• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Ma-tước (Mạt-chược)

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Ma-tước (Mạt-chược)

    Ma-tước (Mạt-chược)
    Hoàng Thế Định

    Nhiều người chơi Ma-Tước, người Trung Hoa, người Singapore, người Việt Nam… Ngày nay, một số người Âu Mỹ cũng đã biết chơi loại cờ phức tạp nầy. Riêng tại Việt Nam, thưở trước, ma-tước chỉ thấy được chơi trong cung vua, chúa và các quan cấp cao; về sau được phổ biến rộng khắp dân chúng.

    chutluulai" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Mạt-chược là một môn tiêu khiển cần đấu trí rất nhiều. Cũng giống như cờ tướng, người chơi đã lâu năm đương nhiên sẽ có nhiều kinh nghiệm và có nhiều nước “cao” cũng như có tài phán xét và suy đoán cờ của người khác; vì vậy mà phần nhiều những người mới tập tểnh vào môn tiêu khiển nầy hầu hết đều “thua” cuộc. Tuy nhiên, ngoài môn cờ tướng thì các môn tiêu khiển nào cũng đều có việc hên, xui trong đó nữa.

    Có người nói môn chơi gì cũng không có sách chỉ dẫn trừ Ma-Tước. Tuy vậy, kẻ viết bài nầy chưa được may mắn đọc bài nào nói về Ma-Tước.

    Nghe hai chữ Ma-Tước hay ngay cả chữ Mạt-Chược cũng biết rằng môn chơi nầy xuất xứ từ Trung Hoa. Tước là chim sẻ. Ai đã từng chơi cờ mạt-chược mới nhận ra rằng khi cả bốn người chơi xoa những con cờ trong một bàn vuông vức một mét tây, tiếng những con cờ chạm vào nhau phát ra âm thanh nghe như tiếng đàn chim sẻ kêu ran trên những cành cây cạnh cửa sổ hay dưới mái hiên nhà vào buổi sáng nắng tươi. Đúng là âm thanh thật vui tươi, rộn rã. Hầu hết người chơi đều dùng chữ “xoa mạt-chược” thay vì chữ đánh hay chơi mạt-chược.

    Chúng tôi không rõ ma-tước ra đời từ bao giờ, chỉ biết người Việt Nam chúng ta biết đến và chơi loại cờ nầy từ nhiều trăm năm về trước.

    Sơ khởi, để làm các quân cờ, người ta dùng loại gỗ tốt nghĩa là phải cứng, nặng; có người dùng cật tre (loại tre già). Ở trong cung vua, chúa hay những nhà vương giả, hoặc nhà giàu có, người ta dùng ngà voi để gọt dũa, đẽo thành quân cờ. Trong khoảng vài chục năm lại đây, người ta đã làm những quân cờ bằng chất nylon cứng. Kích thước của các quân cờ hầu như không thay đổi. Mỗi quân cờ có chiều rộng chừng 1 inch, chiều dài 1.5 inches và chiều sâu 0.5 inches. Các góc cạnh của quân cờ đều được dũa tròn để khỏi có sắt cạnh. Các quân cờ được khắc chạm; xưa thì bằng thủ công do các nghệ nhân chuyên nghề khắc chạm, ngày nay người ta dùng máy khắc vào mặt dưới của quân cờ rất cứng. Có 3 màu sơn chính là đỏ, xanh, lục được bôi vào những chữ, những hình đã khắc; khi sơn đã khô, người ta dùng dầu hỏa (petroleum) để chùi những vết sơn nhoè trên mặt quân cờ. Dĩ nhiên tất cả những quân cờ đều khắc chữ Trung Hoa và những hình tượng trưng cho mỗi bộ (hàng).


