Chữ Nhẫn trong hôn nhân
Cao Huy Thuần
chutluulai" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Hôm nay là lễ thành hôn của hai cháu. Hai cháu sắp đeo nhẫn cho nhau. Tập tục cưới hỏi gần đây đồng hoá chiếc nhẫn với chữ “nhẫn”, bác muốn nhân dịp này nói với hai cháu về chữ “nhẫn” trong Phật giáo để hai cháu phân biệt với chữ “nhẫn nhục” mà xã hội thường dùng qua cách giảng của Nho gia ngày trước.
……
Nỗ lực chịu đựng của Câu Tiễn không phi thường đến mức ấy nhưng chừng đó cũng đủ để sử sách ghi lại một tấm gương nhẫn nhục đáng soi. Một mình ông đủ để thách thức bất cứ ai dám nói nhẫn nhục là thụ động. Nhưng nhẫn nhục của nhân vật lịch sử này khác xa nhẫn nhục của Phật giáo và không nên lấy ông làm lý tưởng cho chiếc nhẫn cưới. Cũng như không nên và không thể sống chung với nhau theo quan niệm cuộc đời cho gì hưởng nấy và sẵn sàng chịu đựng gãy chân với nhau. Cả hai thái độ sống ấy nên ngừng lại nơi ngưỡng cửa, không có ích gì cho đời sống lứa đôi. Chiếc nhẫn của hai cháu mang một ý nghĩa khác, thích hợp với hạnh phúc gia đình, giản dị, cụ thể. Đó là ý nghĩa mà Phật giáo mang lại.
Trong Phật giáo, bước đầu của nhẫn nhục là dẹp bỏ sân hận, giận dữ trong lòng. Gặp người mắng nhiếc, ác hại, tuy ta đủ sức đáp trả, thân vẫn không đối phó bằng bạo lực, miệng vẫn không thốt ra lời hung ác, nhưng cốt nhất là ý không để bùng lên sân giận. Tại sao? Vì nhiều lẽ, nhưng cụ thể nhất là trong các phiền não, giận là nặng nhất. Nặng đến nỗi Phật phải nói lên bài kệ:
Giết giận, tâm an ổn
Giết giận, tâm không hối
Giận là gốc của độc
Giận diệt mọi điều thiện
Giết giận, chư Phật khen
Giết giận thì không buồn
Làm sao giết giận, làm sao dẹp sân hận không cho bùng lên trong ý? Kinh sách nói nhiều lắm, nhưng tựu trung không ngoài công năng vận dụng trí tuệ và từ bi. Khoan nói đến trí tuệ, hãy nói từ bi mà thôi, hạnh nhẫn nhục trong Phật giáo đã khác xa cách hiểu thông thường rồi. Trong tâm của người thực hiện nhẫn nhục, thật sự chỉ có một lòng thương xót mà thôi, thương cả người làm nhục mình. Tất nhiên đó là lý tưởng, lý tưởng của những bậc mà Phật giáo gọi là Bồ-tát, nhưng đó là lý tưởng mà ai cũng có thể noi theo, dù chỉ thực hiện được một đôi phần, nếu muốn tránh phiền muộn. Trên mặt lý tưởng, lòng thương của Bồ-tát rộng lớn đến nỗi không còn cả sự phân biệt giữa người làm nhục và người chịu nhục, cả nỗi nhục cũng không còn. Đó là điều khác xa với Câu Tiễn, Hàn Tín: Hai vị này thấy nhục, ức đến tận cổ, nhưng nuốt nhục để nuôi chí phục thù, và nuốt như vậy hàng ngày, hàng