• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Và khi tro bụi - Đoàn Minh Phượng, truyện dài

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Và khi tro bụi - Đoàn Minh Phượng, truyện dài

    Và khi tro bụi - Đoàn Minh Phượng



    And when this dust falls to the urn,
    In that state I came, return.

    Và khi tro bụi rơi về,
    Trong thinh lặng đó, cận kề quê hương.
    Henry Vaughan 1622 – 1695 (The Retreat)


    1. Sau ngày mù sương

    Chồng tôi mất vì xe rơi xuống núi, ở một đoạn đèo, trong một đám sương mù, khoảng 5 giờ một buổi chiều tháng 11. Anh ấy đi đâu qua đoạn đường ấy vào ngày ấy, giờ ấy, không một ai biết. Anh không có công việc gì cần làm hoặc người quen ở vùng con đường ấy dẫn tới. Tôi không hoàn toàn hiểu cái chết của anh.

    Tôi muốn mang chiếc bình lên một ngọn đồi ở miền trung du, đổ mớ tro của anh xuống đám cỏ và mang chiếc bình không về đặt ở thành cửa sổ, nơi tôi đã đứng suốt bảy ngày nhìn xuống con đường trước nhà. Nhưng không ai cho tôi làm như vậy. Mẹ anh sắp xếp để có một buổi lễ ở nhà nguyện nghĩa trang Friedsdorf. Sau buổi lễ đó, người ta mang anh đi thiêu và chiếc bình đựng tro từ thân xác anh được đem về đặt trong một toà nhà được xây để chứa những chiếc bình như vậy. Luật lệ không cho tôi đem chiếc bình về nhà. Tôi không biết họ sẽ cất giữ những bình tro trong bao lâu. Tôi cũng không biết bao nhiêu năm là thời gian cần thiết để lưu giữ những mớ tro có mang tên họ của một người, để nói rằng người đó đã một thời có mặt trên mặt đất, dưới bầu trời này.

    Ở nơi tôi sinh ra, mầu trắng là mầu tang chứ không phải đen. Tôi tưởng đã quên điều này, vậy mà tôi lại nhớ, và khi nhớ lại rồi điều đó trở nên quan trọng. Quan trọng tuyệt đối trong một cuộc đời không còn gì là quan trọng nữa. Ngày tang lễ anh tôi mặc một chiếc áo trắng, dài. Lúc tôi bước vào nhà nguyện, mọi người nhìn tôi rồi vội quay đi, như tế nhị tránh nhìn một điều sai sót lớn lao. Tôi nghĩ: đừng bắt tôi làm khác, tôi chỉ có một lần này trong đời để mặc chiếc áo trắng dành cho anh.

    Có một người đàn bà ở cùng khu phổ tôi ở, chồng chết, bà buông tất cả các màn che cửa xuống, sống trong một căn nhà tối và không gặp ai nữa. Một người bạn của chồng tôi kể tôi nghe về bà ấy và nói: “Chị phải chấp nhận chồng chị chết rồi. Chúng ta ai cũng chết. Chị khóc bao nhiêu cũng được nhưng sau đó thì phải tiếp tục sống như một người bình thường, đừng để cái tang này biến chị thành một hồn ma.” Tôi trả lời: “Anh không phải lo cho tôi. Tôi sẽ không sống với bóng tối. Tôi sẽ quên anh ấy, tôi hứa.” Và tôi cố gắng quên, từng chuyện, từng chuyện một, từng ngày, từng ngày một trong khoảng đời ấy của tôi, từ ngày tôi gặp anh cho đến ngày anh chết.

    Tôi trút lên mặt bàn những tấm ảnh của anh và những tấm ảnh anh đã chụp. Những thành phố và những núi rừng anh đã đi qua, một cái bông mới nở trong chậu, một tách cà phê đang uống, một đôi dép… Nếu tôi nhìn lâu, không gian phía sau của những bức ảnh cũ còn dẫn tôi đi xa hơn, đưa tôi chìm sâu hơn vào những đoạn đời anh đã sống. Tôi không muốn xem những ảnh đó để quay lại quá khứ. Tôi trút chúng lên mặt bàn để tìm cách tách bỏ chúng ra khỏi đời tôi. Tôi phân loại những tấm ảnh theo nơi chốn, theo thời gian, bỏ chúng vào các túi giấy. Tôi viết lên bên ngoài túi những bức ảnh đã được chụp trong chuyến đi nào, rồi lấy giây buộc những túi giấy ấy lại. Tôi không biết làm gì với chúng, nhưng ít ra, sau những ngày những đêm ngồi sắp xếp, tôi cảm thấy tôi đã tìm được chỗ nằm có tên tuổi cho những bức ảnh, và một khi có nơi ở rồi, chúng sẽ thôi không ám ảnh tôi nữa.

    Tôi không thể đốt một đống lửa lớn mà đốt hết những đồ vật anh để lại. Để đẩy những dấu vết rằng anh đã sống ra khỏi đời tôi, tôi phải thức ngày thức đêm để nhìn chúng, rồi cất chúng đi. Một cuốn sách đọc chưa xong, một chai thuốc nhỏ mắt, một cái khăn lông thưa có in sọc mua ở một cái chợ nghèo nào đó ở Kenya, một cái bình để mang cà phê ấm đi đường xa. Những đồ vật không biết nói nhưng không im lặng. Chúng thở khẽ khàng vào ban ngày, trở mình vào ban đêm vì mất ngủ. Tôi phải cầm chúng trên tay, từng món một, ngồi nhìn chúng đến khi chúng biết rằng tôi hiểu, thì chúng mới chịu thôi không trở mình. Và tôi bỏ chúng vào rương đóng nắp lại.

    Tôi hiểu gì? Cái chết?

    Có khi tôi nghĩ tôi không còn nhớ anh. Nhưng có khi tự nhiên, một khoảnh khắc kỳ lạ chợt trở về. Không phải là một câu chuyện, mà chỉ là một khoảnh khắc ngắn và rõ ràng. Anh ấy hay hút một điếu thuốc đến nửa rồi dụi tắt và bỏ nó vào túi áo để dành lúc khác hút tiếp. Rồi anh quên mất những nửa điếu thuốc ấy. Ngày xưa tôi thường thò tay vào túi những chiếc áo anh thay ra để lấy chúng đem vất đi. Nhiều năm sau khi anh chết, tay tôi chợt chạm lại những mẩu thuốc ấy trong tâm tưởng, có khi vẫn còn một chút ẩm ở đầu lọc đã nằm trong miệng anh khi anh hút nó. Nỗi nhớ chỉ là sự trở lại của một khoảnh khắc. Không hề có một năm tháng nào ở giữa khoảnh khắc ấy và hiện tại. Nó là hiện tại.

    Mất ba tháng tôi mới cất xong đồ đạc của anh vào những cái rương. Tôi gửi đến nhà cha mẹ anh và họ giữ chúng trong cái kho dưới hầm. Chừng mươi năm sau sẽ có người không biết những thứ đó tại sao ở đó và chở chúng mang đi bỏ.