    Cách đây gần trăm năm, toàn bộ cờ có 144 quân. Trong đó chia làm ba bộ (hàng) chính là “Văn”, “Vạn”, “Sách”; mỗi hàng có 36 quân đếm từ 1 đến 9, mỗi số có 4 quân cờ. Ví dụ “hàng” Văn có 4 quân “nhất Văn”, 4 quân “nhị Văn”, tam, tứ ngũ, lục, thất, bát, “cửu Văn”. Các “hàng” khác cũng vậy; nhất Vạn…cửu Vạn; nhất Sách…cửu Sách. Trong 3 “hàng” đó, chỉ có “hàng” Vạn là viết bằng chữ Hán, với chữ số ở trên và chữ Vạn ở dưới; còn “hàng” Văn (còn gọi là Thùng) được khắc bằng những dấu tròn lớn bên ngoài và nhỏ lần vào bên trong; “hàng” Sách thì vẽ như các đốt tre, đặc biệt quân nhất Sách lại vẽ con chim, màu sắc rất đẹp.

    Có ba loại quân cờ mang tên Trung, Phát, Bạch thuộc trong “Tam Nguyên”. Mỗi loại có 4 quân; như vậy Tam Nguyên nầy có 12 quân cờ. Chữ Trung (trung tâm) được tô bằng màu sơn đỏ chói. Chữ Phát (Phát Xồi: phát tài) viết bằng màu sơn lục và Quân Bạch (nghĩa là trắng) thì để trơn, không khắc gì hết (vài bạn trẻ nghịch ngợm gọi quân đó là “no hair”).

    “Tứ Hỷ” bao gồm Đông, Tây, Nam, Bắc; mỗi loại có 4 quân. 16 quân cờ nầy đều được viết bằng sơn xanh đậm đen và viết bằng chữ Trung Hoa.

    Trong bộ cờ có hai bộ hoa, một bộ hoa là Xuân, Hạ, Thu, Đông và bộ hoa kia là Mai, Lan, Cúc, Trúc. Cả hai bộ hoa nầy không có liên hệ nào với các quân bài vừa kể trên mà chỉ có giá trị làm tăng giá trị của ván bài của người chơi có chúng. Với 144 quân cờ chia cho 4 người chơi, mỗi người có 36 quân sắp thành 18 cặp chồng lên nhau . Trước khi sắp, tất cả các quân cờ đều phải được lật sấp mặt xuống mặt bàn.

    70, 80 năm trước đây, người ta thêm 4 quân cờ đặc biệt mang tên Hoa, Hỷ, Nguyên, Hiệp. Quân Nguyên có khả năng thay thế các quân Trung, Phát, Bạch; quân Hỷ cho các quân Đông , Tây, Nam, Bắc; và quân Hiệp hay là Hợp, có thể thay thế cho bất cứ quân nào trong Văn, Vạn, Sách. Riêng một quân tên là Hoa (Ba) thì không dính dáng gì với các quân cờ khác. Cả 4 quân cờ Hoa, Hỷ, Nguyên, Hiệp có thêm một khả năng làm tăng thêm “phán” (có nơi gọi là “phan”) cho ván bài; quân Hoa có giá trị 2 phán, quân Hiệp có giá trị 2 phán lúc xưa, về sau có thay đổi là nếu “dựng” trước khi bắt đầu phát quân cờ đầu tiên thì có giá trị 3 phán và giá trị 2 phán nếu dựng sau. “Dựng” có nghĩa là thêm phán. Có hai cách dựng: dựng theo chiều dài của quân bài với giá trị 1 phán; dựng theo chiều ngang của quân bài (quân bài cao hơn) giá trị 2 phán. Phán hay phan là đơn vị giá trị của một ván bài thắng. Đơn vị thấp nhất không phải 1 phán mà là “Cáy” (có nơi gọi “Cay”) và đến 6 phán thì gọi là “Mãn”; có khi đạt đến 7, 8 phán hoặc 2, 3 Mãn.

    Khoảng 50, 60 năm gần đây, người ta lại thêm 4 quân bài khác, đó là Tổng, Đồng, Sách, Vạn. Quân Tổng (tổng thống) có khả năng thay thế tất cả các hàng Văn Vạn Sách, cũng như bộ Đông Tây Nam Bắc và Trung Phát Bạch. Quân Đồng (Thùng) thay thế các quân trong hàng Văn, quân Sách (Xọt) cho hàng Sách, quân Vạn (Màn) cho hàng Vạn.

