Ma-tước (Mạt-chược)
Hoàng Thế Định
Nhiều người chơi Ma-Tước, người Trung Hoa, người Singapore, người Việt Nam… Ngày nay, một số người Âu Mỹ cũng đã biết chơi loại cờ phức tạp nầy. Riêng tại Việt Nam, thưở trước, ma-tước chỉ thấy được chơi trong cung vua, chúa và các quan cấp cao; về sau được phổ biến rộng khắp dân chúng.
chutluulai" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Mạt-chược là một môn tiêu khiển cần đấu trí rất nhiều. Cũng giống như cờ tướng, người chơi đã lâu năm đương nhiên sẽ có nhiều kinh nghiệm và có nhiều nước “cao” cũng như có tài phán xét và suy đoán cờ của người khác; vì vậy mà phần nhiều những người mới tập tểnh vào môn tiêu khiển nầy hầu hết đều “thua” cuộc. Tuy nhiên, ngoài môn cờ tướng thì các môn tiêu khiển nào cũng đều có việc hên, xui trong đó nữa.
Có người nói môn chơi gì cũng không có sách chỉ dẫn trừ Ma-Tước. Tuy vậy, kẻ viết bài nầy chưa được may mắn đọc bài nào nói về Ma-Tước.
Nghe hai chữ Ma-Tước hay ngay cả chữ Mạt-Chược cũng biết rằng môn chơi nầy xuất xứ từ Trung Hoa. Tước là chim sẻ. Ai đã từng chơi cờ mạt-chược mới nhận ra rằng khi cả bốn người chơi xoa những con cờ trong một bàn vuông vức một mét tây, tiếng những con cờ chạm vào nhau phát ra âm thanh nghe như tiếng đàn chim sẻ kêu ran trên những cành cây cạnh cửa sổ hay dưới mái hiên nhà vào buổi sáng nắng tươi. Đúng là âm thanh thật vui tươi, rộn rã. Hầu hết người chơi đều dùng chữ “xoa mạt-chược” thay vì chữ đánh hay chơi mạt-chược.
Chúng tôi không rõ ma-tước ra đời từ bao giờ, chỉ biết người Việt Nam chúng ta biết đến và chơi loại cờ nầy từ nhiều trăm năm về trước.
Sơ khởi, để làm các quân cờ, người ta dùng loại gỗ tốt nghĩa là phải cứng, nặng; có người dùng cật tre (loại tre già). Ở trong cung vua, chúa hay những nhà vương giả, hoặc nhà giàu có, người ta dùng ngà voi để gọt dũa, đẽo thành quân cờ. Trong khoảng vài chục năm lại đây, người ta đã làm những quân cờ bằng chất nylon cứng. Kích thước của các quân cờ hầu như không thay đổi. Mỗi quân cờ có chiều rộng chừng 1 inch, chiều dài 1.5 inches và chiều sâu 0.5 inches. Các góc cạnh của quân cờ đều được dũa tròn để khỏi có sắt cạnh. Các quân cờ được khắc chạm; xưa thì bằng thủ công do các nghệ nhân chuyên nghề khắc chạm, ngày nay người ta dùng máy khắc vào mặt dưới của quân cờ rất cứng. Có 3 màu sơn chính là đỏ, xanh, lục được bôi vào những chữ, những hình đã khắc; khi sơn đã khô, người ta dùng dầu hỏa (petroleum) để chùi những vết sơn nhoè trên mặt quân cờ. Dĩ nhiên tất cả những quân cờ đều khắc chữ Trung Hoa và những hình tượng trưng cho mỗi bộ (hàng).
Cách đây gần trăm năm, toàn bộ cờ có 144 quân. Trong đó chia làm ba bộ (hàng) chính là “Văn”, “Vạn”, “Sách”; mỗi hàng có 36 quân đếm từ 1 đến 9, mỗi số có 4 quân cờ. Ví dụ “hàng” Văn có 4 quân “nhất Văn”, 4 quân “nhị Văn”, tam, tứ ngũ, lục, thất, bát, “cửu Văn”. Các “hàng” khác cũng vậy; nhất Vạn…cửu Vạn; nhất Sách…cửu Sách. Trong 3 “hàng” đó, chỉ có “hàng” Vạn là viết bằng chữ Hán, với chữ số ở trên và chữ Vạn ở dưới; còn “hàng” Văn (còn gọi là Thùng) được khắc bằng những dấu tròn lớn bên ngoài và nhỏ lần vào bên trong; “hàng” Sách thì vẽ như các đốt tre, đặc biệt quân nhất Sách lại vẽ con chim, màu sắc rất đẹp.