    Sau khi mang đi hết những gì có thể sẽ nhắc nhở tôi rằng anh đã từng có mặt trên đời này, cương quyết giữ lấy lời hứa sắt đá rằng tôi sẽ quên anh, rằng sự quên lãng sẽ trọn vẹn, tôi chợt hiểu rằng tôi sẽ chết theo anh. Nếu sống trong thương nhớ se sắt tôi sẽ sống như một bóng ma u uất, nhưng tôi cũng không thể chịu đựng nổi thêm một sự quên lãng nào nữa trong đời. Đôi lần đốt đi ký ức, tâm tưởng tôi chơi vơi trong một nỗi hao hụt không có gì lấp nổi. Tôi không còn gì, hồn tôi chỉ là một đám tro.

    Tôi chỉ mất một ngày để bỏ những đồ đạc của tôi. Tôi đem cho tất cả quần áo và sách vở, ly chén và đồ dùng trong nhà bếp. Tôi giao chìa khóa nhà cho một công ty địa ốc, nhờ họ bán nhà cùng những bàn ghế trong đó. Và tôi đi tìm cái chết trên đường.

    Đáng lẽ tôi nên chết đi trong vòng hai tuần sau khi chồng tôi chết. Chết lúc chưa tin rằng anh ấy không còn; lúc chưa kịp hiểu cái chết có thật. Lúc còn chưa chịu nhận mình bất hạnh. Chết vào một trong những đêm ngủ thức giấc không thấy buồn vì tưởng chồng còn nằm gần bên; lúc còn hoảng loạn, ngày còn mơ màng nhìn thấy bóng của anh ở mọi góc phố, tối còn nhìn thấy cái đốm sáng nhỏ từ điếu thuốc anh đang hút, thấy làn khói mỏng vương lại không muốn tan đi. Chết không hề biết rằng cái chết cần được hiểu.

    Nhưng tôi đã không chết vào những ngày đó. Không còn có thể có cái chết mông lung, tím ngắt ở giữa trung tâm cơn gió xoáy của nỗi bi thảm. Chỉ còn lại cái chết được chọn lựa. Nó cần được hiểu, cho dù người hiểu nó chỉ là tôi mà thôi.

    Tôi đi khỏi nhà, một ngày nào đó sẽ chết trên đường, ở một nơi chốn không tên. Trong ba tháng tôi sẽ nhặt nhạnh lại mình. Cái chết là một dấu chấm hết. Dấu chấm hết nào cũng muốn mang ý nghĩa của cái câu đi trước nó. Tôi muốn biết mình là ai để ngày tôi chết tôi biết rằng ai đã chết.

    Tôi sẽ sống trên những chuyến xe lửa. Ở đó, tôi sẽ gặp nhiều người, nhưng tôi sẽ không gặp bất cứ một người nào biết tôi là ai. Tôi muốn họ mãi mãi là người lạ và mỗi khi tôi nói chuyện với ai đều không có lần thứ hai. Nếu tôi có một địa chỉ để ở, một tiệm bánh mì để mua bánh mỗi sáng, một con đường mà tôi biết từng khung cửa sổ của những căn nhà, thì rồi tôi cũng sẽ có người quen, có kỷ niệm, có một nơi chốn thuộc về mình. Quê hương là gì nếu không phải là sự lập lại. Tôi không muốn tất cả những thứ ấy. Tôi biết mặt đất là một thứ khó chia tay, nên tôi sẽ sống trên những chuyến tàu. Tôi đã cần ba tháng để cất những cái chăn chồng tôi đã đắp vào trong rương. Tôi cũng cần ba tháng để nhặt nhặnh, cất giữ những gì mà tôi có vào một nơi nào đó. Lần này không phải là những cái rương. Những gì tôi có, nó vô hình. Tôi chưa biết cất chúng ở đâu, cũng như không ai biết gió thì cất ở đâu. Xong việc, tôi sẽ uống thuốc độc chết. Tôi không còn người quen, không còn việc gì trên đời để làm, nơi chốn nào để đến. Ba tháng nữa, tôi sẽ mua chiếc vé cuối cùng và trên đó nơi đến sẽ không còn là một thành phố. Nó là một nơi nào khác.

    Tôi nhuộm nâu mái tóc, chọn mầu phấn trắng và màu son tối. Tôi mua một cái va li và vài túi xách sang trọng, cho vào đó quần áo mới: quần tây, áo lụa, áo ngủ… đồ lót mềm mại, xà phòng và mỹ phẩm đắt tiền, lược chải đầu, gương cầm tay. Những thứ đắt tiền để bù đắp cho sự thiếu tiện nghi khi sống trên tầu. Những thứ đắt tiền mang trên người nó những giá trị giả dối, làm cho người dùng nó cũng thấy mình không thật và cách xa thế giới bình thường.

    Khi cần ngủ, tôi đi tàu có toa nằm. Khi cần yên vắng, tôi mua vé hạng nhất. Nhưng thường tôi tìm một ghế ngồi gần cửa sổ ở toa hạng hai.

    Giữa những chuyến tàu có khi tôi xuống những thành phố lạ, bỏ quần áo ở tiệm giặt, gội đầu ở tiệm, rồi đi lên đi xuống những con phố, vào quán cà phê, tiệm giày hay tiệm sách. Khi ăn tối trong một thành phố, tôi chọn rượu ngon, rồi không bao giờ uống hết. Tôi tránh ngủ lại các khách sạn. Tôi tránh nằm xuống một chiếc giường êm ấm trên mặt đất. Tôi luôn luôn trở về những sân ga. Dần rồi tôi quen tiếng rầm rập của xe lửa trong giấc ngủ, cũng như những thủy thủ quen chiếc thuyền của họ.
    Tôi yêu tiếng nước tôi

    Audio Truyện Kiều
    Similar Threads
  • #16

    16. Đêm dài không chiêm bao

    Tôi về đến khách sạn lúc 7 giờ chiều. Tôi bỏ bữa ăn tối, đi ngủ sớm. Lúc nằm mơ màng giữa thức và ngủ, tôi cảm thấy tôi sẽ nằm mộng thấy Anita. Tôi tin chắc chị sẽ về, và nếu trên đời này không có hồn ma thì một Anita làm bằng ký ức của tôi về chị sẽ về trong giấc ngủ. Chị phải đến, để tả cho tôi biết tình yêu và nỗi buồn khi chị gặp lại đứa con trai nhỏ ở Nhà nuôi trẻ. Tôi biết chị đã cùng với tôi đi đến đó. Từ lúc tôi nhìn thấy cây đàn hồ cầm ở dưới hầm nhà chị, chị không bao giờ rời tôi. Chị ở bên tôi, hay ở trong tôi, hay tôi đã tan biến vào chị, từng khoảnh khắc.

    Lúc nhìn thấy Marcus, tôi không biết tình cảm của mình. Tôi nhìn thấy một đôi mắt đẹp, một gương mặt buồn bã đang ở rất xa, một nỗi bất an không tên, và tất cả những thứ khác đều không tên. Tôi cũng thấy bất an, nhưng không phải vì em không nhìn tôi, mà vì tôi không biết tình cảm của mình. Tôi biết em là đứa con trai nhỏ của Anita, nhưng tôi không biết với tôi em là ai. Tôi có yêu mến em không? Lúc ông hiệu trưởng đi lấy cây đàn, để Marcus và tôi một mình trong phòng, cả hai đã giả vờ nhìn vào một thứ gì đó để không thấy người kia, cái khoảng cách giữa chúng tôi đã được canh giữ rất cẩn thận. Nếu ông hiệu trưởng đi lâu hơn nữa, khoảng cách ấy sẽ bớt đi hay sẽ lớn lên mỗi giờ? Tôi sẽ thoáng thấy chút thương mến, hay chỉ có xa lạ?

