đông, rồi nó đuổi mình đi chổ khác chẵng cho cái gì, hận quá chửi đ. m. mi, nó chẵng hiểu mình nói gì. Hôm nào lính Pháp đi hành quân đông trên tàu đổi được nhiều thứ. Cái nào còn nguyên vẹn bao bì tốt, đem bán lại cho mấy mụ bán quán lấy tiền, thứ không có bao bì thì để dùng hoặc mang về nhà cho các em.
Tháng 5 năm 1951 đến mùa lúa chín ở quê, mẹ bắt tôi vào Lăng-Cô kêu cha trở về làng thu-hoạch vụ mùa đông-xuân, cha con cùng về với nhau, dạo nầy không vào ở Lăng-Cô nữa. Thỉnh-thoảng cha con vào thăm hai bác và các anh chị một bữa, rồi trở lại sinh sống với xóm làng.
Mùa xuân năm 1952 thầy Khóa Sinh mở lớp dạy học hai thứ chữ Hán Việt, ai muốn học chữ gì tuỳ ý thầy vẫn dạy. Con nhà khá giả xin học cả hai thứ , tiền thầy mua sắm giấy bút phải gấp đôi. Nhà nghèo nên cha chỉ nhờ dạy một thứ chữ Việt mà thôi. Mẹ mua sắm cho đầy đủ giấy bút, may cho một bộ áo quần mới, một cái mủ đan lát thủ công bằng sợi cói, để đội đầu đi học che mưa nắng. Cha dắt đi đoạn đường năm cây số mới đến nhà ông Bân tại xóm Bàu làng Trung-Kiền nơi thầy dạy học gởi cho thầy. Tại xóm Chùa tức là xóm của tôi ở, chỉ có tôi với bạn Khảm được cha mẹ cho đi học mà thôi, các bạn trang lứa vì nhà quá nghèo không có cơm rau để ăn còn nói gì đến việc học hành, chỉ cho đi ở chăn trâu bò cho các nhà giàu kiếm cơm ăn để sống mà thôi.
Dạo nầy tôi với bạn Khảm sáng sớm cơm nước xong, cắp sách đội nón, mang theo một bữa cơm trưa, cuốc bộ bằng hai bàn chân trần năm cây số mới đến trường. Lớp học đến trưa nghỉ ăn cơm, học lại buổi chiều, vì đường xa thầy cho hai anh em được ưu-tiên nghỉ sớm, lại cuốc bộ năm cây số mới về thấu nhà. Cứ ngày qua ngày hai đứa cuốc bộ mỗi ngày mười cây số, mỗi tháng chỉ được nghỉ hai ngày rằm và mồng một âm lịch. Theo học một năm với thầy Sinh biết đọc biết viết, biết làm những bài toán cộng trừ.
Mùa xuân năm 1953 thầy khóa Thúy ở làng Bình-An lên mở lớp dạy học ở làng Thổ Sơn ranh giới sát làng Phú-Gia gần đường đi hơn, nên tôi từ-giả thầy Sinh về học với thầy khóa Thúy. Bạn Khảm cũng theo tôi học thầy mới bỏ thầy cũ, hai anh em tôi học cùng lớp chữ quốc ngữ. Thầy khóa Thúy dạy tốt hơn thầy khóa Sinh, ông nầy dạy giỏi học trò dễ hiểu mau tiến-bộ. Học với ông được năm tháng, đến tháng 6/1953, chợ Thừa-Lưu ban đêm tự nhiên bị hỏa-hoạn thiêu rụi, phải kiến-thiết lại chợ mới. Xã nhờ thầy viết văn tế lễ Khánh-thành chợ, viết bằng chữ Hán. Không biết thầy viết những gì trong tờ văn tế mà bị vi phạm chính-trị, thầy bị bắt đi tù. Thế là anh em tôi phải nghỉ học, vừa tiếc nuối mình bị nghỉ học dỡ-dang, vừa thương thầy không biết thân phận thầy tù-tội nơi đâu mà thăm-viếng.
Văn-chương phú-lục chưa hay,
Không thầy dạy chữ, phải học cày cho xong.
Tôi lại tiếp tục đi chăn trâu cày ruộng. Mùa xuân năm 1954 chiến tranh gần ngày kết-thúc rất ác-liệt. Lính Pháp đốt hết nhà cửa, cưởng bức cả làng phải di-cư lên làng Trung-Kiền khu-vực trảng trống, cho ở tập trung tại đây, chia lô cất lều trú-ngụ. Được cha cho học lại với thầy Sinh ít tháng, thì Pháp bị Việt-Minh đánh bại tại Điện-Biên-Phủ ngày 07.5.1954. Đôi bên được lệnh đình-chiến do hội nghị Giơ-ne-vơ (Thuỵ-Sỉ). Cả làng được cho về lại chốn cũ làng xưa, tôi cũng tạ-từ thầy về làng nghỉ học.
Năm nay tôi vừa được mười sáu tuổi đời, cùng cha dở lều chuyển về làng sinh sống. Tuy hoà-bình nhưng đất nước vẫn còn chia đôi lãnh-thổ. Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, miền Nam từ vĩ tuyến 17 cầu Hiền-Lương trở vào. Mỹ đưa cụ Ngô về làm Thủ Tướng miền Nam, cũng mở ra chiến dịch và các chính-sách để ổn-định lòng dân, viện-trợ cho dân nghèo đói, xóa nạn mù chữ v.v...
Thời gian nầy anh Sanh còn trẻ tuổi đẹp trai, con nhà giàu học giỏi. Anh tự nguyện làm việc nghĩa, đứng ra mở lớp dạy học bình-dân ban đêm cho con em mù chữ trong xóm chùa, học tại nhà ông Đê, mệ Đỉu. Ban ngày đi làm ăn, tối tập trung lại anh dạy cho học đến 23giờ mới giải-tán ra về. Trong lớp học được bốn anh em có trình-độ hơi khá ngang nhau, anh tách riêng ra Phan-Vịnh, Trịnh-Quyền, Lê- Diên, Hứa-Khảm dạy riêng chương trình học cao hơn và khuyến- khích thi-đua để học tốt. Trong-thời gian thọ giáo với anh trình-độ văn-hoá của tôi và các bạn cũng được nâng cao lên một ít, dù ít hay nhiều tôi cũng nhớ ơn anh ấy. Cho dù một chữ cũng thầy nửa chữ cũng thầy, nhờ vậy mà khi vào đời đi xa gia-đình cũng có mang theo chút ít văn-hóa tối thiểu để làm hành trang xử lý cho đời mình.
BÀI 2. MÁI NHÀ XƯA LÀNG XÓM CŨ
Từ năm 1955 đến năm 1959 tôi vẫn sinh sống với gia-đình làng xóm tại quê-hương. Khi đã được hồi hương về xóm cũ làng xưa, cha tôi dựng tạm lên một túp lều tranh cỏ che mưa nắng tạm thời để lo bắt tay vào làm kinh-tế ruộng vườn. Sau thời-gian một năm, kinh-tế gia-đình tạm ổn.
Vì cuộc chiến-tranh gần kết thúc nên rất căng thẳng ác-liệt. Pháp cưởng bức làng phãi dở nhà di cư ở tập trung cho chúng dễ kiểm sóat. Làng tranh-đấu không chịu dỡ nhà, chúng nổi nóng ra lệnh cho bọn tay sai phóng hỏa dốt sạch. Nhà tấm lợp tranh cỏ dễ cháy, mái nhà xưa chỉ còn một đống tro tàn. Toàn cả làng cùng chung số phận như nhau. Chỉ còn lại một cái nhà mái ngói có tường gạch của ông bà Sắc-Đ... Ông bà biết thương-lượng xin với Pháp nói là cái nhà thờ của gia-tộc, nên nó tha không đập phá, sau ngày đình-chiến gia-đình ông bà hồi hương về ở tốt lành nguyên vẹn, chỉ có một vài vết đạn nhỏ không đáng kể.
Toàn cả làng ai cũng dựng túp lều ở tạm, làng yêu cầu xã cho phép lên rừng khai-thác gỗ về cất lại nhà ở được chấp-thuận. Trong khi đi khai-thác phải làm đơn Thôn-trưởng chứng thực mang lên Xã phê chuẩn thuận cho, mới được mang theo lương-thực ở lại ăn làm. Nếu ai không xin tự tiện mang lương-thực đi bị Công-an chế-độ cũ xét gặp quy cho tội tiếp tế V.C, bị tù mục xương.
Mỗi đợt đi làm phải xin phép gia chủ gánh theo lương-thực, thợ rừng mang theo rìu, rựa, cưa, đục. Lộ-trình phải chui qua hầm tàu lửa Phú-Gia, thẳng đường rầy vào đến khe Bạch-Xà leo dốc núi đi mải cho đến trại Hang. Đây có một cái hang đá to ở được, mới dừng chân hạ trại ở lại cả tuần lễ đốn hạ cây to cưa xẻ ra thành kèo cột phách gỗ, đục lỗ bịn xỏ dây cột chặt kéo xuống núi vác ra đầm kéo về gần cửa hầm tàu mới vác vai đi về nhà. Đoạn đường đi trên núi dốc và dưới đường đằm ước chừng hơn mười cây số.
Cha tôi thuê mướn thợ rừng đi khai-thác bảy tám lần mới đủ nếp nhà, vì làm nhà rường theo kiểu Huế cổ-điển nên kèo cột nhiều lắm. Cây gỗ đã đủ mướn thợ mộc ông Bộ-Hòa làng Thổ-Sơn làm thợ cả, ông Tỏ học trò phụ, hai ông cặm cụi cưa bào đục đẻo hai tháng trời mới dựng nhà lên được. Cha mẹ cũng chuẩn bị tấm lợp bằng cỏ tranh đánh hom sáu chải-chuốt sạch-sẽ, dây buộc lạt lợp cả năm sáu tháng trước mới đầy đủ. Sườn nhà cây gỗ được thợ mộc bào trơn đóng bén, mái lợp sạch-sẽ gọn-gàng, trông lên cũng mát mắt, vây chung quanh sườn tre tráp tranh lát kín đáo, được tạm ổn cả nhà ở khỏi sợ các cơn mưa bão khắc-nghiệt tại miền Trung.
Lúc này anh Sanh được làng bầu làm Thôn trưởng nên nghỉ dạy học, anh em tôi cũng nghỉ học. Thời-gian nầy ngày tôi đi làm việc nhà, tối phải xuống xóm tre nhà mệ Tình để dạy cho các em nhỏ học bình-dân, những em nhà nghèo không có điều kiện đến trường.
Anh Sanh làm Thôn trưởng chỉnh-đốn tổ-chức lại, phân chia làng ra bốn liên-gia, mỗi liên gia phải bầu một liên-gia trưởng, tổ-chức các đoàn-thể thì có các lão-ông, lão-bà, nông-dân, phụ-nữ, mỗi đoàn-thể phải bầu Ban Chấp-Hành để lãnh-đạo.
Đầu tiên tôi được bầu Chấp-hành Thiếu-niên. Năm 20 tuổi sung vào đoàn-thể thanh-niên, tôi cũng được bầu làm Ban chấp-hành Thanh-niên. Làm chức-vụ nầy thỉnh-thoảng nhận được giấy mời đi họp đại hội tại Xã, phải cuốc bộ năm cây số mới đến địa-điểm họp, thường tôi chọn một chỗ ngồi sau cùng để an toạ. Cán-bộ xã khai-mạc cuộc họp tôi chỉ lắng tai nghe thuyết-trình thao-thao bất tuyệt, nghe hơi êm tai gió bên ngoài thoang-thoảng thổi vào phòng họp hiu-hiu mát-mẻ, tôi đánh một giấc ngũ. Ngũ gật mê-man ngon-lành, không đề-nghị không ý-kiến cho đến khi bế-mạc ra về.
Khi có Lễ Song-Thất hoặc Quốc-khánh 7/7, 26/10... nhiệm-vụ phải xắp chữ dán băng rôn những câu tung-hô và đả-đảo, tôi không tiện viết ra đây đọc kỳ lắm.
Mỗi khi đi dự lễ tôi phải thân-hành vác băng cờ khi đi cũng như khi về, chỉ làm tay sai cho các cấp lãnh-đạo thôn và đoàn-thể. Ăn cơm nhà vác ống loa hàng tổng, chẵng có được một tiếng khen ngợi, quyền-hạn gì cả, thêm mất công bỏ việc của gia-đình. Đôi khi báo với cha ngày mai con bận đi họp, nhìn nét mặt của cha thấy ông không được vui, nhưng chẳng nói gì, tôi hiểu ông chẳng phải nể-nang gì tôi, mà ông chỉ sợ mang vạ vào thân vu cho cái tội phản-đối chế-độ.
CHƯƠNG II. BỔN-PHẬN CÔNG-DÂN
BÀI 3. BỔN PHẬN, GIA-ĐÌNH, XÃ-HỘI
Lúc nầy tuổi đã trưởng-thành phải làm nghĩa-vụ đầu tiên cho làng, vì làng tôi có hương-ước ấn-định : Mỗi người nam trong làng khi tuổi đã trưởng-thành, không sớm thì muộn phải qua một khóa (một nhiệm kỳ) một năm đầu-xâu cho làng (tiếng Bắc là anh mõ) làm tay sai cho làng, để các vị bô-lão và ông Thôn-trưởng sai-khiến khi có việc cần. Mời làng họp, đi quyên tiền tế-tự xuân-kỵ, thu-thường, tống-đạt giấy báo thuế nông-nghiệp, khi làng cúng-tế bưng cỗ đến nhà cho các vị bô-lão bị ốm-đau không đi dự tiệc được, bị sai làm đủ việc v.v...
Làm chức-vụ nầy là một tay sai mà thấy nhàn hơn chức-vụ trên. Được bàn-giao Ban chấp-hành Thanh-niên cho người khác, được miễn đi canh-gác ban đêm giữ an-ninh trật-tự trong làng. Thu xong vụ thuế nông-nghiệp lại được tiền thù-lao, ông Thôn-trưởng trích quỹ thôn cho 10$, tỷ giá tiền bây giờ cỡ 100.000$. Nhưng ông chẳng đưa trực-tiếp cho tôi, mà lại gởi cho cha mang về sung vào quỹ gia-đình để mẹ chi-tiêu việc chợ-búa.