Có ba loại quân cờ mang tên Trung, Phát, Bạch thuộc trong “Tam Nguyên”. Mỗi loại có 4 quân; như vậy Tam Nguyên nầy có 12 quân cờ. Chữ Trung (trung tâm) được tô bằng màu sơn đỏ chói. Chữ Phát (Phát Xồi: phát tài) viết bằng màu sơn lục và Quân Bạch (nghĩa là trắng) thì để trơn, không khắc gì hết (vài bạn trẻ nghịch ngợm gọi quân đó là “no hair”).
“Tứ Hỷ” bao gồm Đông, Tây, Nam, Bắc; mỗi loại có 4 quân. 16 quân cờ nầy đều được viết bằng sơn xanh đậm đen và viết bằng chữ Trung Hoa.
Trong bộ cờ có hai bộ hoa, một bộ hoa là Xuân, Hạ, Thu, Đông và bộ hoa kia là Mai, Lan, Cúc, Trúc. Cả hai bộ hoa nầy không có liên hệ nào với các quân bài vừa kể trên mà chỉ có giá trị làm tăng giá trị của ván bài của người chơi có chúng. Với 144 quân cờ chia cho 4 người chơi, mỗi người có 36 quân sắp thành 18 cặp chồng lên nhau . Trước khi sắp, tất cả các quân cờ đều phải được lật sấp mặt xuống mặt bàn.
70, 80 năm trước đây, người ta thêm 4 quân cờ đặc biệt mang tên Hoa, Hỷ, Nguyên, Hiệp. Quân Nguyên có khả năng thay thế các quân Trung, Phát, Bạch; quân Hỷ cho các quân Đông , Tây, Nam, Bắc; và quân Hiệp hay là Hợp, có thể thay thế cho bất cứ quân nào trong Văn, Vạn, Sách. Riêng một quân tên là Hoa (Ba) thì không dính dáng gì với các quân cờ khác. Cả 4 quân cờ Hoa, Hỷ, Nguyên, Hiệp có thêm một khả năng làm tăng thêm “phán” (có nơi gọi là “phan”) cho ván bài; quân Hoa có giá trị 2 phán, quân Hiệp có giá trị 2 phán lúc xưa, về sau có thay đổi là nếu “dựng” trước khi bắt đầu phát quân cờ đầu tiên thì có giá trị 3 phán và giá trị 2 phán nếu dựng sau. “Dựng” có nghĩa là thêm phán. Có hai cách dựng: dựng theo chiều dài của quân bài với giá trị 1 phán; dựng theo chiều ngang của quân bài (quân bài cao hơn) giá trị 2 phán. Phán hay phan là đơn vị giá trị của một ván bài thắng. Đơn vị thấp nhất không phải 1 phán mà là “Cáy” (có nơi gọi “Cay”) và đến 6 phán thì gọi là “Mãn”; có khi đạt đến 7, 8 phán hoặc 2, 3 Mãn.
Khoảng 50, 60 năm gần đây, người ta lại thêm 4 quân bài khác, đó là Tổng, Đồng, Sách, Vạn. Quân Tổng (tổng thống) có khả năng thay thế tất cả các hàng Văn Vạn Sách, cũng như bộ Đông Tây Nam Bắc và Trung Phát Bạch. Quân Đồng (Thùng) thay thế các quân trong hàng Văn, quân Sách (Xọt) cho hàng Sách, quân Vạn (Màn) cho hàng Vạn.
Vào những năm sau 75, người chơi mạt-chược lại làm quen với 8 quân cờ mới là Nhất Vương, Nhị Vương, Tam Vương , Tứ Vương và Nhất Hậu, Nhị Hậu, Tam Hậu, Tứ Hậu. Tám quân cờ nầy chỉ có tác dụng như những quân hoa Xuân Hạ Thu Đông hoặc Mai Lan Cúc Trúc.