    Anita, chị phải về, phải nói cho tôi biết. Khi người mẹ gặp lại con mình sau cuộc chia lìa tang thương ấy, tình cảm của người mẹ như thế nào. Về để chỉ cho tôi thấy tình mẹ con, điều tôi chưa từng thấy. Về để nhập vào tôi, tự nhốt mình trong cái lồng ngực của tôi để nhớ lại hơi thở và cảm xúc. Về để yêu Marcus bằng trái tim còn đập của tôi, khóc bằng đôi mắt còn có tuyến nước mắt. Nói cho tôi biết nó như thế nào: những thương lo se sắt, những rung động mãnh liệt, những đau đớn buốt người, những ước vọng được ôm siết lấy tấm thân cậu bé trong lòng. Tôi đã lặn lội một mình đi tìm em suốt hai năm. Tôi đã đem về những bức ảnh của em cho người thân. Cha của em nói biết đâu nó là con của người khác. Anh của em không muốn nhìn những tấm ảnh đó. Mẹ em thì chết rồi. Tôi phải làm gì với em bây giờ? Về để dạy cho tôi yêu Marcus, tình yêu là điểm bắt đầu của mọi cuộc hành trình.

    Hãy dạy cho tôi biết tình yêu, và câu chuyện của tôi sẽ có một kết thúc tốt đẹp như bất cứ một cuốn tiểu thuyết tốt đẹp nào. Tôi sẽ trở lại Nhà nuôi trẻ, với tiếng đàn của mình và với câu chuyện của Marcus mà bây giờ chỉ còn một mình tôi biết, tôi giúp em, giúp các bác sĩ giúp em, nhặt lại những vết tích của tuổi thơ mình một cách cẩn trọng. Dần dần – em có thời gian, em không phải vội – Marcus hiểu được lai lịch của mình và chấp nhận nó. Rồi em chấp nhận chính mình, chấp nhận nơi chốn mà em đã đi đến và đang đứng trong đời. Em nhặt nhạnh từng chút sự an tâm, từng chút lòng tin, để trở lại thế giới của loài người. Tôi gắn bó với em, và qua em gắn bó với cuộc đời. Vai tôi nhận một ít trách nhiệm, tim tôi chứa một ít tình thương, đủ để chính tôi cũng trở lại thế giới của loài người.Tôi sẽ tổ chức lại cuộc đời của mình trên mặt đất: một mái nhà và địa chỉ không hay thay đổi, một công việc làm, một mục đích sống, một nề nếp, một sự tuân thủ cần thiết các giá trị bình thường. Tôi thực hiện được các điều kiện Sở thanh thiếu niên đòi hỏi để tôi có thể nhận Marcus làm con nuôi. Tôi tạo được một nơi chốn bình yên để đón em về. Tôi sẽ khai thuế và đóng bảo hiểm, có thể sẽ lấy chồng, sẽ đi họp phụ huynh, có người quen trong thành phố. Chiều chủ nhật tôi sẽ mời họ đến nhà dùng cơm. Khách sẽ mang đến một bó hoa, hoặc một chai rượu. Chúng tôi sẽ nói chuyện, nói chuyện. Nói chuyện cho đến khi tất cả khoảng không của thế gian đã được rót đầy bởi tiếng người muôn đời rì rào, niềm im lặng bất an đã chết. Tôi sẽ đọc truyện cho Marcus, sẽ đi dạo với em ở ven sông, có thể tôi sẽ dạy nhạc cho em mỗi tuần hai buổi. Tôi sẽ là cha nuôi của Marcus, làm cho em những điều cha nuôi tôi đáng lẽ đã làm cho tôi, nhưng ông không làm, ông bỏ cuộc nửa chừng, vì quá buồn. Tôi sẽ là mẹ ruột của em, làm cho em những gì Anita đáng lẽ đã làm cho em, nhưng chị không làm, chị bỏ cuộc nửa chừng, vì chị muốn bỏ đi. Những con đường đời đi qua vùng núi đá và chốn đầm lầy, đi qua những đêm bão rớt và những ngày không gió, họ đã bỏ dở, và tôi sẽ bắt đầu lại nơi họ đã để cho buông rơi vào yên lặng.

    Tôi thức giấc lúc quá nửa đêm, có lẽ 2 hay 3 giờ sáng. Tôi nằm mở mắt nhìn lên khoảng trần nhà vôi trắng mờ mờ tối phía trên. Tôi cố nhớ lại giấc ngủ mới qua, cố nhớ lại những giấc mơ trong đó. Anita không về. Hình như trong một giấc mơ rất ngắn, tôi thấy chị rửa mặt cho Marcus, chị vuốt mặt em bằng bàn tay đầy nước. Chỉ có một hình ảnh, không có một tâm trạng, một lời lẽ, một ý nghĩa nào đi kèm với nó. Có thể là hình ảnh ấy tôi đã thoáng nhớ từ một cuốn phim nào đó đã quên, nó chập chờn trong giấc mộng và tôi cho rằng gương mặt của cậu bé ấy là của Marcus, và bàn tay là của Anita.

    Tôi đến đây từ một miền đất tôi không biết. Tôi mồ côi, không có quá khứ, tình yêu, ước mơ, tôi không có một cái tên, chân dung hay linh hồn. Tôi là một gian nhà trống. Tôi không bị chứng mất trí nhớ như Marcus, nhưng tôi không có gì để nhớ. Ký ức về người cha nuôi tự tử trong nhà thờ và người chồng lái xe đi vào một đám sương mù trên núi không phải là thứ ký ức làm nên linh hồn. Tôi đã quên lãng nó. Tôi không có một câu chuyện nào để sống trong đó. Tôi đang nhặt lấy câu chuyện của Anita, tưởng nó là của mình. Chị có kỷ niệm, có tình yêu cho các con, cho âm nhạc và những giấc mơ về những nơi chốn mà chị định đi đến. Những vùng đất chưa có tên nhưng đã trở thành một thứ quê hương mong ước cho trái tim đầy ước vọng.Tôi sẽ lấy tên chị, mơ những giấc mơ của chị, nuôi đứa con nhỏ của chị, chơi cây đàn của chị. Tôi sẽ sống cuộc đời mà Anita đã bỏ dở, tiếp tục nó với đôi chút phương hướng và sự yên lành.

    Có lẽ đã gần ba giờ sáng, cái giờ yên vắng lúc đêm chưa qua. Tôi còn bập bềnh ở một nơi thinh vắng, trôi trong nỗi yên ả của khoảng không và sự vô cảm. Nhưng đêm sẽ qua, nó đang mất đi. Mặt trời sẽ lên và tôi sẽ phải biết làm gì với cái ngày sắp tới đó. Tôi chợt nhận ra rằng mình không biết làm gì vào ngày mai này và tất cả mọi ngày mai sau đó. Nỗi thảng thốt chợt đến, chợt bùng ra. Mới đây tôi còn yêu thương Anita biết là bao, mới đây tôi còn nghĩ chúng tôi là hai chị em, hơn như vậy nữa, tôi nghĩ tôi sẽ bỏ cái tên An Mi, Anna Michaela Wienandski, để lấy tên Anita. Nhưng chợt có một thứ tiếng nói vang lên từ một góc nào đó, tiếng nói thuộc về cái phần lặng lẽ nhưng mạnh mẽ hơn sự kiểm soát của ý thức tôi, nó quyết liệt đánh đuổi Anita. Tôi không phải là chị, không thể là chị, muôn đời tôi không thể là ai khác tôi. Thân thể tôi, tâm trí tôi, dù nó vắng ngắt, nó cũng không cho hồn ai đến ngụ. Dù Anita có một linh hồn và không có mái nhà nào, dù chị không biết về đâu, cũng đành. Dù chị có một câu chuyện chưa kể hết, cũng đành. Chị phải bắt đầu hiểu cái chết là gì. Nó có nghĩa là không còn ai tiếp tục làm điều mình bỏ dở, nó nghĩa là câu chuyện bị cắt ngang một cách tuyệt đối. Không có ai sẽ tìm cho nó một ý nghĩa, một kết luận nào nữa.