Trong làng có người qua đời tôi cũng đi gánh đám đưa các vị đến nơi an-nghỉ cuối cùng. Chiến-tranh chống Pháp đến lúc ác-liệt, đình chùa bị bom đạn tan-tành, nên phải đóng góp tiền bạc công sức xây-dựng lại. Thành-lập Đoàn Gia-đình Phật-Tử để hương-khói tụng-niệm ngày rằm, mồng một Âm-lịch hằng tháng tôi cũng có tham-gia.
Năm 18 tuổi cha đi nói vợ. Phải làm rể 3 năm mới được cưới, công việc làm rể phải đi cày ruộng, vun luống khoai lang cao ngang thắt lưng cho gia-đình bên vợ, làm một ngày là oải ba sườn. Mang tiếng thanh-niên nhưng sức còn yếu, lao-động không kịp ông già vợ. Nhờ ông có lòng thương con rể nên chẵng trách-móc gì.
Tôi lấy vợ là do cha mẹ quyết-định, vợ chồng tôi chẵng quen biết trước và tìm hiểu gì cả, nhìn nhau như mặt trăng, mặt trời, do cái tội mắc cở, chứ chẳng phải chê-bai gì nhau. Làm rể đã lâu ngày, cha vợ thấy hai đứa chẵng tâm-sự gì với nhau. Tôi nhớ có một hôm ông gọi cả hai chúng tôi đi theo ông ban đêm để thăm chẹp (đó), ông dàn cảnh cho ngồi trên đường quốc-lộ, ông lội xuống ruộng đi mất, cở một tiếng đồng hồ mới quay trở lại, hai đứa tôi cứ ngồi im-lặng chẵng đứa nào nói năng một điều gì. Bây giờ nhớ lại mới buồn cười. Đến năm 1960 nhà cửa làm xong xuôi ổn-định, cha mẹ lo cưới vợ cho tôi, đang hội ý với nhau, tôi rình nghe, hai ông bà bàn-bạc việc sắm-sanh lễ vật. Bà nói theo thông-lệ của phong-tục, phải làm một đôi hoa tai chạm lọng một chỉ vàng y (vàng 24 ca ra) là một số tiền hơi lớn nhưng phải có. Ông nói thời nầy làm bông chạm lọng là xưa chỉ có mấy bà già còn đeo mà thôi, hiện nay tôi thấy con gái toàn đeo hoa tai bèo, mình đi đặt cho thợ họ làm đôi hoa tai bèo hợp thời-trang cho con dâu nó thích. Bà nói : Hơi đâu mà ông đi chiều con dâu, theo tôi nghĩ, bông tai bèo là để đeo đi chơi các lễ thường, còn đây là mình sính lễ cưới xin, nhà mình con cái hiếm-hoi mà nó là con trưởng nam, làm bông tai bèo đi cưới vợ răng được. Bà nói tiếp, ông không nghe người ta nói : Lênh-đênh bèo nổi trên sông, bềnh-bồng trôi dạt biết về nơi mô. Ông chịu thua lý của bà, nhất trí đặt làm đôi hoa tai chạm lọng. Lại bàn qua cặp áo cưới, phong-tục ở Huế áo cưới cô dâu phải mặc hai chiếc áo dài. Bà nói : Mình mới làm nhà cửa vừa xong tiền bạc cũng thút-mút, may cả cặp áo dài mua vải tốt lấy đâu ra tiền, còn phải sắm sửa cổ bàn nữa, ít nhất cũng phải mời bà con họ-hàng, làng-xóm, tính sơ cũng bốn mâm, đãi họ đàn gái đưa dâu hai mâm, con cháu trong nhà nữa, vị chi phải bảy tám mâm chớ phải ít sao, mà đi vay mượn thì cũng phải trả. Cưới rồi bắt con dâu đi làm trả nợ là tội nghiệp cho chúng nó, mà mình cũng mang lấy tiếng tăm. Tôi nghĩ ông bà sui và con dâu họ cũng hiểu cho hoàn-cảnh gia-đình mình. Ông bà nhất trí may cặp áo cưới bằng vải nội-hóa loại xoàng, bàn xong việc bông hoa mua sắm áo quần. Cha đi nhờ thầy xem ngày lành tháng tốt để tổ-chức đám cưới, năm 1960 là cha mẹ cưới vợ cho tôi, rước nàng dâu mới về chung sống với gia-đình, vài tháng sau cô em gái cũng cất bước theo chồng. Vợ chồng tôi đi làm lụng với nhau cũng vất-vã, hết việc đồng-áng lên núi chặt củi đốt than. Trở lại mùa cấy gặt thì làm việc đồng-áng, chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tương-lai mù-mịt, lấy nhau cả một năm mà chưa dám sinh con.
Lúc này lại nhận được lệnh gọi đi quân-dịch, phải đi trình-diện khám tuyển, Bác-sĩ khám chưa đủ sức-khỏe, Hội-dồng tuyển-binh cho hoãn lại năm sau sẽ xét tuyển. Ở nhà được một năm, qua năm sau có lệnh gọi lại, tôi nghĩ lần nầy là phải đi thôi. Đi quân-dịch thời ấy nhà nước chỉ nuôi cơm, chẵng có lương-bổng gì. Tôi lo-lắng nhà thì nghèo mà đi các thứ lính không lương lấy gì ăn tiêu, phần tiết-kiệm được đồng nào gởi về phụ giúp gia-đình. Tôi tính-toán suy-nghĩ chắc phải tìm lính gì có lương bổng đi đăng-ký trước, dù gì mình cũng phải đi làm lính, không sớm thì muộn, chẵng ai cho ở nhà với vợ mãi được đâu. Tôi nhất quyết phải bỏ lại cha mẹ, vợ, em, làng-xóm để ra đi làm bổn phận nam-nhi hồ-thỉ.
đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với vợ (mẹ) biết ngày nào khôn.
CHƯƠNG III. NGHĨA-VỤ QUÂN-SỰ
BÀI 4. ĐĂNG-KÝ LÍNH BIỆT-ĐỘNG-QUÂN MIỀN NAM.
Đầu-óc tôi đang suy-nghĩ tìm-kiếm đăng-ký vào binh-chủng nào cho có lương, thì gặp dịp Xã đưa thông-tư về làng phổ-biến nhà nước đang tuyển-mộ lính Biệt-Động-Quân ai muốn đi đến Tiểu-Khu Thừa-Thiên để đăng-ký. Sau khi bế-mạc cuộc họp của thôn, về nhà xin cha mẹ đi đăng-ký lính nầy. Hồi đầu cha bảo đi lính nào phục-vụ gần địa-phương, thỉnh-thoảng về thăm gia-đình vợ con, tau nghe cái lính nầy ở mải trong Sài-gòn xa-xuôi quá chớ nên đi, tôi phải lựa lời lẽ năn-nỉ phải trái mãi, ông bà mới xiêu lòng cho tuỳ ý. Xong chuyện cha mẹ, cũng phải bàn qua với bà xã vài câu cho hợp lệ, tài gì mà bà xã giữ được chân, khi lòng tôi đã quyết.
Trong khi sắp đi xa mẹ tôi sắm một mâm cổ, để cha cúng bái Tổ-Tiên Ông-Bà, cha tôi khấn-nguyện được ơn trên phò-hộ tôi được bình-an mạnh-khỏe, ngày ra đi có ngày trở lại. Cha cũng dặn-dò tôi đủ điều không thể nhớ hết nổi, chỉ nhớ vài câu đại khái, nên làm việc thiện lánh việc ác, khôn-ngoan xão-quyệt quá người ta cũng ghét, dại-dột thiệt-thà quá thiệt cho bản thân, con liệu mà ăn ở đối-nhân xử-thế cho phải đạo là tốt, điều cần nhất giữ-gìn sức-khỏe là quí hơn tiền tài vàng bạc, kể cả ngọc ngà châu báu cũng không sánh bằng sức-khỏe của con người. Câu cuối ông dặn thêm phải biết thương cha nhớ mẹ, thương vợ nhớ đến các em và quê-hương tình làng nghĩa xóm. Chớ nên vui-vẽ quá trớn mà quên hết lời dặn dò của cha và nhiệm-vụ của cấp trên giao phó, quên gia-đình là con lỗi đạo, quên nhiệm-vụ bị khiển-trách phạt tù tội không có cơ-hội tiến thân, tôi cũng hứa xin giữ lời cha mẹ dạy con không khi nào dám quên. Sau khi cúng-bái Tổ-tiên Ông bà xong, cha mẹ dọn đồ cúng xuống bàn, quanh-quẩn cả gia-đình dùng bữa cơm thân-mật, ngày mai xách gói lên đường. Đồng hành có ba anh em Vịnh, Sâm, Sơn đã cùng rủ nhau từ mấy hôm nay, khi ra đến Tiểu-khu Thừa-Thiên (Huế) ba anh em vào xin đăng-ký lính Biệt-Động-Quân. Ngày vào Phòng xét tuyển, Vịnh, Sâm đủ tiêu-chuẩn được thu-nhận, Sơn bị rớt vì quá thấp không đủ chiều cao, thất-vọng lủi-thủi ra về một mình buồn da-diết, hai anh em được trúng tuyển ở lại cũng ngậm-ngùi thương hại cho Sơn.
Trong năm nay có một số đông anh em trong làng đồng trang lứa, họ đã rủ nhau đăng-ký lính Bảo-An đi gần ngót, anh em tôi thấy ở nhà cũng buồn nên rủ nhau đi .
Tôi khám sức-khỏe đã trúng tuyển, hai hôm sau Ban-Tuyển binh thu nhận hồ-sơ khai-sinh vợ, hôn-thú, thẻ căn-cước, để thiết-lập hồ-sơ quân-bạ. Binh 2 Phan-Vịnh số quân 60/202.413 nhập ngũ ngày 07/9/1961 Binh-chủng Biệt-Động-Quân tại Tiểu-khu Thừa-Thiên. Nay tôi đã chính thức là người của quân-đội Chính-phủ miền Nam. Phải ở tập-trung tại Mang-Cá Huế để đợi tuyển-dụng cho đủ số-lượng, thời-gian chờ-đợi tại đây cả hai tháng trời nhà nước phải nuôi ăn, lần đầu tiên tôi được ăn cơm nhà binh tập-thể tại đồn Mang-Cá, ở đây nhà bếp cho ăn cũng tạm được. Mỗi ngày chỉ có hai lần tập họp điểm danh sáng và tối mà thôi, chẵng có làm công việc gì cả, tập họp kiểm-danh buổi sáng xong, rủ nhau kéo ra Phu-Văn-Lâu chơi bơi lội tắm giặt trên sông Hương, trưa về dùng cơm lại đi chơi tiếp. Có một số anh em nhà quê mới lên tỉnh lần đầu tiên còn ngáo-ộp, đi xa cha mẹ cho ít tiền mang theo hộ thân khi cần đến không biết giữ-gìn, bị bọn du-đảng bụi-đời làm cò-mồi dụ-khị đánh tráo bài ba lá, mấy anh có máu mê cờ-bạc moi tiền ra đặt xuống bị chúng tóm hết sạch vấy. Bên phe lính mới thì đông, tụi đánh lận bài tráo chỉ có ba bốn đứa nó ăn hết tiền đã đầy túi vội la lớn có Cảnh-Sát đến bỏ chạy mất tiêu. Phát-hiện gian-lận, biết nó nơi đâu mà tìm, đành chịu thua, bị chúng cho một bài học đau hơn hoạn. Khi chờ-đợi tại đây tôi cũng xin phép cán-bộ tuyển-binh về thăm lại nhà ba bốn lần. Tháng 12/1961 mới đưa đi thụ-huấn, trước khi đưa đi huấn-luyện cán-bộ cho biết ngày giờ lên tàu lửa, để anh em về đông-đủ tập họp mà đi, tôi cũng về thăm nhà lần cuối cho bà xã biết tôi đi chuyến tàu đêm tại ga Huế, sáng 07g30 tàu chạy ngang qua địa-phương, tôi trông xuống bờ ruộng bên lề đường tàu, nhìn thấy bà xã đứng một mình, ngữa mặt nhìn lên tàu, tôi đứng sẳn ngoài cửa đưa bàn tay bai-bai vài cái, tàu đã chạy đến cửa hầm Phú-Gia chui qua mất hút, tôi bùi-ngùi thương vợ muốn ứa nước mắt. Tàu chạy một ngày ròng rã đến 24g00 đêm vào tới ga Nha-Trang thì xuống tàu. Có cán-bộ hướng-dẩn đến đoàn xe quân-vận chờ sẳn ở bên ngoài sân ga, cán-bộ ra lệnh cho anh em leo hết lên xe chở ngược lui Ninh-Hòa rồi rẽ về Dục-Mỹ là đã đến địa-điểm huấn-luyện. Năm ấy Trung-tâm huấn-luyện mới thành-lập, nhà cửa còn lụp-xụp, không đủ cho lính ở phải che thêm lều vải ở tạm, ban ngày trời nắng nóng lắm không chịu nổi. Qua ngày sau lãnh quân-trang quân-dụng đầy ăm ắp một xách maranh (túi đựng quần aó), lãnh vủ-khí mỗi người một khẩu súng Garan Ml, một sợi nịt lớn gọi là xăng-tuya-rông. Thành lâp Đơn-vị để huấn-luyện hai anh em tôi và Sâm chẳng được ở chung với nhau, tôi thuộc ĐĐ3/B Sâm ĐĐ4/B. Huấn-luyện thì ít mà đi làm tạp-dịch thì nhiều, xe GMC cũa Trung-Tâm chở khoá-sinh chúng tôi lên tới đèo Phượng-Hoàng, đường đi lên Banmêthuộc chặt cây cắt tranh chở về Trung-Tâm làm lều trại để ở.