    Vào những năm sau 75, người chơi mạt-chược lại làm quen với 8 quân cờ mới là Nhất Vương, Nhị Vương, Tam Vương , Tứ Vương và Nhất Hậu, Nhị Hậu, Tam Hậu, Tứ Hậu. Tám quân cờ nầy chỉ có tác dụng như những quân hoa Xuân Hạ Thu Đông hoặc Mai Lan Cúc Trúc.

    Sở dĩ người ta thêm nhiều “hoa” như vậy là có dụng ý về cách chơi bài gần sau nầy mà chúng tôi sẽ nói vào phần sau (*).

    Như chúng ta biết, phải đủ 4 người mới chơi ma-tước. Bốn người ngồi ở 4 cạnh của chiếc bàn vuông, mỗi chiều chừng 1 mét tây. Ở chính giữa chiều dày thành bàn của mỗi cạnh có một cái hộc nhỏ để đựng “xầu” (thay thế tiền mặt) làm bằng nhựa với đủ màu và đủ cở để phân biệt giá trị của mỗi loại “xầu”; cũng có nơi chơi tiền mặt. Trên thành bàn còn có một khe hẹp có gắn vào một miếng gỗ với một lỗ tròn dùng làm nơi để cái ly uống nước. Mặt bàn được lót bằng một lớp nỹ màu lục sẫm vừa đủ dày để khi đánh quân bài xuống bàn không kêu lớn quá. Quanh bờ bàn có đóng một ghờ cao chừng 1 phân tây để tránh các quân bài văng ra khỏi bàn.


    Trước khi ngồi vào bàn, sẽ có một cuộc chọn chỗ: Người ta chọn 4 quân cờ Đông, Tây, Nam, Bắc chồng lên nhau, dùng 3 hạt súc sắt xổ ra một lược, cọng 3 số của 3 súc sắc lại thành một số để chỉ người nào sẽ được nhận quân cờ trên cùng, theo chiều kim đồng hồ, người kề nhận quân kế tiếp; cuối cùng mỗi người có một quân và cứ theo đó để sắp chỗ ngồi. Người có quân Đông sẽ được chọn chỗ trước và những người khác cứ theo thứ tự Đông Nam Tây Bắc để ngồi đúng chỗ của mình; mỗi chỗ gọi là “cửa”.

    Người chơi mạt-chược gọi một cuộc cờ là “quánh”, gồm có 4 “Gió” Đông, Nam, Tây, Bắc. Cứ hết 4 ván bài thì hết một “Gió”. Khi hết một “quánh” thì 4 người chơi lại chọn chỗ lại.

    Khởi sự cuộc đấu trí, như trên đã nói, tất cả các quân cờ phải lật sấp và xoa đều, xong mỗi người sắp một hàng cờ dài trước mặt mình, hai quân chồng lên nhau. Người ngồi ở vị thế (“cửa”) Đông-Đông sẽ gieo súc sắc, cọng số 3 súc sắc và đếm từ người nầy theo chiều kim đồng hồ để chọn chồng cờ ở người nào và lấy cờ. Người đó lấy 2 chồng (4 quân) và những người kế tiếp làm theo; khi mỗi người đã có 3 chồng-12 quân thì mỗi người sẽ lấy thêm 1 quân và người đầu tiên (cửa cái) sẽ lấy thêm 1 quân nữa, nghĩa là người nầy có 14 quân; 3 ngươì còn lại chỉ có 13 quân. Người cửa cái sẽ phát ra quân cờ đầu tiên. Người kế tiếp nếu không “ăn” hoặc “phổng” được và không ai phổng; thì sẽ bắt (bốc) 1 quân cờ và bỏ vào 13 quân cờ của mình; và người nầy cũng sẽ phát ra 1 quân thừa thải của họ; mà họ gọi là rác “rác rến”, thừa thải). Cứ như thế cho đến khi hết ván cờ. Nếu vì sơ ý chỉ bốc 12 quân thì gọi là “xíu” (xỉu) nghĩa là thiếu, ít, nhỏ. Nếu bốc dư cờ thì gọi là “tài”: nhiều, dư. Khi nào “tới” (thắng) thì người ấy phải có 14 quân cờ.