    Tôi mở nắp hộp đàn, lấy ra cây hồ cầm. Tôi muốn chơi một khúc, tôi nghĩ tới một đoạn andante của Bach. Làm sao tôi biết được Anita đã từng chơi nó không. Tôi nhớ ra rằng bây giờ còn là đêm, có thể phòng bên cạnh sẽ nghe thấy tiếng đàn và thấy phiền. Tôi dựng cây đàn ở tường, bên cạnh bàn viết và chiếc ghế, rồi trở lại giường nằm. Có lẽ tôi nên ngủ một chút. Tôi nhắm mắt lại. Giấc mộng chập chờn tới, tôi vừa nằm mơ, vừa biết mình đang ở trong phòng khách sạn và biết đêm đang sắp qua rồi. Chợt tôi nghe tiếng đàn, bản nhạc lúc nãy tôi nghĩ trong đầu và định chơi. Tiếng đàn không lớn, nhưng rất rõ. Tôi quay mặt về chỗ tôi đã dựng cây đàn và tôi thấy – tôi không biết hình ảnh của Anita đến với tôi bằng thị giác hay cảm giác – chị đang ngồi đó, cầm cái cung và đang kéo đàn, tóc chị mong manh buông xuống và lẫn vào bóng tối. Tôi vừa bị quyến rũ, vừa thấy sợ ghê gớm. Tôi muốn vùng ngồi dậy và thoát khỏi cơn mơ – vì tôi biết chị thuộc về giấc mơ, dù chị đang ngồi trong gian phòng thật và ánh sáng thật – nhưng có một cái gì làm tôi không cử động được. Tiếng đàn vang lên từng câu, u buồn và đẹp đẽ rợn người. Tôi nằm im, nín thở vì xúc động và vì sợ, nhưng có lẽ nỗi sợ to lớn hơn.

    Cuối cùng tôi ngồi dậy được. Chị Anita không còn đó. Không gian như còn một chút hương u hoài và lạnh lẽo của cõi âm. Cây đàn vẫn dựng ở tường, bên cạnh bàn viết. Nó đầy hồn ma và đầy những bất trắc, đêm đêm nó có thể vang lên bất cứ lúc nào, dù tôi có chạm tới nó hay không.

    Tôi thấy buồn bã và có một tình cảm giống như là tuyệt vọng, hoặc là sợ hãi, tôi không biết, không còn phân biệt được nữa. Tôi đến bàn viết, lấy giấy viết một cái thư rất ngắn cho ông hiệu trưởng Nhà nuôi trẻ.

    Gia đình Kempf ở số 17 đường Moosbach, Treuwasser.

    Cha của Marcus, Herman Kempf, hiện đang được điều trị ở Trung tâm Phục hồi thuộc bệnh viện tỉnh. Em có một người anh trai tên là Michael Kempf.

    Cây đàn này của Anita Kempf, mẹ của Marcus. Có lẽ bà đã chết. Có lẽ chồng bà giết bà. Có lẽ Marcus đã trông thấy và bỏ chạy vào rừng vào một đêm tháng giêng, trời lạnh âm nhiều độ. Em mất trí nhớ có lẽ từ hôm đó.

    Đây là một cây đàn trình diễn, có lẽ được làm ở một tỉnh phía đông, có lẽ Leipzig, cách đây 150 năm. Trị giá nó chừng 40 ngàn Đức mã, nhưng cũng có thể 80 ngàn. Mong ông hiệu trưởng gìn giữ nó giùm cho em Marcus với nhiều cẩn trọng.

    Lúc đọc lại, tôi gạch bỏ tất cả các chữ “có lẽ” trong bức thư. Tôi bỏ nó vào bao thư, dán lại, đề tên và địa chỉ ông hiệu trưởng bên ngoài. Tôi cất cây đàn vào hộp. Tôi nhớ tới bàn tay của Marcus lúc em đến gần chạm lấy cây đàn và tôi thấy buồn cho em khủng khiếp, đến nỗi trong một giây tôi nhầm lẫn nỗi buồn ấy với tình yêu. Tôi bỏ phong thư vào hộp đàn và đậy nắp lại.

    Tôi nhìn đồng hồ, 3 giờ 40.

    Tôi không thể giữ cây đàn này thêm một phút nào nữa. Nó làm tôi sợ. Tôi mặc áo vào và khiêng cái hộp đàn xuống quầy tiếp tân khách sạn.

    Ở dưới đó vắng tanh. Tôi nhấn cái chuông ở quầy, và đứng chờ. Và nhấn chuông, và chờ. Cuối cùng có một cô gái đi ra.

    Tôi nói:

    “Tôi muốn nhờ khách sạn gọi cho dịch vụ đóng thùng và gửi cây đàn đến địa chỉ này...”

    “Thưa bà, xin bà chờ đến mai, bây giờ mọi người chưa ai đi làm.”

    “Cô nhận giùm tôi, rồi bao giờ họ gửi cũng được, đây là địa chỉ.”

    “Bà để cây đàn ở đây, rồi sáng mai xuống, người ta sẽ gọi điện cho các hãng chuyển hàng và cho bà biết giá. Bà sẽ chọn gửi bằng cách nào”

    “Tôi phải trả phòng và đi ngay bây giờ. Tầu của tôi sắp đi.”

    “Tôi không thể nhận đâu, lỡ các hãng chuyển hàng không nhận vì nó to quá thì sao. Hoặc là giá tiền cao quá.”

    “Cô giúp tôi giùm. Gửi cách nào cũng được, giá nào cũng được, tôi cần phải gửi nó trước khi lên tầu.”

    “Bà chờ một chút để tôi hỏi.”

    “Hỏi ai?”

    “Hỏi người trưởng ca trực đêm nay. Bổn phận của tôi chỉ là nhận và giao chìa khóa.”

    Cô gái đi vào trong. Một lúc sau, cô đi ra.

    “Được rồi, chúng tôi giúp bà lần này. Nhưng lần sau xin bà làm việc với ca trực ngày. Ca đêm chúng tôi rất ít người, và có nhiều chuyện chúng tôi không thể giải quyết được.”

    Tôi giúp cô mang cây đàn vào bên trong quầy. Tôi đưa thẻ tín dụng, cô gái in xuống giấy và đưa cho tôi ký, để trống khoản tiền cần được trả.

    Tôi trở lên phòng, sắp quần áo vào va li, rửa mặt, đánh răng, thay áo rồi trả phòng lúc trời vẫn còn tối. Tôi không định trước sẽ trả phòng sớm như vậy, cũng không hề định trước sẽ làm gì, nghĩ gì trong ngày sắp tới. Chỉ vì cần đem cây đàn đi khỏi phòng ngay, tôi đã nói dối với cô gái là tôi sắp lên tầu, nên bây giờ tôi phải đi.

    Tôi đến sân ga tìm bất cứ một chuyến tầu nào đi đến bất cứ một nơi nào thật xa. Chuyến tàu viễn hành đi lên phía bắc vừa đi không lâu, và bây giờ không có chuyến nào đi xa trong vòng 4 tiếng. Tôi đi ra băng ghế ngồi chờ. Sân ga vắng, sương đêm làm mờ đục ánh sáng trắng của những ngọn đèn giăng trên cao. Cảnh như không thực.

    Trong 4 tiếng này tôi sẽ ngồi nghỉ, mọi việc đã xong. Nhưng tôi thấy cơ thể dại đi vì mệt. Cả người tôi bất an, ruột tôi quặn lại, tôi lạnh và buồn nôn. Tôi thấy đau đớn, không còn là nỗi đau đớn trong lòng mà là trên thân thể, khi đầu óc tôi mờ đục không còn ý nghĩ nào. Tôi đang quay về với những chuyến xe lửa cuối cùng, về với khoảng không, với cái chết. Tôi chợt biết sự quay về đó gây đau đớn. Tâm trí tôi đã dừng lại, bất động, không còn có thể nhận lấy nỗi đau đó nữa. Nó đi vào gan ruột, da và thịt tôi. Tôi thấy buốt khắp người.

    Tôi lấy taxi mang hành lý trở lại khách sạn. Tôi cần một chiếc giường. Trong một giờ, hoặc là một tháng. Tôi không biết.

    Khi tôi bước xuống taxi trước cổng khách sạn tôi thấy cô gái trực đêm ôm chiếc hộp đàn hồ cầm đi ra, nơi có một chiếc xe trắng đang chờ. Một người đàn ông bước ra mở cửa sau của xe, và họ đặt cây đàn vào trong. Người đàn ông lái xe đi. Chiếc xe biến đi khỏi tầm mắt của tôi rất nhanh. Thành phố nằm trong một đám sương mờ trắng.

    Trong một phút đó, tôi không thật sự biết mình thấy gì. Nhưng khi xe đi rồi thì tôi nghĩ là tôi biết người đàn ông đó, dù tôi không thấy mặt, nhưng tôi biết dáng người ấy. Tôi cũng đã thấy chiếc xe ấy rồi. Ở đâu?

    Tôi bước vội theo cô gái vào trong.

    “Cô cho tôi biết, người đàn ông đi chiếc xe trắng lúc nãy là ai?”

    “Anh ấy là một nhân viên khách sạn.”

    “Anh ấy tên gì?”

    “Kahn.”

    “Anh ấy làm ở đây lâu chưa?”

    “Tôi không rõ bao lâu, anh ấy vào làm ở đây trước tôi.”

    “Tại sao cô đưa cây đàn cho anh ấy. Anh ấy chở cây đàn đi đâu?”

    “Chính bà nhờ chúng tôi đi gửi cây đàn mà. Anh ấy hết ca. Trên đường về, anh ấy nhận chở cây đàn ra bưu điện.”

    “Tại sao cô để cho anh ấy chở cây đàn ra bưu điện? Tôi nghĩ là một hãng vận chuyển sẽ đến đây lấy nó chứ.”

    “Xin bà yên lòng, gửi cách nào thì cũng đến tay người nhận thôi.”

    Một chuyện rất sai vừa xảy ra, tôi chỉ biết vậy, tôi lo lắng mà không nói tên cái điều sai ấy ra được. Đành bỏ dở những câu hỏi. Tôi thấy mình lạnh, và rất yếu.

    “Tôi bị lỡ chuyến tầu rồi. Cô cho tôi lấy lại phòng. Tôi cần ngủ một chút”

    Cô gái đi lấy chìa khóa đưa cho tôi.

    “Bà ở lại chờ chuyến tầu kế? Bà có cần chúng tôi đánh thức?”

    “Không. Tôi có đồng hồ báo thức, tôi sẽ tự lo. Cũng có thể tôi đi chuyến ngày mai. Hoặc ở lại vài hôm…”

    Không thích cái không gian kín bưng trong chiếc thang máy, tôi đi bộ lên cầu thang. Tôi không suy nghĩ, đầu tôi trống và buốt. Nhưng chợt dưng tôi nhớ lại tôi đã thấy chiếc xe trắng ở đâu. Nó nằm trong sân nhà của Sophie. Và người đàn ông trẻ lái chiếc xe ấy là Michael Kempf. Trong lúc nghĩ như vậy, chân tôi vẫn bước. Dưới chân một bậc thang chợt chao đi, biến mất, và tôi ngã xuống. Tôi ngất đi.

    Tôi ngủ dường như rất lâu, không mộng mị. Khi tôi thức dậy, các cô y tá nói tôi đã hôn mê trong 6 ngày. Một bác sĩ trẻ đến đặt những câu hỏi kiểm điểm ký ức của tôi. Tôi nói với anh ta tôi vẫn còn nhớ tất cả mọi chuyện.

    Các bác sĩ nghĩ tôi ngã vì rối loạn tiền đình. Tôi ngã 17 bậc thang. Không có gì nghiêm trọng đã xảy ra. Họ quyết định giữ tôi lại bệnh viện một tuần để quan sát. Tôi nằm và chỉ thấy lênh đênh, chứ không buồn. Tôi không nghĩ tới gì, chỉ nghĩ tới con số 6. Tôi đã ở đâu trong 6 ngày qua? Không có nơi chốn, thời gian và ý thức, cũng không có bóng tối và giấc ngủ. Không có tôi. Rồi chợt nhiên tôi lại ở đây.

    Một tuần ở bệnh viện giống như ở một sân ga chuyển tầu, nơi tôi để mất hành lý và mất cả cái tên của thành phố ở cuối chặng đường tiếp theo. Tôi nằm nhìn lên khoảng trần nhà mầu trắng phía trên, thường thường không rõ nét, và biết rằng trí nhớ của tôi đang rời xa tôi, những câu chuyện giống như những cây cỏ trong một giòng nước trôi chậm, lặng lờ và mông lung, chúng dần loang ra và mất đi sự liền lạc. Tôi còn lại những mảnh rời, đôi ba hình ảnh, ấn tượng, hay cảm giác, nhưng tôi đang dần mất đi sự tương quan và ý nghĩa của những mảnh ký ức đó.

    Những câu chuyện trước đây 6 ngày đã lùi xa về phía bên kia những đám mây trời. Nỗi buồn của Anita vẫn còn đó, nhưng nó giống như nỗi buồn len lỏi giữa những chữ của một bài thơ in trong một cuốn sách đã cũ. Chị đã chết rất lâu. Lúc còn sống chị có một cây đàn hồ cầm. Nó đâu rồi? Tôi nhớ hình như tôi đã gửi nó cho đứa con trai nhỏ của chị. Nhưng có một điều gì đó đã xảy ra, và cây đàn sẽ không đến tay Marcus. Điều gì? Nếu gắng một chút nữa thôi thì tôi sẽ nhớ ra, nhưng tôi không nhớ. Tôi chỉ man mác biết rằng cây đàn đã mất và Marcus sẽ không bao giờ nhìn thấy nó. Còn Marcus, em là ai? Marcus có một đôi mắt đẹp mở vào một khoảng trời xa, và trống. Em không ở thế giới này. Em ở một nơi khác, tôi không thể đến gần. Và tại sao tôi lại muốn đến gần em? Tôi là gì của Marcus? Tôi không là gì của em cũng như tôi chưa bao giờ là gì của ai trên mặt đất. Trong cuộc đời êm đềm ngoài kia, những đồ vật, những khoảng khắc, những con người được gắn lại với nhau bằng tình yêu và ý nghĩa. Marcus và tôi là những kẻ luôn luôn đứng ở bên ngoài những cánh cửa của cuộc đời ấy. Chúng tôi là những đứa trẻ mồ côi không quen biết gì nhau.

    Bây giờ tôi thấy buồn vô hạn vì tôi đã làm mất cây đàn của em rồi. Nhưng tôi không nhớ ai đã lấy nó, và họ mang nó đi đâu. Không phải tôi làm mất một cây đàn đã được làm từ hai trăm năm trước, nếu tìm được đúng người, có thể bán được ngần ấy tiền. Tôi đã làm mất câu chuyện của em, điều một ngày nào đó đáng lẽ sẽ trở thành một thứ keo gắn những mảnh vỡ của cuộc đời em lại, và gắn em vào mặt đất này, vào cuộc đời ở đây dù nó rất buồn, chứ không ở một nơi xa và hoàn toàn vắng như mặt trăng.

    Một tuần đã qua, anh bác sĩ trẻ đã phỏng vấn để kiểm điểm trí nhớ của tôi hứa đưa tôi ra nhà ga. Anh ấy hỏi giờ chuyến tầu của tôi. Tôi nói tôi sẽ ra ga và chờ chuyến tầu kế đó, tôi không cần biết trước vào giờ nào. Anh hỏi tôi, không có người nào đợi tôi ở nơi tôi đến hay sao. Tôi không trả lời anh.

    Đêm cuối ở bệnh viện, trong lúc ngủ chập chờn, tôi nghe có ai gọi tôi. Tôi thức dậy, lắng nghe, cố nhớ lại giọng người gọi là ai. Lâu lắm rồi không có ai nhắc đến tên An Mi, bây giờ có tiếng người gọi tôi, và cũng không phải bằng tên này. Nhưng sao tôi lại biết gọi tôi? Đêm sâu hơn, tôi lại nghe tiếng gọi đó một lần nữa, khẩn khoản hơn, và tôi vẫn không biết người gọi là ai. Hẳn nhiên người đó không có trong phòng. Hẳn nhiên, người đó đứng gọi tôi từ một nơi nào đó trong ký ức. Người đó muốn nhắc tôi nhớ một chuyện gì đó, đi tới một nơi nào đó. Tôi quay nhìn nhưng không thấy mặt ai. Giọng người ấy lạ, nhưng rất thân, tôi tưởng như tôi đã luôn luôn biết người ấy và bây giờ tôi sắp nhớ ra người đó là ai, chỉ chờ một lớp sương mỏng tan đi, thì tôi nhớ. Nhưng tôi càng cố nhớ thì làn sương man mác ấy càng mông lung hơn.
    Tôi yêu tiếng nước tôi

    Audio Truyện Kiều

    Comment

    • #17

      17. Và khi tro bụi rơi về

      Tôi muốn viết một câu cuối cùng chiều nay, nhưng trong hành lý của tôi không có một một trang giấy trắng nào. Tôi sẽ không đi tìm một quyển sổ nào nữa. Lần trước, tôi mong mỏi, tôi nghĩ mình nhất thiết phải viết, và không hề nghĩ viết cho ai. Đến khi có được những trang giấy thì tôi không có gì để viết. Những trang giấy chỉ làm cho tôi hiểu rằng cả cuộc đời của tôi chỉ ghi lại được có mấy giòng chữ quạnh quẽ, không đủ để làm đầy nửa trang của một quyển sổ có bìa da rất đẹp. Rồi tôi bắt đầu đọc câu chuyện của một người khác, mượn nó làm câu chuyện của mình để sống trong hai năm. Ở đoạn cuối, hình như người đã đưa câu chuyện ấy cho tôi đến lấy nó lại. Như thế nào, tôi không nhớ. Hình như người ấy chở câu chuyện ấy đi bằng một chiếc xe mầu trắng. Hình như thành phố phủ đầy sương. Hình như không có thành phố nào, chỉ có một vùng sương.

      Trước khi chết, tôi muốn trở về với câu chuyện thật của mình. Tôi vẫn còn muốn viết một câu nào đó, một câu nữa thôi, một dấu vết để lại. Con sói đã đi qua cánh đồng tuyết, sức nặng của nó đã làm cho tuyết lún xuống thành những vết cô độc trải dài về cuối tầm mắt. Tôi muốn mình cũng có cái sức nặng của thân thể con sói, sức nặng đủ để lưu lại những dấu chân, cho dù khi mặt trời lên những dấu chân ấy sẽ mất. Tôi không muốn mình không trọng lượng và rồi sẽ tan như khói. Không còn gì, như tôi chưa từng đi qua cuộc đời này.

      Dường như tôi cũng có một câu chuyện thật ở nơi vùng trí nhớ không có ánh sáng, tôi không nhìn thấy nó. Như Marcus không bao giờ còn nhìn thấy cây đàn hồ cầm của mẹ em để lại. Tôi cố nhớ lại cuốn phim của đời mình, trong đó có những con đường, những nhà cửa, người quen và công việc. Có một điều gì đó quan trọng hơn nhiều đã ở đó, nhưng nó ở bên ngoài nơi khung hình không vươn tới. Trí nhớ của tôi là người quay phim mê muội đã hướng ống kính tới những điều hiển nhiên dễ hiểu của cuộc sống, cố tìm một chút mạch lạc hơn là những thứ khó lấy nét như dấu chân của loài sói vào lúc ngày chưa đến.

      Người tôi yêu lái xe vào một đám sương mù. Tôi còn lại sau khi anh ấy đi rồi, chút mạch lạc gắng lắm mới có được của đời người cũng gẫy đổ vào cái ngày không nắng đó. Tôi cũng muốn chết như anh. Từ xưa đã có bao nhiêu người tự tử để được ở bên người mình yêu nơi cuộc đời bên kia, có một cái gì rất đẹp đẽ và u uất trong chuyện đó. Đáng lẽ quyết định quyên sinh của tôi cũng có một lý do lãng mạn như vậy. Nhưng tôi không có linh hồn. Nhà thờ đã dạy cho tôi điều đó năm tôi 13 tuổi. Giữa linh hồn vĩnh viễn bị đốt cháy trong lửa địa ngục và không có linh hồn, tôi chọn không có linh hồn.

      Tôi sẽ ra đi không để lại dấu chân in trên cánh đồng tuyết. Tôi biết rằng ở nơi tôi sinh ra người ta để tang nhau bằng màu trắng. Có lẽ họ hiểu cái chết như vậy, chết là trở về với cánh đồng lúc chưa có loài sói đi qua, một cánh đồng không có dấu chân ai.

      Tôi đi đến toa nhà hàng để mua nước suối cho buổi tối. Cô phục vụ nói họ mới cất hàng từ ga vừa qua và chưa kịp mở các thùng giấy ra. Cô hứa sẽ mang nước đến cho tôi sau. Tôi nói để tôi đi lấy cũng được, trong phòng tôi vẫn còn lưng chai nước.