Ăn tết dương-lịch, âm-lịch năm 1962 tại T.T.H.L. anh Sâm nhớ bồ dù về thăm ăn tết ở nhà, còn tôi thì nhát gan không dám làm việc phạm kỹ-luật, ở lại quân-trường ăn tết đầu tiên trong quân-đội, nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ vợ buồn muốn thúi ruột. Tết xong anh Sâm trở lại trình-diện bị phạt, trước tiên cạo đầu trọc-lóc như thầy chùa, nhốt vào chuồng cọp, kẽm gai đan kín, thấp, nhốt vào thì chỉ có ngồi còm lưng, bò bốn chân như con cọp, sau phạt đi nhảy tử-thần khô tại núi Đeo. Dây tử-thần là một sợi dây cáp dăng từ chóp núi xuống chân núi dài cở 150m, khi nhảy móc rõ-rẻ vào dây cáp, người nhảy hai tay cầm chặt hai chiếc vòng sắt gắn liền với rõ-rẻ chỉ co giò lên cho hỏng mặt đất, thế là bánh xe rõ-rẻ đưa người chạy xuống độ dốc của sợi dây, khi chạy xuống gần chạm mặt đất có người cầm cái cờ đỏ phất mạnh một cái là phải buông tay té theo thế nghiêng mình kê bả vai xuống bãi cát nhào-lộn theo trớn bốn năm vòng đúng tư-thế thì an-toàn, té thất thế thì bị thương tật cột sống, gãy cổ, có khi bị vở gan mật gây chết người, nếu không chết cũng bị tàn-phế suốt đời. Qua một thời-gian cho khóa-sinh bị phạt nhảy thử nghiệm, có gây ra chết người nên mới dẹp bỏ môn nầy, chỉ còn huấn-luyện dây tử thần nước mà thôi.
Tháng 2 năm 1962 bắt đầu vào khuôn-khổ huấn-luyện rất căng thẳng. Súng Garan M.1. không có dây mang, luôn-luôn cầm hai tay nghiêng đầu súng về bên trái 45 độ, vai mang ba-lô nặng 20 kg, đầu đội nón sắt hai lớp, chân mang giày Bốt-đơ-sô, khi di-chuyển ra bãi tập năm cây số, phải chạy đều bước hai hàng dọc, khi đi cũng như khi về, không bao giờ cho đi đều bước thong-thả, thời-gian nầy vừa làm tạp-dịch vừa huấn-luyện quân-sự, bị hành-hạ quần-thảo thật gian-khổ, có một số anh em không theo nổi đã đào-ngũ tại quân-trường.
Mấy ông Sĩ-quan huấn-luyện-viên nói thao-trường đỗ mồ hôi, chiến-trường bớt đỗ máu. Nhà bếp của Trung-Tâm nuôi ăn rất tệ hại mất vệ-sinh, cơm thì hai phần cơm một phần lúa, thức ăn canh rau muống già đựng trong sọt cần xé gánh xuống suối chao-đão vài lần đem lên đổ vào chảo nấu với nước lã và muối hột, món ăn mặn cá biển ươn ình kho với nước và muối thấy toàn xương ăn mặn chát. Nhưng đi tập dợt về bụng quá đói cũng dứt một gamen đầy ăm-ắp ngon-lành.
Khóa A và B nầy khai-giảng đầu tiên lúc Trung-tâm mới thành-lập nên rất thiếu-thốn mọi mặt. Trung-tâm phải giữ lại làm tạp-dịch kiến-thiết quân-trường, mọi người đều được lãnh lương hàng tháng, riêng mình tôi chỉ được nuôi cơm giống như đi quân-dịch, tôi tìm hiểu nguyên-nhân, anh thư ký quân-số báo-cáo đào-ngũ nhằm tên của tôi nên bị ngưng lương, tôi làm đơn khiếu-nại chẵng được giải-quyết, cũng ráng cố gắng chịu-đựng qua thời-gian huấn-luyện nầy. Ngày mãn khóa rời quân-trường ra-đơn vị hành-quân, xe quân-vận chở hết vào ga Nha-Trang lên xe lửa vào ga Saigòn, xe chở về Miền Tây tỉnh Long-An trình diện Đại-Đội 32 Hành-Chánh Quản-trị Biệt-Động-Quân, tôi lại làm đơn trình bày lý-do gần một năm tôi chưa có lương, Đại Đội-Trưởng cho tôi được lưu-trú tạm-thời với năm anh em cùng khóa hàng ngày canh-gác cổng ra vào, chờ đợi điều-chĩnh lương-bổng cả một tháng mới được, cho tôi ký lãnh một tháng để thanh-toán tiền cơm tháng khi lưu-trú tại đây. Điện đến Hạ-sĩ-quan Hậu-cứ tại Trại Lê-văn-Trúc Mỹ-Tho lái xe Dodge đến Long-An nhận lãnh sáu anh em tân-binh, về đến căn-cứ hậu-trạm, ra lệnh gởi hết rương xách túi quân-trang cồng-kềnh vào kho Đại-Đội, Hậu-cứ trang-bị súng-đạn xong, vai mang ba-lô tay cầm súng nạp đạn tư-thế sẳn-sàng chiến-đấu lên xe Dodge của Hậu-trạm tài-xế đưa đến bắc Rạch-Miễu đi Kiến-Hòa xuống phà chạy cặp bến xe leo lên đường chạy mãi về tới tỉnh Kiến-Hòa xuống xe, đến tàu thuỷ lên tàu chạy dọc theo sông Hàm-Luông. Trong khi đang di-chuyển trên tàu tôi nhìn thấy quang-cảnh mênh-mông, sông nước hai bên bờ sông nơi nào cũng trùng-trùng điệp-điệp toàn cây dừa nước rậm-rạp, chẳng thấy loại cây gì mọc xen lẫn.
Tàu chạy cả buổi sáng cho đến 15giờ chiều mới cặp bến chợ huyện Thạnh-Phú nơi đồn-trú của đơn-vị hành-quân. Tân binh chúng tôi có sáu anh em được bổ-sung về đây. Thường-vụ Đại-Đội hướng-dẫn trình-diện Đai-Đội-Trưởng, ông dặn-dò anh em chúng tôi đôi lời, rồi ra lệnh Thường-vụ bổ-sung cho các Trung-đội mỗi nơi hai người, tôi được bổ-sung về Trung-đội 1 trinh-diện Trung-đôï-trưởng nhận công-tác. Tôi được phân-công làm khói lửa cho Ban Chỉ-huy Trung-đội gồm có sáu miệng ăn, sáng nhận tiền ra chợ mua thức ăn về trại nấu cơm, dến 10 giờ dọn ra mời ăn bữa trưa, rửa dọn nghỉ-ngơi lo bữa chiều. Bổn cũ soạn lại cứ thế mà làm, khỏi đi hành-quân tuần-tiểu trong khu-vực của huyện, ban đêm phải gác hai giờ. Ở đây được ba tháng thì có lêïnh thuyên-chuyển cả Đại-Đôïi về Liên-Trường Võ- khoa Thủ-Đức. Về đây tôi nhận nhiệm-vụ mới, được bổ sung cho Tiểu đội 1 Hành quân tuần-tiểu ban ngày lẫn đêm, có khi đi phục-kích giữ an-ninh tại ấp Tân-Phong, Đình Phong-Phú, Bân Ông Thàn quanh khu-vực quân-trường để sinh-viên sĩ-quan đi huấn-luyện chiến-thuật ban đêm cũng như ban ngày, ở đây cũng nhàn-rỗi, chẳng có đánh đá đụng trận nào cả, một tháng sau Hạ-sĩ-quan hậu-cứ đến phát lương tôi được lãnh một lần tám tháng lương, thời-gian thụ-huấn chưa lãnh. Trả hết nợ cho bạn-bè, nợ quán của mấy mụ vợ lính bán quán cà-phê sáng ăn uống thiếu ghi sổ, tiền còn lại đi may sắm áo quần sơ mi quần tây, sắm đồ dùng cá-nhân, mua giày dép, mua khăn len, áo ấm để làm quà tặng cho gia-đình. Mua giấy ca-rô bút máy về trại viết đơn gởi Đại-đội-trưởng xin được nghỉ phép thường niên 15 ngày, ông nhận đơn xét thấy sự thật hơn năm chưa được nghỉ phép, ông chấp-thuận cấp phép, ra lệnh thư ký tiền-trạm làm giấy phép trình lên Đại-Tá Chỉ-huy-trưởng Liên-trường ký xong gọi trình-diện đưa cho, cầm được tôi không quên lời cám ơn Trung-uý rồi chào ông trở về phòng nghỉ của binh-sĩ, sung-sướng vô cùng, mừng hơn là trúng số độc-đắc, mang súng-đạn quân-trang gởi vào kho Tiền-trạm, giả-từ tạm biệt bạn-bè, xách túi hành-lý qua ga tàu lửa Thủ-Đức mua vé tàu đi Huế. Về phép lần thứ nhất trong đời đi làm lính, lại mới được truy-lãnh tám tháng lương tha-hồ mua sắm quà cáp về tặng gia-đình cháu-chắt. Năm nay về phép quê-hương vẫn còn an-ninh yên-ổn đi lại thăm-viếng bà con làng xóm khắp nơi chưa có cách-mạng bắt-bớ, đêm vẫn ngủ nhà với gia-đình được. Dẫn bà xã đi Huế ra chợ Đông-Ba mua sắm quần áo vải đẹp, đổi lại đôi hoa tai cho bà xã hài lòng. Chung sống với gia-đình 10 ngày qua mau quá, sắp hết phép, mẹ cũng sắm một mâm cỗ cho cha cúng ông bà tổ-tiên phù-hộ cho con và dâu ra đi được bình-an mạnh-khỏe, dùng bữa cơm gia-đình nghỉ-ngơi trò-chuyện. Sáng ngày mai dắt vợ lên đường từ-giả tất cả, trở về Đơn-vị trình-diện. Năm nay cha mẹ vẫn còn khỏe, ông 52 tuổi, bà 48 tuổi, nên tôi cũng yên lòng mà đi. Vợ chồng vào đến nơi trình-diện trả giấy phép đúng hạn, báo cho Đại-đội-trưởng có mang theo vợ. Ông ra lệnh cho Thường-vụ sắp xếp nơi ăn chốn ở tại Khu gia-binh Liên-trường. Ở đây vợ tôi chỉ đi chợ nấu cơm hai đứa ăn với nhau, những ngày tôi được đổi ca nghỉ ở nhà, còn khi đi công-tác bên ngoài thì bới cơm vào camen ba ngăn đậy nắp ràng dây thun kỹ, gởi cho xe GMC đưa cơm hàng ngày của quân-trường ngày hai lần trưa và chiều.
Thời-gian cứ trôi đi trôi đi sự việc cứ diển-biến như thường lệ, vợ chồng tôi sống với nhau được sáu tháng, thì bụng bầu vợ đã thấy bự, tôi khuyên bà xã nên về quê sinh nở để nhờ Bà ngoại lo cho một đứa con đầu lòng. Vợ đồng ý về quê, tôi đưa qua ga Thủ-Đức mua vé ra tàu về quê.
Tôi trở lui về đơn-vị công việc cũng như thường ngày, dạo nầy ăn cơm tháng vợ lính nấu, đến tháng lãnh lương trả tiền. Vào ngày 01.11.1963 Dương-Văn-Minh lật đổ Ngô-Đình-Diệm, tình-hình chính-trị lúc nầy rất rối-ren, Quân Giải-Phóng Miền Nam cũng lớn mạnh lên, Đại-Đội được lệnh rời khỏi Liên-trường Thủ-Đức, di-chuyển về Trung-Lương Mỹ-Tho để thành-lập Tiểu-Đoàn 52 Biệt-Động-Quân. Đưa đi huấn-luyện bổ túc tại Trung-tâm huấn-luyện Biệt-Động-Quân Trung-Hòa Củ-Chi Hậu-Nghĩa. Thời-gian huấn-luyện tại đây cũng đụng nhiều trận với quân Giải-phóng, ác-liệt nhất trận Hố-Bò bị chết Cố vấn Mỹ, nhiều lính Biệt-Động-Quân chết và bị thương, bản thân tôi được bình-yên vô-sự. Sau ngày mãn khóa học cả Tiểu-Đoàn di-chuyển về tại Mỹ-Tho.
Tiền trạm đóng tại chùa Ông, về đến đây Tiểu-Đoàn nhận lệnh hành quân liên-tục. Hành-quân Tiểu-khu Long-An vừa về đến trại, nhận lệnh hành-quân Định-Tường vừa chấm dứt lại nhận lệnh hành quân Tiểu-khu Kiến-Hòa, cứ xây quanh như chong-chóng, không có được một ngày nghỉ. Đi hành-quân băng sông lội rạch áo quần giày vớ lúc nào cũng dính đầy bùn lấm ẩm-ướt thật là gian-khổ không thể tưởng-tượng. Khi bình-thường còn nản chí, khi đụng trận lại càng bi-đát hơn. Bạn-bè người bỏ mạng sa-trường kẻ thương-tích tàn-phế, có đôi khi lội suốt từ sáng đến chiều tối bị đụng trận không được một hột cơm vào bụng đói muốn rã ruột. Cứ ngày đi đêm dừng nghỉ, hết xứ nầy đến nơi khác, cây cối rậm-rạp, sông-rạch chằng-chịt, tôi cứ mang một túi xách cứu thương và khẩu súng Carbin lủi-thủi đi theo đoàn quân tham-dự các cuộc hành-quân liên-tục không trốn tránh một ngày nào.
Sau Tiểu-đoàn dời Tiền-trạm về đóng tại Long-An, Đơn-vị cũng đi hành-quân hai ba tháng mới về tiền-trạm nghỉ được một hôm lại chuẩn-bị đi tiếp. Cũng có một số binh-sĩ không chịu-đựng được gian-nan nguy-hiễm bỏ đào-ngũ về đăng-ký lính khác. Sáu anh em tân-binh khóa của tôi được bổ-sung về đơn-vị 1962 người chết kẻ bị thương có một anh đào-ngũ, chỉ còn lại một mình tôi là mạnh-khỏe đang-phục vụ Đại-đội 4/52 Biệt-Động-Quân.
BÀI 5. MỘT TRẬN ĐÁNH NHỚ ĐỜI
Tôi tham-dự một trận đánh nhớ đời tại Lương-Hòa Thượng, thuộc huyện Đức-Hòa, Long-An. Vào O700H không nhớ ngày, nằm trong thời-gian tháng 12 năm 1964, Tiểu-đoàn được Giang-Đoàn 22 đưa hết binh-sĩ của đơn-vị qua bên kia sông Vàm-Cỏ Đông, Tiểu-Đoàn-Trưởng ra lệnh cho tất cả bốn Đại đội, mỗi Đại-đội một cánh quân di-chuyển trong rẩy mía đường, song song theo con sông Vàm-Cỏ-Đông về hướng tây huyện Đức-Hòa. Như mọi ngày tôi cũng mang một túi xách cứu thương đựng đầy những gói băng-bó cá-nhân để cấp-cứu cho thương binh khi lâm trận, tay cầm khẩu súng Carbin lên đạn sẳn, đi theo Ban chỉ-huy Trung-Đội 1 Đại-Đội 4, đơn-vị di-chuyển được một cây số thì nghe có tiếng súng AK trong các đám mía đường bắn ra, tôi trông thấy binh-sĩ của Đại-đội 1 đã có hai người bị thương y-tá đang băng-bó, tiến xa một quảng nữa, thì nghe anh mang máy truyền-tin PRC 25 của Trung-đội báo lại cho Trung- đội-trưởng, lệnh của Đại-bàng cho biết cánh quân Đại-đội 1 đang đụng-độ rất nặng, đã có số binh-sĩ bị thương và tử trận. Đơn-vị chúng tôi đi cánh quân sát bờ sông, nhìn thấy trực thăng đáp xuống tản thương, Trung-đội-trưởng ra lệnh binh-sĩ đề cao cảnh-giác, sẳn-sàng chiến-đấu, tôi vừa đi theo ban chỉ-huy Trung-đội nhìn kỹ phía trước bên trái bên phải từ sáng đến gần trưa chẵng thấy một bóng dáng VC nào mà nổ súng cho phí đạn. Khi cánh quân cùng Ban Chỉ-huy của Trung-đội tôi tiến đến sát con rạch nằm chận ngang phía trước mặt. Tai tôi nghe một phát súng bên kia rạch bắn qua rất gần, trúng phải đầu anh lính mang máy truyền-tin Trung-đội vở sọ ngã nhào chết liền tại chỗ, tôi thấy đã chết nên không băng-bó, ông Trung-đội-trưởng, cấp-bậc Chuẩn-uý mới về đơn-vị mang khẩu súng Colt 45 đầu đội mủ nâu đi ngóc-ngách bị một phát súng, đạn xuyên qua trước trán hơi sâu, té ngữa máu ra đầm-đìa, tôi chạy lại bên ông ngồi xuống xé băng để bó vết thương cho ông ấy, tai tôi nghe bỏm một cái sát mé rạch gần chỗ tôi đang ngồi, nổ ầm lên một tiếng điếc cả tai bùn nước khói bắn lên tung-toé phủ cả một vùng, tôi tưởng là đã chết theo các bạn rồi, khi hoàn hồn nghe đầu gối hơi đau nhói, biết mình mới bị thương chưa chết vẫn còn đi cà-nhót được, tôi đi lùi về phía sau gặp được TS1 Hớn tôi cho anh hay, anh lính truyền tin đã chết, Trung-đội-trưởng có lẽ cũng chết vì đã bị thương thủng trán quá nặng. TS1 Hớn là Trung-đội-phó từ lâu sống chung trong ban Chỉ-huy Trung-đội bạn chơi thân với nhau, ông ấy choàng vai tôi dìu lui phía sau cả hai trăm mét thì thấy một số binh-sĩ bị thương và tử trận được cứu ra khỏi làn đạn giao-chiến, nằm ngồi la-liệt chờ trực-thăng cứu thương đến di-tản, tôi ngồi xuống đây với anh em tự tay băng bó rịt lại vết thương cho kỹ, cở năm phút nghe có tiếng trực-thăng đến bốc hết số binh-sĩ bị thương và tử trận rồi cất cánh bay lên ra khỏi trận-địa, từ đây tôi mới hú hồn thở phào một cái nhẹ nhỏm, biết chắc mình đã được bạn bè cứu mạng.
Về đến Tổng-Y-Viện-Cộng-Hòa Saigòn, đầu gối của tôi bị sưng to nhức nhối không thể đi lại được nữa y-tá đưa vào phòng mỗ, Bác-sĩ gây mê mổ lấy mãnh đạn trên đầu gối ra để nằm trong phòng lạnh một đêm, ngày sau đưa ra ngoài điều-trị được ba ngày thì bó bột từ bắp đùi cho đến bàn chân, thế là cái chân phải của tôi to-tướng, trắng-lốp, nặng-trịch, ngay-chò, chẵng duỗi ra co vào được nữa, bệnh-viện cho ký nhận một cặp tó để chống nạnh di-chuyển khi cần, nằm tại đây được năm ngày sau có một số anh em bạn lính cùng đơn-vị chơi thân với nhau, họ được may-mắn sống sót mạnh-khỏe bình-an, rủ nhau sáu anh em đến thăm tôi tại bệnh-viện, họ kể chuyện lại cho tôi nghe, trực-thăng tải thương chuyến của mầy là cuối cùng.
Sau nầy VC xung-phong đánh tan-tành cả Tiểu-đoàn, Bộ-Chỉ-huy Tiểu-đoàn chết sạch, đứt liên-lạc, các Đại-đội bị thương và chết hết phân nữa, ai bị thương nhẹ chạy được may ra còn sống, ai bị thương nặng đi không được là chết hết, Trung-đội-trưởng, Tiểu-đoàn-trưởng đã bỏ xác tại trận.
Sau khi đứt liên-lạc với Tiểu-Đòan tan-rã hàng-ngũ chạy tán-loạn. Tụi tau chạy lui ra xuống bờ sông nhờ Giang-Thuyền cũa Tiểu-Khu Long-An cứu mạng bốc hết anh em còn sống sót đổ hết qua bên kia sông mới còn có ngày hôm nay đến thăm mày. Tôi nghe các bạn kể xong câu chuyện, hú hồn hú vía nói với các bạn, mạng cũa tau còn hên chưa tới số, nếu bị thương trễ năm mười phút sau là đã bỏ mạng sa-trường rồi, còn đâu nữa mà các bạn tới thăm. Mấy anh em chuyện-trò qua lại gần một giờ đồng hồ, các bạn chúc tôi điều trị chóng bình-phục rồi từ-giả ra về, anh em cho hay số còn lại đang an-dưỡng tại Quân-đoàn III Biên-Hòa chờ bổ-sung quân-số.
Tôi nằm Bệnh-viện Bác-sĩ cho uống thuốc viên 10 ngày thì cho xuất Viện về điều-trị tại gia 29 ngày tái khám. Về nhà xa quá trong khi người còn thương tích, về nhà sợ cha mẹ vợ con buồn. Hồi ấy Hậu-trạm Tiểu-doàn vẫn còn ở Long-An, tôi được nhận giấy xuất viện về thẳng Hậu-trạm trình-diện nghỉ-ngơi tại đây cho đến ngày tái khám nhập viện lại, Bác-sĩ cho cắt bột vết thương cũng lành, nhưng chân vẫn còn ngay-chò, chưa co vào duỗi ra được, Bác-sĩ cho nghỉ tiếp 29 ngày nữa để tập thể-dục cho cái chân trở lại bình-thường mới đi làm việc. Tôi nhận được giấy xuất viện lần thứ hai cũng được nghỉ dài ngày, mừng quá về lại đơn-vị xin đổi giấy phép nghỉ tại gia. Lúc nầy mặc áo quần thường dân đi xe khách về Huế, lần nầy về làng ấp chiến-lược đã bị phá huỷ tan-tành, ban ngày thì của quốc-gia, ban đêm của Cách-mạng, chỉ viếng về nhà ban ngày một vài tiếng đồng hồ thăm cha mẹ vợ và các em rồi vào Lăng-Cô ở lại nhà bác cho đến ngày hết phép từ-giả ra đi. Vào đến Long-An đi vô doanh trại thấy trống rỗng chẵng còn ai, hỏi ra mới biết Tiền-trạm và gia-đình binh-sĩ đã di-chuyển hết về Biên-Hòa.
BÀI 6. PHỤC-VỤ HẬU-CỨ & TIỀN-CỨ
HẠ-SĨ-QUAN, QUẢN-TRỊ QUÂN-SỐ & TIẾP-LIỆU
Hết phép dưõng bịnh tại gia, trở vào đơn-vị, thì đã di-chuyển hết về Biên-Hòa, thời ấy tôi chẵng biết Biên-Hòa ở nơi đâu cả, chỉ nhớ lại mang-máng trong đầu óc sáu tỉnh Miền Đông Nam-Bộ, có lẽ giáp ranh giới gần Saigòn. Suy nghĩ một lát nếu đi Saigòn Biên-Hòa thì xa lắm, phần nữa xa lạ chưa rành đường sá biết đâu mà tìm. Tôi quyết-định trở lại Mỹ-Tho trình-diện hậu-cứ Hạ-sĩ-quan Quân-số và Tiếp-liệu Đại-đội ở bên cạnh Đại-đội 32 Hành-chánh quản-trị Tiếp-liệu Biệt-Động-Quân. Thời-gian ấy TSI Trân giữ chức-vụ nầy, ông ấy bảo tôi ở đây làm việc, khi nào có chuyến liên-lạc tau sẽ gởi mầy ra trình-diện Đơn-vị, ông ấy bày việc cho mà làm, ông mở kho chỉ vào một đống súng-ống ngoài chiến-trận đưa về đủ loại bùn bám rỉ-rét, chưa lau chùi vào dầu mỡ để bảo-trì quân-dụng, ông bảo tôi làm việc nầy. Tôi nghĩ ăn lương thì phải làm việc, mà làm việc nầy chẵng phải nặng nhọc gì, tôi ước-ao được làm việc nầy vĩnh-viễn thì cũng chẵng cực-khổ gì, còn nhàn hơn một ngàn lần theo Đơn-vị đi hành-quân. Tôi cặm-cụi tháo ra từng loại súng chùi-rữa sạch-sẽ, vô dầu mỡ sắp-xếp lại ngăn-nắp theo vị-trí đâu vào đấy, ông ấy thấy tôi làm việc nhiệt-tình rất hài lòng, tôi làm hai ngày thì hoàn tất đâu vào đấy, ông lại giao cho việc khác, ông hỏi tôi mầy biết viết chữ không ? Tôi trả lời dạ thưa TS em viết được, ông đưa cho một tờ giấy mẩu Q.T.I và một bản danh-sách Đơn-vị, ông bảo viết hết danh-sách từ trên xuống dưới vào đây để làm phiếu gởi xin cấp quân-trang (áo quần). Tuổi còn trẻ mắt sáng tay viết chữ còn mềm-mại sắc-sảo, ngồi vào bàn viết nghiêm-túc, nấn-nót nét chữ rõ-ràng ngay-thẳng đẹp-đẽ, ông nhận-xét nét chữ của tôi viết và sự làm việc nhiệt-tình tận-tuỵ, ông rất mến giữ lại phục-vụ hậu-cứ với ông hai tháng tại Mỹ-Tho. Ban ngày ông giao công việc cho làm, đêm nghỉ tự-do, tôi mướn phòng trọ bên ngoài, ban đêm đi chơi tôi thấy trong thành-phố có lớp dạy đánh máy chữ, tôi xin đăng-ký học một khoá hai tháng, phải trả tiền trước hai phần mới thu-nhận vào học, tôi chấp-nhận đóng tiền để học, tôi học một tháng mười lăm ngày, đã sử-dụng máy thành-thạo, thao-tác đánh máy mười ngón tay, cách-thức trình-bày văn-bản phải cân-đối theo khổ giấy. Đêm đi học đánh máy chữ hết giờ về nghỉ nhà trọ bên ngoài, ngày vào hậu-cứ làm việc như thường-lệ, hôm nay là ngày báo-cáo quân-số định-kỳ bằng danh-sách, anh lính thư-ký vắng mặt. Xếp hỏi tôi lâu nay đi học đánh máy chữ đã đánh được chưa ? Tôi trả lời : dạ thưa em cũng đánh tạm được nhưng còn chậm, ông nói thì cứ thư-thả mà làm cho đàng-hoàng là được. Ông đưa cho một tờ mẫu với quyển sổ kiểm-danh, bắt lót ba tờ giấy đánh thành ba bản. Tôi thư-thả đánh cẩn-thận, trình-bày cân-đối đẹp-đẽ, làm hoàn-chỉnh trình lên cho ông xem ký tên đóng dấu để gởi đi, xếp rất hài-lòng và khen-ngợi. Ông giữ tôi lại giúp việc hậu-cứ được hai tháng thì có lệnh của Đơn-vị-trưởng bảo ông phải gởi số binh-sĩ xuất viện hết thời-gian nghỉ dưỡng bệnh ra hành-quân. Vì cấp số của mỗi Đại-Đội làm việc hậu-cứ chỉ được ba người : một hạ-sĩ-quan, hai binh-sĩ, chức-vụ HSQ/QSTL thư-ký đánh máy chữ, tài-xế, thêm tôi là thặng dư, anh thư-ký đang làm việc quan-liêu, ỷ lại, ham đi chơi, bỏ việc làm, thiếu trách-nhiệm, vô kỹ-luật. Nên ông không dùng nửa, ông ra lệnh cho tôi trang-bị súng-đạn như tất cả các anh em khác hết hạn nghỉ bệnh phải ra hành-quân. Ông giữ tôi lại làm việc hậu-cứ. Viết thư cho Đơn-vị-trưởng trình-bày lý-do thay đổi nhân-viên văn-phòng hậu-cứ, cũng được Đơn-vị-trưởng chấp-thuận. Từ đây tôi được chính -thức cơ-hữu của văn-phòng Quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4/52/BĐQ.
Bà xã và con gái đang ở với cha mẹ tôi tại quê nhà, có bà chị dâu vợ ông anh họ rủ nhau vào Nam tìm chồng, bà chị vào Thủ-Đức gặp chồng, còn bà xã tôi thì bơ-vơ, đường-sá xa-lạ đất rộng bao-la, chẵng biết chồng đang hành-quân nơi đâu mà tìm, ở tạm với anh chị mấy ngày sau, ông anh cũng lanh-lẹ đi tìm hỏi tới Biên-Hòa, Đơn-vị cho biết tôi đang làm việc tại hậu-cứ Định-Tường Mỹ-Tho, ông xin địa-chỉ đi đánh điện-tín về hậu-cứ, Xếp tôi nhận được nói cho tôi biết, ông bảo viết Sự-vụ-lệnh ông ký cho mà đi rước vợ con về (cột lý do công tác : Liên-lạc đơn-vị hành-quân Thủ-Đức) Tôi cầm Sự-vụ-lệnh mặc áo quần dân-sự đón xe ca đi Saigòn, sang xe về Thủ-Đức gặp vợ con rước về Mỹ-Tho mướn nhà trọ ở với nhau, từ nay gia-đình có 3 người mới sum-họp, vợ chồng ở tại đây được năm tháng. Đầu năm 1965 Đại-đội 32/ Hành-chánh/Tiếp-liệu được lệnh giải-thể, sáp-nhập Đại-đội 31/HCTL/BĐQ Thủ-Đức. Hậu-cứ Tiểu-đoàn và các Đại-đội cũng di-chuyển về Thủ-Đức, vợ con cũng đưa về đây mướn nhà trọ ở.
Ông TSI Trân được thăng cấp Thượng-sĩ Tiểu-đoàn-trưởng bổ-nhiệm chức-vụ khác Quyền Sỉ-quan Hoả-thực của Tiểu-đoàn, TS Soa thư-ký tiền trạm Đạ-đội thay thế Hạ-sỉ-quan quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4. Tôi vẫn tiếp-tục làm thư-ký Đại-đội, đợt nầy tôi cũng được thăng Hạ-sĩ vừa được hai tháng thì thay đổi Đai-đội-trưởng mới về thay-thế Đại-đội-trưởng cũ đi nơi khác. Ông nầy đưa đệ-tử vào làm thư-ký Văn phòng Đại-đội thay tôi ra ngoài Đơn-vị hanh-quân làm thư-ký quân số tiền-trạm, đơn-vị đang đồn-trú tại Quân-đoàn III Biên-Hòa. Công-tác của tôi hàng ngày vào buổi sáng Đơn-vị tập họp xong báo-cáo quân-số lên Tiểu-đoàn, hàng tuần lãnh lương-thực, thực-phẩm phân -phối cho Đại-đội, mỗi tháng nhận hàng Quân-tiếp-vụ phân-phối cho binh-sĩ đơn-vị ghi chép rành mạch để trừ vào dịp lính lĩnh lương hàng tháng hoàn tiền lại cho cửa hàng. Công-tác nầy tôi làm tốt chẵng có gì khó lòng. Cuối năm 1965 Tiểu-đoàn đã được bổ-sung đầy-đủ quân-số đưa đi huấn-luyện bổ-túc lần thứ hai tại Trung-tâm Huấn-luyện Biệt-động-quân Trung-Hòa Củ-Chi, Hậu-Nghĩa. Tôi cũng đi theo Tiểu-đoàn, dạo nầy đến đây nhìn thấy pháo-binh của Mỹ và xe Thiết-giáp đóng chung quanh Trung-Tâm rất đông. Trung-tâm cũng bị VC pháo-kích liên-miên, phía Mỹ cũng phản pháo bằng đại-bác hạng nặng 175 ly cài trên xe thiết-giáp bắn liên-tục 24/24 vào hướng mật khu cách-mạng Hố-Bò và địa-đạo Củ-Chi. Kỳ này quân giải-phóng lớn mạnh lấn-chiếm bao-vây thu hẹp tầm hoạt-động của Trung-Tâm, nên Tiểu-Đoàn chỉ học chiến-thuật quanh-quẩn gần hai bên hàng rào, không dám hành-quân ra xa bên ngoài như lần trước. Khi mãn-khóa học nầy Trung-Tâm cũng có huấn-luyện cho tân binh một thời-gian gần một năm. Được giải thể cuối năm 1967.
Tiểu-Đoàn được đưa về Long-Khánh, căn-cứ tiền-trạm đóng trên chóp đồi Tân-Phong Xuân-Lộc, hoạt động ba tỉnh Long-Khánh Bà-Rịa, Bình-Tuy. Tôi ở làm việc với Tiền-Trạm Tiểu-Đoàn được thăng Hạ sĩ I. Đến mùa xuân 1968, Tiểu-Đoàn được điều về giữ Saigòn đi hành-quân ven đô. Ban Quân-số Tiếp-Liệu Tiền-trạm Tiểu-đoàn đóng dưới móng cầu Saigòn tôi cũng theo tiền-trạm làm việc tại đây.
Tháng 12/1967 Đại-Đội 31 Hành-chánh Tiếp-Liệu/Biệt-Động-Quân dời căn-cứ Thủ-Đức về căn-cứ Long-Bình, Mỹ rút bàn giao lại tại Thanh-Hóa Hố-Nai, thuộc khu-vực trại gà bây giờ, để thành-lập Liên-Đoàn 3 Biệt-Động-Quân. Hậu-cứ Liên-Đoàn và 3 Tiểu-Đoàn trực thuộc đóng tại đây.
Thời-gian đơn-vị hành-quân chung-quanh Saigòn tôi làm đơn xin theo học khoá quản-trị tiếp-liệu, được cấp trên chấp-thuận. Bộ Chỉ-Huy 3 Tiếp-Vận căn-cứ tại trại Lê-Văn-Duyệt Saigòn gọi tôi trình-diện khai-giảng khóa học nầy, khóa-sinh theo học đủ các quân-binh-chủng 120 người học ba tháng thì mãn-khóa, tôi được tốt-nghiệp xếp hạng 45/118 bị đánh rớt hai anh không đủ điểm trung-bình. Mãn khóa học nhận Sự-Vụ-Lệnh trở về đơn-vị cũ.
Qua năm 1969 được đủ điều-kiện thăng cấp bậc Trung-sĩ cũng làm nhiệm-vụ Hạ-sĩ-Quan tiền-trạm. Năm 1970 Tiểu-Đoàn được lệnh đi huấn-luyện bổ-túc lần thứ 3, lúc nầy Trung-Tâm huấn luyện Trung-Hòa đã giải thể, Cách-mạng chiếm. Tiểu-Đoàn phải chuyển ra Trung- Tâm Dục-Mỹ Nha-Trang để huấn-luyện. Toàn-thể Tiền-trạm Hậu-cứ đều phải đi huấn-luyện hết.
Khi gần ngày mãn khóa có một anh lính gìa nhậu rượu đế say khước nằm ngũ giữa trời không căng bông-sô che sương đêm khuya lạnh cóng anh ta thả hồn theo gió, chết cứng-ngắc chẵng có ai biết, sáng ra khi anh em thức dậy đi làm vệ-sinh cá-nhân để chuẩn-bị tập-họp mới phát-hiện. Tiểu-đoàn cấp Sự-vụ-lệnh cho tôi và một Tiểu-Đội chở xác anh lính chết vào nhà xác quân-khu Nha-Trang để tẩm-liệm xin máy bay đưa về Saigòn. Khi chưa tẫm-liệm đang để trong nhà xác, Tiểu-Đội đi theo có nhiệm-vụ quân-phục chĩnh-tề cầm súng đứng canh giữ xác chết, khi được tẩm-liệm bỏ vào quan-tài hai lớp phía trong có bọc kẽm hàn kỹ đóng nắp thật chặt, xong xe đưa quan-tài ra phi-trường, thì Tiểu-Đội đi theo canh-gác trở về lại Quân-Trường Dục-Mỹ.
Lúc nầy tôi ngồi trong phòng trực phi-trường của Không-Quân Nha-Trang chờ-đợi máy bay đến chở quan-tài, ba anh lính Không-Quân trực sân bay bỏ ra bộ bài binh xập-xám ăn tiền, rủ tôi chơi một tay, tôi cũng vui-vẻ nhận lời ngồi vào bàn, cầm bộ bài xáo-trộn đều-đặng rồi để xuống một anh thò tay vào cân, một anh cầm bài lên chia mỗi người một con, ai lớn được làm cái ván đầu, phần tôi lật lên con ách tôi được làm cái, cầm hết bài lên trộn đều để xuống cho các anh ấy cân, tôi nhập bài lại chia xong, bắt bài lên binh, bài lớn dễ binh nên tôi binh nhanh bỏ xuống, còn ba anh bài xấu nên binh lâu, chờ cho các anh bỏ xuống hết, bắt đầu tôi xét từ trái qua phải, thấy bài cả ba anh đều thua, tôi gom tiền hết, đặt tiền lại, tới phiên anh kế tôi làm cái, chia bài xong bắt lên tôi thấy mậu binh bỏ xuống ngồi nhìn các anh binh xong chung tiền cho tôi trúng lần hai, thừa thắng lấy gậy ông đập lưng ông, tôi đặt hết tiền đã ăn được, nếu có thua thì tiền của các anh mình trả lại, thế mà bài cứ đỏ ăn liền năm sáu ván, ba anh ấy thua sạch tay. Thì gặp dịp máy bay vừa đến, tôi xin phép nghỉ ra phi-trường lên máy bay, ba anh không-quân nhìn theo tôi mà lòng thất-vọng, tôi nghe một anh thốt lên rằng : ba đứa mình bị cọp vồ, vì huy-hiệu Biệt-Động-Quân có may đầu cọp bên cánh tay trái. Tôi lên máy bay cất cánh ngồi nhớ lại thấy cũng diệu-kỳ, bình thường tôi cũng có binh xập-xám nho-nhỏ cỏn-con chơi giải-trí, nhưng ít khi được ăn ai, vì binh chậm thấp không biết gian-lận, nên ăn thì ít thua thì nhiều.
Hôm nay đi chuyến công-tác áp-tải quan-tài về quê của người bạn tử-sĩ sao mà hên quá, vớ được một số tiền bài xập-xám tại Nha-Trang về nhà tha-hồ uống bia với các bạn. Tôi nghĩ vong-hồn của anh lính nầy linh-thiêng phù-hộ cho tôi được bình-an hoàn-thành nhiệm-vụ và được phát tài. Máy bay về hạ cánh tại phi-trường Tân-Sơn-Nhất thì đã có xe GMC đợi sẳn, đưa quan-tài lên chở thẳng về gia-đình của anh ấy, mặc dầu thân-nhân của họ đã qua đời, cũng hỏi qua nguyên-nhân cái chết, tôi kể sự thật gia-đình cám ơn rối-rít. Tôi thay mặt Đơn-vị và anh em bạn-bè nói đôi lời phân-ưu với thân-nhân tử-sĩ, trao số tiền Đơn-vị quyên-góp phúng-điếu, báo cho tang-gia biết mai-táng xong-xuôi đến hậu-cứ tôi hướng-dẩn nạp hồ-sơ lãnh tiền tử. Tôi từ-tạ lên xe về hậu-cứ Hố-Nai với gia-đình. Cách tuần lễ sau Tiểu-Đoàn cũng mãn khóa về đến. Ông Tiểu-Đoàn-Trưởng nầy mới nhậm chức trước ngày Tiểu-Đoàn đi thụ-huấn bổ-túc, ông cũng-cố hệ-thống tổ-chức của Tiểu-Đoàn, sắp-xếp lại các ban-ngành, bổ-nhiệm cán bộ lãnh-đạo chỉ-huy, cán-bộ chuyên-môn làm việc hậu-cứ theo khả-năng thích-hợp đúng ngành-nghề, thay-thế những người không có chuyên-môn đưa ra hành-quân. Tôi cấp-bậc TS I có bằng chuyên-môn Tiếp-Liệu, được bổ-nhiệm chức-vụ Hạ-Sĩ-Quan Quân-số Tiếp-Liệu Đại-Đội 4/52/BĐQ, thay-thế TSI Soa giữ chức-vụ khác, tôi nhận chức-vụ nầy đầu năm 1970. Tiểu-Đoàn được lệnh hành-quân sang Campuchia, xáp trận liên-tục, bị tổn-thất nhân-mạng, quân-trang quân-dụng, văn-phòng hậu-cứ phải làm hồ-sơ báo cáo tổn-thất để xin bồi-hoàn bổ-sung cho đơn-vị. Lúc nầy hậu-cứ cũng làm việc rất căng, làm không kịp thời kịp lệnh bị Sĩ-quan chỉ-huy hậu-cứ chửi, ngoài tiền-tuyến cần những món quân-dụng gọi điện về chưa có gởi ra kịp cũng chửi. Nhưng được làm việc tại hậu-cứ, khỏi phải đi hành-quân gian-khổ, thỉnh-thoảng máy bay trực-trăng đưa đi tiếp-tế quân trang quân-dụng phát lương-bổng cho binh-sĩ một vài hôm là đưa về hậu-cứ làm việc.
Cuối năm 1971 Liên-đoàn rút khỏi Campuchia về đóng tại Binh-Long An-Lộc. Năm 1972, năm gọi là mùa hè đỏ lửa, lâm một trận lớn san bằng bình-địa tỉnh Binh-Long An-Lộc thành một đống gạch vụn. Hậu cứ không tiếp-tế không liên-lạc, thời-gian hơn hai tháng, chỉ có máy bay C.130 của Mỹ chở lương-thực đạn-dược tiếp-tế bằng cách thả dù, dù rơi đúng vị-trí thì quân bạn lấy dùng, dù bay lạc hướng ra ngoài thì chịu thua, ai xài cũng được. Trận nầy trung-gian mà nói đôi bên bạn địch đều tổn-thất nặng-nề. Phía Giải-phóng chỉ chiếm thêm một ít từ Lộc-Ninh trở về An-Lộc. Khu-vực thành-phố Bình-Long An-Lộc Liên-đoàn 3/BĐQ còn tử-thủ được. Sau thời-gian mới chịu bỏ di-tản về huyện Chơn-Thành, Bến-Cát, Bình-Dương.
Đầu năm 1973 tôi bị đưa đi học khóa tu-nghiệp Hạ-Sĩ-Quan tại Trung Tâm huấn-luyện Quang-Trung, khóa nầy chẵng có thăng quan tiến chức gì cả, thêm tốn công tốn tiền, bỏ một vợ và năm đứa con sống trong trại gia-binh nheo-nhóc, vợ một mình chăm con không kỹ để chết một thằng con trai vừa tròn một tuổi, tôi đang thụ-huấn tại trung-tâm, được tin báo, nóng ruột trốn trại đi về Hố-Nai lo chôn-cất con xong-xuôi trở lại trình-diện, bị ban an-ninh của Trung-Tâm gọi lên điều-tra xét hỏi, tôi cũng trình-bày hoàn-cảnh sự thật, các xếp cứ bắt-bẽ bảo sao không làm đơn xin phép, tôi trả lời thẳng-thắng, nếu tôi làm đơn lên Thiếu-Tướng Chỉ-Huy-Trưởng ký được giấy phép chắc con tôi đã thối vửa ra nước. Nếu các xếp không tin lời khai của tôi cứ điện về đơn-vị của tôi mà hỏi thì rõ hư thật. Sau khi các xếp xác-hận đúng cũng khoan-hồng cho tôi không phải bị phạt, tôi tiếp-tục tham-dự khóa học cho đến ngày mãn khóa trả về đơn-vị cũ, tôi cũng được phục hồi lại chức-vụ hiện-hành.
Đầu năm 1975 Liên-đoàn thất-thủ căn-cứ Chơn-Thành, Bến-Cát, ban đêm cho lệnh di-tản về Lai-Khê Bình-Dương, binh-sĩ bị xáp trận với quân Giải-phóng bỏ xác rải-rác trong rừng, số bị thương cũng chẵng được cứu-chữa, tản-thương, một số bị quân Giải-phóng bắt làm tù-binh gần muốn hết, còn lại một ít may-mắn sống sót chạy về hậu-cứ mình trần thân trụi, trình-diện hậu-cứ cái xác không hồn.
Đơn-vị xin bổ-sung thêm một số lao-công đào binh mới ân-xá, một số quân-dịch mới ra trường, cả cũ lẫn mới tập họp cả liên-đoàn quân số chưa được một Tiểu-đoàn, lệnh cấp trên cho thay đổi toàn bộ phận chỉ-huy Liên-đoàn. Liên-đoàn-trưởng mới về nhậm-chức ra lệnh cho hậu-cứ trang-bị lại quân-trang quân-dụng vủ-khí cá-nhân tập-thể đầy-đủ. Tập họp đưa đến sân bay Biên-Hòa. Máy bay C130 chở ra đổ hết xuống Phan-Rang để làm lá chắn được một ngày thì bị tan-rã. Thấy Đại-uý sĩ-quan Ban 3 của Tiểu-đoàn 52/BĐQ và một số binh sĩ cũng chạy về mình không trình-diện hậu-cứ, thế là toàn bộ phận lính chiến-đấu của Liên-đoàn 3/BĐQ đã bị quân Giải-phóng xóa tên lần cuối cùng tại Phan-Rang.
Hậu-cứ Liên-đoàn và ba Tiểu-đoàn trực-thuộc vẫn còn làm việc như cũ, ai làm việc gì cứ làm việc ấy, lúc nầy rất khuẩn-bất bi-thãm. Nhân viên hậu-cứ chúng tôi phải làm việc 24/24 giờ, quân Giải-phóng sắp đến bên lưng. Ông Trung-uý Mẫn Chỉ-huy hậu-cứ phát điên lên ngày nào cũng nhậu say tuý-luý, chửi anh em làm việc hậu-cứ như tát nước vào mặt, ông hối thúc phải làm nhanh các hồ-sơ khai-báo tổn-thất gởi đi, để xin bồi-hoàn kịp thời, quân-số, quân-trang, quân-dụng, lương-thực, hướng-dẫn làm hồ-sơ cho thân-nhân binh-sĩ chết mất tích lãnh tiền càng sớm càng tốt. Ví có ba đầu sáu tay cũng chẵng tài nào làm kịp. Một phần vợ con gia-đình của lính tử-trận, mất tích đến hậu-cứ khóc-lóc om-sòm, đòi lãnh tiền tử. Thân-nhân tử-sĩ họ cũng nghĩ rằng : quân giải-phóng đến chiếm căn-cứ thì còn đâu mà lãnh, nên họ khóc-lóc la-lối, có đôi người nóng-nảy chửi-bới tôi cũng phải cắn răng mà chịu đựng. Đến giờ nghỉ đi ăn cơm đạp xe về trại gia-binh nhìn thấy bà xã bụng thì bự gần ngày sinh, bốn đứa con dại khờ, ba đứa mạnh khỏe, một đứa bé nhất ốm nặng, chỉ mua thuốc viên về tán ra cho uống, bà xã một mình không thể nào đưa con đi bệnh-viện được, đưa đi thì bỏ nhà bỏ ba đứa con lại không ai nấu cơm nước cho tôi về ăn để đi làm. Đến giờ nghỉ về ăn cơm nhìn con càng ngày càng ốm nặng ra, người nó teo lại như con tép, cặp mắt lờ-đờ. Thở thom-thóp không ra hơi, tôi thương con quá muốn trào nước mắt. Tôi suy-nghĩ một lát quyêt-định, việc nhà cần phải lo trước, việc nước lo sau, bằng mọi giá phải cứu con của mình đã, cứ mãi-mê lo công-vụ rủi con chết như thằng em nó nửa thì ân-hận suốt đời. Tôi trở vào hậu-cứ gọi anh lính thư-ký ra ngoài phòng làm việc căn-dặn kỹ-lưỡng, chỉ-vẻ công việc ở nhà nên làm công việc gì trước sau, giao hết bộ chìa khoá kho-tàng cho anh ấy giữ, tôi chẵng cần-thiết gì nữa. Dặn lại chỉ-huy hậu-cứ có hỏi đến tôi, anh cứ nói thật con tôi gần chết nên trốn ở nhà đem con đi bệnh-viện. Tôi chẵng cần phải xin phép thêm rắc-rối, nếu xin lão già ấy chẵng cho mà còn chửi nữa thêm nhục. Đào-nhiệm trốn về nhà ẵm con đi chửa bệnh tại Bệnh-viện Tiểu-khu Biên-Hòa, đến tới bệnh-viện lúc 14g00 ngày 25/4/1975, được Bác-sĩ khám tiếp nước biển cho uống thuốc con tôi hơi tĩnh lại, 14 giờ ngày 28/4/1975 quân giải-phóng đã tiến đến Trà-Cổ Tân-Bắc, thuộc xã Bắc-Sơn bây giờ. Quân đoàn III và bệnh-viện cũng được lệnh di-tản. Tôi ẳm con leo lên xe Hồng-thập-tự chạy đến Saigòn thì trời đã tối, xuống xe tại bệnh-viện Trần-ngọc-Minh, bệnh-viện nầy chỉ tiếp nhận thương-binh, không nhận gia-đình vợ con binh-sĩ. Tôi mướn xe xích-lô máy chở cha con qua bệnh-viện Nhi-Đồng 2 xin cho con được nhập viện, được nằm tại đây đến 28, 29/4/75, rạng ngày 30/4/1975 tôi ngồi trên lầu 2 của bệnh-viện nhìn xuống ngã sáu Saigòn thấy đủ các lính quân-binh-chủng của chế-độ cũ, áo giáp nón sắt súng đạn đầy-đủ, súng to súng nhỏ có cả đại-bác pháo-binh 105 ly, xe pháo đầy ngã sáu, trong khoãng thời-gian cở 9 hoặc 10 giờ sáng 30/4/1975 nghe radio trên đài phát-thanh Sài-gòn ông Dương-Văn-Minh kêu-gọi anh em binh-lính chế-độ Sài-gòn ngưng bắn bàn-giao súng-đạn căn-cứ đồn-trại lại cho quân Giải-phóng. Một lát sau tôi nhìn xuống thấy súng-đạn xe-pháo nằm la-liệt hai bên lề đường, chẵng còn thấy một ông lính của chế-độ cũ nữa. Chế-độ Saigòn cũ sập-đỗ hoàn-toàn chấm-dứt từ đây.
Quân Cách-mạng thắng-lợi thống-nhất đất-nước hai miền Nam Bắc.
Cuộc đời binh-nghiệp của tôi cũng được chấm dứt từ đây. Trả hết món nợ tang-bồng của thời trai trẻ.
Trót sinh ra phải có chi-chi, Chẵng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
(Nguyễn-Công-Trứ)
Trong thời-gian 14 năm làm lính chế-độ Saigòn tôi đã bỏ ra 5.040 ngày, tỷ giá theo đô-la 50.400 USD chẵng mua được danh-vọng hay một tí tài-sản vật-chất gì cả, chỉ mua được cái nhục to-tướng, góp công chế-độ cũ gây ra bao nhiêu phiền-hà cho đất nước. Chẵng có công, mà chỉ là mang lấy tội, kéo dài một cuộc chiến vô nghĩa, huynh-đệ tương-tàn. Mạng sống ngàn cân treo sợi tóc. Biết giữ lấy đạo làm người của Đức Khổng-Phu-Tử, ghi nhớ làm theo lời dặn dò của cha trước khi xa gia-đình, nhờ có đức của cha mẹ, Ông bà Tổ-tiên, Phật Trời phù-hộ được còn sống sót đến ngày hôm nay.
Nhớ lại những ngày còn đi đánh trận bị thương rất nặng, nhờ anh em bạn-bè cứu mạng nếu chậm một chút xíu nữa là đã bỏ mạng sa-trường, bây giờ nghĩ lại mà rợn tóc gáy.
CHƯƠNG IV. SINH-HOẠT - CUỘC SỐNG CŨA BẢN THÂN VÀ GIA- ĐÌNH SAU NGÀY GIẢI-PHÓNG.
BÀI 7. NGƯỜI DÂN CHƯA ĐƯỢC THỪA NHẬN
Trước giờ phút đánh dấu bước ngoặt của lịch-sử, chấm dứt thời kỳ đen tối, chuyển sang thời kỳ vinh quang sán-lạn của đất nước được độc lập.
Hai cha con của tôi còn ở trên lầu 2 bệnh-viện Nhi-đồng, con tôi nhờ ơn Bác-sĩ cả hai nơi chữa trị nay đã được phục-hồi sức khỏe. Trong giờ phút giao-thời nầy, các Bác-sĩ và y-tá làm việc trong bệnh-viện cho các em nhi-đồng đang điều-trị và thân-nhân thăm nuôi ra khỏi bệnh-viện đóng chặt cửa khóa lại để bảo vệ cơ-sở vật-chất, phòng kẻ xấu thừa cơ-hội vào cướp-bóc phá-tán.
Tôi hiểu rõ lời Bác-sĩ và ý-thức liền ẳm bé Phú con tôi ra khỏi bệnh-viện, cuốc bộ về nhà ông anh vợ tại Hòa-Hưng ở bên cạnh Bộ-chỉ-huy Biệt-Động-Quân chế-độ cũ. Thời-gian nầy khoảng 11giờ ngày 30/4/1975, tôi rất lo lắng cho vợ đang mang bầu gần ngày sinh, ba đứa con còn bé nhỏ ngay-thơ không hiểu bây giờ còn ở nơi đâu? Mẹ con có được bình-an hay khônh? Súng ngoài đường thì vẫn nổ dòn như pháo tết ngày xưa. Sau khi tìm hiểu tiếng súng, không phãi đánh nhau, mà các dứa trẻ con thành-phố tinh-nghịch nhặt súng M.16 cũa lính chế-độ củ vứt bỏ bừa-bãi la-liệt hai bên lề đường cũa thành-phố bắn chỉ thiên cho thoả-thích. Sợ quá tôi chẵng ra khỏi nhà đi tìm vợ con. Một lát sau thì vợ con cũng đến đầy-đủ với hai anh bạn lính cùng đơn-vị họ đã bị thương xuất viện về nghỉ dưõng bệnh tại trại gia-binh, dắt dìu giúp đở gia-đình tôi cùng chạy loạn, tìm đến nơi đến chốn bình-yên vô-sự. Trước ngày giải-phóng vợ tôi đã biết địa chỉ nhà của ông anh. Giờ đây hai vợ chồng bốn đứa con đã được sum-họp, mừng-mừng tủi-tủi cứ ngồi yên trong nhà nhìn ra ngoài đường trông thấy một số ngưỡi xấu bụng, tham-lam chạy đi hôi của từng đoàn ngoài phố. Súng trẻ con cứ bắn nghịch họ cứ đi thản-nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Thấy họ mang về hàng quân-tiếp-vụ quân-đội Sài-gòn. Nào là gạo, đường, sữa, rượu bia, thuốc lá, nước ngọt, lẫn cả của cải thường dân họ sợ chết bỏ nhà trốn đi nước ngoài, tôi vô cùng chán nản chẵng ham muốn gì cả. Tôi nghĩ bụng đi làm lính 14 năm đã vào sinh ra tử mà không chết, chỉ có bị thương, đừng nên có lòng tham-lam đi theo họ làm việc phi-nghĩa, phi-pháp xui-xẽo bị tụi trẻ con bắn nghịch lạc đạn chết bỏ vợ con thì lãng xẹt. Ông anh cũng bảo bây giờ ngoài đường phố tình hình chưa ổn-định, o dượng cứ tạm ở lại đây một vài ngày chờ yên tiếng súng rồi hãy về, bây giờ mà về gấp là nguy-hiễm, cũng chưa có xe nào dám chạy về Hố-Nai đâu. Tôi nghe lời anh chị ở lại ba hôm tình-hình đã yên-ổn, vợ chồng dắt dìu con cái đón xe về Hố-Nai. Về đến nơi thấy anh chị em bạn lính ở cùng doanh trại họ đã trở về gần đầy đủ, vào căn nhà thấy cạy cửa đập khóa tanh-bành, rinh hết đồ-đạc trong nhà rỗng tuyênh từ trước ra sau vơ-vét sạch-sẽ, chẵng còn cái gì đáng giá một xu.
Gia-tài sản-nghiệp của tôi lúc nầy chỉ còn được mụ vợ bốn đứa con thơ dại. Anh chị em cùng ở chung trong trại ai có bà con gia-đình ở gần, họ cũng mướn xe chở đồ-đạc về quê sinh sống, dần-dần họ từ giả đi gần muốn hết. Chỉ còn lại gia-đình của tôi và Hai Cưu quê hương quá xa tại Đà-Nẳng và Huế chẵng đủ tiền bao nổi chuyến xe để về quê, nên còn nấn-ná ở tại đây.
Vợ chồng bàn bạc khi sinh nở xong tìm cách về làng sinh sống cùng cha mẹ và quê-hương. Cứ ở lì tại trại được 10 ngày thì quân giải-phóng đến tiếp-thu khu-vực quân-sự đuổi ra khỏi trại, tôi dắt dìu vợ con ra đến gia-đinh bác Hạp xin trú-ngụ tạm ít hôm để che mưa nắng cho vợ con tạm thời rồi sẽ lo liệu. Hồi đó gia-đình của bác có một căn nhà tranh vách đất lụp-xụp kê được hai chiếc giường để cho vợ lính mướn ở, bây giờ đang bỏ trống, Bác cho ở nhờ chẵng phải thuê mướn gì. Hai Cưu thấy tôi còn ở đây cũng mướn của bác Cương anh bác Hạp mấy mét vuông đất để che tạm một cái lều nhỏ xíu kê được chiếc giường để ở tạm rồi đi kiếm việc làm ăn, quen biết ông Chuẩn xin được đất mới dỡ lều ra Tây-Lạc. Thời-gian gia-đình tôi tá-túc tại căn lều Bác Hạp để đợi vợ sinh xong về quê chẵng biết có việc gì mà đi làm, thất-nghiệp ngồi nhà ăn không cả một tháng, gia-đình lớn nhỏ có sáu người mà kéo dài không làm gì có thu-nhập, ngồi không mà ăn thì sông cũng cạn núi cũng mòn, cả nhà sắp chết đói đến nơi. Khi vợ đến ngày sinh bé Phúc đưa đến trạm xá Bùi-Chu nhờ cô Huê giúp đở chẵng phải tốn kém, vợ sinh phải ở nhà nuôi đẻ giặt giũ, vì lúc ấy con còn bé chưa nhờ được. Sau một tháng nữa vợ tròn con vuông được khỏe-mạnh cứng cáp, giao cho bà xã ở nhà coi con nấu nướng mà ăn, tôi theo Hai Cưu đi tìm việc làm, cuốc cỏ tranh cho bà Quan một ngày được 500$ bạc của chế độ cũ, mua được ký gạo đủ cho một mình ăn, nhưng vẫn đi làm với nhau vô lẻ ngồi nhà hoài, đi vào sâu trong rẩy trong đồng ruộng mới thấy công ăn việc làm của bà con, anh em đổi ý về quê, rủ nhau đến Trưởng-ấp xin đăng-ký tạm trú. Vợ chồng cũng bàn lại bỏ ý định về quê. Bây giờ mà mình mang một bầy con lóc-nhóc về chỉ báo đời cha mẹ đôi bên, bây giờ thì cha mẹ đã già yếu kinh-tế khó-khăn, có một điều nữa xấu hổ với bạn bè làng xóm. Tôi mang sổ gia-đình và giấy căn-cước của hai vợ chồng đến Văn-phòng Ap Bùi-Chu nộp hết cho ấp xin được đăng-ký nhập cư thường-trú, ông Thận làm Phó ấp trực tại Văn-phòng nhận hồ-sơ cho được tạm trú để đi lao-động nuôi con, được yên chí nhận nơi nầy làm-quê hương thứ hai để sinh sống. Vợ mới sinh còn yếu chưa đi làm được ở nhà chăm bầy con dại năm đứa. Tôi phải đi tìm việc làm thuê cuốc mướn để kiếm tí tiền mua gạo sống qua ngày, ngày nào tìm không có việc thì bé Quang với tôi hai cha con đi mót củ mì trong Long-Bình Cầu-Cháy để đem về ăn độn, ngày nào cũng phải đi lao-động không việc nầy thì kiếm việc khác làm để có lương-thực nuôi con. Thời ấy người ta thường nói lao-đôïng là vinh-quang, bây giờ tôi suy nghĩ kỹ mới thấy câu văn hay và đúng lý.
BÀI 8. TỪ NGÀY ĐƯỢC NHẬP HỘ KHẨU,
ĐƯỢC HỌC CẢI-TẠO TẠI ĐỊA-PHƯƠNG.
Tôi làm lính 14 năm mới bò lên cấp bậc Trung sĩ I chức-vụ Hạ-Sĩ- Quan Quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4/52 Biệt-Động-Quân, nên cách mạng cũng khoan-hồng gọi tập-trung cải-tạo tại địa-phương, vì ấp Bùi-chu đông nguỵ-quân nguỵ-quyền, mà cán-bộ quản-giáo chỉ có hai ông Trung-uý bộ-đội, nên phải chia ra làm ba bốn ca, cải-tạo từng đợt ca một cải-tạo một tuần, cho về đi lao-động làm ăn, đến ca hai, rồi đến ca ba luân-lưu tuần-tự cho đến hết chương-trình thì cho nghỉ. Sau thời-gian cải-tạo có quyết-định được phục-hồi quyền công-dân. Hôm nay tôi mới được chính-thức làm phó thường dân Nam bộ.
Thất nghiệp vô tài bất tướng chẵng có nghề-nghiệp chuyên-môn gì, chỉ biết đi làm thợ đụng, đụng việc gì cũng làm, có tiền công là được. Có thời-gian đi bốc-xếp gỗ cho bộ-đội, sáng bới một lon gô cơm ra đường lộ chờ đợi xe, có ngày đợi hoài không thấy, mất toi cơm một ngày về không, có bữa chỉ vào đến rừng, cưa máy bị hư-hỏng không làm được lại về không mất công chẵng được gì. Thấy công việc làm rừng nầy khó ăn tiền, nghỉ đi nghề rừng, về tìm việc nghề nông làm mướn tuy ít tiền công hơn nhưng dễ kiếm việc thường hơn.
Đồ nghề nông cụ của tôi chỉ vỏn vẹn có hai chiếc, một cái mã tấu, một cái xẻng cá-nhân của Mỹ, tôi lấy trong kho khi còn làm lính, để vợ chẻ củi và dọn cỏ chung quanh nhà trại gia binh. Khi đi chặt mướn mía đường thì mang theo mã tấu, xẽng gấp tháo bỏ cán ngắn thay thế cái cán dài để cuốc đất mướn, mỗi ngày công chỉ được 500$ tiền chế độ cũ, mua được một ký gạo, có đôi lúc mua không có gạo, thì mua bo-bo về nấu ăn cũng ngon lành. Chiếc mã-tấu dùng đi chặt cây làm nhà ở và phá rừng làm rẫy. Đã quyết-định chọn ấp Bùi-chu làm quê-hương thứ hai thì phải kiếm miếng đất cất cái lều nho nhỏ để gia-đình trú-ngụ che mưa che nắng không lẽ ở nhờ ở đậu mải như thế nầy coi sao được. Lúc nầy anh em cựu lính rủ nhau đi làm mướn, gặp anh Vầy hỏi thăm khu-vực của anh ở có còn chổ nào chỉ cho tôi cất cái lều ở với cho vui, anh trả lời cứ vào nhà tôi chỉ cho mà làm, hai ngày sau đi vào anh dắt đến chỉ cho, anh bảo miếng đất nầy của thằng Hoa nó xí nhưng không ở bỏ đi nơi khác rồi, anh cứ ra đây làm mà ở với anh em cho vui, tôi cũng thích rồi, nhưng sang hỏi ông Út Một cho chắc ăn. Vì ông là người ở đây trước ngày chưa giải-phóng, để tránh sự rắc-rối về sau. Sang nhà ông Út Một ông cũng bảo đất hoang-vu vô chủ cứ ra làm mà ở, thằng nào nói gì có tôi, mới vững bụng, vác cuốc ra đắp một cái nền xí để đó. Có đất rồi phải lo vật liệu, xách mã-tấu vào rừng Cầu-Ba chặt cây.
Năm ấy rừng thiên-nhiên còn bao-la tha-hồ mà chặt, vào rừng cứ thấy cây thẳng vừa ý là đốn hạ rồi vác dồn lại một đống róc sạch vỏ, về ấp mướn xe bò vào chở. Hồi đầu nhờ Bác Tỳ bác nói rừng cấm khai-thác, để tôi hỏi ông Hai Hà cho phép mới dám chở, tôi nghĩ mình đã đi chặt trộm mà ông bảo hỏi Hai Hà Chủ-tịch xã lúc bấy giờ. Tôi sợ năn nỉ với ông, Bác không giúp em được thì em đi nhờ người khác Bác đừng báo Xã họ bắt tội nghiệp em. Em chỉ lén chặt một ít đủ che túp lều để gia-đình che mưa nắng, em hứa không làm việc phi pháp, ông lặng yên, tôi tạ từ ông về, đi mướn xe bò ông Bảy-Ép, ông nhận lời ngay, đánh xe vào bốc chở về, khỏi trình báo ai cả, ông chở về đường đi tự-nhiên chẵng thấy ai hỏi han gì, đến nơi đỗ xuống tôi trả tiền công song-phẵng và cám ơn Bác Bảy, ông đánh xe về. Đã có cây đầy đủ, tôi vào dốc đồng ruộng chặt tre chẻ hom vác về, vợ đi vào Phú-Sơn cắt tranh phơi khô mang về xếp đống, ngày nào không có việc làm ở nhà soạn tranh ra đánh thành tấm lợp bằng hom sáu, chuẩn bị đầy đủ vật-liệu, một mình tự cưa ngàm đục lổ sàm vài để sẳn, đi nhờ hai ông bạn Bác Vấn và Hai Cưu đến phụ giúp, ba anh em vừa dựng vừa lợp mái làm một ngày là xong, ngày sau một mình đóng bổ vách tấp tranh vào cho kín đáo. Nay đã có cái lều tranh kê được hai chiếc giường, chái thêm một khúc phía sau để nấu cơm.
Tạm thời đã có nơi trú-ngụ che mưa nắng, tôi từ-giả ông bà Hạp dọn về cái lều mới làm để ở. Tôi thưa với ông bà rằng : Dạ em kính thưa hai bác, thời buổi chiến-tranh ly-loạn, em buộc phải đi lính-tráng vào đến đây, nay bị lở đường giữa chốn xa xuôi không có người thân thuộc, chẵng biết nương-tựa vào đâu, may mắn gặp gia-đình bác mở rộng lòng thương, cho gia-đình em được tá-túc trong căn lều của hai bác đợi cho vợ sinh nở cứng-cáp tìm đường về quê, ở đây vợ em đã sinh nở mạnh khỏe mẹ tròn con vuông, thời-gian thấm-thoát đã bốn tháng trôi qua, vợ chồng em quyết-định không về quê nữa, em đã xin ấp cư-trú tại đây làm ăn nuôi con. Bấy lâu vợ chồng em đã lo liệu che được một túp lều tranh phía ngoài sân bóng đá kế nhà ông Út Một, xin hai bác cho em dọn về ngoài ấy để trú-ngụ, vợ chồng em trả lại căn lều cho hai bác. Dạ thưa hai bác ! một đêm nằm hơn năm ở, dù gì em cũng ở nhờ nhà hai bác hơn bốn tháng nay ơn nghĩa nầy quá lớn biết bao giờ em đền đáp được. Em cầu xin ơn trên ban phước lành cho toàn thể gia-đình bác. Bác Hạp gái cũng nói lại : Không có gì đâu, biết giúp nhau lúc hoạn-nạn mới là phải, rồi bác cũng chúc lại vợ chồng con cái vào trong ấy ở được mạnh khỏe, làm ăn mau khấm-khá. Tôi cám ơn bác rồi dọn nhà vào đây ở kể từ tháng 8 năm 1975 cho đến ngày hôm nay.
BÀI 9 : AN CƯ LẬP NGHIỆP
Được chính-quyền địa-phương chấp nhận cho cư ngụ, kiếm được miếng đất dựng lên cái lều tạm che mưa nắng cho gia đình trú-ẩn. Lúc nầy rất bi đát kinh tế gia đình đã cạn kiệt có ngày không gạo nấu, con cái phải ăn củ mì bo bo mà sống. Tôi ngày nào cũng đi làm mướn xạc cỏ lúa rẩy cho ông Chuẩn hai tháng, xong việc cỏ đi cuốc ruộng cho ông Chánh-Tôn, cuốc rẩy nhặt cỏ tranh cho bà Quang con gái bác Khương, đắp bờ phát cỏ ruộng cho cụ cố Phác, ai bảo làm gì cũng làm, miển trả công mỗi ngày tương đương một ký gạo là được, để nuôi bầy con sống qua ngày. ăn thì đều mà đi làm chẵng đều, có đôi lúc hết việc không ai mướn thất nghiệp ở nhà cũng phải ăn.