    Cách “ăn”“phổng”: Người chơi có quyền không ăn hoặc không phổng tùy “chiến thuật” và “chiến lược” của từng ván cờ. “Phổng” được ưu tiên hơn “ăn”. Phổng có nghĩa là khi mình có 2 quân cờ giống nhau (1 đôi) và có bất kỳ người nào phát ra (đánh ra) quân cờ giống mình thì mình sẽ hô “Phổng!” và lật đôi của mình ra và lấy quân cờ của họ vào để bên góc trái bàn của chỗ mình. Đang ở gió Đông mà người ngồi ghế Đông thì người đó ở vị thế Đông-Đông, người kế tiếp là Đông-Nam, Đông-Tây, Đông-Bắc. Điều nầy có ý nghĩa là nếu người ở vị thế Đông-Đông mà phổng được đôi Đông thì nếu người nầy thắng ván đó thì riêng 3 con Đông có giá trị 2 phán. Trong khi ba người còn lại nếu có phổng được đôi Đông, thì họ cũng chỉ được kể 1 phán. Nhưng nếu người ngồi “cửa” Nam mà phổng một đôi Nam thì có 1 phán; trong khi người ngồi ở ghế Đông, Tây và Bắc phổng đôi Nam thì không được kể phán nào mà chỉ xem như phổng những đôi bình thường khác như là nhất vạn, nhị sách hay tam văn. Nếu mình có trên tay 3 quân giống nhau (khan) của loại vừa kể cũng được 1 hoặc 2 phán. Riêng về các đôi Trung, Phát, Bạch mà được phổng đểu có giá trị 1 phán dầu ở vị thế “cửa” nào. Các loại quân cờ khác khi phổng, không có giá trị phán nào trừ phi được phổng 6 lần và nếu được thắng ván cờ thì được 3 phán, người ta gọi ván bài đó là “Đối-Đối” nghĩa là toàn “đôi” mà thôi. Nếu phổng 6 đôi mà vẫn chưa “tới”, nghĩa là còn chờ 1 con, gọi là “tán tiêu”, nếu người khác đánh ra một quân giống mình đang có thì mình tới ván đó là “mãn” (6 phán) và gọi là “ toàn cầu nhần” (đều được lật ngữa ra). Nếu mình không phổng, nhưng trên tay đều có 4 khàn và một đôi thì không gọi là “Đối-Đối” mà là “Khản Khản”, khản nghĩa là khàn, nếu đước thắng ván đó thì được 12 phán; có nơi quy định là 3 mãn (18 phán). Khi có 4 quân cờ giống nhau thì phải bỏ ra bên góc trái của mình và bốc thêm 1 quân trong chồng cờ ngược chiều với giòng cờ, gọi là “cầu” và có giá trị 1 phán.
    Sống trên đời

    Similar Threads
  • #2

    Ma-tước (Mạt-chược)

    Trước khi nói về cách “Ăn”, phải nói về “bộ ba” cùng một hàng, nghĩa là có 3 quân có bậc liên tiếp, ví dụ: nhất, nhì, tam Văn; tam, tứ, ngủ Vạn; thất, bát, cửu Sách… Khi nói từ “ăn”, người “xoa mạc-chược” dùng từ “miệng” để chỉ 2 quân cờ liền nhau, ví dụ nhất và tam Vạn, ngủ Sách với lục Sách; hoặc cách nhau 1 quân, ví dụ nhất Vạn và tam Vạn; khi có 2 quân như vậy thì cần có thêm 1 quân khác để thành bộ ba, nếu không thì 2 quân trên không tròn bộ ba thì xem như là “rác”. Khi mình có quân nhất, nhì Vạn; nếu người tay trên mình đánh ra quân tam Vạn, thì mình “ăn”; mình lấy quân tam Vạn vào để góc trái cùng với quân nhất và nhì Vạn của mình. Cũng cách đó; nếu mình có tứ và lục thì mình chỉ “ăn” quân 5. Hai cách “ăn” như vừa kể gọi là ăn xuyên (chờ xuyên). Nhưng nếu mình có quân thất và bát thì gọi là miệng “thượng-hạ” (trên-dưới) nghĩa là mình có thể “ăn” quân 6 để có 6, 7, 8 và “ăn” quân 9 để có 7, 8, 9. “Thượng-Hạ” nghĩa là ăn “trên” và “dưới” của 2 quân mình có. Tất cả các loại “ăn” đều không có giá trị phán nào.
    chutluulai" align="right" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Giá trị ván cờ “tới” (thắng): - Một ván cờ đơn giản; chỉ có “ăn” hai, ba hàng khác nhau, phổng 1 đôi không giá trị phán nào, có một đôi gọi là “đôi mắt” và một quân hoa không giá trị, thì ván đó nếu tới chỉ là “ù cáy” (tới cáy). Nhưng lắm khi ù cáy mà thoát được những nhà khác đang có khả năng ù (tới, thắng) rất lớn. Phải kể trong ván cờ vừa qua có 1 quân hoa không giá trị, nếu không có hoa nào cả thì ván cờ trở thành 6 phán, vì là “không hoa lá”. Nếu ván cờ trên dù không có hoa mà có “đôi mắt” là đôi trong Tam Nguyên hoặc Tứ Hỷ, đều là tới “cáy ù”, vì đôi mắt đó xem như là hoa.

    -Nếu chỉ có “ăn” và có tất cả 4 “bộ ba” và 1 đôi thì ván bài nầy được 1 phán và gọi là “phình” hay là “bình” ù (tới bình thường), không phải lộn xộn như ván cờ trên có cả ăn cả phổng (không bình ù: không phình).

    -Trong 2 loại ván cờ vừa nói trên gồm cả “ăn” và “phổng” với hai hoặc 3 hàng khác nhau nên ít giá trị. Nếu tất cả các quân cờ đều cùng 1 hàng ví dụ hàng Vạn hoặc hàng Văn hoặc hàng Sách mà thôi thì gọi là “toàn hàng” và được 12 phán. Vì không có những quân yễm trợ khác như Tổng Đồng Xọt Màn hoặc Hiệp, nên gọi ván cờ đó là “toàn hàng không khung”. Nếu có các quân yễm trợ thì chỉ kể 6 phán. Nếu có 1 hàng và có thêm 1, 2 đôi không giá trị trong loại Trung Phát Bạch hoặc Đông Tây Nam Bắc; thì gọi là “lai hàng” (lai: không thuần chủng) và giá trị là 3 phán. Nếu có phổng hoặc có khàn nào có giá trị thì tính thêm phán. Nếu ván cờ là “Đối-Đối” với một hàng và không khung thì gọi là “Đối-Đối Toàn Hàng Không Khung” giá trị 15 phán. Nếu là đối-đối nhưng “lai hàng” thì chỉ được 6 phán (1 Mãn).

    -Nhiều lúc đang mong được ù cáy, nhưng bỗng nhiên bốc được những quân hoa có giá trị, nghĩa là đúng vào vị trí chỗ ngồi của mình, ví dụ ngồi ở cửa thứ nhì sau người gieo súc sắc, mà bốc được những quân hoa như Hạ, Lan,Nhị Vương, Nhị Hậu; hoặc bắt được những “khung” với các hàng Văn, Vạn, Sách hoặc Hoa, Hỷ, Nguyên; không đúng vào hàng hoặc loại mình đang chờ; thì chỉ việc “dựng” lên. Mỗi lần “dựng lên” như vậy mình phải bắt thêm một quân ở “cầu”. Nếu bắt được quân mình đang chờ và tới thì mình lại được thêm 1 phán, gọi đó là “pha cầu”; có khi được tới 6, 7 phán hay hơn nữa. Lúc đó thì thật là sung sướng; tỉ như đang đeo lon binh nhì mà được thăng chức đại tướng. Vì vậy mà có mấy câu thơ sau đây diễn tả ván cờ khoái chí vừa nói:
    “Ma-Tước nhiều khi được ván hên,
    Đang mong ù cáy lại bồi thêm,
    Vương, Hậu, Xuân, Thu, bỗng dưng đến,
    Bốc trúng cửa mình thì dựng lên”.
    -Người “xoa” mạc-chược thường gọi những người muốn tạo những ván cờ giá trị cao là “Làm Bài”. Có nhiều cách “làm bài” ví dụ như tạo một ván cờ toàn hàng Văn, hoặc Vạn hoặc Sách thì gọi là “làm hàng Văn”, “làm hàng Vạn”…Có nhiều ván cờ “làm bài” rất ngoạn mục; ví dụ như Đại Tam Nguyên, Tiểu Tam Nguyên; Đại Tứ Hỷ, Tiểu Tứ Hỷ… Một ván cờ Đại Tam Nguyên (1 mãn) khi có 3 lần phổng hoặc có 3 khàng trên tay đủ các quân Trung, Phát, Bạch; năm quân còn lại nếu là cùng 1 hàng thì thêm 3 phán vì là “lai hàng”. Nếu các quân còn lại thuộc loại Tứ Hỷ (3 quân Đông và 2 quân Nam chẳng hạn) thì ván cờ nầy gọi là “toàn hàng chữ” cọng với “Đại Tam Nguyên” tất cả là 18 phán (3 mãn). Ván cờ Tiểu Tam Nguyên có giá trị 3 phán, nếu có đôi-đôi nữa thành ra 6 phán. Đại Tứ Hỷ khi phổng được cả 4 đôi Đông, Nam, Tây, Bắc và một đôi thuộc các hàng Văn, Vạn, Sách (Không kể lai hàng cho ván cờ nầy). Nếu đôi cuối cùng đó lại là đôi Trung hoặc Phát hoặc Bạch thì được kể là Đại Tứ Hỷ cọng với “toàn hàng chữ”: 24 phán (4 Mãn). Tiểu Tứ Hỷ là khi chỉ phổng 3 đôi hoặc có 3 khàn và một đôi và tất cả đều thuộc Đôn, Nam Tây Bắc, ván cờ nầy được tính 6 phán.