      Tôi ăn trưa muộn, ăn rất ít, uống nửa ly rượu vang. Tôi trở về phòng ngủ của riêng mình. Để có thể làm những chuyện cần làm để được chết, người ta không cần nhiều mấy sự can đảm, hay lòng thù ghét cuộc đời, hay tuyệt vọng. Người ta làm chuyện đó bởi vì không có chuyện gì khác để làm.

      Tôi cài chốt cửa bên trong. Tôi uống hai viên thuốc chống nôn và sẽ chờ 45 phút trước khi uống 20 viên thuốc an thần. Thuốc chống nôn sẽ làm tôi buồn ngủ, nên tôi không đi nằm. Tôi mặc áo ấm, đến đứng ở cửa sổ. Tôi hạ cửa xuống. Tôi đứng yên vịn lấy thành kính của khung cửa xe lửa, cho gió thổi vào mặt để mình không ngủ và tôi biết tôi sẽ đứng đó trong ba phần tư giờ đồng hồ lạ lùng nhất đời người, trong cái không gian và khoảnh khắc ở giữa cuộc đời và không còn cuộc đời, giữa nỗi buồn và không còn nỗi buồn, giữa những mảnh vỡ và sự nguyên vẹn tuyệt đối của thinh không.

      Tôi nhìn ra bên ngoài. Xe lửa đi qua những cánh đồng vào một ngày đông đã qua và xuân chưa tới, một ngày không có mùa và dường như không có ánh sáng cũng không có bóng tối. Một ngày màu xám, thứ màu xám lặng lẽ và bất tận không chứa trong nó một nỗi mong đợi nào. Ven những cánh đồng đã gặt có những bờ cỏ dại. Không phải là cây cỏ với những cành và những lá lao xao, mà chỉ là những cái bóng lờ mờ in trên cái nền xám của khoảnh thời khắc lặng lẽ không phải ngày và không phải đêm. Tôi sắp ra đi yên bình như vầy sao? Ra đi vào một hôm đất trời và cỏ cây không còn hơi thở. Thời gian đã chết.

      Tôi nhìn đồng hồ, mới qua hai mươi phút. Tôi còn phải chờ hai mươi lăm phút nữa. Chợt dưng tôi thấy tôi không muốn chờ đợi thêm một phút nào nữa. Sự thanh bình này mong manh. Tôi sợ nỗi buồn chia ly tràn tới.

      Tôi dốc hết 20 viên thuốc vào lòng bàn tay. Nước trong cái chai cuối cùng rót ra chỉ còn được nửa ly. Tôi chia những viên thuốc uống ra, uống với ba ngụm nước. Tôi không đóng cửa sổ, lên giường nằm nhắm mắt trong bóng tối nguyên vẹn cuối cùng.

      Nhà tôi ở gần một chiếc cầu bắc qua một con sông nhỏ. Cạnh nhà có một con lạch chảy ẩn dưới đám cỏ hoang và lau sậy, chúng tôi chỉ nghe tiếng nước chứ ít có chỗ nhìn thấy giòng nước. Nhưng tôi đã biết vạch lau cỏ để đặt những chiếc lờ cá dưới lạch. Cha tôi đi lính đã ba năm không có nhà. Nhà chỉ có mẹ và hai đứa con gái nhỏ. Mẹ tôi trồng lát, đan chiếu, lâu lâu lại gánh chiếu ra chợ bán một lần. Tôi phụ mẹ nhổ lát, chẻ lát, phơi lát. Hai bàn tay lúc nào cũng sưng. Những khi mẹ tôi buồn, tôi nói: Mẹ đừng khóc, Tết cha về. Tôi nói vậy dù tôi không nhớ mặt cha tôi, không biết ông về nhà thì như thế nào. Việc chính của tôi là trông em. Tôi đi học thì nó ở nhà với mẹ, nhưng nếu mẹ đi chợ xa thì tôi dẫn nó đến đứng ở cửa lớp khi tôi vào học. Tôi cho nó ăn cơm, và tôi đi bắt cá, cắt cỏ hay chạy lông nhông với lũ con nít trong làng, lúc nào con nhỏ em cũng ở sau tôi bốn bước, gần hơn tôi la vì nó làm tôi vướng, xa hơn tôi cũng la vì không trông nó được. Nếu đói, hay bị kiến cắn, hay nước mũi chảy không thở được, nó chỉ cần đứng yên một chỗ mà gọi, tôi sẽ chạy lại lo cho nó. Buổi tối, ba mẹ con ngủ trên bộ ván. Nằm cả ba người một hàng thì chật, phải có một đứa quay đầu ngược lại. Tôi muốn nằm cạnh mẹ, ôm mẹ, nhưng con bé em nhỏ hơn, tôi phải nhường chỗ đó cho nó. Tôi nằm xoay đầu về phía chân, thấy tức mẹ và hơi oán con bé em. Nhưng tôi chưa kịp ngủ thì nó cũng xoay đầu lại nằm bên tôi. Nó ôm tôi dù tôi toàn xương không êm ái như người của mẹ. Nếu tôi xoay lưng về phía nó, nó áp mặt nó vào lưng tôi mà ngủ.

      Một tối có tiếng đại bác rơi trong xóm. Chúng tôi đã quen. Chúng tôi chui xuống gầm ván, mẹ tôi đã chất mấy bao cát chung quanh bộ ván. Tiếng đại bác xé gió rít trong đêm rồi rơi xuống đâu đó rất gần, chúng tôi nằm co người cầu Phật cho đạn rơi nơi khác, đừng rơi trên đầu mình. Một tiếng rít sát bên rồi một tiếng ầm lớn, một quả đạn rơi bên cạnh tường, nhà tôi sập. Mẹ tôi nhấc tôi ra khỏi gầm bộ ván, đẩy tôi và gọi: Chạy đi An, chạy đi! Tôi nhắm mắt chạy, không biết gì nữa. Đạn vẫn rơi khắp nơi. Một trái nữa vừa rơi xuống ngay nhà tôi. Chạy thất thần được một quãng tôi mở mắt ra, quay đầu lại nhìn. Tôi không thấy ai bên mình. Tôi có một mình. Tôi loạn cuồng quay đầu chạy ngược lại nhà mình. Căn nhà đã sập hoàn toàn. Mọi người đã chết, chỉ còn mình tôi. Tôi chạy lại ôm xác mẹ, và trong nỗi kinh hoàng, tôi không biết làm gì nữa bây giờ.

      Ngày còn nhỏ tôi nhớ câu chuyện đêm hôm đó. Mấy ngày sau, ở trạm y tế, người ta hỏi về gia đình tôi. Tôi nói tất cả người thân của tôi đã chết hết rồi, họ hỏi tôi có thấy xác của người thân không, tôi nói có. Tôi được đưa vào nhà thương để mổ lấy ra những miếng miểng đạn ở lưng và ở vai. Tôi còn nhớ, nhà thương là một chiếc tầu. Tôi không bao giờ còn trở về căn nhà của mẹ tôi nữa. Người ta đưa tôi qua Đức, về với gia đình cha mẹ nuôi.