giờ, suốt tháng, quanh năm, cả chục năm, không phút nào quên, cả trong giấc ngủ, sống chỉ để trả cái nhục. Tâm của Bồ-tát không thế, không thấy nhục, chỉ một lòng thương. Bồ-tát làm chủ cái nhục. Cái nhục làm chủ họ Câu, họ Hàn. Nói cho cùng, điều mà ai cũng nên học nơi Bồ-tát là tự mình làm chủ cái tâm mình, không cho tâm xao động, dù trước sóng gió ở bên trong hay sự việc bên ngoài. Vì vậy, trong Phật giáo, chữ “nhẫn nhục” không phải chỉ áp dụng cho “nhục” mà cho cả những ngợi khen, tâng bốc, ca tụng, nghĩa là những điều thích thú. Ngài Long Thọ giải thích: Có hai hạng người đến với Bồ-tát, một là hạng người đến cúng dường cung kính, hai là hạng người đến mắng hại. Không giận những người mắng ác đã đành, Bồ-tát cũng không yêu hạng người cúng dường cung kính. Tại sao? Tại vì hạng người ấy làm cho tâm ưa đắm: đó là thứ giặc mềm. Với hạng người đó, Bồ-tát phải quán: không đắm, không yêu. Vậy thì đâu có phải vì sợ hãi, khiếp nhược mà ta phải nhẫn? Nhẫn là tâm không động đối với cả ham thích. Bồ-tát “không” với cả hai, không sợ cũng không đắm, cho nên vượt tất cả khổ ách.
Tình thương của Bồ-tát có phải cao xa quá đối với người đời không? Câu trả lời là: có phải chúng ta có thể sống mà không cần lý tưởng chăng? Có phải xã hội có thể tồn tại nếu con người chỉ sống với nhau dưới luật ăn miếng trả miếng? Cụ thể hơn nữa, hai cháu có thể lập gia đình với nhau mà chỉ biết thương mình chứ không biết thương nhau? Và thương nhau là gì, nếu không biết quên mình? Và quên mình thế nào được, nếu không biết làm chủ cái tâm, làm chủ xung động? Làm chủ xung động sao nổi, nếu không luyện chữ nhẫn? Đám cưới chính là lúc hai người học chữ nhẫn với nhau, học một cách cụ thể, học thường ngày, để hiểu rằng lý tưởng không phải cái gì xa vời, nó nằm ngay nơi bước chân hàng ngày của mình đi tới.
Cao Huy Thuần
……
Nỗ lực chịu đựng của Câu Tiễn không phi thường đến mức ấy nhưng chừng đó cũng đủ để sử sách ghi lại một tấm gương nhẫn nhục đáng soi. Một mình ông đủ để thách thức bất cứ ai dám nói nhẫn nhục là thụ động. Nhưng nhẫn nhục của nhân vật lịch sử này khác xa nhẫn nhục của Phật giáo và không nên lấy ông làm lý tưởng cho chiếc nhẫn cưới. Cũng như không nên và không thể sống chung với nhau theo quan niệm cuộc đời cho gì hưởng nấy và sẵn sàng chịu đựng gãy chân với nhau. Cả hai thái độ sống ấy nên ngừng lại nơi ngưỡng cửa, không có ích gì cho đời sống lứa đôi. Chiếc nhẫn của hai cháu mang một ý nghĩa khác, thích hợp với hạnh phúc gia đình, giản dị, cụ thể. Đó là ý nghĩa mà Phật giáo mang lại.
Trong Phật giáo, bước đầu của nhẫn nhục là dẹp bỏ sân hận, giận dữ trong lòng. Gặp người mắng nhiếc, ác hại, tuy ta đủ sức đáp trả, thân vẫn không đối phó bằng bạo lực, miệng vẫn không thốt ra lời hung ác, nhưng cốt nhất là ý không để bùng lên sân giận. Tại sao? Vì nhiều lẽ, nhưng cụ thể nhất là trong các phiền não, giận là nặng nhất. Nặng đến nỗi Phật phải nói lên bài kệ:
Giết giận, tâm an ổn
Giết giận, tâm không hối
Giận là gốc của độc
Giận diệt mọi điều thiện
Giết giận, chư Phật khen
Giết giận thì không buồn
Làm sao giết giận, làm sao dẹp sân hận không cho bùng lên trong ý? Kinh sách nói nhiều lắm, nhưng tựu trung không ngoài công năng vận dụng trí tuệ và từ bi. Khoan nói đến trí tuệ, hãy nói từ bi mà thôi, hạnh nhẫn nhục trong Phật giáo đã khác xa cách hiểu thông thường rồi. Trong tâm của người thực hiện nhẫn nhục, thật sự chỉ có một lòng thương xót mà thôi, thương cả người làm nhục mình. Tất nhiên đó là lý tưởng, lý tưởng của những bậc mà Phật giáo gọi là Bồ-tát, nhưng đó là lý tưởng mà ai cũng có thể noi theo, dù chỉ thực hiện được một đôi phần, nếu muốn tránh phiền muộn. Trên mặt lý tưởng, lòng thương của Bồ-tát rộng lớn đến nỗi không còn cả sự phân biệt giữa người làm nhục và người chịu nhục, cả nỗi nhục cũng không còn. Đó là điều khác xa với Câu Tiễn, Hàn Tín: Hai vị này thấy nhục, ức đến tận cổ, nhưng nuốt nhục để nuôi chí phục thù, và nuốt như vậy hàng ngày, hàng giờ, suốt tháng, quanh năm, cả chục năm, không phút nào quên, cả trong giấc ngủ, sống chỉ để trả cái nhục. Tâm của Bồ-tát không thế, không thấy nhục, chỉ một lòng thương. Bồ-tát làm chủ cái nhục. Cái nhục làm chủ họ Câu, họ Hàn. Nói cho cùng, điều mà ai cũng nên học nơi Bồ-tát là tự mình làm chủ cái tâm mình, không cho tâm xao động, dù trước sóng gió ở bên trong hay sự việc bên ngoài. Vì vậy, trong Phật giáo, chữ “nhẫn nhục” không phải chỉ áp dụng cho “nhục” mà cho cả những ngợi khen, tâng bốc, ca tụng, nghĩa là những điều thích thú. Ngài Long Thọ giải thích: Có hai hạng người đến với Bồ-tát, một là hạng người đến cúng dường cung kính, hai là hạng người đến mắng hại. Không giận những người mắng ác đã đành, Bồ-tát cũng không yêu hạng người cúng dường cung kính. Tại sao? Tại vì hạng người ấy làm cho tâm ưa đắm: đó là thứ giặc mềm. Với hạng người đó, Bồ-tát phải quán: không đắm, không yêu. Vậy thì đâu có phải vì sợ hãi, khiếp nhược mà ta phải nhẫn? Nhẫn là tâm không động đối với cả ham thích. Bồ-tát “không” với cả hai, không sợ cũng không đắm, cho nên vượt tất cả khổ ách.
Tình thương của Bồ-tát có phải cao xa quá đối với người đời không? Câu trả lời là: có phải chúng ta có thể sống mà không cần lý tưởng chăng? Có phải xã hội có thể tồn tại nếu con người chỉ sống với nhau dưới luật ăn miếng trả miếng? Cụ thể hơn nữa, hai cháu có thể lập gia đình với nhau mà chỉ biết thương mình chứ không biết thương nhau? Và thương nhau là gì, nếu không biết quên mình? Và quên mình thế nào được, nếu không biết làm chủ cái tâm, làm chủ xung động? Làm chủ xung động sao nổi, nếu không luyện chữ nhẫn? Đám cưới chính là lúc hai người học chữ nhẫn với nhau, học một cách cụ thể, học thường ngày, để hiểu rằng lý tưởng không phải cái gì xa vời, nó nằm ngay nơi bước chân hàng ngày của mình đi tới.
Trích từ tạp chí Văn Hoá Phật Giáo số 68
Comment