    -Có một ván cờ mà mọi tay xoa mạc-chược đều muốn “làm bài” một lần cho biết; đó là ván cờ “Thập Tam” (Xập Xám) nghĩa là 13 quân; và các quân nầy hoàn toàn không dính dáng gì đến nhau. Khi tới có thể do người khác đánh hoặc mình tự bắt mà tới. 13 quân cờ đó là Đông, nam, Tây, Bắc, Trung, Phát, Bạch, Nhất Văn, Nhất Vạn, Nhất Sách, Cửu Văn, Cửu Vạn, Cửu Sách. Nếu có được ván cờ như vậy thì được chờ 13 quân, vì khi tới phải có “con mắt” nghĩa là thêm bất cứ 1 quân nào giống 13 quân kể trên. Từ xưa, ván cờ nầy rất khó thực hiện, ngày nay, vì lẽ có nhiều “khung” hổ trợ, nên việc tới ván cờ Thập Tam nầy không khó lắm. Người chơi mạc-chược khi vừa bắt cờ thấy trên tay có chừng 7, 8 quân thuộc trong 13 quân kể trên, là có thể “làm bài” thập tam rồi. Điều khó khăn của ván cờ nầy là chỉ có bốc từ trong các chồng cờ mà thôi; chứ không ăn, cũng không phổng. Hiếm khi được chờ cả 13 quân; may mắn lắm mới có ván cờ được chờ 2 hoặc 3 quân. Nhiều ván cờ chỉ chờ 1 quân mà thôi. Rất nhiều khi ván cờ không được toại nguyện, chờ lâu rồi mà người khác tới mất; người đó ức lắm, đào xới tìm quân cờ mình chờ trong những chồng cờ còn nguyên. Một bà “làm bài” không tới, bức tóc bức tai và tìm mãi trong các chồng cờ, cằn nhằn: “Tức quá! Chờ từ lâu mà không có!” Người bạn hỏi: “Chị chờ con gì mà lâu dữ vậy?” mấy câu thơ sau đây nói lên lời đối thoại:
    “Chị chờ con gì sao mãi tìm?
    Tôi chờ, tôi đợi mỗi con chim"
    Người Huế gọi quân cờ là con cờ. Hóa ra bà ta “làm bài” xập-xám và chờ quân Nhất Sách mà như trên có nói là quân cờ nầy được khắc với hình con chim.

    *Phần trên có nói đến các loại “hoa” mới tạo thêm sau nầy là 4 quân Vương và 4 quân Hậu; mà cách chơi cờ tân thời là có quyền đánh tất cả các hoa cũng như “khung”. Nếu trên tay có 3 quân hoa mà không bỏ ra ngoài và để đánh ra, khi đó các quân đó có giá trị như quân Tổng, nghĩa là nếu người nào đã chờ thì có thể tới với những quân “hoa” đó. Và người đánh ra sẽ bị phạt đền 1 ván “Mãn” cho ván cờ đó, nghĩa là phải chung tiền 3 phần cho người tới. Nhưng nếu không ai tới cả thì người đó sẽ lật ngữa bài mình cho mọi người xem rằng trên tay không còn quân hoa hoặc “khung” nào nữa và được thắng ván cờ và xem như tới “Mãn” (6 phán). Nếu trên tay còn “hoa” hoặc “khung” thì người đó phải bị phạt đền và chung tiền cho cả 3 người chơi kia. Người chơi có thể đánh ra 4, 5 hoa hoặc khung, nếu thắng thì xem như được tới 2, 3 “Mãn”. Chữ “Khung” dành chỉ những quân cờ Tổng, Thùng, Xọt, Màn, Hoa, Hỷ, Nguyên, Hợp; vì các quân cờ nầy được khắc chữ trong một khung. Nếu đánh những quân Nguyên, Hỷ, khung Văn, khung Vạn hoặc khung Sách; thì người nào chờ những quân thuộc lên hệ mới được tới. Ví dụ một người chờ đôi Trung thì chỉ lúc nào người khác phát ra quân Nguyên thì người chờ mới được tới. Vì thế mà khi mới bắt cờ lên, 3 cửa kia thấy cửa “cái” không bỏ quân hoa nào ra ngoài thì họ phải giữ các khung lại để hổ trợ cho ván cờ dễ dàng tới để thoát nạn chung mãn. Thường họ nhường cho cửa dưới của người phát khung được “ăn” những khung đánh ra để người nầy sớm chờ và có khả năng phạt người phát hoa và khung.

    -Những năm gần đây, người ta bày thêm một cách mới nữa đó là tới “pair pair” nghĩa là có 7 cặp (pairs) quân cờ. Dĩ nhiên cách nầy chỉ có bắt và giữ kín trên tay để đủ 7 cặp mà tới.

    Nhìn lại cách chơi cờ mạc-chược nguyên thủy với không khung nào cả; hẳn là rất khó đạt được những ván cờ nhiều phán; và người chơi chỉ phải xử dụng kỹ thuật “làm bài” tinh vi, đánh lạc hướng ba người kia cũng như tài phán đoán cờ người khác để dành phần thắng. Vì vậy mà có thể nói vấn đề cao, thấp được đặt nặng rất nhiều. Muốn đạt đến danh hiệu “cao thủ” trong mạc-chược, phải “tốn” cả hàng chục năm “lâm chiến”.

    Như trên đã trình bày phương cách chơi cờ mạc-chược, chúng ta cũng nhận thấy rằng ma-tước là môn cờ giãi trí khá phức tạp, người chơi có thể biến thể và nâng ván cờ mình thêm giá trị và thay đổi cục diện cả bàn cờ. Nếu gọi mạc-chược là loại cờ “thiên biến vạn hóa” cũng không ngoa.

    Trong cái “thiên biến vạn hóa” của mạc-chược mà chỉ dùng vài trang giấy để chỉ dẫn thì quã là quá ít ỏi. Lại càng chưa thể trình bày thấu triệt hết cái tinh túy của môn giải trí đầy khúc chiết nầy. Sau gần 20 năm không ngồi vào bàn mạc-chược, kẻ viết bài nầy chắc chắn sẽ có nhiều điều thiếu sót; những mong quý vị “cao thủ”, cũng như quý bạn đang lâm chiến thường xuyên, bổ túc và chỉ dẫn thêm.

    Tết đến mà trong nhà, ngoài việc thấy hương chong, đèn rạng, khói trầm thoang thoảng; lại nghe tiếng những con chim sẻ “ma-tước” reo vang, chắc là thú vị và vui cửa vui nhà lắm thay!

    Trích Tuyển tập nhớ Huế Số 18
    Sống trên đời

    Comment

    Working...
    X
    Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom