Ảnh hưởng Phật giáo trên Văn học, Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
TS Thái Văn Kiểm
Văn Học gồm có: Ngôn ngữ, Văn tự, Văn phẩm, Thi ca và Mỹ thuật, trong đó có Âm nhạc, Hội hoạ và Kiến trúc.
Ngôn ngữ
Trước hết, ta hãy nói về Ngôn ngữ, bằng cách đơn cử cái chữ đầu tiên là Phật, được Việt-nam-hóa là Bụt, rút ra từ danh từ Bouddha, có nghĩa là Biết, người hiểu biết tất cả, thông suốt cả mọi việc, từ dĩ vãng tới tương lai. Cái từ ngữ chính yếu đó đã được sự truyền bá Phật Giáo tới Việt Nam, qua hai ngã đường: đường biển phía dưới theo Tiểu Thừa (Hinayana), và đường lục địa phía trên theo Đại Thừa (Mahayana), sẽ gặp nhau cách đây gần 19 thế kỷ tại Chiêm Thành và Giao Chỉ, nơi Trung Tâm Luy Lâu (Bắc Ninh bây giờ).
Những từ-ngữ khác bằng tiếng và chữ Phạn (sanscrit) sẽ lục tục theo sau, khá nhiều, để nhập vào để đồng hóa và phong-phú-hóa Việt ngữ chính thống xa xưa như:
Nước là xứ sở, do chữ phạn nogara, đọc vắn là nok, là nước. Chữ nogara, đọc vắn là nogar như Poh Nogar là Bà Chúa Xứ.
Dấp (dáng dấp: aspect, physionomie) do chữ phạn rupa, đọc vắn là rúp, là dúp.
Búp (hoa) do phạn ngữ bupha là hoa.
Sạch sẽ là do chữ phạn suci mà ra.
Vài (quelques) do chữ phạn dvi, dva mà ra.
No (ăn no) do chữ phạn purna mà ra.
Đau (đau khổ) do chữ phạn dukkha mà ra.
Hằng hà sa số: nhiều như cát sông Gange (Hằng Hà) của Ấn Độ.
Cửa do chữ phạn Kuala, như cửa biển (embouchure, estuaire, portuaire), như Hà Tiên ngày xưa dân Miên gọi là Kual, người Bồ Đào Nha viết là Coal trong các du ký, còn người Tàu nối gót Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ thì viết là Cảng khẩu quốc, còn người Tây Phương như Pháp thì viết là "Royaume de Cancao".
Văn tự
Trong địa hạt Văn tự, qua các Tôn giáo như Phật Giáo từ Ấn Độ truyền sang và Khổng Giáo từ Trung Quốc tràn xuống, dân tộc Lạc Việt đã sớm tiếp dùng ít nhất là hai (2) thứ chữ khác nhau:
Mường ngữ và Hán ngữ.
Văn tự mà các nhà nhân chủng học gọi là Mường ngữ, tương tợ các thứ chữ của Miên, Lào và Thái, gốc chữ phạn (sanscrit) hoặc là chữ Pali, còn xa xưa hơn. Người xưa gọi là Khoa đẩu văn (văn vẽ như đuôi nòng nọc), mà người Pháp gọi là "écriture en queue de têtard", cũng có người gọi là chữ cung quăn (larves de moustiques).
Để chứng minh điều này, chúng ta sẽ đưa ra quyển sách "Thanh Hóa Quan Phong" mà tác giả là cụ Vương Duy Trinh, Tổng Đốc Thanh Hoá, hồi đầu thế kỷ XX. Sách này trình bày Địa lý, Nhân văn, Phong tục, Thi ca bình dân trong vùng này, xưa kia gọi là Ái Châu, với nhiều truyện tích, ca dao, ngạn ngữ bằng tiếng Mường của người Mường, mà các nhà bác học gọi là "Tiền Việt" và người Tây Phương gọi là "Proto-Vietnamiens".
Nhờ sách đó mà chúng ta được biết Mường ngữ gồm có 35 chữ cái, viết theo lối "loan phụng khoa đẩu", như dấu chân chim loan phụng và nòng nọc, cung quăng.
Năm 1953, nhân được Chính phủ Quốc Gia cử vào trấn nhậm hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận, Nha Trang và Phan Rang, trong những lúc đi hành hạt, chúng tôi đã cố gắng học hỏi thêm các thứ ngôn ngữ Chiêm Thành và Đồng bào Thượng, phần lớn thuộc về ngôn ngữ Á-Úc (langues austro-asiatiques), mà ngữ pháp phần nhiều được sắp xếp ngược lại với ngữ pháp của Trung Quốc. Nghĩa là tính từ nằm sau danh từ (le substantif précède le qualificatif), nói một cách khác: định từ đi sau bị-định-từ (le déterminant suit le déterminé).
Ví dụ như người Tàu nói: thanh thiên, bạch nhựt, cô nhi quả phụ, còn người Việt-Mường và phần nhiều các Dân tộc thiểu số Đông Dương thì nói: trời xanh, ngày trắng, mẹ goá con côi. Đó là những ví dụ cụ thể giúp chúng ta phân định rõ ràng: Người Lạc Việt và phần lớn Đồng bào thiểu số không phải là người Tàu, mà đó là những sắc dân trong Đại tộc Bách Việt, theo đúng truyền thuyết Trăm trứng (100) sinh nở ra Trăm con đã rải rác đồng đều trên lãnh thổ và các quần đảo khắp vùng Đông Nam Á.
Trong những chuyến đi "thăm dân cho biết sự tình", theo lời nói bất hủ của ký giả khả kính Vũ Bằng, tôi có để ý ba việc:
1. là danh từ kép "Khoa đẩu văn" có ghi khắc trên một tấm bia đá dựng nơi đền tháp Poh Ino Nogar, do cụ Phan Thanh Giản biên soạn năm 1856 (Tự Đức năm thứ 9), kể rõ sự tích của Thiên Y Ana Thánh Mẫu, vết tích rõ ràng và "rành rành như canh lá hẹ".
Ấy thế mà có một Giáo sư Pháp, rất giỏi Hán Văn và nói rành tiếng Việt, cứ nói ép với tôi rằng chữ Tàu là "Khoa đẩu văn" đó, vì chữ Tàu cũng có hình dáng "đuôi nòng nọc". Tôi đành ngậm mà nghe, vì tôi đang thi cử với lều chõng nghênh ngang, không tiện "đương dương trường bản"!
2. là lúc lên Cao nguyên, theo dấu chân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ ở làng An Tây, nơi giáp giới Bình Định và Pleiku, xuyên qua nhiều sông ngòi và đèo cao, rừng rậm, tôi đã tìm thấy sắc tộc Cà Lơ (Khả Lũ) chuyên dùng cách đếm bằng những sợi dây nhiều màu, có làm gút nút, giống như Kipu của các sắc dân Maya và Aztèque miền Trung Mỹ và Nam Mỹ thời tiền Kha-Luân-Bố (Amérique pré-colombienne).
3. là dân Cao nguyên thiểu số ưa dùng danh từ Poh có nghĩa là Lãnh chúa, là vua, cũng giống như người Việt và người Mường vùng Bắc Trường Sơn và cả vùng Bình-Trị-Thiên ưa dùng chữ Bua trong danh từ kép việc bua quan, tức là việc vua quan, việc hành chánh, tương đối với việc dân gian, việc dân dã.
TS Thái Văn Kiểm
Văn Học gồm có: Ngôn ngữ, Văn tự, Văn phẩm, Thi ca và Mỹ thuật, trong đó có Âm nhạc, Hội hoạ và Kiến trúc.
Ngôn ngữ
Trước hết, ta hãy nói về Ngôn ngữ, bằng cách đơn cử cái chữ đầu tiên là Phật, được Việt-nam-hóa là Bụt, rút ra từ danh từ Bouddha, có nghĩa là Biết, người hiểu biết tất cả, thông suốt cả mọi việc, từ dĩ vãng tới tương lai. Cái từ ngữ chính yếu đó đã được sự truyền bá Phật Giáo tới Việt Nam, qua hai ngã đường: đường biển phía dưới theo Tiểu Thừa (Hinayana), và đường lục địa phía trên theo Đại Thừa (Mahayana), sẽ gặp nhau cách đây gần 19 thế kỷ tại Chiêm Thành và Giao Chỉ, nơi Trung Tâm Luy Lâu (Bắc Ninh bây giờ).
Những từ-ngữ khác bằng tiếng và chữ Phạn (sanscrit) sẽ lục tục theo sau, khá nhiều, để nhập vào để đồng hóa và phong-phú-hóa Việt ngữ chính thống xa xưa như:
Nước là xứ sở, do chữ phạn nogara, đọc vắn là nok, là nước. Chữ nogara, đọc vắn là nogar như Poh Nogar là Bà Chúa Xứ.
Dấp (dáng dấp: aspect, physionomie) do chữ phạn rupa, đọc vắn là rúp, là dúp.
Búp (hoa) do phạn ngữ bupha là hoa.
Sạch sẽ là do chữ phạn suci mà ra.
Vài (quelques) do chữ phạn dvi, dva mà ra.
No (ăn no) do chữ phạn purna mà ra.
Đau (đau khổ) do chữ phạn dukkha mà ra.
Hằng hà sa số: nhiều như cát sông Gange (Hằng Hà) của Ấn Độ.
Cửa do chữ phạn Kuala, như cửa biển (embouchure, estuaire, portuaire), như Hà Tiên ngày xưa dân Miên gọi là Kual, người Bồ Đào Nha viết là Coal trong các du ký, còn người Tàu nối gót Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ thì viết là Cảng khẩu quốc, còn người Tây Phương như Pháp thì viết là "Royaume de Cancao".
Văn tự
Trong địa hạt Văn tự, qua các Tôn giáo như Phật Giáo từ Ấn Độ truyền sang và Khổng Giáo từ Trung Quốc tràn xuống, dân tộc Lạc Việt đã sớm tiếp dùng ít nhất là hai (2) thứ chữ khác nhau:
Mường ngữ và Hán ngữ.
Văn tự mà các nhà nhân chủng học gọi là Mường ngữ, tương tợ các thứ chữ của Miên, Lào và Thái, gốc chữ phạn (sanscrit) hoặc là chữ Pali, còn xa xưa hơn. Người xưa gọi là Khoa đẩu văn (văn vẽ như đuôi nòng nọc), mà người Pháp gọi là "écriture en queue de têtard", cũng có người gọi là chữ cung quăn (larves de moustiques).
Để chứng minh điều này, chúng ta sẽ đưa ra quyển sách "Thanh Hóa Quan Phong" mà tác giả là cụ Vương Duy Trinh, Tổng Đốc Thanh Hoá, hồi đầu thế kỷ XX. Sách này trình bày Địa lý, Nhân văn, Phong tục, Thi ca bình dân trong vùng này, xưa kia gọi là Ái Châu, với nhiều truyện tích, ca dao, ngạn ngữ bằng tiếng Mường của người Mường, mà các nhà bác học gọi là "Tiền Việt" và người Tây Phương gọi là "Proto-Vietnamiens".
Nhờ sách đó mà chúng ta được biết Mường ngữ gồm có 35 chữ cái, viết theo lối "loan phụng khoa đẩu", như dấu chân chim loan phụng và nòng nọc, cung quăng.
Năm 1953, nhân được Chính phủ Quốc Gia cử vào trấn nhậm hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận, Nha Trang và Phan Rang, trong những lúc đi hành hạt, chúng tôi đã cố gắng học hỏi thêm các thứ ngôn ngữ Chiêm Thành và Đồng bào Thượng, phần lớn thuộc về ngôn ngữ Á-Úc (langues austro-asiatiques), mà ngữ pháp phần nhiều được sắp xếp ngược lại với ngữ pháp của Trung Quốc. Nghĩa là tính từ nằm sau danh từ (le substantif précède le qualificatif), nói một cách khác: định từ đi sau bị-định-từ (le déterminant suit le déterminé).
Ví dụ như người Tàu nói: thanh thiên, bạch nhựt, cô nhi quả phụ, còn người Việt-Mường và phần nhiều các Dân tộc thiểu số Đông Dương thì nói: trời xanh, ngày trắng, mẹ goá con côi. Đó là những ví dụ cụ thể giúp chúng ta phân định rõ ràng: Người Lạc Việt và phần lớn Đồng bào thiểu số không phải là người Tàu, mà đó là những sắc dân trong Đại tộc Bách Việt, theo đúng truyền thuyết Trăm trứng (100) sinh nở ra Trăm con đã rải rác đồng đều trên lãnh thổ và các quần đảo khắp vùng Đông Nam Á.
Trong những chuyến đi "thăm dân cho biết sự tình", theo lời nói bất hủ của ký giả khả kính Vũ Bằng, tôi có để ý ba việc:
1. là danh từ kép "Khoa đẩu văn" có ghi khắc trên một tấm bia đá dựng nơi đền tháp Poh Ino Nogar, do cụ Phan Thanh Giản biên soạn năm 1856 (Tự Đức năm thứ 9), kể rõ sự tích của Thiên Y Ana Thánh Mẫu, vết tích rõ ràng và "rành rành như canh lá hẹ".
Ấy thế mà có một Giáo sư Pháp, rất giỏi Hán Văn và nói rành tiếng Việt, cứ nói ép với tôi rằng chữ Tàu là "Khoa đẩu văn" đó, vì chữ Tàu cũng có hình dáng "đuôi nòng nọc". Tôi đành ngậm mà nghe, vì tôi đang thi cử với lều chõng nghênh ngang, không tiện "đương dương trường bản"!
2. là lúc lên Cao nguyên, theo dấu chân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ ở làng An Tây, nơi giáp giới Bình Định và Pleiku, xuyên qua nhiều sông ngòi và đèo cao, rừng rậm, tôi đã tìm thấy sắc tộc Cà Lơ (Khả Lũ) chuyên dùng cách đếm bằng những sợi dây nhiều màu, có làm gút nút, giống như Kipu của các sắc dân Maya và Aztèque miền Trung Mỹ và Nam Mỹ thời tiền Kha-Luân-Bố (Amérique pré-colombienne).
3. là dân Cao nguyên thiểu số ưa dùng danh từ Poh có nghĩa là Lãnh chúa, là vua, cũng giống như người Việt và người Mường vùng Bắc Trường Sơn và cả vùng Bình-Trị-Thiên ưa dùng chữ Bua trong danh từ kép việc bua quan, tức là việc vua quan, việc hành chánh, tương đối với việc dân gian, việc dân dã.
Comment