Sở dĩ người ta thêm nhiều “hoa” như vậy là có dụng ý về cách chơi bài gần sau nầy mà chúng tôi sẽ nói vào phần sau (*).
Như chúng ta biết, phải đủ 4 người mới chơi ma-tước. Bốn người ngồi ở 4 cạnh của chiếc bàn vuông, mỗi chiều chừng 1 mét tây. Ở chính giữa chiều dày thành bàn của mỗi cạnh có một cái hộc nhỏ để đựng “xầu” (thay thế tiền mặt) làm bằng nhựa với đủ màu và đủ cở để phân biệt giá trị của mỗi loại “xầu”; cũng có nơi chơi tiền mặt. Trên thành bàn còn có một khe hẹp có gắn vào một miếng gỗ với một lỗ tròn dùng làm nơi để cái ly uống nước. Mặt bàn được lót bằng một lớp nỹ màu lục sẫm vừa đủ dày để khi đánh quân bài xuống bàn không kêu lớn quá. Quanh bờ bàn có đóng một ghờ cao chừng 1 phân tây để tránh các quân bài văng ra khỏi bàn.
Trước khi ngồi vào bàn, sẽ có một cuộc chọn chỗ: Người ta chọn 4 quân cờ Đông, Tây, Nam, Bắc chồng lên nhau, dùng 3 hạt súc sắt xổ ra một lược, cọng 3 số của 3 súc sắc lại thành một số để chỉ người nào sẽ được nhận quân cờ trên cùng, theo chiều kim đồng hồ, người kề nhận quân kế tiếp; cuối cùng mỗi người có một quân và cứ theo đó để sắp chỗ ngồi. Người có quân Đông sẽ được chọn chỗ trước và những người khác cứ theo thứ tự Đông Nam Tây Bắc để ngồi đúng chỗ của mình; mỗi chỗ gọi là “cửa”.
Người chơi mạt-chược gọi một cuộc cờ là “quánh”, gồm có 4 “Gió” Đông, Nam, Tây, Bắc. Cứ hết 4 ván bài thì hết một “Gió”. Khi hết một “quánh” thì 4 người chơi lại chọn chỗ lại.
Khởi sự cuộc đấu trí, như trên đã nói, tất cả các quân cờ phải lật sấp và xoa đều, xong mỗi người sắp một hàng cờ dài trước mặt mình, hai quân chồng lên nhau. Người ngồi ở vị thế (“cửa”) Đông-Đông sẽ gieo súc sắc, cọng số 3 súc sắc và đếm từ người nầy theo chiều kim đồng hồ để chọn chồng cờ ở người nào và lấy cờ. Người đó lấy 2 chồng (4 quân) và những người kế tiếp làm theo; khi mỗi người đã có 3 chồng-12 quân thì mỗi người sẽ lấy thêm 1 quân và người đầu tiên (cửa cái) sẽ lấy thêm 1 quân nữa, nghĩa là người nầy có 14 quân; 3 ngươì còn lại chỉ có 13 quân. Người cửa cái sẽ phát ra quân cờ đầu tiên. Người kế tiếp nếu không “ăn” hoặc “phổng” được và không ai phổng; thì sẽ bắt (bốc) 1 quân cờ và bỏ vào 13 quân cờ của mình; và người nầy cũng sẽ phát ra 1 quân thừa thải của họ; mà họ gọi là rác “rác rến”, thừa thải). Cứ như thế cho đến khi hết ván cờ. Nếu vì sơ ý chỉ bốc 12 quân thì gọi là “xíu” (xỉu) nghĩa là thiếu, ít, nhỏ. Nếu bốc dư cờ thì gọi là “tài”: nhiều, dư. Khi nào “tới” (thắng) thì người ấy phải có 14 quân cờ.
Cách “ăn” và “phổng”: Người chơi có quyền không ăn hoặc không phổng tùy “chiến thuật” và “chiến lược” của từng ván cờ. “Phổng” được ưu tiên hơn “ăn”. Phổng có nghĩa là khi mình có 2 quân cờ giống nhau (1 đôi) và có bất kỳ người nào phát ra (đánh ra) quân cờ giống mình thì mình sẽ hô “Phổng!” và lật đôi của mình ra và lấy quân cờ của họ vào để bên góc trái bàn của chỗ mình. Đang ở gió Đông mà người ngồi ghế Đông thì người đó ở vị thế Đông-Đông, người kế tiếp là Đông-Nam, Đông-Tây, Đông-Bắc. Điều nầy có ý nghĩa là nếu người ở vị thế Đông-Đông mà phổng được đôi Đông thì nếu người nầy thắng ván đó thì riêng 3 con Đông có giá trị 2 phán. Trong khi ba người còn lại nếu có phổng được đôi Đông, thì họ cũng chỉ được kể 1 phán. Nhưng nếu người ngồi “cửa” Nam mà phổng một đôi Nam thì có 1 phán; trong khi người ngồi ở ghế Đông, Tây và Bắc phổng đôi Nam thì không được kể phán nào mà chỉ xem như phổng những đôi bình thường khác như là nhất vạn, nhị sách hay tam văn. Nếu mình có trên tay 3 quân giống nhau (khan) của loại vừa kể cũng được 1 hoặc 2 phán. Riêng về các đôi Trung, Phát, Bạch mà được phổng đểu có giá trị 1 phán dầu ở vị thế “cửa” nào. Các loại quân cờ khác khi phổng, không có giá trị phán nào trừ phi được phổng 6 lần và nếu được thắng ván cờ thì được 3 phán, người ta gọi ván bài đó là “Đối-Đối” nghĩa là toàn “đôi” mà thôi. Nếu phổng 6 đôi mà vẫn chưa “tới”, nghĩa là còn chờ 1 con, gọi là “tán tiêu”, nếu người khác đánh ra một quân giống mình đang có thì mình tới ván đó là “mãn” (6 phán) và gọi là “ toàn cầu nhần” (đều được lật ngữa ra). Nếu mình không phổng, nhưng trên tay đều có 4 khàn và một đôi thì không gọi là “Đối-Đối” mà là “Khản Khản”, khản nghĩa là khàn, nếu đước thắng ván đó thì được 12 phán; có nơi quy định là 3 mãn (18 phán). Khi có 4 quân cờ giống nhau thì phải bỏ ra bên góc trái của mình và bốc thêm 1 quân trong chồng cờ ngược chiều với giòng cờ, gọi là “cầu” và có giá trị 1 phán.
Hoàng Thế Định
Nhiều người chơi Ma-Tước, người Trung Hoa, người Singapore, người Việt Nam… Ngày nay, một số người Âu Mỹ cũng đã biết chơi loại cờ phức tạp nầy. Riêng tại Việt Nam, thưở trước, ma-tước chỉ thấy được chơi trong cung vua, chúa và các quan cấp cao; về sau được phổ biến rộng khắp dân chúng.
chutluulai" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Mạt-chược là một môn tiêu khiển cần đấu trí rất nhiều. Cũng giống như cờ tướng, người chơi đã lâu năm đương nhiên sẽ có nhiều kinh nghiệm và có nhiều nước “cao” cũng như có tài phán xét và suy đoán cờ của người khác; vì vậy mà phần nhiều những người mới tập tểnh vào môn tiêu khiển nầy hầu hết đều “thua” cuộc. Tuy nhiên, ngoài môn cờ tướng thì các môn tiêu khiển nào cũng đều có việc hên, xui trong đó nữa.
Có người nói môn chơi gì cũng không có sách chỉ dẫn trừ Ma-Tước. Tuy vậy, kẻ viết bài nầy chưa được may mắn đọc bài nào nói về Ma-Tước.
Nghe hai chữ Ma-Tước hay ngay cả chữ Mạt-Chược cũng biết rằng môn chơi nầy xuất xứ từ Trung Hoa. Tước là chim sẻ. Ai đã từng chơi cờ mạt-chược mới nhận ra rằng khi cả bốn người chơi xoa những con cờ trong một bàn vuông vức một mét tây, tiếng những con cờ chạm vào nhau phát ra âm thanh nghe như tiếng đàn chim sẻ kêu ran trên những cành cây cạnh cửa sổ hay dưới mái hiên nhà vào buổi sáng nắng tươi. Đúng là âm thanh thật vui tươi, rộn rã. Hầu hết người chơi đều dùng chữ “xoa mạt-chược” thay vì chữ đánh hay chơi mạt-chược.
Chúng tôi không rõ ma-tước ra đời từ bao giờ, chỉ biết người Việt Nam chúng ta biết đến và chơi loại cờ nầy từ nhiều trăm năm về trước.
Sơ khởi, để làm các quân cờ, người ta dùng loại gỗ tốt nghĩa là phải cứng, nặng; có người dùng cật tre (loại tre già). Ở trong cung vua, chúa hay những nhà vương giả, hoặc nhà giàu có, người ta dùng ngà voi để gọt dũa, đẽo thành quân cờ. Trong khoảng vài chục năm lại đây, người ta đã làm những quân cờ bằng chất nylon cứng. Kích thước của các quân cờ hầu như không thay đổi. Mỗi quân cờ có chiều rộng chừng 1 inch, chiều dài 1.5 inches và chiều sâu 0.5 inches. Các góc cạnh của quân cờ đều được dũa tròn để khỏi có sắt cạnh. Các quân cờ được khắc chạm; xưa thì bằng thủ công do các nghệ nhân chuyên nghề khắc chạm, ngày nay người ta dùng máy khắc vào mặt dưới của quân cờ rất cứng. Có 3 màu sơn chính là đỏ, xanh, lục được bôi vào những chữ, những hình đã khắc; khi sơn đã khô, người ta dùng dầu hỏa (petroleum) để chùi những vết sơn nhoè trên mặt quân cờ. Dĩ nhiên tất cả những quân cờ đều khắc chữ Trung Hoa và những hình tượng trưng cho mỗi bộ (hàng).
Cách đây gần trăm năm, toàn bộ cờ có 144 quân. Trong đó chia làm ba bộ (hàng) chính là “Văn”, “Vạn”, “Sách”; mỗi hàng có 36 quân đếm từ 1 đến 9, mỗi số có 4 quân cờ. Ví dụ “hàng” Văn có 4 quân “nhất Văn”, 4 quân “nhị Văn”, tam, tứ ngũ, lục, thất, bát, “cửu Văn”. Các “hàng” khác cũng vậy; nhất Vạn…cửu Vạn; nhất Sách…cửu Sách. Trong 3 “hàng” đó, chỉ có “hàng” Vạn là viết bằng chữ Hán, với chữ số ở trên và chữ Vạn ở dưới; còn “hàng” Văn (còn gọi là Thùng) được khắc bằng những dấu tròn lớn bên ngoài và nhỏ lần vào bên trong; “hàng” Sách thì vẽ như các đốt tre, đặc biệt quân nhất Sách lại vẽ con chim, màu sắc rất đẹp.
Có ba loại quân cờ mang tên Trung, Phát, Bạch thuộc trong “Tam Nguyên”. Mỗi loại có 4 quân; như vậy Tam Nguyên nầy có 12 quân cờ. Chữ Trung (trung tâm) được tô bằng màu sơn đỏ chói. Chữ Phát (Phát Xồi: phát tài) viết bằng màu sơn lục và Quân Bạch (nghĩa là trắng) thì để trơn, không khắc gì hết (vài bạn trẻ nghịch ngợm gọi quân đó là “no hair”).
“Tứ Hỷ” bao gồm Đông, Tây, Nam, Bắc; mỗi loại có 4 quân. 16 quân cờ nầy đều được viết bằng sơn xanh đậm đen và viết bằng chữ Trung Hoa.
Trong bộ cờ có hai bộ hoa, một bộ hoa là Xuân, Hạ, Thu, Đông và bộ hoa kia là Mai, Lan, Cúc, Trúc. Cả hai bộ hoa nầy không có liên hệ nào với các quân bài vừa kể trên mà chỉ có giá trị làm tăng giá trị của ván bài của người chơi có chúng. Với 144 quân cờ chia cho 4 người chơi, mỗi người có 36 quân sắp thành 18 cặp chồng lên nhau . Trước khi sắp, tất cả các quân cờ đều phải được lật sấp mặt xuống mặt bàn.
70, 80 năm trước đây, người ta thêm 4 quân cờ đặc biệt mang tên Hoa, Hỷ, Nguyên, Hiệp. Quân Nguyên có khả năng thay thế các quân Trung, Phát, Bạch; quân Hỷ cho các quân Đông , Tây, Nam, Bắc; và quân Hiệp hay là Hợp, có thể thay thế cho bất cứ quân nào trong Văn, Vạn, Sách. Riêng một quân tên là Hoa (Ba) thì không dính dáng gì với các quân cờ khác. Cả 4 quân cờ Hoa, Hỷ, Nguyên, Hiệp có thêm một khả năng làm tăng thêm “phán” (có nơi gọi là “phan”) cho ván bài; quân Hoa có giá trị 2 phán, quân Hiệp có giá trị 2 phán lúc xưa, về sau có thay đổi là nếu “dựng” trước khi bắt đầu phát quân cờ đầu tiên thì có giá trị 3 phán và giá trị 2 phán nếu dựng sau. “Dựng” có nghĩa là thêm phán. Có hai cách dựng: dựng theo chiều dài của quân bài với giá trị 1 phán; dựng theo chiều ngang của quân bài (quân bài cao hơn) giá trị 2 phán. Phán hay phan là đơn vị giá trị của một ván bài thắng. Đơn vị thấp nhất không phải 1 phán mà là “Cáy” (có nơi gọi “Cay”) và đến 6 phán thì gọi là “Mãn”; có khi đạt đến 7, 8 phán hoặc 2, 3 Mãn.
Khoảng 50, 60 năm gần đây, người ta lại thêm 4 quân bài khác, đó là Tổng, Đồng, Sách, Vạn. Quân Tổng (tổng thống) có khả năng thay thế tất cả các hàng Văn Vạn Sách, cũng như bộ Đông Tây Nam Bắc và Trung Phát Bạch. Quân Đồng (Thùng) thay thế các quân trong hàng Văn, quân Sách (Xọt) cho hàng Sách, quân Vạn (Màn) cho hàng Vạn.
Vào những năm sau 75, người chơi mạt-chược lại làm quen với 8 quân cờ mới là Nhất Vương, Nhị Vương, Tam Vương , Tứ Vương và Nhất Hậu, Nhị Hậu, Tam Hậu, Tứ Hậu. Tám quân cờ nầy chỉ có tác dụng như những quân hoa Xuân Hạ Thu Đông hoặc Mai Lan Cúc Trúc.
Sở dĩ người ta thêm nhiều “hoa” như vậy là có dụng ý về cách chơi bài gần sau nầy mà chúng tôi sẽ nói vào phần sau (*).
Như chúng ta biết, phải đủ 4 người mới chơi ma-tước. Bốn người ngồi ở 4 cạnh của chiếc bàn vuông, mỗi chiều chừng 1 mét tây. Ở chính giữa chiều dày thành bàn của mỗi cạnh có một cái hộc nhỏ để đựng “xầu” (thay thế tiền mặt) làm bằng nhựa với đủ màu và đủ cở để phân biệt giá trị của mỗi loại “xầu”; cũng có nơi chơi tiền mặt. Trên thành bàn còn có một khe hẹp có gắn vào một miếng gỗ với một lỗ tròn dùng làm nơi để cái ly uống nước. Mặt bàn được lót bằng một lớp nỹ màu lục sẫm vừa đủ dày để khi đánh quân bài xuống bàn không kêu lớn quá. Quanh bờ bàn có đóng một ghờ cao chừng 1 phân tây để tránh các quân bài văng ra khỏi bàn.
Trước khi ngồi vào bàn, sẽ có một cuộc chọn chỗ: Người ta chọn 4 quân cờ Đông, Tây, Nam, Bắc chồng lên nhau, dùng 3 hạt súc sắt xổ ra một lược, cọng 3 số của 3 súc sắc lại thành một số để chỉ người nào sẽ được nhận quân cờ trên cùng, theo chiều kim đồng hồ, người kề nhận quân kế tiếp; cuối cùng mỗi người có một quân và cứ theo đó để sắp chỗ ngồi. Người có quân Đông sẽ được chọn chỗ trước và những người khác cứ theo thứ tự Đông Nam Tây Bắc để ngồi đúng chỗ của mình; mỗi chỗ gọi là “cửa”.
Người chơi mạt-chược gọi một cuộc cờ là “quánh”, gồm có 4 “Gió” Đông, Nam, Tây, Bắc. Cứ hết 4 ván bài thì hết một “Gió”. Khi hết một “quánh” thì 4 người chơi lại chọn chỗ lại.
Khởi sự cuộc đấu trí, như trên đã nói, tất cả các quân cờ phải lật sấp và xoa đều, xong mỗi người sắp một hàng cờ dài trước mặt mình, hai quân chồng lên nhau. Người ngồi ở vị thế (“cửa”) Đông-Đông sẽ gieo súc sắc, cọng số 3 súc sắc và đếm từ người nầy theo chiều kim đồng hồ để chọn chồng cờ ở người nào và lấy cờ. Người đó lấy 2 chồng (4 quân) và những người kế tiếp làm theo; khi mỗi người đã có 3 chồng-12 quân thì mỗi người sẽ lấy thêm 1 quân và người đầu tiên (cửa cái) sẽ lấy thêm 1 quân nữa, nghĩa là người nầy có 14 quân; 3 ngươì còn lại chỉ có 13 quân. Người cửa cái sẽ phát ra quân cờ đầu tiên. Người kế tiếp nếu không “ăn” hoặc “phổng” được và không ai phổng; thì sẽ bắt (bốc) 1 quân cờ và bỏ vào 13 quân cờ của mình; và người nầy cũng sẽ phát ra 1 quân thừa thải của họ; mà họ gọi là rác “rác rến”, thừa thải). Cứ như thế cho đến khi hết ván cờ. Nếu vì sơ ý chỉ bốc 12 quân thì gọi là “xíu” (xỉu) nghĩa là thiếu, ít, nhỏ. Nếu bốc dư cờ thì gọi là “tài”: nhiều, dư. Khi nào “tới” (thắng) thì người ấy phải có 14 quân cờ.
Cách “ăn” và “phổng”: Người chơi có quyền không ăn hoặc không phổng tùy “chiến thuật” và “chiến lược” của từng ván cờ. “Phổng” được ưu tiên hơn “ăn”. Phổng có nghĩa là khi mình có 2 quân cờ giống nhau (1 đôi) và có bất kỳ người nào phát ra (đánh ra) quân cờ giống mình thì mình sẽ hô “Phổng!” và lật đôi của mình ra và lấy quân cờ của họ vào để bên góc trái bàn của chỗ mình. Đang ở gió Đông mà người ngồi ghế Đông thì người đó ở vị thế Đông-Đông, người kế tiếp là Đông-Nam, Đông-Tây, Đông-Bắc. Điều nầy có ý nghĩa là nếu người ở vị thế Đông-Đông mà phổng được đôi Đông thì nếu người nầy thắng ván đó thì riêng 3 con Đông có giá trị 2 phán. Trong khi ba người còn lại nếu có phổng được đôi Đông, thì họ cũng chỉ được kể 1 phán. Nhưng nếu người ngồi “cửa” Nam mà phổng một đôi Nam thì có 1 phán; trong khi người ngồi ở ghế Đông, Tây và Bắc phổng đôi Nam thì không được kể phán nào mà chỉ xem như phổng những đôi bình thường khác như là nhất vạn, nhị sách hay tam văn. Nếu mình có trên tay 3 quân giống nhau (khan) của loại vừa kể cũng được 1 hoặc 2 phán. Riêng về các đôi Trung, Phát, Bạch mà được phổng đểu có giá trị 1 phán dầu ở vị thế “cửa” nào. Các loại quân cờ khác khi phổng, không có giá trị phán nào trừ phi được phổng 6 lần và nếu được thắng ván cờ thì được 3 phán, người ta gọi ván bài đó là “Đối-Đối” nghĩa là toàn “đôi” mà thôi. Nếu phổng 6 đôi mà vẫn chưa “tới”, nghĩa là còn chờ 1 con, gọi là “tán tiêu”, nếu người khác đánh ra một quân giống mình đang có thì mình tới ván đó là “mãn” (6 phán) và gọi là “ toàn cầu nhần” (đều được lật ngữa ra). Nếu mình không phổng, nhưng trên tay đều có 4 khàn và một đôi thì không gọi là “Đối-Đối” mà là “Khản Khản”, khản nghĩa là khàn, nếu đước thắng ván đó thì được 12 phán; có nơi quy định là 3 mãn (18 phán). Khi có 4 quân cờ giống nhau thì phải bỏ ra bên góc trái của mình và bốc thêm 1 quân trong chồng cờ ngược chiều với giòng cờ, gọi là “cầu” và có giá trị 1 phán.
Comment