Khoảng trong tháng 9/1975, lúc nầy kẹt quá, gạo hết tiền chẳng làm gì có, con đói phải mang số nữ-trang của bà xã, tiết-kiệm sắm một chút để phòng cơ, còn 8 chỉ vàng 24 cara, một sợi dây chuyền có quả tim 5 chỉ, 3 cái nhẫn mỗi cái một chĩ. Vợ giữ kỷ trong người khi chạy loạn nên vẫn còn. Vợ chồng bàn với nhau mang đi bán, hỏi hết các nhà có tiền chẵng ai thèm mua tôi mang một cái khâu một chỉ ra bà Giáo-Luyện nhờ bà mua giúp cho, trả bao nhiêu cũng được miễn có tiền về đong gạo cho con ăn là cám ơn. Đây là nơi thân chủ quen biết đã từng mua bán với bà trước ngày chưa giải phóng, tôi nghĩ bà chỉ sợ mình khốn-đốn quá, có khi đem vàng dổm để lường-gạt, nên bà không dám mua. Bí quá không biết làm sao, bà xã rỉ tai thổ lộ sự thật nhờ bác Hạp bán giúp cho, nhà em đã mang đi hỏi bán mà chẳng ai mua. Bác nhận lời giúp đỡ mang tận Saigòn mới bán hết được, đem tiền về đưa cho vợ chồng tôi, mừng quá cám ơn bác, có tiền đi đong gạo gia-đình ăn, gạo lúc nầy đắt lắm, bán 8 chỉ vàng mà tính ra cả trước sau đong cả tạ gạo là sạch tiền. Có gạo ăn cứu nguy cơn đói. Tôi tự suy nghĩ để kinh nghiệm. Vàng bạc ngọc ngà châu báu chẳng quí bằng hạt gạo của trời. Khi bụng đói cồn cào không thể ăn vàng ăn bạc vào bụng mà sống được
Sau đó một thời-gian có tình trạng vượt biên sang Mỹ, vàng lên giá vùn-vụt nhiều người đi tìm mua, lúc này còn mà bán một chỉ có thể mua được hơn tạ gạo, 8 chỉ tính ra gạo cở 10 tạ, tôi đã bán sạch sẽ từ lâu, tôi cũng chẳng có tiếc nuối làm gì. Tôi tự nghĩ một miếng khi đói bằng gói khi no, may mắn có người giúp bán được để cứu đói là tốt rồi. Thế là của Tây trả lại cho Tàu, sạch trơn sạch trụi của cải vàng bạc tích-luỷ cả 14 năm làm lính nguỵ, hôm nay đã tiêu tán sạch sẽ theo cát bụi của thời gian.
Hết năm 1975 qua năm 1976 ăn Tết Ất-Mão âm lịch xong, tháng giêng nhìn thấy bà con trong ấp rủ nhau đi phá rừng làm rẩy, cũng vác mã tấu đi theo vào cầu ba phát đưòng ranh khoanh vùng một mẫu rừng xí để đó, về đi làm mướn kiếm gạo nuôi con, ngày nào không có việc đi làm mướn, thì bới cơm nước xách mã-tấu vào phát rừng, cứ vừa đi làm mướn vừa phá rừng, một mình cũng phát xong 5 sào, còn 5 sào để qua năm sau phá tiếp.
Tháng 12 năm 1975 cụ cố Phác cho mướn 2 sào ruộng cấy lúa thần-nông giống 732, cày cấy xong bỏ đó đi phát dọn rẩy, lâu lâu ghé thăm đắp nước vào, chẳng vải phân, không xịt thuốc, chỉ có làm vài ngày cỏ mà thôi, thời tiết tốt không sâu bọ phá, qua tháng 3 năm 1976 thu-hoạch được 20 bao lúa tính ra cả tấn, mừng quá còn hơn trúng số độc-đắc, chở về phơi khô khén vây cót đổ vào dự-trữ để ăn đi phá rẩy dọn rẩy, khỏi lo chạy gạo hàng ngày, nên bây giờ tôi vẫn nhớ ơn ông cố cho đến muôn đời.
Từ đây tôi chỉ đi làm việc nhà hết đi làm mướn. Chỉ có bà xã đến mùa bà con trong ấp cấy lúa nước, đi cấy mướn, lúc mới giải phóng ít có người biết cấy, đi cấy là nghề-nghiệp của bà xã, đến vụ cấy bà con mướn đi làm liên-tục. Mùa cấy năm 1980 mang bầu thằng con trai út, tên nó là thằng Đức bây giờ, đến ngày gần sinh tôi bảo ở nhà, đi cấy nửa coi chừng đẻ giữa ruộng, tôi đi làm ở lại trong rẩy, bà xã ở nhà ông Thiệp vào kêu đi cấy, nể nang cũng ra đi vào làm được nửa buổi, chuyển bụng đẻ ngay giữa bờ ruộng như vịt. Gặp chú Hùng Rô có xe bò làm kế bên, bỏ mẹ con lên chở về trạm xá cô Huê, đồn ra trên làng dưới xóm ai ai cũng biết, tin vào rẩy tôi chạy về gấp, vào trạm xá bà xã vẫn tĩnh-táo sức-khỏe mẹ tròn con vuông, tôi hú hồn hú vía hết hồi-hộp. Nghỉ lại có lẽ Trời Phật ở trên cao nhìn thấu, phù hộ cho mới được như vậy. Ngày sau đem về nhà giao cho con gái lớn chăm mẹ, cha con vào rẩy làm tiếp, cứ theo bà con học hỏi mà làm cho đúng mùa vụ, thấy bà con trồng trỉa giống gì cứ theo mà làm, có làm là có thu-hoạch mới có lương-thực mà ăn, hết thứ nầy thu-hoạch thứ khác
Nhưng cũng vất-vả vô cùng, làm việc bằng hai cánh tay chẳng có năng-xuất, phải làm hết sức lực may ra đủ ăn. Đi làm phải lội bộ 10 cây số đường rừng mới đến nơi, qua sông Lạnh còn đi vào tới Đồi-đất phá rẫy, cha con che trại ở làm tại chỗ, có khi hai tuần lễ hoặc cả tháng mới về thăm nhà một lần.
Mang lương thực về nhà nuôi con phải đi ban đêm tránh trạm kiểm soát, nếu xui bị bắt là không xin lại được. Sản-xuất cầm chừng vừa đủ ăn, không thể mang đi thành phố bán đổi để bà con tiêu-thụ được, kinh-tế gia-đình xã-hội thời bao cấp khó phát-triển, đời sống của nông-dân càng vất-vả hơn.
Nam 1977 qua phá rẩy bên kia sông Thao thuộc ranh giới huyện Vĩnh-cửu rừng nguyên-sinh còn nhiều, cây to nhỏ còn rậm-rạp, cây chò-chai, cây dầu cả hai người ôm vẫn còn nhiều, ông Hải ròn mướn thợ cưa vào xẻ về làm nhà ở, xẻ được ít nhiều có chở về bớt một vài xe bò, số còn lại có lẽ kẻ nào xấu bụng báo cáo du-kích Vĩnh-cửu sang tịch-thu bắt dân vác về Đồng-lu một số, gỗ còn lại chất đống nổi lửa đốt cháy sạch sẽ, xui cho hai anh đẩy xe thồ đi chặt cây rừng, bị đốt cháy xe còn phải bị bắt vác một chuyến cây về đến Đồng-Lu mới thả cho về. Lúc nầy tôi cũng vào đây để lựa chặt một nếp nhà, cứ kiếm cây khế, cây dấp cứ cây nào thẳng thử rựa thấy cứng vừa ý là hạ, dứt đúng thước tấc róc mặt đẻo vỏ, tính đủ làm, vác hết qua sông.
Buổi chiều du-kích sang bắt cây ông Hải, hai anh em tôi đang chuyển cây qua sông. Tôi biết trước nên trốn thoát khỏi bị bắt vác cây. Người em chuyển dùm cây với tôi là vợ của cậu Quý, ở ngoài quê vào Saigòn thăm chồng là sinh-viên Đại-học bách-khoa lúc mới giải phóng, mợ về thăm ở lại nhà tôi, nhờ mợ đi vác giúp. Hai anh em chuyển cả ngày mới qua hết bên kia sông, đi mướn xe bò chở hết về nhà chất lại, vào rừng chặt tre chẽ rui, mè, hom tranh, lạt buộc vác về mấy chuyến đầy đủ. Vợ chồng vào dốc đồng ruộng cắt tranh, năm ấy tranh mọc quá nhiều, tha hồ mà cắt, chải chuốt đàng hoàng sạch sẽ, phơi khô bó chặt lại từng bó, dồn lại một đống kêu xe bò ông Trầm-Ninh Tây-lạc vào chở, chất hết lên một chuyến quá nhiều, không nặng nhưng nó cồng-kềnh, tranh khô trơn, đường ổ gà xe bò kéo đi bị lắc-lư tuột đỗ mấy lần, phần trời tối đói bụng khát nước, hai anh em sắp xếp lại mệt muốn đứt hơi, nhờ ông Ninh hồi ấy rất khỏe, chịu khó làm nhiệt tình, xếp lại xong ràng-rịt kỷ-lưỡng cũng đưa được xe tranh về đến nơi. Tôi mừng quá cám ơn, uống nươc xong bỏ tranh xuống trả tiền xe cho ông về cũng hơi muộn. Làm sàng chất hết lên đậy lại che mưa nắng kỹ-lưỡng.
Đầu tháng 10/1980 về quê thăm cha mẹ anh em. Về xe lửa bước xuống ga Thừa-Lưu xách gói rảo bộ về làng, đi đến một quảng đường cở cây số, gặp một toán trẻ em đi lên xã học tiểu-học. Tôi hỏi các em ở thôn nào đi học xa rứa ? các em trả lời ở thôn Phú-Gia, các em có biết ông Đính không ? các em trả lời có biết, ông đã chết chôn hôm qua rồi. Một cú xốc bất ngờ đầu óc choáng váng bước hết muốn nổi vừa đi vừa khóc, bụng bảo dạ phải chi mình về sớm được vài ngày cha con nhìn mặt nhau lần cuối, đi đến nhà nhìn thấy bàn thờ bát nhang bài-vị, đứng khóc than một lát cho vơi bớt nổi lòng, tôi tự trách mình là người con trưởng bất hiếu, sống xa quê hương cũng vì tương-lai của con-cái, khi cha qua đời chẳng lấp được một lát đất, thật là vô dụng, cầm nén hương ra mộ thấy đống đất mới, thắp ba cây nhang xá nấm mộ ba xá khóc một lát rồi ra về nhà với mẹ. Bà con đến thăm họ cũng góp lời an-ủi. Ở lại với mẹ đến ngày 9/9 âm lịch là ngày chạp mã lúc ấy, bây giờ dời lui ngày 9/8 âm-lịch, chạp mả cúng bái xong. Rủ mẹ vào Nam sống với con cháu, bà chịu đi theo vào đến nơi nhìn thấy hoàn-cảnh nhà cửa của con cháu ở như cái ổ chuột chẵng giống ai, bà rưng-rưng nước mắt, mẹ ở được hơn tuần lễ thì vợ chồng đi thu-hoạch lúa rẩy, nhờ rẩy mới nên lúa tốt cũng trúng mùa, thu-hoạch 5 sào được 25 bao 50, chở về chuyến xe bò đầy, mẹ thấy cũng mừng, vợ chồng phải đi làm liên-tục, bà ở nhà với cháu bỏ tranh ra đánh hom sáu cả hai tuần lễ mới hết đống tranh, tôi sắp lại đếm được 400 tấm, mỗi tấm dài 1m20, tấm lợp đã đủ.
Công việc hơi vản, tháng 10 trời hết mưa, nhờ ông Khiêm một tay với tôi dỡ đống cây ra làm thợ mộc cưa ngàm đục lổ ráp 4 vài kèo làm nhà ba gian dài 6m ngang 4m làm mộc xong, buổi sáng sớm nhờ ít anh em trong xóm đến phụ dựng lên bỏ đòn dông chống chỏi vững vàng, anh em về nhà ăn cơm đi lao-động. Một mình tôi cắm cúi đóng hết đòn tay, làm hai mái rui tre đóng đinh buộc dây cưa tề bằng phẳng ngắm mấy hàng cột sửa lại cho thẳng nện cứng. Đóng bổ vách cột sườn vào để vắt vách đất.
Dở đống tranh ra tề đầu bằng phẵng chải sạch sẽ sắp có hàng lối tưới nước lên, cho tấm tranh nở cứng khi lợp đưa lên mái nhà khỏi tuột ra.
Tôi chuẩn bị sườn nhà sườn vách tiêm-tất, đi cậy nhờ anh em bạn-bè cũ và anh em trong khu-vực có ông Hải, ông Yến, ông Một ông Khiêm tập trung lại giúp cho, người lợp mái kẻ vắt vách ai biết việc gì làm việc ấy, làm một ngày là xong, buổi trưa nghỉ dùng cơm làm lại buổi chiều là hoàn tất, rửa tay chân bồi-dưỡng một chầu nhậu xã-giao, vui-vẻ, anh em không tính công cán gì, chỉ giúp đở nhau mà thôi, tôi cũng có lời cám ơn tất cả. Hôm nay có cái nhà tranh vách đất chắc-chắn cao-ráo rộng-rãi hơn, cái ở cũng tạm ổn, chỉ còn lo cái ăn.
Bắt tay vào làm kinh-tế vô sông Lạnh xẻ núi lấp suối làm ruộng lúa nước ngắn ngày, ngăn đập sông Lạnh làm thuỷ-lợi, đứng ra hô-hào bà con cùng làm. Sửa sang lều trại chắc-chắn, cha con ở làm có khi hai ba tuần khi một tháng mới về thăm mẹ, thăm nhà một lần, vợ sớm đi bộ vào làm một buổi chiều đường xa lo về sớm với con, tôi có về thì nghỉ tại nhà qua đêm sáng mai cũng đi ngay. Bà ở nhà với cháu bé, con dâu đi làm liên-tục, ít khi được ở nhà mẹ con chuyện-trò, thấy vắng-vẻ phần nữa xa lạ bà buồn quá nhớ quê, nhớ hai đứa con còn ở ngoài xứ bà đòi về, tôi giữ lại không cho, cầm chân bà được sáu tháng, có dượng Sinh con rễ của bà vào thăm, bà quyết một đòi về với dượng Sinh, tôi cũng phải chịu để mẹ về quê sống với hai em được bảy năm, rồi bà cũng đi theo ông. Kể từ năm 1987 tôi mất hết cả cha lẫn mẹ, cha thọ 70 tuổi, mẹ thọ 72 tuổi.