      Ở Đức, tôi không kể câu chuyện đêm đó cho ai nghe, tôi không muốn câu chuyện ấy có thật. Tôi quên mẹ và em, quên tuổi thơ, tôi chưa bao giờ nghe tiếng đạn đại bác rít trong không rồi rơi xuống nơi chúng tôi sinh ra, lớn lên, đã đêm đêm áp má vào lưng nhau mà ngủ.

      Bây giờ, trong giờ phút lênh đênh sắp trôi ra ngoài sự sống, tôi nhớ lại tất cả. Không phải tôi nhớ, mà tôi thấy lại tất cả những điều tôi đã quên hơn hai mươi năm rồi. Tôi sống lại những khoảnh khắc năm xưa với tất cả tình cảm của một đứa bé bảy tuổi. Và bỗng dưng tôi biết một điều tôi chưa bao giờ biết, vào năm đó và tất cả những năm về sau của cuộc đời.

      Tôi đang ôm xác mẹ tôi. Đạn đang tiếp tục rú những tiếng kinh hoàng trong không. Tôi đang gần ngất đi. Tôi biết tôi sẽ nằm với mẹ như vậy cho tới khi tôi chết. Nhưng tôi nghe có tiếng gọi từ đâu đó: "An ơi, chạy đi”! Tôi không biết ai gọi những tiếng đó, không hiểu nghĩa của nó, tôi không suy nghĩ, không có ý thức, nhưng cái tiếng gọi đó có một thứ sức mạnh lạ lùng khiến tôi đứng dậy và chạy đi, chạy đi mãi…

      Bây giờ, đã một nửa bước vào cái chết, tôi chợt biết cái điều tôi chưa từng biết và chưa từng quên, rằng tiếng gọi đó là của đứa em gái nhỏ. Lúc tôi quay lại căn nhà và nhìn thấy xác mẹ, nó còn sống. Nó còn ở đâu đó trong căn nhà sập, không chạy đi vì nó còn chờ tôi nắm tay nó dẫn theo mình. Con bé luôn luôn biết mình phải ở sau chị nó bốn bước và không được rời xa hơn vì xa hơn thì tôi không trông được. Vậy mà tôi đã chạy đi một mình, bỏ lại con bé em ba tuổi với xác mẹ, trong căn nhà sập, trong lúc đạn đại bác tiếp tục rít trong không khí. Nó gọi “An ơi, chạy đi!” Bây giờ tôi mới hiểu nó gọi An ơi, tới đây dẫn em chạy khỏi đây đi! Nhưng nó không nói ra tất cả các chữ vì quá dài. Cũng có thể nó bị kẹt ở dưới bức tường nhà vừa đổ. Tôi đã không đến cứu nó ra. Tôi chỉ nhắm mắt một mình chạy đi. Tôi chạy đi mãi, đi mãi, 25 năm chưa bao giờ quay đầu lại với đứa em nhỏ chờ tôi đến cứu nó khỏi nỗi kinh hoàng.

      Tôi chợt hiểu ra tất cả. Tại sao trong tất cả những năm của đời mình tôi đã không tìm được cái thứ keo để gắn lại các mảnh của cuộc đời lại với nhau và gắn chính mình vào với thế giới loài người. Tôi đã cố hết sức mình, nhưng mọi thứ đều rời rạc, tan tác và tôi mãi là một thứ rong rễ không bám được vào một thứ gì để thôi trôi nổi. Bởi vì trong cái khoảnh khắc kinh hoàng nhất của cuộc đời, vào lúc người ta cần nhau nhất để cứu nhau ra khỏi tai ương, trí óc tôi đã chọn xóa đi cái khoảnh khắc ấy ngay khi nó đang xảy ra, đã chọn không nhận ra tiếng đứa em mình đã trông giữ mỗi ngày. Tôi đã bỏ rơi đứa em trong cái khoảnh khắc quan trọng nhất của cả đời tôi và đời nó, bỏ rơi nó trong cơn sợ hãi, trong hiểm nguy, trong bóng tối vô tận.

      Tôi đã chạy đi một mình. Trong phần đời còn lại của tôi tôi vẫn mãi là con bé chị không nhận ra tiếng em mình, nhắm mắt chạy đi mãi không quay đầu lại, không bao giờ mở mắt ra. Trong câu chuyện của Anita, tôi tưởng tôi là Marcus bị bỏ rơi. Bây giờ tôi chợt hiểu ra mình là Michael đã chọn lấy sự mất trí nhớ để đổi lấy sự ấm êm trong căn nhà của Sophie.

      Tôi đang trôi gần đến cái chết, đang lênh đênh trên giòng nước chảy xuống triền núi. Một chút nữa, nơi mặt đất dừng lại, giòng nước sẽ rơi xuống vực và bên dưới là thung lũng nằm trong bóng tối mênh mông. Tôi đang trôi và đang mất đi, đang trôi mãi về nơi mặt đất sẽ dừng lại.

      Trong lúc ý thức đang tắt dần tôi lại nghe tiếng gọi tôi. Đêm cuối trong nhà thương tôi đã nghe tiếng gọi ấy, tôi ngỡ là tiếng gọi từ một nơi nào trong ký ức, một nơi sương trắng đã phủ lên. Bây giờ thì tôi nhận ra tiếng của em tôi, không phải từ ngày xưa mà trong lúc này. “An ơi, An ơi, chị có đó hay không?” Em tôi còn sống. Nó đang ở một nơi trên trái đất từng là quê hương tôi. Nơi đó nghèo khó hơn nơi này. Nơi đó tôi đã được sinh ra, lớn lên, đi đặt những lờ cá gần nơi những người đàn ông đi đặt mìn.

      Tôi biết tôi phải về đi tìm em mình. Và tôi phải trở lại Weilenthal, nơi có người đợi tôi. Tôi không thể chết, ngàn lần không muốn chết. Xin cho tôi sống nhìn thấy em tôi một lần, cho tôi giải mối oan này, quay về với cuộc đời, với sự sống tôi chưa từng được biết và khát khao đến nao lòng. Cho tôi sống những ngày và những đêm của mình, chứ không sống bằng thời gian và trí nhớ của người khác. Cho tôi gặp lại em tôi dù chỉ một lần, một lần thôi là ơn trời vô tận.

      Trong lúc đang trôi trong cả một giòng nước, lạ lùng thay, tôi thấy miệng tôi khô đắng và tôi cần một ly nước. Nếu uống được một ly nước trong lúc này, tôi sẽ sống.

      Chai nước ở cạnh giường đã hết. Tôi gắng hết sức mình đi đến cửa gian phòng, nhưng cửa đã cài và tôi yếu quá không mở được. Tôi ngã xuống sàn tầu. Tôi nghe tiếng người gọi tôi rõ hơn. Tiếng gọi từ phía bên kia cánh cửa. An ơi, An ơi.

      “Thưa bà, tôi mang chai nước suối đến cho bà đây.”

      Tôi cố gọi bằng tất cả sức mình còn lại: “Cứu tôi! Xin cứu tôi với!” Tôi không biết tiếng gọi có thoát ra ngoài cổ họng mình và cô gái ở phía bên kia cánh cửa có nghe thấy không. Tôi cố vùng vẫy cho khỏi lịm đi, nhưng tôi không còn điều khiển được thân thể và ý thức của mình. Bóng đêm đang tràn tới, mênh mông.

      Đoàn Minh Phượng
      Tôi yêu tiếng nước tôi

      Audio Truyện Kiều

      Comment

      Working...
      X
      Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom