• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Những Nét Văn Hóa Của Ðạo Phật -TT. Thích Phụng Sơn

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Những Nét Văn Hóa Của Ðạo Phật -TT. Thích Phụng Sơn

    Những Nét Văn Hóa Của Ðạo Phật

    Trung Tâm Văn Hóa – Chùa Việt Nam


    TT. Thích Phụng Sơn
    1. Vài Lời Thưa

    Những bài viết trong tập sách này chỉ là một cố gắng nhỏ bé nhằm trình bày những đóng góp của Phật giáo vào nền văn hóa nhân loại. Hiện nay ở các nước Âu châu, Úc châu và Mỹ châu người ta đã bước qua giai đoạn tìm hiểu tư tưởng và sinh hoạt Phật giáo. Rất nhiều người đã tham dự vào các chương trình tu tập cùng thưởng thức các nét đẹp của nền văn hoá Phật giáo qua các sinh hoạt thiền quán, hoa đạo, trà đạo, vườn cảnh cùng các sinh hoạt khác mà các dân tộc Á châu mang đến các xã hội Tây Phương.
    Một trong các chân lý mà đạo Phật nhấn mạnh đó là tính cách thường hằng giữa mọi cái vô thường, cái không bao giờ thay đổi giữa những sự thay đổi tiếp nối nhau cho đến vô cùng. Cái không bao giờ thay đổi vốn bao la như vũ trụ, trong sáng, tĩnh lặng, không có bắt đầu và tận cùng. Ðó là chân tâm, Phật tánh, là tâm chân thật nơi mỗi chúng ta. Tâm này không có bắt đầu và không có tận cùng, không có sinh ra rồi chết đi, bao la cùng khắp cho nên không có đến từ đâu và đi về đâu, vừa tĩnh lặng vô cùng mà vừa linh động kỳ diệu nên được gọi là tịch và chiếu. Nơi loài vật và thiên nhiên, tánh rỗng lặng, trong sáng, tinh sạch, tỏa chiếu ấy vẫn có nên gọi Phật tánh có mặt ở mọi loài và mọi thú. Tánh chân thật tự nhiên ấy được gọi là Pháp Giới Tánh hay là tánh của vạn pháp trong thế giới chân thật. Ðó là thế giới của cái tuyệt đối hay là Lý.
    Mọi sự vật đều bị hạn chế trong không gian và thời gian và có tính vô thường. Tánh thay đổi hay vô thường đó là một tiến trình tự nhiên, miên viễn của mọi sự vật, vạn pháp, trong thế giới hàng ngày ở mọi nơi và mọi chốn. Tất cả mọi sự vật đều được sinh ra, có mặt, hư hao rồi tan rã. Các phần tách lìa này khi hết duyên kết hợp với nhau lại trở thành nhữnh nhân mới, gặp những yếu tố thuận lợi mới hay là duyên để rồi lại xuất hiện trong một hình thái mới mà đạo Phật gọi là duyên hợp hay duyên khởi. Nếu nhìn các tác động của mọi sự vật, vạn pháp, qua những chuỗi tác động mãi mãi không cùng, trùng trùng điệp điệp thì chúng ta thấy tính cách trùng trùng duyên khởi của vạn pháp. Ðó là thế giới của mọi sự vật trong không gian và thời gian tương đối hay thế giới của Sự.
    Ðiều kỳ diệu của đời sống là cái tuyệt đối, hay Lý, không bao giờ tách lìa cái tương đối, hay Sự. Lý và Sự, cái tuyệt đối và cái tương đối đồng một lúc có mặt với nhau, trong nhau, không hề tách rời, không hề ngăn ngại như nước và sóng trong biển cả. Ðó là thế giới của Lý Sự Viên Dung, là sự hòa hợp tròn đầy giữa tuyệt đối và tương đối. Và điều kỳ diệu hơn nữa là trong thế giới hàng ngày, trong đó có mặt của mọi màu sắc , dáng vóc, âm thanh, mùi, vị, cảm xúc cùng các ý tưởng, tâm tư, tất cả đều trong sáng, rỗng lặng, yên ổn trong các thay đổi, tác động, chuyển biến thuận nghịch vô cùng vô tận. Ðó là thế giới của Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, là thế giới của mọi thứ cùng có mặt bên nhau mà không ngăn ngại nhau. Ðó là thế giới của tâm giác ngộ hay của tâm ở trong trạng thái tự do tuyệt vời, siêu vượt lên mọi sự đối chọi của các sự khác biệt.
    Các nét đẹp của nền văn hóa Phật giáo sáng rực trong cái Lý, trong cái Sự, trong Lý Sự Viên Dung và trong Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới đó. Thật ra, cái đẹp kỳ diệu ấy không giới hạn trong một nền văn hóa của một dân tộc hay nhiều chủng tộc, trong một nền văn hoá của đông hay tâỵ Cái kỳ diệu đẹp đẽ bao la ấy ở mọi nơi, mọi chốn.
    Thấy được cái thiên thu vĩnh cữu nơi một chiếc lá ngô đồng rực rỡ vừa rụng xuống trên bãi cỏ xanh, nhìn những cánh bướm yên lặng bất động nơi các con bướm bay lượn chập chờn quanh những đóa hoa xuân tươi thắm vừa chớm nở, bắt gặp được nét mặt an bình và nụ cười thầm lặng sâu thẳm như nét mặt và nụ cười của một tượng Phật cổ trong một ngôi chùa tĩnh mịch, xa cách trần gian nơi khuôn mặt của một thanh niên đang hoạt động náo nhiệt giữa chốn phố phường, nghe được cái tĩnh lặng vô cùng trong những âm thanh vang dội, an ngự trong sự bình an tỏa chiếu giữa mọi sự quay cuồng, náo nhiệt, chuyển biến, thương yêu hay ghét bỏ. Với đôi bàn tay trần, cầm đóa hoa tỏa đầy hương thơm cùng màu sắc rực rỡ của thiên thu vĩnh cữu trong một phút giây ngắn ngủi.
    Ðó là sự tự do cao vút nhất và cũng là sâu thẳm nhất, đó là niềm hạnh phúc bao gồm cả đất trời, mênh mông, vô tận, không có bắt đầu và tận cùng, đó là sự chân thật diễn ra từng giây phút nơi đây và mọi chốn. So với sự chân thật của cuộc đời ấy, những điều trình bày trong tập sách nhỏ bé này chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ mênh mông.
    Trong hạt bụi nhỏ bé đó tràn đầy sự biết ơn bao la như bầu trời rộng lớn. Chúng tôi xin thành kính tri ân sự đóng góp quý báu của hai đạo hữu Phạm Bá Trung và Phạm Thị Kiều Nga đã bỏ rất nhiều thời giờ để trình bày quyển sách này, Thầy Viện Chủ Trung Tâm Phật Giáo Việt Nam Thích Nguyên Hạnh ở Houston, Texas, đã khuyến khích cùng đề nghị nhiều điều làm cho quyển sách này được tốt đẹp hơn, đạo hữu Ngô Văn Khán đã đọc lại giùm bản thảo cùng vận động tài chính để in và quý vị đã đóng góp để ấn tống tập sách nhỏ nàỵ Chúng tôi cũng xin cám ơn ông Châu Văn Thọ đã duyệt lại bản thảo trước khi in và ông giám đốc Kim Ấn Quán đã giúp cho quyển sách này được in đúng thời hạn.
    Chúng tôi xin hướng về các trẻ em nghèo khổ, các người bệnh tật cùng quý vị Tăng Ni và cư sĩ đang hoạt động để giúp đỡ họ bên quê nhà chấp tay dâng lời cảm tạ và cầu nguyện. Chính sự quen và biết quý vị cùng thấy rõ sự hy sinh lớn lao của quý vị cho những đồng bào nghèo khổ và bệnh tật là một khích lệ lớn lao cho chúng tôi thực hiện việc in tập sách này như một món quà nhỏ bé kính dâng Quý Thầy, Cô cùng các bạn nam nữ Phật tử đang tham dự các công tác Phật sự cũng như xã hội tại quê nhà.
    Chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn các tác giả những bức ảnh chụp về trà đạo và vườn thiền do Sở Thông Tin Nhật Bản phổ biến, tác giả bức ảnh tượng Phật ở Bảo Tàng Viện Victoria và Albert, ảnh chụp của Zena Flax về một cộng đồng Phật Giáo ở Anh Quốc, tác giả chụp lại các bức cổ họa Trung Hoa và Nhật Bổn và các bức hình khác cùng hình vẽ các vị Phật và hình thường được in trên những tạp chí Phật giáo mà không có ghi tên tác giả.
    Trong các bài viết, chúng tôi thỉnh thoảng có thêm một vài chữ tiếng Anh để các bạn trẻ không quen nhiều vói tiếng Việt nhận biết rõ ràng hơn theo lời đề nghị của quý vị phụ huynh hay chính các bạn trẻ đó.
    Cuối cùng, chúng tôi thành kính tri ân quý vị Thầy và Cô Việt Nam đã không hề khó nhọc trong bao năm qua, lặng lẽ truyền bá lời dạy của Ðúc Phật về con đường an vui và hạnh phúc chân thật cho mọi người.

    Phật Lịch 2537
    Ðệ tử Thích Phụng Sơn Cẩn Bái
    Xuân Quý Dậu - 1993


    2. Lời Giới Thiệu

    Sức sống của một nền Ðạo lý Từ Bi, Trí Tuệ như Ðạo Phật thì chỉ có thể là sức sống văn hóa. Bởi vì, chỉ trên bình diện văn hóa, hoặc ở nhữnh hình thái sống động của đời sống hoặc thâm trầm trong tâm hồn con người, nguồn suối Từ Bi, Trí Tuệ mới có thể thẩm thấu, chan hoà như đã thẩm thấu, chan hoà trong đời sống và tâm hồn của phần lớn các dân tộc Á Ðông.
    Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Ðạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người. Văn hóa như nước, yếu mềm là thế mà lại không có kiếm đao nào chặt gảy thành từng khúc được. Chính vì vậy mà, nhìn trên bề mặt những cơ cấu, tổ chức, rất nhiều khi tưởng như Ðạo Phật chẳng còn đâu sức sống trước những tác động tiêu cực của thời thế nhưng với chút lòng mẫn cảm với những lắng đọng xâu xa ở đời sống thì lại thấy Ðạo Phật vẫn sống nguyên vẹn đó như chưa từng chết đi.
    Sức sống văn hóa của Ðạo Phật ấy – như chính bản chất Từ Bi, Trí Tuệ của Ðạo Phật – có thể không tạo nên những công trình vĩ đại cao kỳ của một nền văn hóa xa hoa mang đầy tính cách phù phiếm, bất chấp mọi nỗi thống khổ của hiện sinh; cũng có thể không có sức quyến rũ mãnh liệt như nền văn hóa vật chất ngày nay đang lấy dục vọng làm nguồn năng lực kích động cho nó. Nhưng sức sống văn hóa của Ðạo Phật ấy đã có thể tạo nên được những tâm hồn bình dị trong lành, những nếp sống an hòa tươi mát; ở đó, vũ trụ thiên nhiên và con người hòa điệu với nhau và cùng biểu lộ cái đẹp thuần khiết, chân thực nhất của chúng. Cũng ở đó, con người – trong hòa điệu với vũ trụ thiên nhiên – có thể sống được cái giây phút vĩnh cữu của đời sống mong manh này, cái giây phút vượt ra ngoài mọi biên tế chia lìa mà đầu óc xung động bất toàn của con người luôn tạo ra. Một bình hoa mang Ý Ðạo. Một tách trà trong chốn thinh lặng của Thiền. Một hòn đá tảng đơn độc giữa chốn thành quách cỏ cây ngậm ngùi sương gió. Một lời kinh tụng thức tĩnh con người trổi dậy đối mặt với nỗi-sống-chết thiêng liêng của chính mình… Tất cả đó, như có cái gì bất động giữa không ngừng lay động, cái gì lặng lẽ vô ngôn giữa thanh âm vang động miên man. Tất cả đó, nghệ thuật của Ðời Sống đi vào cõi Ðạo hay ngược lại, Ðạo thấm nhuần vào trong cõi Sống. Trong một ý nghĩa nào đó, ta có thể nói, giữa biển đời trầm luân sóng gió này, sống mà như thế là Sống Ðạo; và mặt khác, giữa những hình thức lễ nghi tế toái của tôn giáo, Ðạo mà như thế thì thực là Ðạo sống vậỵ
    Sống Ðạo là sống văn hóa trog ý nghĩa đẹp nhất của nó. Và Ðạo Sống chính là Ðạo như nguồn sống văn hóa nàỵ Tôi tin là bạn đọc có thể thấy được cả hai trong tác phẫm “Những Nét Văn Hóa của Ðạo Phật” ở đâỵ
    Giữa lúc Ðạo Phật Việt Nam đang bị chìm ngập vào một hoàn cảnh khắc nghiệt của thời thế và vào những hình thái sinh hoạt tín ngưỡng nhiều khi không còn khế hợp với cảm xúc của con người ngày nay, tác phẫm này ra đời là một đóng góp thiết thực. Càng thiết thực hơn khi chúng ta có thể có những công trình đề cập đến những đóng góp của Ðạo Phật trong văn hóa dân tộc qua lịch sử nhưng thực là hiếm hoi để có một tác phẩm nói đến văn hóa của Ðạo Phật như một thực tại sống động của đời sống con-người-ở-đây-và-bây-giờ như tác phẩm nàỵ
    Chính tính cách thiết thực đó mà tôi xin được giới thiệu tác phẩm này đến bạn đọc mười phương với tất cả tấm lòng trân trọng tác phẩm và biết ơn tác giả.
    Houston, mùa Phật Ðản 2537
    Thích Nguyên Hạnh

    [url="http://www.quangduc.com/vanhoa/09netvanhoa1.html"][SIZE=2][COLOR=black]Error - 404
    Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......
    Similar Threads
  • #2

    3. Ðức Phật Và Giáo Lý Giải Thoát

    Ðức Phật đản sinh vào 566 năm trước Tây Lịch và nhập Niết Bàn vào năm 468 trước Tây Lịch. Nước Ấn Ðộ lúc bây giờ theo Bà La Môn Giáo (Brahmanism) chủ trương Thần Phạm Thiên (Brahman, còn dược gọi là Ðại Ngã hay Thượng Ðế) là ngưồn gốc của mọi sự vật. Mỗi sinh thể, như con người, đều có một Tiểu Ngã (Atman). Ðại Ngã và Tiểu Ngã là cùng bản tánh. Tiểu Ngã tu tập để trở thành trong sạch hầu trở về với Ðại Ngã (Brahnan), tùy theo mức độ tâm linh mà mỗi người khi sinh ra thuộc vào các giai cấp khác nhau: giai cấp Bà La Môn, quý tộc hay võ tướng, thương gia hay cùng đinh. Trên nguyên tắc, xã hội Ấn Ðộ chia con người ra thành bốn giai cấp. Trên thực tế, mỗi giai cấp lại phân chia thành hàng chục giai cấp nhỏ hơn. Sự liên hệ mật thiết của những người khác giai cấp với nhau, tạo nên sự ích kỷ, áp bức, kỳ thị của các nhóm giai cấp trên đối với các giai cấp bị xem là thấp kém. Sự ác độc của sự kỳ thị sai lầm này tại Ấn Ðộ được chính thức ghi thành luật lệ sau này như nếu một người thuộc giai cấp hạ tiện tình cờ nghe lời tụng đọc các thánh thư Bà La Môn giáo thì người đó bị đổ chì nóng chảy vào tai để trừng phạt.
    Trong hoàn cảnh bế tắc của hệ thống tư tưởng và tổ chức xã hội cứng ngắc ấy, có nhiều chủ trương phải tìm lối thoát khỏi sự nhàm chán của đời sống bằng cách tận hưởng các dục lạc. Có kẻ khác lại cho cuộc sống trên thế gian này thật là vô vọng, ghê tởm đời sống của cả thân xác mình, tìm cách tu khổ hạnh, ép xác hay hành hạ thân xác để mong sau khi chết có thể được sinh về chốn thiên đàng an vui. Ðó là hai chủ trương cực đoan trong nhiều chủ trương khác nhau lúc bấy giờ.

    I.Trí Tuệ Hay Sự Thấy Biết Chân Thật

    Ðức Phật thấy rõ hoàn cảnh xã hội và tâm linh bế tắc đó. Ngài muốn tìm lời giải đáp chân thật không dựa trên sự suy luận, cảm xúc hay niềm tin không căn cứ. Do đó, sau sáu năm tu tập trong rừng và bốn mươi chín ngày thiền định dưới cội bồ đề, Ngài đã đại ngộ, nhìn thấu rõ mọi sự vật (vạn pháp) trong vũ trụ như sau:
    _Sự thấy biết mọi sự kiện trong vũ trụ và đời sống con người một cách chân thật (như thực tri kiến) xuất hiện tự nhiên khi ta không còn dính mắc với các ý tưởng đối nghịch, mâu thuẩn làm khơi dậy lòng ham muốn, giận dữ, thù hận, v.v.. đưa đến xáo trộn và khổ đau.
    _Chủ trương tận hưởng dục lạc hay sống đời khổ hạnh, hành hạ thân xác mình, chỉ là hai cực đoan của sự trốn chạy cuộc sống. Sống là sống hạnh phúc vì hạnh phúc vốn là tánh tự nhiên, chân thật hay là Phật tánh có sẵn nơi mỗi chúng ta. Khi ta sống tỉnh thức với sự chú tâm tự nhiên, với sự thấy biết trực tiếp không lựa chọn (trực thức vô trạch) mọi sự kiện, thì mọi sự vật đều hiện ra một cách chân thật, trong sáng, tràn đầỵ Các sự xáo trộn, mâu thuẩn, xung đột do sự thấy biết sai lầm tan biến. Tâm ta quay về với sự trong sáng tự nhiên của nó, với niềm hạnh phúc bao la tràn đầy.
    Thực hành lối sống an lành và hạnh phúc đó là sống Trung Ðạo, đi ở giữa, tránh hai cái cực đoan sai lầm nói trên. Ðó cũng chính là sống đời giải thoát hay giác ngộ.
    _Do đó, con người không cần phải hy sinh cho một ước mơ được sung sướng trong thiên đàng mai sau mà quên đi cuộc sống hiện tại, nhưng cũng không đắm mình vào khoái lạc vật chất để tìm kiếm sự thỏa mãn dục lạc mãi không ngừng. Sự khổ hạnh, ép xác để mong lên thiên đàng cùng sự hưởng thụ vật chất theo chủ nghĩa khoái lạc đều làm cho tâm trí mê mờ và thân xác mệt mõi. Người thực hành đạo giác ngộ sống hạnh phúc nơi Trung Ðạo, tức là ở giữa hai cái cực đoan sai lầm của chủ trương khổ hạnh hoặc hưởng lạc nói trên và sống an vui thoải mái với sự hiểu biết chân thật trong đời sống hàng ngàỵ
    _Sự hiểu biết chân thật đó không qua lý luận viễn vông mà qua kinh nghiệm tâm linh: tánh tự nhiên của mỗi chúng ta là chân tâm hay Phật tánh. Tánh ấy vốn không có bắt đầu và tận cùng (bất sanh bất diệt), rộng lớn bao la, trong sáng an vui, tràn đầy tình thương yêu (từ bi) và sự hiểu biết chân thật (trí huệ). Chân tâm hay Phật tánh nơi mỗi chúng ta luôn luôn rỗng lặng, tinh sạch, trong sáng, linh động, tràn đầy đồng thời rộng lớn bao la nên không có một cái gì gọi là Tiểu Ngã (Atman), một cái tôi nhỏ bé cần phải thanh lọc dần dần trở về với Ðại Ngã (Brahman hay là Thượng Ðế)
    _Sống đời an vui giác ngộ ngay trong cuộc đời này là chúng ta sống với tâm hiểu biết chân thật: thấy biết rõ ràng mọi thứ, mọi hiện tượng nhưng tâm buông xả, không dính mắc vào các ý tưởng phân biệt như hay dở, tốt xấu, làm khơi dậy các tình cảm như vui buồn, thương ghét, thân thù thì tâm luôn luôn tĩnh lặng. Cái tôi (ngã) mà lâu nay ta luôn luôn bảo vệ, đề cao chẳng qua là sự tiếp nối không ngừng của các ý tưởng và cảm xúc đó. Các ý tưởng và cảm xúc giờ đây lắng dịu thì cái tôi nhỏ bé (ngã) cũng tan biến nên ta trực nhận cái tôi ấy (ngã) vốn rỗng lặng (không) hay vô ngã. Các ý tưởng và cảm xúc thường là các đám mây che mờ chân tâm, Phật tánh luôn luôn tỏa sáng nơi ta. Mây tan đi thì mặt trời chiếu sáng, sự mê mờ (vô minh) tan đi thì chân tâm, Phật tánh, niềm hạnh phúc trong sáng bao la tràn đầy nơi ta.
    _Tánh cách vô ngã hiện hữu nơi mọi sự vật. Mọi sự vật hiện hữu do nhiều thứ họp lại. Chúng ta có thể lấy ví dụ như một chiếc xe hơi do sự kết hợp của sườn, mui, máy, bình xăng, dây điện, cảng xe, việc làm người thợ, dự án của kỹ sư, quyết định sản xuất của các chủ hảng, các vật liệu do các hảng khác cung cấp, v.v… Chiếc xe có mặt là do nhiều thứ trên hợp lại mà thành. Nó không tự có mặt và không có cá tánh riêng biệt. Nếu các yếu tố hợp lại thành chiếc xe thay đổi thì nó thay đổi theo. Như mỗi năm hảng sản xuất thay đổi hình dáng, máy móc, mầu sơn để hấp dẫn khách hàng thì mỗi năm xe (cùng một hiệu) đổi mới liên tục. Cùng một hiệu xe như Mercedes, Ford hay Toyota Celica nhưng tùy theo các yếu tố hợp lại thành chiếc xe theo năm sản xuất, chúng hoàn toàn khác nhau về màu sắc, hình dáng, máy móc, sự bền bĩ. Cùng một tên gọi nhưng chúng hoàn toàn khác nhau về phẫm chất cũng như hình dáng. Tuy nhiên, chúng ta có thói quen thường gán cho (hay yên chí) là mọi sự vật có tánh riêng biệt và không thay đổi trong khi mọi sự vật đều thay đổi. Sự thay đổi không ngừng đó gọi là vô thường.
    _Sự thay đổi đó xảy ra từng giây phút một. Lấy lại ví dụ chiếc xe, như khi nói đến chiếc xe của ta thì ta có một hình ảnh cố định về chiếc xe ấỵ Kể từ khi mua xe cho đến nay, ta đã thay các bánh xe mới, bộ thắng mới, bình điện mới, bình lọc dầu mới, ống lọc xăng mới, nước sơn không còn bóng như trước và khung xe đã bắt đầu có chỗ rỉ sét.
    Các bộ phận kết hợp thành chiếc xe (sinh), chiếc xe tồn tại một thời gian (trụ), chiếc xe biến đổi, hư hao (dị), và cuối cùng nó bị tan rã (diệt). Chiếc xe phế thải được kéo vào nghĩa địa xe, người cần các bộ phận đến mua xe về ráp lại vào xe khác. Cuối cùng người ta ép dẹp phần còn lại, chuyển đến các nhà nấu thép, đúc thành các bộ phận xe mới và ráp thành chiếc xe khác.
    _Tính cách sinh diệt, diệt sinh đó là tính cách vô thường của mọi sự vật. Vô thường là các sự vật không tồn tại mãi mãi và luôn luôn biến đổi. Chiếc xe đạp tồn tại độ 10 năm, xe hơi trên 20 chục năm, con người dưới 100 năm, mặt trời độ 10 tỷ năm. Từ một vật thật nhỏ như tế bào trong cơ thể đến một vật lớn như mặt trời luôn luôn chuyển biến qua bốn giai đoạn nhiều vật kết hợp lại thành (sinh), tồn tại một thời gian (trụ), biến đổi và hư hao (dị) cuối cùng là tan rã (diệt), và rồi lại kết hợp để thành các sự vật khác mãi mãi không ngừng. Tính cách vô thường ấy diễn ra mọi nơi mọi chốn, bên trong và bên ngoài chúng ta.
    _Khi đã hiểu rõ tính cách vô thường, vô ngã của các sự vật, chúng ta không còn sợ hãi trước các sự thay đổi, chuyển biến và lòng chúng ta trở nên thoải mái, tâm chúng ta trở nên tỉnh thức hơn trong mối tương quan với người và vật. Ta không nhìn sự vật hay con người theo thói quen máy móc mà ta đã có sẵn ý nghĩ hay hình ảnh về người hay vật đó. Thói quen ấy ngăn cản ta tiếp xúc với thực tại, những gì đang thực sự có mặt trong đời sống.
    Trong mỗi giây phút, mỗi cành lá, đám mây, chiếc hoa, cánh bướm, giòng sông, điệu nhạc, người đàn ông, đàn bà, trẻ em, cục đá, chiếc xe đều hiện hữu hoàn toàn, như thế ấỵ Tất cả đều không dính dáng gì đến các ý tưởng khen chê, phê phán cùng các cảm xúc dấy lên từ sự phê phán ấy làm ta vui, buồn, thương, ghét. Nếu có dịp nhìn sâu vào lòng mình (quán chiếu nội tâm) thì chúng ta sẽ thấy các ý tưởng và các tâm tư lập đi lập lại mãi theo thói quen như sau: điều gì ta nghĩ là hay, tốt thì ta ưa thích, ca ngợi, điều gì ta cho là dở, xấu thì ta ghét bỏ, thù hận hay phỉ báng. Có điều, cái mà ta cho là tốt hay xấu ấy lại thay đổi không ngừng. Hôm nay ta nghĩ nó là tốt thì ngày mai ta có thể chê là xấu, hôm nay ta cho là đúng ngày mai thành ra sai. Do đó mà các vui, buồn, thương, ghét, thân, thù luôn luôn chỗi dậy như các luồn sống mãi mãi nối tiếp trên mặt biển, làm ta chịu nhiều áp lực do sự xung đột bên trong và sự đụng chạm bên ngoài.

    “Thể mọi pháp đều không.
    Không sanh cũng không diệt.”
    Mỗi sự vật đều có mặt tròn đầy
    trong sự rỗng lặng trong ánh sáng của nó.

    _Nếu ta thực hành sự tỉnh thức, sự thấy biết chân thật thì tâm tự buông xả, không để mình dính mắc vào các ý tưởng đối nghịch, các phê phán, các phân biệt luôn luôn kéo đến thì tâm ta an dịu dần như biển không còn gió thổi thì trở nên yên tĩnh. Ðó là sự tỉnh thức đã có mặt nơi ta. Với tâm tỉnh thức ấy ta nhìn mọi sự vật thì chúng đều hiện rõ tánh chân thật của mình: trong sáng, rỗng lặng, tươi mát tràn đầy. Ðó là tánh chân thật tự nhiên, tánh rỗng lặng hay là tánh không của vạn pháp. Thấy biết như thế gọi là sự thấy biết chân thật hay trí tuệ. Như thế, khi tâm ta thanh tịnh thì mọi sự vật (vạn pháp) trở nên thanh tịnh. Khi ta khởi lên sự phân biệt ưa ghét thì lập tức ta phân chia mọi thứ thành hai phía đối ngịch: thân thù, cao thấp, quý tiện, sang hèn, thân sơ, từ đó nổi lên các cảm xúc thương yêu - thù hận, thích thú - sợ hải, thân tình - xa lạ, sung sướng - khổ đau, ưa muốn - ghét bỏ …

    _Sự phân biệt ấy là một thói quen do ta bị điều kiện hóa (conditioned) từ lúc chúng ta sinh ra cho đến nay, làm chúng ta phản ứng như một người máy, một máy đìện toán (computer) đã được qui định cách giải quyết các vấn đề (program) theo một lề lối nhất định. Sự lập đi lập lại các thương ghét, vui buồn ấy dần dần trở thành một thói quen mà ta nhầm tưởng đó là con người thật sự của mình. Sự tỉnh thức, sự chú tâm thoải mái tự nhiên đưa tâm ta trở về với sự tươi mát, linh động, rỗng lặng, tinh sạch, rộng lớn tự nhiên của nó. Từ đó ta nhìn thấy rõ ràng mọi sự vật, thoát ra khỏi mọi sự lôi kéo, ràng buộc, mê hoặc của các ý tưởng, cảm xúc nơi ta hay những người quanh ta. Chúng ta thoát ra được thói quen phản ứng theo điều kiện quy định như cái máy điện tử nói trên.

    _Sống tỉnh thức như thế thì sự hiểu biết chân thật (trí tuệ) tự hiển bày, tự biểu lộ (manifest). Tâm ta tự nó quay về với sự an ổn, thoải mái, trong sáng, rộng lớn, và rỗng lặng của chính nó. Từ chốn ấy, tình thương yêu bao la, nồng ấm (từ bi) bừng dậy. Mọi sự vật trở thành linh động, tươi sáng, yên ổn, tươi mát, khi ta nhìn chúng với con mắt thương yêu: hoa lá rực rỡ, cảnh vật vui tươi, mây trời trong sáng, người vật nhộn nhịp.
    Khi tình thưong yêu bừng dậy thì nguồn hạnh phúc chảy tụ lại thành biển lớn, đưa ta đến chốn an lạc vô cùng.

    Từ đó ta kinh nghiệm được, hiểu biết được một cách cụ thể và trực tiếp là sự hiểu biết chân thật (trí tuệ), tình thương yêu rộng lớn (từ bi) và nguồn hạnh phúc trong sáng, bao la là ba khía cạnh của chân tâm, Phật tánh. Hể một thứ xuất hiện thì hai thứ kia cũng xuất hiện như một bó đuốc lớn cháy rực rỡ không thể tách lìa thành ba ngọn lửa khác nhau.

    Như mặt trời tỏa ra ánh sáng cùng khắp, ánh sáng ấy cũng là năng lượng có sự ấm áp. Ta không thể tách rời ánh sáng và sự ấm áp đó được. Cũng như thế, tình thương yêu bao la, sự hiểu biết chân thật và nguồn hạnh phúc nồng ấm vốn là một, không thể tách lìa. Một thứ có mặt thì hai thứ kia cũng có mặt.

    _Khi tâm quay về với tánh tự nhiên rộng lớn an lạc của nó thì ta trực nhận, thấy biết một cách rõ ràng, cụ thể và chân thật: khổ đau không có thật. Khổ đau là một xa xí phẩm không cần thiết cho đời ta. Khổ đau chẳng khác gì các cay đắng ta thêm vào đời sống ta mà vì mê mờ (vô minh) ta thấy quá buồn chán và tẻ nhạt.

    _Tình thương yêu nồng ấm, trong sáng, bao la (Từ Bi) luôn luôn tỏa sáng rực rỡ nơi ta. Do đó, ta làm các điều tốt đẹp cho đời: giúp đỡ người bị nạn, đói khổ, chăm sóc những kẻ không may. Ðó cũng là sự hiểu biết chân thật (Trí Tuệ), hay biết rõ ràng mọi sự vật vốn vô thường, vô ngã, nên thấy rõ mỗi sự vật đều hiện hữu một cách chân thật tràn đầy, trong sáng và rỗng lặng. Từ bi và trí tuệ cũng chính là suối nguồn hạnh phúc nồng ấm bao la (chân lạc) luôn luôn tỏa đầy, chiếu sáng và có mặt nơi ta.


    _Tình thương yêu rộng lớn, sự thấy biết chân thật và nguồn hạnh phúc trong sáng tràn đầy là tánh tự nhiên có sẳn nơi chúng ta, đó là tánh chân thật tự nó hiện hữu, đó là chân tâm, là Phật tánh, mãi mãi có mặt (chân thường), không chút đổi thay từ giây phút này qua giây phút khác (chân ngã) không có gì làm cho nó trở thành nhơ bẩn, sức mẻ hay mê mờ (chân tánh). Tánh chân thật tự nhiên đó là nguồn an vui kỳ diệu, thâm sâu, tươi mát, linh động, tràn đầy, bất tận (chân lạc). Vì ta vô tình lãng quên nên không nhận biết, không sống với niềm an lạc kỳ diệu có sẳn nơi ta mà thôi.


    4. Thiền Và Hoa Ðạo

    Hoa đã xuất hiện hàng triệu năm trước khi có loài người, tô điểm cho cảnh vật với muôn màu sắc. Và cũng từ lâu hoa có mặt trong cuộc sống loài người: hoa ngoài đồng nội, hoa chưng trên bàn, hoa dâng cúng nơi bàn thờ, hoa ngoài nghĩa trang khi ta thăm viếng người quá cố … Khi vui lúc buồn, khi yêu lúc giận, ăn uống tiệc tùng, lễ lạc tiếp đón, lúc sống cũng như khi qua đời, chúng ta lúc nào cũng thấy mình gắn liền với các đóa hoa tươi thắm.
    Tuy vậy, đã biết bao lần chúng ta hững hờ quên lãng, không nhìn thấy vẻ rực rỡ hay sự tinh khiết của đóa hoa chưng trong nhà hay vừa hé nở ở ngoài vườn. Cuộc sống quanh ta chứa rất nhiều sự kỳ diệu: một đoá hoa hồng trong ánh sáng ban mai rực rỡ, bãi lau sậy im lặng soi mình trên mặt nước hồ thu, những bong tuyết trắng xoá nhẹ nhàng phủ lên cảnh vật. Và nếu chúng ta có tí thì giờ ngắm nhìn thì ta có thể hạ bút viết bài thơ Hài Cú như một vị thiền sư trong ngày tuyết đổ ngập trời:

    “Hàng vạn hạt tuyết rơi
    Nhưng mỗi hạt tuyết
    Ðều có nơi an trú.”
    (Trúc Thiên dịch)

    Hàng muôn triệu cánh hoa với dáng vóc, màu sắc, hương thơm, thời gian hiện hữu khác nhau đã xuất hiện nơi chốn đồng bằng, trong rừng rậm, ven sông, trên những cành cây cao hay nơi mặt ao hồ. Mỗi cành hoa hiện hữu tự nó đầy đủ, thoải mái, an nhiên, tự tại, tỏa ánh sáng những màu sắc kỳ diệu. Ðó là Pháp Giới, thế giới chân thật mà kinh Hoa Nghiêm đã mô tả: hàng muôn triệu thứ hiện hữu trong vũ trụ bao la mà mỗi loại, dù nhỏ như hạt nguyên tử hay lớn hơn như giải Ngân Hà gồm triệu triệu ngôi sao đều sinh động, chuyển biến qua các giai đoạn sinh (nhiều thứ hợp lại thành ra một vật), trụ (tồn tại và phát triển), dị, (chuyển biến, hư hoại), rồi cuối cùng đi đến diệt (tan rả) để rồi kết hợp lại mà thành vật khác, mãi mãi không ngừng. Muôn triệu thứ cùng hiện hữu bên nhau như một chiếc lưới vĩ đại mà mỗi thứ là một viên ngọc chói sáng lấp lánh, phản chiếu ánh sáng và hình ảnh của tất cả viên ngọc khác. Muôn triệu thứ trong vũ trụ luôn luôn ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, phản chiếu lẫn nhau, trộn lẫn vào nhau mà đồng thời vẫn riêng biệt, vẫn an nhiên tự tại, vẫn hiện hữu tràn đầy riêng biệt giữa muôn sự ồn ào, náo nhiệt, chuyển biến, đổi thay mà kinh Hoa Nghiêm gọi là sự vô ngại Pháp Giới.

    I.Lịch Sử Chưng Hoa

    Nhân loại từ lâu đã dùng hoa trong các cuộc lễ lạc để tăng phần long trọng. Trong Phật Giáo, lịch sử chưng hoa khởi đầu bởi các vị Thánh Tăng. Những bậc đệ tử của Ðức Phật, khi nhìn thấy những cánh hoa rơi rụng trong cơn bão tố, động lòng trắc ẩn, đi góp nhặt chúng lại và bỏ vào chậu nước để hoa sống được lâu hơn. Sau đó, các vị tăng sĩ thường dâng hoa cúng Phật vào các lễ tiết vì hoa vốn tinh khiết, đẹp đẽ, trong sáng, tự tại, rực rỡ như tâm của những người giác ngộ.

    “Ðạo vốn không nhan sắc
    Mà ngày thêm gấm hoa
    Trong ba ngàn cõi ấy
    Ðâu chẳng phải là nhà”
    Thiền Sư Viên Chiếu
    (Thiền Sư Nhất Hạnh dịch)





    Đóa hoa tâm mầu nhiệm của mỗi chúng ta

    Thật ra, dâng hoa cúng dường đã xảy ra ngay khi Ðức Phật còn tại thế. Ðức Phật nhận một cánh hoa dâng cho ngài và đưa lên trước mặt đại chúng. Mọi người đều im lặng duy chỉ có Ngài Ca Diếp, vị đại đệ tử của Ðức Phật mỉm cười. Ðức Phật thấy rõ tâm Ngài Ca Diếp chỉ tràn đầy niềm thanh tịnh, an vui, đầy tình thương yêu và sự hiểu biết chân thật, nên Ngài xác nhận cái thấy biết của Ngài Ca Diếp: “Ta có pháp môn vi diệu không thể dùng lời mà diễn tả được. Nay ta trao cho ông Ca Diếp”. Cái vi diệu mà Ðức Phật trao cho Ngài Ca Diếp vốn đã sẵn có nơi ông và nơi mỗi chúng ta và sự tích nói trên được gọi là “Niêm hoa vi tiếu”: Ðức Phật đưa một cành hoa lên và ông Ca Diếp mỉm cười.
    Các chùa chiền ở Việt Nam, Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản… đã có tập quán chưng hoa trên bàn Phật cả ngàn năm nay. Nghệ thuật chưng hoa và chế tạo các bình hoa phát triển cao độ vào thời kỳ nhà Ðường và nhà Tống ở Trung Hoa. Sau đó, người Mông Cổ chiếm nước này và lập nên nhà Nguyên. Nhiều hoa trái của nền văn minh Trung Hoa bị tiêu diệt tại nước này nhưng được bảo tồn và phát triển tại Nhật Bản.



    Chùa Hokkakudo, chốn xuất phát Hoa Đạo

    Vào thế kỷ thứ bảy, Thánh Ðức Thái Tử, nhiếp chánh cho Suy Cổ Thiên Hoàng, cử một phái bộ ngoại giao Nhật Bản sang Trung Hoa. Trưởng phái bộ ngoại giao này là Ono-no Komoto đến Trung Hoa học được rất nhiều kiến thức về đồ sành, đồ sứ, đồ đồng và các bộ môn nghệ thuật cùng Thiền (Zen) Phật Giáo. Thiền Phật giáo sau này được người dân Nhật đón tiếp nồng hậu và phát triển nhanh chóng nhờ các vị đại sư Thiền Tông Trung Hoa đến Nhật bản giảng dạy và tổ chức tu tập, sau đó được nhiều thiền sư Nhật Bản đã tô điểm thêm cho hợp với truyền thống địa phương.
    Người dân Nhật vốn ưa thích thiên nhiên, đắm mình trong sự hòa hợp giữa con người và vũ trụ. Phật Giáo, qua giáo lý về sự đồng nhất giữa bản thể vũ trụ và tự tánh con người (Phật tánh), nhất là kinh nghiệm từ sự tu tập của Thiền Tông giúp họ trực tiếp sống với sự mầu nhiệm của Phật tánh, của tâm giải thoát với niềm an vui trong sáng bao la vốn có sẵn nơi mỗi chúng ta.

    II. Ðoá Hoa Mầu Nhiệm

    Mổi con người là một đóa hoa có hương thơm, màu sắc, dáng vóc, tâm tư, ước muốn, nhận biết riêng biệt nhưng luôn hòa mình với hàng triệu triệu đời sống khác trên quả đất nàỵ Thế giới rộng lớn chuyển động như một bản hòa tấu với những vận chuyển, sản xuất, tiêu thụ qua muôn ngàn hình thái như xe cộ, nhà cửa, ăn uống, nghỉ ngơi, du lịch, chiến tranh, xây dựng, tàn phá, thương yêu, giết chóc … Không một lúc nào trên quả đất này không có hàng triệu người đang làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi, đọc sách, phá hoại hay xây dựng. Nếu nhìn quả đất từ xa khi nửa phần quả đất từ từ chìm vào bóng tối thì ánh đèn trong nhà và ngoài đường tỏa sáng hết lớp này đến lớp khác theo sự vần xoay của mặt địa cầu hướng về phương đông, cảnh vật lại tràn ngập trong ánh sáng ban mai, sự sống chổi dậy ồn ào náo nhiệt. Và cùng với muôn loài đón mừng bình minh, hàng triệu triệu đóa hoa đón nhận nguồn sống từ ánh thái dương.
    Chúng ta thích ngắm đóa hoa vì nó tỏa ra sự mầu nhiệu của dòng sống: Mọi đóa hoa tự nó vốn thanh tịnh, rỗng lặng, tỏa chiếu, trong sáng và tươi mát. Dù đóa hoa ấy mọc riêng rẽ trên cánh đồng cỏ xanh, trong một khu rừng rậm rạp hay trên một cánh đồng hoa rực rỡ. Trong đám nhân loại hàng tỷ người hiện nay, đời sống của mỗi chúng ta cũng vậy: tự nó là trong sáng, an vui, rộng lớn, thoải mái, tươi mát, tràn đầy tình thương yêu và sự hiểu biết chân thật, tràn đầy nguồn hạnh phúc trong lành. Niềm an vui đó tự nó hiện hữu, không có bắt đầu và tận cùng như vũ trụ bao la quanh ta. Như một đóa tươi thắm trong một khóm hoa dày đặc, mỗi người chúng ta hiện hữu tràn đầy, riêng biệt, tự tại dù đang hòa lẫn với muôn ngàn đời sống khác trong một xã hội luôn luôn biến đổi.
    Chưng một bình hoa với tâm tĩnh lặng, với lòng an vui giúp cho chúng ta tiếp xúc được, sống với sự mầu nhiệm của cuộc đời. Sự mầu nhiệm của cuộc đời chính là sự mầu nhiệm nơi tâm ta: Một thế giới rộng lớn, an vui, trong sáng, rực rỡ kỳ diệu, nồng ấm và hạnh phúc vô cùng:

    “Một đóa hoa mai vừa nở
    Cả thế giới bừng dậy
    Một tiếng nhạc ngân lên
    Rung chuyển cõi ba ngàn
    Một cánh hạc vỗ nhẹ
    Kết hợp không thời gian
    Nơi khuôn mặt nghìn đời
    Nụ cười thoáng hiện
    Một thân thể nhỏ bé
    Tràn ngập không thời gian.”

    Sự mầu nhiệm an vui, rộng lớn, trong sáng vốn luôn luôn hiện hữu nơi mỗi chúng ta, đã giúp cho ta buông xả cái tôi nhỏ bé để trở thành một với vũ trụ bao la, trầm lặng, bất biến, nhưng đồng thời luôn luôn chuyển động, muôn màu muôn sắc, linh động và thay đổi. Phật Giáo chú trọng đến niềm an vui nội tâm. Khi tâm an bình thì tự nó thành trong sáng như tấm gương rộng lớn phản chiếu mọi hoa lá, cỏ cây, người và vật. Tâm trong sáng, an vui đó được gọi là đất sạch (Tịnh Ðộ). Chốn tịnh độ ấy được mô tả đầy cả hương hoa rực rỡ, chim thú kỳ diệu, cảnh vật trang nghiêm. Các bộ kinh lớn của Phật Giáo như Diệu Pháp Liên hoa, Hoa Nghiêm cũng lấy tên loài hoa quý như hoa sen (Liên Hoa) và Tràng Hoa Ðẹp (Hoa Nghiêm) để chỉ cho cái tâm mầu nhiệm, an vui, rộng lớn, thanh tịnh có sẳn nơi mỗi chúng ta.

    III. Dâng Hoa Cúng Phật

    Phật Giáo ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của dân Nhật Bản. Nhiều chùa chiền được xây dựng và trở thành các trung tâm tôn giáo và nghệ thuật. Những cuộc chiến tranh và nội loạn làm mai một các ngành nghệ thuật ở Trung Hoa. Các ngành nghệ thuật ấy được tiếp đón, nuôi dưỡng và phát triển ở Nhật Bản, trong đó có nghệ thuật chưng hoa.
    Trong các cuộc lễ ở chùa, người ta thường dâng hoa cúng Phật. Ban đầu bình hoa được cắm theo nguyên tắc cân xứng: Nhiều cành hoa có độ dài bằng nhau, cùng màu sắc và ở vị trí đối xứng nhau … Một nhánh hoa màu vàng bên phải thì có một nhánh hoa màu vàng bên trái, một nhánh hoa màu đỏ phía trước thì có một nhánh hoa màu đỏ phía sau. Cách cắm hoa này hiện vẫn còn thông dụng tại nhiều nơi.
    Sau đó, các vị thầy chưng hoa nhận thấy lối chưng hoa đối xứng như thế không phản ảnh vẽ đẹp tự nhiên. Nét đẹp của vạn vật biểu lộ một cách tự nhiên và không theo một sự cân xứng giả tạo. Từ đó nghệ thuật chưng hoa tiến một bước dài để trở thành Hoa Ðạo cùng với Thiền Phật Giáo, Trà Ðạo, Võ Ðạo tạo thành nền tảng vững chắc của nền văn hoá Nhật Bản.
    Từ các cuộc lễ theo truyền thống dâng hoa cúng Phật, nghệ thuật chưng hoa dần dần phát triển và trở thành một bộ môn nghệ thuật của giới qưý tộc rồi lan truyền đến dân gian. Cuộc triển lãm các bình hoa để công chúng thưởng ngoạn được tổ chức đầu tiên vào năm 1425. Từ năm 1445, các cuộc chưng bày được tổ chức có quy củ hơn để những người trong nghành chuyên môn này có thể học hỏi lẫn nhau.
    Vào lúc bấy giờ, cách dạy chưng hoa có tính cách cha truyền con nối, mỗi dòng họ giữ bí mật về nguyên tắc và kinh nghiệm trong ngành, cách giữ hoa lâu tàn, sự phối hợp màu sắc. Họ chỉ được truyền lại cho con cái và một số học trò thân tín. Sự thay đổi nói trên, tổ chức triển lãm quy mô các bình hoa thuộc nhiều trường phái khác nhau, đã đem lại sinh khí cho Hoa Ðạo. Từ đó thêm nhiều trường phái chưng hoa được khai sinh và tiếp tục phát triển. Vào giữa thế kỷ 17, đã có đến hơn một trăm trường phái chưng hoa. Ðến nay con số này lên đến cả ngàn. Tuy vậy, tất cả trường phái trên đều quy về một trong hai phái chính: Trường phái Hình Thức và trường phái Tự Nhiên.
    Trường phái Hình Thức chú trọng nhiều đến vẻ đẹp của các đường nét sáng tạo. Họ chú trọng đến các nguyên tắc về sự phối hợp lý tưởng các đường nét như trong các bức tranh cổ vẽ núi đồi, cây cảnh, dòng sông, đường mòn lên dốc núi, ao hồ cùng các đám mây lơ lững. Trường phái tự nhiên thì ngược lại, cắm một bình hoa theo hình ảnh của những cành hoa mọc ngoài thiên nhiên, nghệ thuật sẽ làm gia tăng vẻ đẹp và sự hòa hợp của hoa lá. Trên thực tế, hầu như mọi trường phái đều xử dụng hai nguyên tắc chính trên trong các lối chưng khác nhau.

    IV. Bức Tranh Xưa Và Bình Hoa Ðẹp

    Khi nhìn vào một bức cổ họa, chúng ta thường thấy ở giữa là một hòn núi lớn, mây che mờ ảo (tượng trưng cho Ðạo hay cho Chân Tâm, Phật Tánh luôn luôn hiện hữu), hai bên là hai ngọn núi đông và tây. Dưới đó là một ngọn núi nhỏ hơn với đường nét rõ rệt. Bên sườn núi là một ngọn thác đổ xuống. Dưới đó là đồi, thung lũng, khu rừng nhỏ trong đó thấp thoáng là ngôi chùa của vị thiền sư hay căn lều của vị ẩn sĩ. Vùng gần nhất (cận ảnh) thường vẽ các cành lá hay các bụi hoa mọc trên phiến đá cùng các ngôi nhà rải rác phía xa và một dòng sông uốn khúc. Trường phái hình thức đã phối hợp chín nét chính nơi bức cổ họa đó như sau:



    Bức cổ họa
    1. Ngọn núi lớn nhất
    2. Hai ngọn núi đông và tây.
    3. Ngọn núi gần nhất trong
    4. Dòng thác chảy
    5. Ngọn đồi
    6. Khu rừng trong đó thấp thoáng một thiền thất hay ngôi chùa
    7. Một con sông
    8. Một con đường đất
    9. Vùng gần nhất (cận ảnh) của bức tranh có các tảng đá cùng hình ảnh các căn nhà rải rác



    Bình hoa
    1. Một cành cây, lá hay hoa, đẹp và lớn nhất
    2. Hai nhánh cây, bên phải và trái
    3. Một đóa hoa thật đẹp
    4. Các chiếc lá, một cành cong
    6. Một chùm hoa nhỏ hay lá có màu sắc
    7. Một cành dài uyển chuyển
    8.Chùm hoa nhỏ, hay lá hướng về phía trước

    Cách chưng hoa trên rất trang trọng và nặng về hình thức, thích hợp cho các trang thờ và các buổi lễ lạc. Chưng một bình hoa như thế đòi hỏi rất nhiều công phu cũng như khả năng của người chưng hoa.
    Nhiều trường dạy chưng hoa chú trọng nhiều đến sự giản dị, tự nhiên và tính cách sáng tạo của nghệ thuật nàỵ Các hoa lá chưng trong bình phô bày nét đẹp thiên nhiên biểu lộ trong dòng sống trôi chảy. Ðó là nét đẹp của sát na hiện hữu, của bây giờ và nơi đây trong dòng thời gian vô tận và không gian vô cùng.
    Nét đẹp của bình hoa do sự phối hợp các đường nét của cành lá, các đoá hoa, dáng dấp và màu sắc của mọi cánh hoa dù nhỏ hay lớn, “quý” hay “tiện”, với những ý nghĩa mà con người gắn cho mỗi loại, cùng với sự hòa hợp màu sắc và hình dáng của bình hoa. Sự quân bình của toàn thể các yếu tố ấy cộng với nơi bình hoa được chưng bày tạo nên một cảm tưởng có sự chuyển động, có sự biến chuyển của hai cực âm dương sinh động, đổi thay đồng thời vẫn im lìm và bất động. Nét đẹp ấy tạo nên một ấn tượng và đưa đến một cảm xúc riêng biệt trong lòng người thưởng ngoạn, chẳng khác gì khi mỗi người chúng ta đọc bài thơ Hài Cú chỉ gồm vài chữ mà thấy được sự mênh mang của vũ trụ:
    “Một cành cây trụi lá
    Một con quạ đậu trên cành
    Chiều thu sang.
    Ba Tiêu
    (Tuệ Sỹ dịch)

    V. Ba Cành Chính Của Bình Hoa

    Khi chưng một bình hoa, chúng ta lựa ba cành chính và những cành phụ. Khi lựa những loại hoa hợp với sở thích, chúng ta xem độ cong của nhánh hoa diễn tả phương hướng, sức mạnh của cành, các chiếc lá và màu sắc của mỗi đóa hoa.




    Một bình sanh hoa




    Một bình hoa có đưọc sự thăng bằng và sinh động nhờ các yếu tố hòa hợp. Trong thế giới mê vọng mọi thứ đều phân chia thành hai trạng thái đối nghịch như mạnh yếu, cao thấp, già trẻ, sống chết, … mà Ðông Phương đã dùng hai điễm Âm Dương trong hình thái cực để tượng trưng cho hai sức mạnh đối nghịch ấỵ Âm và Dương là hai sức mạnh chống đối nhau nhưng lại thu hút, hấp dẩn lẫn nhau tạo nên một trong các sức mạnh làm chuyển động bộ máy vũ trụ.
    Trong nghệ thuật chưng hoa khái niệm âm dương được chú trọng đến nhiều. Khi chưng một bình hoa con người đã thuận theo sự chuyển biến của âm (Ðất) và Dương (Trời) để bày tỏ niềm hy vọng, sự sống hướng về tương lai.
    Trong một bình hoa thường có ba cành chính là Thiên (Dương), Ðịa (Âm) và Nhân (con người), thuận theo âm Dương mà trở về với niềm an vui tự nhiên. Mỗi cành hoa có chiều cao, độ lớn, sức mạnh và hướng mọc khác nhau, luôn luôn diễn tả sự hòa hợp trong sự chuyển biến không ngừng.
    Nguyên tắc ba điểm chính ấy bắt nguồn từ giáo lý Phật Giáo nói về Tam Thân: Ba thân là Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân của chư Phật tuy ba nhưng lại là một. Pháp Thân là thân rộng lớn khắp giáp vũ trụ, không bị ngăn ngại. Báo thân là thân tướng đẹp đẽ, cực kỳ an vui. Ứng thân là thân hóa hiện thành con người sống nơi cõi thế gian nàỵ Ba Thân này vốn là một, luôn luôn hòa hợp và cùng hiện hữu nơi một vị Phật. Còn mỗi chúng sanh như chúng ta khi sống tỉnh thức thì kinh nghiệm được chúng ta vừa là con người nhỏ bé, vừa là vũ trụ bao la, vừa đang sống nơi chốn trần ai đầy não loạn mà lại vừa có thể hưởng được nguồn hạnh phúc trong sáng vô biên ngay chính trong cuộc đời nàỵ

    Nói một cách giản dị hơn, khi tâm ta ở trạng thái buông xả, thoải mái thì các ý tưởng, các cảm xúc vui buồn dần dần lắng dịu. Cái tôi (ngã) chỉ là sự tiếp nối liên tục của các ý tưởng và tâm tư cũng dần dần lắng dịu và tan biến. Khi bức tường tự ngã (cái tôi) tan biến thì ta và vũ trụ không còn bị chia cách mà trở thành cái Một bao la. Lúc đó ta trực tiếp có kinh nghiệm về Pháp Thân rộng lớn vô cùng của chính mình: tỏa chiếu trong yên tĩnh và bao trùm mọi chốn. Trong chốn không gian rộng lớn ấy tình thương yêu tràn dâng và sự hiểu biết chân thật hiển bày, đưa ta về vói nguồn hạnh phúc tràn đầỵ Nguồn an vui hạnh phúc ấy không nương tựa, không lệ thuộc vào gì cả, nó chính là con suối trong mát hiện hữu ngay từ đầu nguồn. Ðó chính là Báo Thân tự hiển lộ noi ta. Nhưng chúng ta vẫn dẫm chân trên mặt đất đầy bụi bặm này mà làm các công việc hàng ngày: nấu cơm, rửa chén, chùi nhà, làm việc, học hành, chăm sóc gia đình, phát triển nghề nghiệp. Chúng ta hiện hữu trong cuộc sống rất bình thường và giản dị này dưới nhiều hình thái khác nhau: con cái, cha mẹ, anh em, bạn bè, đàn ông, đàn bà, công tư chức … Nhưng dù trong hình tướng nào, trong Ứng Thân nào ta cũng có thể kinh nghiệm trực tiếp tánh rỗng lặng rộng lớn vô biên và niềm an lạc vô cùng. Nói một cách khác, Phật tính có trong mỗi người chúng ta. Phật tính ấy biểu lộ, bày bỏ trong trạng thái tâm linh cao vút tuyệt vời, an vui sâu thẳm qua mọi sinh hoạt tôn nghiêm hay thế tục. Ba cành hoa Thiên, Ðịa và Nhân biễu lộ sự hòa hợp tuyệt đối đó. Và khi chúng ta quay về với sự tĩnh lặng bên trong khi chưng một bình hoa thì điều kỳ diệu có cơ duyên xuất hiện.



    Ba cành hoa cắm không cân xứng nơi bình hoa biểu lộ sự hợp nhất của mọi sự đối nghịch trong vũ trụ và nơi mỗi chúng ta: vừa là rỗng rang tuyệt đối mà lại vừa tràn đầy vô cùng, vừa là đầy sức sống vừa là buông xả không dính mắc, vừa là chuyển động mà lại là yên tĩnh, hay nói theo tinh thần Bát Nhã, màu sắc hòa hợp, hình dáng xinh tươi của mỗi đóa hoa, mỗi cành lá, hiện hữu rực rỡ trong cái vắng lặng bao la.

    Khi chưng một bình hoa, chúng ta tham dự vào sự sáng tạo tuyệt đối và sự hũy diệt tuyệt đối. Các cánh hoa, cành lá, bình hoa, nước nuôi hoa được sắp xếp, phối hợp để tạo thành một vẻ đẹp toàn thể, bày tỏ nguồn sống của vũ trụ nơi hoa lá mong manh. Nét đẹp của Ba Ngàn Thế Giới ngưng đọng nơi một bình hoa bé nhỏ. Một bình hoa nhỏ bé ấy là vũ trụ mênh mông. Ðồng thời khi để tâm vào sự sáng tạo ấy, ta chỉ thuận theo những nguyên tắc tự nhiên của vũ trụ chuyển biến mà sắp xếp cây cành, không còn để ý đến cái tôi (ngã) nhỏ bé của mình nữa. Các ý tưởng khen chê, ưa ghét, phê phán quấy nhiễu tâm ta hàng ngày cũng tự chúng tan biến đi. Khi ta hoàn toàn chú tâm vào việc chưng bình hoa thì cái tôi nhỏ bé với những mâu thuẩn, xung đột, khổ đau hàng ngày của nó bỗng nhiên tan biến, để ta nhập vào vũ trụ mênh mông của thể tánh, cái rỗng lặng nồng ấm bao la của dòng suối trong mát đầu nguồn. Ðó là sự hủy diệt toàn diện của tâm mê mờ để niềm an vui vô cùng (Phật Tánh) tự nó xuất hiện.
    Đã chỉnh sửa bởi GRANDET; 04-07-2009, 09:02 AM.
    Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

    Comment

    • #3

      5. Thiền Và Trà Ðạo

      Khi nghe nói đến Trà Ðạo, có lẽ chúng ta muốn biết ngay Trà Ðạo là gì. Lợi Hưu (Rikyu, 1522 – 1591), người đã đưa nghệ thuật uống trà trở thành Trà Ðạo, trả lời rất giản dị: “Trà Ðạo là cách làm cho ta hết khát”.

      Chúng ta khát nước khi uống nước không đủ, và chúng ta thường khao khát niềm an vui và muốn hòa nhập với sự sâu thẳm của tánh tự nhiên sẵn có nơi mình. Tánh đó vốn rộng lớn bao la, trong sạch vô cùng, an vui vô hạn và tĩnh lặng nhiệm mầu. Chúng ta gọi tánh ấy là tánh chân thật, tâm chân thật (chân tánh hay chân tâm) hay Phật tánh.

      Trà Ðạo là nghệ thuật pha và uống trà, đưa ta tiếp xúc thẳng với cội nguồn tâm linh ấỵ Nguyên tắc của Trà Ðạo nằm sẳn trong nguyên tắc sống thiền: hoà hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng. Thiền cũng chỉ là một tông phái của Phật giáo nên các nguyên tắc trên vốn là sự bất khả phân giữa hiện tượng bên ngoài và thế giới bên trong. Sự hoà hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng của trà thất, của trà chủ (người mời) và trà khách (người được mời) vốn là sự hợp nhất của tâm và cảnh, của thế giới bên ngoài và thế giới bên trong nơi mỗi chúng ta.



      Tô Ðông Pha, một thi sĩ nổi tiếng và cũng là một chất tinh khiết và giống như một người có đức hạnh cao quý, trà không sợ bị hư hỏng. Các vị tăng sĩ Trung Hoa trước đây đã thực hành nghi thức uống trà trước tượng của vị tổ Bồ Ðề Ðạt Ma theo những cung cách trang trọng, biểu lộ trạng thái an bình, rỗng lặng nhưng linh động của tâm uyên nguyên, tâm ban đầu nơi mỗi chúng ta vốn luôn luôn tinh sạch và tỏa chiếu sự thấy biết chân thật. Nghi thức nào cùng với nền văn minh đời nhà Tống bị hũy hoại nặng nề khi nguời Mông Cổ xâm chiếm và cai trị Trung Hoa. Nhiều hoa trái của nền văn minh đó đã đuợc chuyển sang Nhật Bản, được nuôi dưỡng và đơm hoa.

      Ở các thiền viện Lâm Tế (Rinzai), thiền trà được diễn ra một cách nhanh chóng và lặng lẽ. Buổi sáng sớm, các thiền sinh thức dậy vào lúc 3 giờ sáng, vệ sinh cá nhân rồi vào thiền đường. Thiền sinh phụ trách pha trà (trà giả) đã sẵn sàng với các chén trà đã lau sạch bóng cùng ấm trà nóng. Thiền sinh bưng khay trà đến trước mỗi hai thiền sinh cúi đầu chào. Hai thiền sinh chắp tay xá đáp lễ và mỗi người lấy cái chén nhỏ, tách trà để trước mặt mình. Sau khi mọi người đều có chén, thiền sinh phụ trách mời trà đem bình trà đến giữa mỗi hai người, trịnh trọng cúi chào và châm trà. Khi mọi người đã có trà trong chén, một tiếng báo hiệu vang lên, mọi người để tâm vào hơi thở nhẹ nhàng thoải mái, nâng chén trà lên và uống trà hoàn toàn trong tĩnh lặng.

      Các thiền đưòng Tào Ðộng (Soto) không uống trà vào mỗi buổi sáng như trên mà chỉ vào các dịp đặc biệt trong tháng. Vị thiền sư mời tất cả thiền sinh uống một tách trà quý do một cư sĩ biếu ngài. Trong những dịp ấy, vị thầy thường ân cần nhắc nhở môn sinh nổ lực tu hành tinh tấn để xâm nhập vào cái kỳ diệu của tâm giải thoát. Ðiều này làm chúng ta nhớ lại truyện các vị vua Nhật Bản ban trà cho quý vị tăng sĩ như vào năm 729, Thánh Vũ Thiên Hoàng ban trà cho một trăm vị tăng tại cung Nại Lương. Ðời sống tu hành của các vị tăng ni và trà liên hệ với nhau rất mật thiết về lượng cũng như về phẩm vậỵ

      Thiền trà nói trên là cách uống trà trong thiền đường, cùng phát triển theo dòng thiền đốn ngộ do ngài Huệ Năng chủ xướng. Ðến thế kỷ thứ mười lăm, người Nhật đã tạo ra một nghi thức uống trà đặc biệt ở bên ngoài thiền viện mà chúng ta thấy còn tồn tại cho đến nay. Tuy cách thức có khác nhau, nhưng cũng phản ảnh sự hòa hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng của Trà Ðạo.

      I. Vài Nét Lịch Sử

      Trà đã được dùng ở Việt Nam và Trung Hoa từ lâu. Ðến thế kỷ thứ bảy, vói nền văn minh hưng thịnh của nhà đường, uống trà trở thành một nghệ thuật như đánh đàn (cầm), chơi cờ (kỳ), làm thơ (thi) và vẽ tranh (họa). Vào thời kỳ này, nguời ta xử dụng 24 trà cụ, các đồ dùng để pha trà. Sau này Lục Vũ, tác giả quyên Trà Kinh đã mô tả các trà cụ đó, và người ta thấy tương tự như những thứ được xử dụng trong trà đạo của Nhật Bản hiện naỵ

      Trà Kinh nói rất rõ về lịch sử của trà, các trà cụ, cách pha và uống trà. Ngày nay các thứ sau đây được dùng cho việc pha trà: một lò đun nước, ấm nấu nước bằng kim loại, chum đựng nước tinh khiết, bình đựng nước thừa, chén trà, muỗng tre, bót tre đánh bột trà hay trà tiển, khăn lụa để lau bình trà, khăn trắng lau chén trà cùng một số các trà cụ khác.

      Trà thất, phòng uống trà, được xây cất theo đường nét lý tưởng truyền lại từ thế kỷ thứ 16 là một gian nhà tranh đơn giản. Ðúng hơn, đó là một túp lều với một cửa vào rất thấp. Các trà khách thường phải để tất cả các áo giáp, cung kiếm bên ngoài và cúi mình lết vào trong trà thất. Tất cả mọi người trong trà thất đều bình đẳng như nhau. Trà chủ - dù là một nhà quý tộc hay một lãnh chúa – khiêm tốn làm công việc pha trà đãi khách. Cung cách vái chào tân khách, lau chùi các trà cụ, cách đưa tay mở vại nước, múc nước đổ vào bình, cầm chiếc muỗng tre có cán dài múc nước sôi chế vào chén trà, đánh bột trà cho tan vào nước, bưng chén mời khách, v.v… sẽ phơi bày trạng thái tâm thức của trà chủ.

      Trà Ðạo không phải chỉ là cách pha trà và uống trà. Trà Ðạo là sống trọn vẹn với sự tỉnh thức, trọn vẹn với thế giới hiện tại: Bây giờ và nơi đây. Chủ và khách cúi chào nhau, bưng chén trà hay trà cụ với các ngón tay không được tách rời, lúc uống trà phải từ tốn và chú tâm. Mỗi động tác là một hành vi tuyệt đối, không thiếu không thừa, chính xác nhưng khả ái, có chủ đích rõ rệt nhưng tự do tuyệt đối. Khi múc nước lạnh, trà chủ múc nước ở phía giữa lu vì chất cặn nằm phía đáy lu. Trái lại, khi múc nước sôi, phải múc ở phía dưới nồi vì chất không tinh khiết nổi lên trên. Mỗi trà cụ là một cái tuyệt đối, vượt lên giá cả, tánh chất tốt xấu của các vật liệu làm ra chúng.


      Trà đạo bắt nguồn từ thiền, cho nên khách và chủ đều biểu lộ tâm trong sáng và linh động, không vướng mắc vào các ý tưởng hay tâm tư thường ngày (tạp niệm). Ðó là trạng thái thân và tâm tỉnh thức và buông xả, là ở trong trạng thái tự do tuyệt đối, với các hoạt động thoải mái, đúng mức một cách tự nhiên, là từng nét đẹp tiếp tục xuất hiện ngưng đọng trong giây phút vĩnh cửu của thời gian trôi chảy không ngừng. Sự hoà hợp giữa chủ và khách, tâm và vật, không gian và thời gian, vũ trụ bao la và chén trà nhỏ bé, thời gian vô tận và thoáng chốc trôi nhanh, giữa tĩnh và động, màu sắc và sự rỗng lặng mênh mông đã được sự cảm nhận đầy đủ nơi đây. Ðể gia tăng sự hòa hợp và chuẩn bị tâm thức cho người uống trà, các ngành nghệ thuật về vườn cảnh, kiến trúc, hội họa, chưng hoa, ẩm thực, đồ sứ cùng cung cách (quy định cho chủ và khách) được phối hợp tối đa.

      II. Trà Chủ Chuẩn Bị

      Người chủ buổi thưởng trà có thể chọn chủ đề như đầu thu và chọn các trà cụ cho thích hợp với khách mời. Ông ta chọn một bức tranh thủy mạc là vật trang hoàng chính để tạo phong vị cho trà thất. Bình hoa chưng thường diễn tả mùa nhưng không được có màu sắc rực rỡ hay thơm nồng vì như thế sẽ làm mất đi sự tĩnh mịch và hòa hợp cần thiết.

      Nói đến hoa trong Trà Ðạo chúng ta không thể nào quên câu chuyện khán hoa Triêu Nhan. Thái Cáp (Taiko) là vị tướng quân thuộc dòng họ Tú Cát, kẻ vừa mới lên cầm quyền, thay mặt Thiên Hoàng trị vì trăm họ, một hôm nghe vườn của Lợi Hưu đang nở rộ những đóa hoa Triêu Nhan nên muốn đến xem hoa. Ðây là loại hoa màu trắng, dáng như chiếc chuông nhỏ, sớm nở tối tàn, đẹp và mong manh. Lợi Hưu mời vị tướng quân này đến dùng trà buổi sáng. Ðó là điều ông ta mong muốn vì ông thích ngắm vườn hoa nổi tiếng nàỵ Khi đi quanh vườn ông chỉ thấy toàn là lá xanh, chẳng có một đóa hoa nào cả. Ông ta bước đến trà thất với lòng bực bội vì không được toại nguyện. Khi vừa vào trà thất, nhìn lên, ông ta thấy một đóa Triệu Nhan duy nhất trong một chiếc bình quý bằng đồng đời nhà Tống.

      Hãy thấy mọi vật là vật duy nhất trên đời. Ðó là thông điệp của thiền. Vì trà nhân đã giúp cho vị tướng quân bắt gặp điều: “Trên trời, dưới trời, chỉ mình ta là tôn quý” ấy, hay nói theo nhà thơ William Blake trong bài Auguries Of Innocence:
      “Thấy vũ trụ trong một hạt cát
      Và thiên đường nơi một đóa hoa dại
      Cầm vô biên nơi lòng bàn tay
      Và vĩnh cữu trong một giờ ngắn ngủi.”

      Trước khi vào trà thất, khách sẽ đi qua khu vườn được quét dọn sạch sẽ. Ðó là một loại “vườn thiền”: hoa lá có màu sắc trang nhã, các tảng đá được phối trí hòa diện với những hòn đá nhỏ mà phần lớn chôn dưới đất theo nhóm ba, năm, bảy, hay chín viên đá nằm rất vững vàng (Vì những tảng đá này được chôn hai phần ba phía dưới mặt đất, một phần ba lộ thiên), hàng rào tre cùng chiếc cổng cổ kính. Tất cả đều tỏa ra nét khiêm cung, trang nhã và an bình. Tất cả đều có một sự tự nhiên, hòa hợp, chẳng chút phô trương vì đó là tinh thần của Trà Ðạo.

      Chúng ta thường nghe kể vị trà sư Lợi Hưu sai con mình quét vườn cho thật sạch để đón khách uống trà. Mỗi lần nghe con trình vườn đã quét dọn xong, ông ta ra nhìn rồi lắc đầu bảo chưa được. Sau nhiều lần quét dọn đến lúc vườn sạch bóng mà cha mình vẫn chưa chịu, người con hỏi ông ta chưa vừa ý chỗ nào, vị trà sư lặng lẽ đến dưới một cành cây với lá đang chuyển vàng, đưa tay lay nhẹ và các chiếc lá vàng rơi xuống trên mảnh vườn rêu xanh.
      “Vài chiếc lá vàng lặng lẽ
      Trên thảm rêu xanh
      Mùa thu đến.”

      Các vị khách tinh tế nhìn thấy rõ lòng hiếu khách, niềm kính trọng của người chủ và nhất là bắt gặp được cái tâm rỗng lặng phổ vào mọi sự vật hiện hữu quanh đâỵ Họ thưởng thức nét đẹp tự nhiên của vườn thiền, nét đơn giản nhưng hàm xúc của bức tranh vẽ bằng mực tàu trên giấy bồi, bình hoa đơn sơ, giản dị và trang nhã và các trà cụ xử dụng được lau chùi tinh sạch.

      Khi chủ và khách đã an vị, tâm họ lắng đọng trong chốn an bình tĩnh lặng. Các giác quan của họ trở nên bén nhậy trong sự thoải mái và nhận biết rõ ràng những dáng dấp, màu sắc, âm thanh, mùi vị và xúc chạm. Ngũ quan họ hợp nhất trong cái tâm rỗng lặng bao la: tiếng nước sôi reo nhẹ như tiếng gió rì rào qua kẻ lá, bình hoa đơn sơ hiện dần nét đẹp kỳ diệu, khói trầm thơm phảng phất cái mơ hồ, vị trà đắng chuyển dần thành cái ngọt ngào sâu đậm. Trong trà thất đơn sơ, tâm của chủ và khách cùng tiếp xúc với cái bình dị tinh sạch tỏa ra từ các vật nhỏ bé ở trước mặt họ. Mọi thứ đều giản dị, chân thật và cùng biểu lộ cái vô cùng.

      Uống trà như thế chẳng khác gì tham dự một lễ nghe trang trọng tại một thiền viện. Ðó là một kinh nghiệm tâm linh phong phú trong khung cảnh đơn giản gần như nghèo nàn. Trên thực tế, người ta đã nhận rõ viên ngọc quý báu nơi mình chiếu sáng trong tịch lặng, viên ngọc quý mà Ðức Phật Thích Ca trong kinh Pháp Hoa nhắc nhỏ chúng ta đừng bao giờ quên xử dụng để luôn luôn sống với nguồn hạnh phúc tỏa rộng đến vô biên.
      Ðó là điều mà vị trà sư người Hoa Kỳ đã tìm được Ông Gary Charles Calwallader đến Nhật Bổn vào năm 1975 trong chương trình trao đổi sinh viên ngành lịch sử nghệ thuật sau khi tốt nghiệp cao học ngôn ngữ và văn hóa Nhật tại đại học Austin, Texas. Sau đó ông học Trà Ðạo năm năm tại trung tâm Trà Ðạo Urasenke Chanoyou. Trường phái chính tại Nhật truyền thừa qua 15 vị tổ kể từ ngày các vị tu sĩ Nhật Bản sang Trung Hoa học ngành này và truyền bá lại cho những người trong nước vào thế kỷ thứ 15. Ông Cawallader bày tỏ lý do ông ưa thích như sau: “Triết lý của Trà Ðạo hấp dẫn tôi trước khi tôi biết về sự thực hành trà đạo. Rồi tôi lại thấy sự thực hành thật là thích thú vì Trà Ðạo đặt nền tảng trên bốn nguyên tắc của Thiền: Hòa, Kính, Tịnh và An: Hòa Hợp, Kính Trọng, Thanh Tịnh và An Bình. Sống với tâm hòa hợp, kính trọng, trong sáng và an bình là sống với chân tâm hay tâm giải thoát vậỵ

      III. Sức Mạnh Của Chén Trà

      Các trường phái chưng hoa hiện nay cố gắng phát triển các kỹ thuật chưng hoa hướng đến sự giản dị vì đời sống con nguời càng lúc càng bận bịu ở sở cũng như ở nhà. Các trường phái Trà Ðạo cũng nhận thấy điều ấỵ Nếu muốn cho Trà Ðạo tồn tại và phổ biến ở nhiều quốc gia, người ta cố gắng chú trọng những điều chính, bỏ bớt những thứ không cần thiết khác. Do đó, khi Trà Ðạo đến với các nước Tây Phương, chúng ta thấy họ giảm thiểu các nghi lễ, bỏ bớt bữa ăn kéo dài cùng các lời nói xã giao, chú trọng đến sự pha trà, uống trà và dùng bánh ngọt và nói chuyện thân mật.

      Trong nhiều thế kỷ qua ở Nhật Bản Trà Ðạo ảnh hưởng đến mọi ngành sinh hoạt. Người Tây Phương thường nói “bão tố trong một chén trà” khi phẩm bình về những lời bàn luận, những cuộc đàm luận sôi nổi nhưng phù phiếm quanh những ly cà phê hay những chén trà vào những lúc trà dư tửu hậu. Cách uống trà trang trọng, thoải mái quả thật đã tạo nên những cơn bão tố không phải trong chén trà mà trong đời sống người dân Trung Hoa và Nhật Bản. Nói khác đi, trà nhân là những người đã tạo ra những cơn bão ngầm cố sức mạnh làm thay đổi toàn diện những sinh hoạt của giới quý tộc cũng như bình dân thời trước.

      Trà thất, túp liều tranh đon giản, phát xuất từ ý của kinh Duy Ma (Vimalakirti Sutra). Ngài Duy Ma đón tiếp Ngài Xá Lợi Phất trong một căn nhà nhỏ bé. Ngài Xá Lợi Phất lo ngại căn nhà nhỏ bé này không đủ chỗ ngồi cho các Bồ tát và hàng Ðại đệ tử đến viếng ngài Duy Ma. Ngài Duy Ma thi triển thần thông và trong chớp mắt nơi nhỏ bé ấy biến thành chốn rộng lớn vô biên: Khi tâm quay về với tánh rỗng lặng tự nhiên thì ta thấy trong mọi sự vật dù nhỏ như hạt bụi, đều chứa đựng cái vô cùng. Ðó là chủ ý của những buổi uống trà trong tĩnh lặng.


      Thuật chưng hoa, cách làm đồ gốm, cách nấu và dọn những thức ăn, cách ăn mặt trang nhã, cách chào hỏi và biểu lộ sự kính trọng lẫn nhau, nghệ thuật kiến trúc, trang trí trong nhà và tạo lập vườn cảnh, cách tiếp xúc với đời sống tâm linh, và ngay cả trong lãnh vực chính trị, cách làm cho nền hoà bình kéo dài qua sự quân bình giữa quân sự và hành chánh, đâu đâu người ta cũng thấy ảnh hưởng của trà nhân.

      IV. Thay Ðổi Trong Cái Không Thay Ðổi.
      Thế giới hôm nay đã thay đổi rất nhiều so với thời trước nhưng nhiều người Âu Mỹ đã thích thú uống trà theo cung cách Trà Ðạo. Muốn cho nghệ thuật thưởng trà này được phổ biến rộng rải, có lẽ chúng ta cần bước thêm một bước nữa.
      Trong những năm qua, một sự cập nhật hoá mạnh nhất về uống trà trong tỉnh thức là do một thiền sư Việt Nam chủ xướng trong các khoá tu thiền: thiền sư Nhất Hạnh. Trong các khóa tu, các thiền sinh thường tổ chức thiền trà theo một số nghi thức giản dị và dễ dàng: chuẩn bị pha trà, dâng trà lên bàn tổ, uống trà trong tĩnh lặng, sau đó sinh hoạt văn nghệ trong thoải mái. Khi uống trà trong tỉnh thức thì trà có hương vị thiền hay hương vị giải thoát. Giải thoát là tâm ta ở trong trạng thái ung dung, nhàn hạ, tươi mát, linh động, bén nhạy và thấy biết tất cả nhưng không bị bất cứ một thứ gì trói buộc. Như thế, tu tập siêng năng để uống một tách trà cho có hương vị thiền, hay nói khác đi, để sống một cuộc đời đầy an vui hạnh phúc vì đạo Phật chú trọng vào cuộc sống hiện tại, đến sự thoải mái của mỗi hơi thở ra và vào, đến sự cảm nhận, thấy biết tất cả những gì đang xảy ra quanh ta một cách chân thật và đầy đủ.

      Vị thiền sư Việt Nam dạy cách uống trà này cho hàng ngàn môn sinh khắp Mỹ Châu, Á Châu, Âu Châu và Úc Châu. Hương trà của ngài đã theo gió bay qua biển Thái Bình Dương đến với xứ Phù Tang Tam Ðảo, làm cho một người Hoa Kỳ tu tập trên mười hai năm tại thiền viện Tào Ðộng Nhật Bản, nữ thiền sư Ðại Viên Bennage đã quyết định sang Làng Hồng tu tập một thời gian trước khi mở thiền viện thu nhận môn sinh ở Hoa Kỳ vì: “Cách hay đẹp mà thiền sư Nhất Hạnh dạy Ðạo cho những người Tây Phương bằng tiếng Anh”. Thêm một hạt giống trà đã biến thành cây trà quý tỏa hương thơm dịu.

      Thiền sư Nhất Hạnh khuyến khích áp dụng thiền trà ở nhà để vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em có thể hưởng những phút giây thân mật, đầm ấm của hạnh phúc gia đình trong niềm vui an lành, thoải mái và cởi mở. Tu tập để đoá hoa hạnh phúc nở tươi mát dưới mái ấm gia đình.
      Với Thiền Trà như trên, Trà Ðạo đã bước một bước khá mạnh mẽ vậỵ


      6. Thiền Và Vườn Cảnh

      Thiền là nghệ thuật sống với niềm an vui sâu thẳm của tánh trong sáng rộng lớn, tự nhiên vốn sẳn có nơi mỗi chúng ta. Vườn thiền là khung cảnh tạo dựng lên bằng cây, cỏ, đá, rêu phối hợp với cảnh trí thiên nhiên để giúp chúng ta tiếp xúc với sự sâu thẳm nội tâm ấy. Vườn đó cũng được gọi là vườn đông phương.

      Vườn đông phương và vườn tây phương khác nhau rõ rệt: Một bên trồng thật nhiều bông hoa rực rỡ, một bên chú trọng đến nét trầm lặng, cô liêu, trống vắng, sâu thẳm và an bình. Sự khác nhau căn bản đó bắt nguồn từ hai nền văn hóa khác biệt. Ðông phương xem đời sống là một toàn thể, con người sống hòa hợp và thoải mái với thiên nhiên.. Tây phương chú trọng đến việc chinh phục và chế ngự thiên nhiên. Ðông phương qua ảnh hưởng của Phật giáo, nhất là Thiền tông thấy rõ nét thiên thu trong những giây phút ngắn ngủi nối tiếp bất tận, thấy rõ chính nơi thế giới thường ngày chúng ta đang sống vốn là Thực Tại, vốn là sự Chân Thật, vốn là Chốn Thiên Ðàng, là Cảnh Thiên Thu Bất Biến trong sự biến chuyển không ngừng. Vườn đông phương đưa ta vào thế giới trầm lặng, sâu thẳm, bí mật của những gì ở phía bên kia thuộc vùng vô thức, vườn tây phương khích động thị giác chúng ta với những nét rực rỡ muôn màu muôn sắc của chốn bên này, của vùng ý thức. Vườn đông phương vương vấn nơi tâm thức chúng ta, theo chúng ta về đến tận nhà sau khi chúng ta rời khỏi chốn ấy từ lâu. Ngược lại, vườn tây phương biến mất khi chúng ta bước ra khỏi cổng, khi mắt ta không còn đối diện với hoa lá muôn màu muôn vẽ.

      I. Hoa Chưa Nở, Bụi Chưa Dấy

      Trong bài tựa của thiền thư Bích Nham Lục, thiền sư Viên Ngộ đã viết: “Một mảy bụi dấy lên là đại địa trọn thâu. Một đóa hoa nở là thế giới lừng dậy. Thế nhưng khi bụi chưa lên, hoa chưa nở thì mắt dính vào đâu?”
      Khi hoa chưa nở thì chúng ta thấy cái gì? Ðó chính là điểm ách yếu của Thiền Tông và cũng của các vườn đông phương. Những khu vườn xanh thẳm hun hút và trầm lặng: Khi hoa chưa nở thì mắt dính vào đâu?

      Tâm là cái mà chúng ta nghe, thấy, biết, phân biệt hay dỡ, đúng sai, là cái mà chúng ta cảm nhận sự vui, buồn, thương ghét khi đối diện với cái chúng ta ưa hay ghét. Vào một vườn tây phương chúng ta thích thú với những đóa hồng trắng, tím, vàng, hoàng phấn to và tươi mát, với những đoá uất kim hương xuất hiện cùng với mùa xuân tô đậm nền cỏ xanh với những khối mầu vàng hay đỏ rực rỡ. Chúng ta thấy bông hoa tràn đầy màu sắc, chúng ta nhìn bầu trời cao rộng, chúng ta nghe tiếng chim hót líu lo. Qua cái thấy, nghe, biết mà chúng ta tiếp xúc với ngoại cảnh và những nét đẹp của hoa lá trong khu vườn giúp chúng ta quên đi giây phút hiện tại trên quả đất này, giúp chúng ta vui sướng qua những rung cảm của giác quan, giúp chúng ta biết được phần nào chốn thiên đàng mà chúng ta mong mỏi, hy vọng hay ước ao sẽ đến khi rời bỏ quả đất đầy phiền não và đấu tranh nàỵ

      Vườn đông phương thì ngược lại, không trồng nhiều hoa, không có những cảnh rực rỡ thu hút chúng ta để chúng ta quên mình đi, đánh mất mình đi trong nét đẹp của dáng dấp và màu sắc bao quanh. Vườn đông phương có một chiều sâu thăm thẳm, đó là một thế giới rộng lớn bao la trong một khu vực bé nhỏ. Vào một khu vườn tây phương, chúng ta quên mất sự có mặt của mình. Ở trong một khu vườn đông phương, chúng ta thấy rõ, biết rõ sự hiện hữu của mình trong vũ trụ trống vắng, tinh sạch, bình an và bao la. Sự thấy biết đó, ý thức về sự có mặt của mình đó không phải do mình đối diện với cảnh bên ngoài, đối diện với những hình dáng, mầu sắc, âm thanh mà do sự hòa tan của mình vào ngoại giới và trở thành một với cái vô cùng như thiền sư Tuệ Trung diễn tả:
      “Di Ðà vốn thật pháp thân ta
      Nam Bắc Ðông Tây khắp chói lòa
      Trăng thu ngự giữa trời cao rộng
      Ðêm lặng trùng dương rạng chiếu xa.”
      (Nhất Hạnh dịch)


      Thiền cho ta thấy rõ, sống một cách chân thật với vũ trụ bao la của tâm linh, nhìn thấy tính cách rỗng lặng, tràn đầy, tỏa chiếu của mọi sự vật, nhìn thấy cái vô biên trong một hạt cát và sống trong thời gian vĩnh cữu của những giây phút lăn trôi không ngưng nghỉ. Ðiều ấy được diễn tả trong kinh Hoa Nghiêm:
      “Phật tử trụ ở đây
      Trong một hạt bụi nhỏ
      Thấy vô lượng quốc độ đạo tràng
      Chúng sinh và các kiếp.

      Trong một hạt bụi như thế
      Trong hết thảy hạt bụi cũng thế
      Tất cả đều chứa đủ
      Thảy đều không ngại nhau.

      Trong mỗi hạt bụi
      Thấy đủ đại dương quốc độ
      Chúng sinh, kiếp như vi trần
      Lẫn lộn mà không ngại nhau.

      Phật tử trụ ở nơi đây
      Quán hết thảy các pháp
      Chúng sinh, quốc độ và thời gian
      Không sinh khởi và không thực hữu.

      Quán sát lý bình đẳng
      Nơi chúng sanh nơi pháp
      Như Lai, quốc độ và nguyện
      Và thời gian thảy đều bình đẳng.”

      (Tuệ Sỹ dịch)

      II. Cái Có Là Cái Không

      Lời Kinh Bát Nhã nói về sự thấy biết rõ ràng chân thật khi chúng ta buông xả mọi thứ ràng buộc, mọi sự bám vúi vào những ý tưởng so đo, những cảm xúc vốn cứ cột chặt lòng mình. Khi lòng mình thoãi mái, tâm mình an bình, trí mình tươi mát, linh động, bén nhạy thì vạn vật hiện ra một cách chân thật: Chúng hiện hữu, có mặt tràn đầy với những hình dáng và màu sắc nhưng rỗng lặng, yên tĩnh và riêng biệt tuyệt đối. Khi đi vào một khu vườn tây phương chúng ta chỉ thấy cái đó, cái hữu bao quanh mình bốn phía. Khi đi vào khu vườn đông phương cái không hiển bày làm ta tiếp xúc được với không gian không bờ mé và thời gian vĩnh cữu:
      “Có thì có tự mảy may
      Không thì cả thế gian này cũng không
      Kìa xem bóng nguyệt dòng sông
      Ai hay không có, có không là gì.
      (Nhất Hạnh dịch)

      Dĩ nhiên, khu vườn đông phương không phải chỉ là cái trống rỗng không có gì cả. Trong đó cũng có cây cỏ, hoa lá, những tảng đá, những ao hồ hay những con suối, những mô đất cao cùng những bãi cát trắng hay vàng có những đường chạy song song như những đợt sóng biển nối tiếp chạy đến những hoang đảo cô liêu.

      Kim Các Tự cô tịch vào mùa đông

      Theo quyển Vườn Nhật Bản, người ta phân ra làm bốn loại vườn chúng ta thường thấy ở các chùa chiền, nơi thiền viện hay những tư gia: Vườn có ao đồi, vườn đá cát và vườn có các bậc đá xếp thành lối đi và vườn ngoạn cảnh.

      Vườn ao đồi là những khu vườn rộng người ta đắp những đồi đất tượng trưng cho núi và đào những chiếc ao hay hồ tượng trưng cho biển. Những cây cối trồng nơi đây được tỉa cắt cẩn thận để chúng đừng lớn quá và luôn luôn hòa hợp với khung cảnh xung quanh, tạo thành một cảnh đồi núi hùng vĩ với những cây tùng, cây bách ghi dấu thời gian đang lặng lẽ trôi qua. Khu vườn là một vũ trụ mênh mông trong một khu đất giới hạn về không gian lẫn thời gian.

      Vưòn đá cát là những vườn khô, không cây cỏ, chỉ có cát và đá. Vườn mà không có cây cối, hoa lá, chỉ những tảng đá rêu phong cùng bãi cát trắng cùng bức tường tạo thành một vũ trụ riêng biệt. Ở nhiều thiền viện, những vườn đá cát được tạo nên để giúp chúng ta nhìn thấy cái trống vắng của thế giới bên trong cũng như bên ngoài, cái bao la trên một vùng nhỏ bé. Trên khu đất hình chữ nhật, người ta trãi cát. Các hòn đá được sắp xếp theo quy luật tương xứng và liên hệ hỗ tương để biểu lộ sự hòa hợp tự nhiên. Các hòn đá này rải rác nhiều nơi trên thảm cát. Những tảng đá lớn là chính, những hòn nhỏ hơn được thêm vào theo các con số 1, 3, 5, 7, 9, 11, 13, 15. Các hòn đá được sắp xếp gần nhau theo số lẻ để tạo nét hòa hợp tự nhiên. Có lúc hai tảng đá nằm kế cận thì một lớn (Chủ) và một nhỏ (Bạn) đối xứng và hỗ trợ cho nhau.

      Những vườn đá thường do các vị tu sĩ Phật giáo thực hiện vào các thế kỹ trước đây và những vườn này bày tỏ chất thiền một cách cụ thể nhất qua hình thù và màu sắc. Những tảng đá tuy được sắp xếp theo một quy luật nào đó, với những hình thù và khối lượng khác nhau để tạo ra sự hòa hợp và cân đối nhưng đó không phải là mục đích chính của tác giả. Các ngôi chùa và các thiền viện đều tụng bài Bát Nhã Tâm Kinh nói về sự rốt ráo của tâm giải thoát:
      “…sắc tức là không
      Không tức là sắc …”

      Các hình thù, màu sắc, khối lượng là không. Không ở đây không phải là cái trống vắng của một cái gì đã có trước rồi nay lại biến đi. Không cũng không là ngược lại với có hay là sự trống rỗng. Không ở đây là tính chân thật của vạn pháp, của mọi sự vật: Là cái rỗng lặng trong cái tràn đầy, là cái tĩnh lặng của cái sống động, là cái bất động trong sự chuyển động náo nhiệt, là cái thiên thu bất biến trong cái chuyển biến liên tục, là cái thường hằng vĩnh cữu trong cái vô thường của dòng thời gian lăn trôi.

      Nếu chúng ta đứng yên nhìn vườn đá, chúng ta sẽ thấy đá cát tự chúng biểu lộ tánh chân thật tự nhiên của mình, không liên quan gì đến những điều ta gán thêm cho chúng về ý nghĩa của cách sắp xếp, về giá trị thẩm mỹ, về những lời trầm trồ khen ngợi hay chê bai:

      “Thể các pháp đều không
      Không sanh cũng không diệt
      Không nhơ cũng không sạch
      Không thêm cũng không bớt
      Cho nên trong tánh không
      Không có sắc…”
      Bát Nhã Tâm Kinh

      Tánh không hay tánh chân thật, còn được gọi là Phật tánh, đều có ở mọi thứ. Khi tâm trong sáng và tỉnh thức thì ta thấy rõ điều kỳ diệu ấỵ Cái biết về tánh không đó không nằm nơi chữ nghĩa mà phát xuất từ trực giác. Không do lời giảng giải hay so sánh mà do sự hay biết trực tiếp khi nhìn thấy sự vật trước mắt. Và đó là sức hấp dẩn của loại vườn đá cát.

      Tuy thế, xin đừng bận tâm về cái sắc sắc không không (Có có không không) nói trên vì chúng ta đến đây để mà ngắm nhìn một khu vườn tức là một sự vật hiện rõ ràng trước mắt. Chúng ta hãy thưởng ngoạn những nét đặc thù của các viên đá lớn nhỏ rải rác trên thảm cát trắng. Thật ra, đó không phải là cát mà là những hạt sỏi nhỏ màu vàng nhạt dưới ánh mặt trời chuyển thành màu trắng mà ở xa ta thấy như là thảm cát. “Thảm cát” là biển lớn trên đó thiền sinh thường dùng cào tre để kéo những đường cong hay thẳng tượng trưng cho sóng biển chạy mãi đến vô biên. Có nhiều loại sóng biển khác nhau tùy theo biển bình lặng hay bảo tố, các nét vạch lên cát có đường nét khác nhau để diển tả thời tiết khác nhau trên vùng biển lớn. Chúng ta không đi vào những vườn đá cát mà chỉ đứng hay ngồi ở bên ngoài mà ngắm nhìn ở những góc độ khác nhau. Và như nhìn vào vũ trụ, mỗi lần nhìn vườn đá cát là mỗi lần chúng ta thấy điều mới mẻ xuất hiện. Tại sao thế? À! Ðó là sự kỳ diệu của chân tâm, Phật tánh nơi mỗi chúng ta và cũng là tài hoa của nhà nghệ sĩ tạo dựng khung cảnh nàỵ Chúng ta hãy nghe vị Tam Tổ Tăng Xán của Thiền tông giải thích về điều ấy:

      “Tâm là tâm của cảnh
      Cảnh là cảnh của tâm
      Ví biết hai chẳng dứt
      Rồi cũng chỉ một không
      Một không, hai mà một
      Bao gồm hết muôn sai
      Chẳng thấy trong thấy đục
      Lấy gì mà lệch sai”
      (Trúc Thiên dịch)


      Loại vưòn thứ ba là khu vườn với những bậc đá đưa đến trà thất. Trà thất là căn lều nhỏ bé chỉ đủ chổ cho hai hoặc ba người ngồi uống trà trong tỉnh thức mà chúng ta thường gọi là trà đạo. Ðến trà thất như vượt qua những ngọn đồi để đến vùng yên tĩnh. Con đường lên đồi thường có những bậc cấp quanh co. Những phiến đá bằng, không đều cạnh thường được sắp xếp để tạo nên ấn tượng của cuộc hành trình đặc biệt ấy. Khi chúng ta bước qua cổng, chân đặt trên những phiến đá trên vùng rêu xanh mà cây cỏ đều tỏa nét u tịch, an bình và hòa hợp tự nhiên lòng mình bỗng dịu lại trong niềm an bình trống vắng như một chiếc lá vàng đang êm đềm yên nghỉ trên phiến rêu xanh.

      Loại vườn thứ tư là vườn mà chúng ta đi vào để ngoạn cảnh. Các loại vườn trước đây người ta chú tâm đến nét tĩnh, loại vườn này lại chú trọng tính cách động: chúng ta dạo quanh vườn, khi ở cạnh hồ, lúc ở dốc núi, khi dưới tàng cây, lúc trên chiếc cầu. Mỗi nơi ta nhìn đều bày tỏ, biểu lộ cái Riêng Biệt trong cái Toàn Thể cũng như biểu lộ cái Toàn Thể trong cái Riêng Biệt. Ðiều kỳ diệu nhất là chúng ta không tách lìa, không ở ngoài những thứ ấy: Chúng ta vừa là cái Riêng Biệt chuyển động trong cái Toàn Thể bao la bất động.

      Ðạo là cái rộng lớn bao la, yên tĩnh tuyệt vời, an vui kỳ diệu. Sống đạo là trở thành, là biết rõ, là an trú trong niềm hạnh phúc bao la sâu thẳm của kiếp nhân sinh tuy ngắn ngủi trong thời gian và nhỏ bé trong không gian nhưng vốn rộng lớn vô biên và mãi mãi không cùng. Ðó chính là niềm bí mật luôn luôn mời gọi, luôn luôn thì thầm, luôn luôn thúc bách chúng ta hãy khám phá những gì mình đang có mà chưa biết đến.

      Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống, chúng ta đang có niềm an vui rộng lớn vô cùng để an hưởng. Xin hãy tặng cho mình điều quý báu ấy. Xin hãy khoan thai bước đến vườn thiền, hãy để lòng an bình và trí buông xả, bước những bước đi trong tỉnh thức để cảm nhận được gió mát đang chổi dậy, để nhận ra những đóa hoa sen đang nở ra trong chốn bình thản và rộng lớn vô biên:

      “Ý về muôn vạn nẻo
      Thiền lộ tâm an nhiên
      Từng bước gió mát dạy
      Từng bước hoa sen nở.”
      (Thiền Sư Nhất Hạnh)
      Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

      Comment

      • #4

        7.Thiền Và Võ Ðạo

        Theo lịch sử Thiền Tông, vào năm 520 Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma) vị tổ thứ 28 của thiền Ấn Ðộ và là vị sơ tổ của Thiền Ðông Ðộ đã vượt biển đến Trung Hoa. Cuộc hải trình kéo dài ba năm và lúc đó Ngài đã 80 tuổi. Lúc cập bến miền nam Trung Hoa, Ngài đã giảng về yếu lý thiền Tông cho Lương Vũ Ðế. Vì nhà vua không nắm được ý chỉ thiền, Bồ Ðề Ðạt Ma bèn rời khỏi nước ngụy, vân du đến đỉnh Thiếu Thất của ngọn Tùng Sơn, ngồi quay mặt vào vách chín năm. Sau đó Thiền Tông Trung Hoa đã khai hoa kết trái.


        Về phương diện võ học, tương truyền Bồ Ðề Ðạt Ma, dù tuổi đã ngoài bát tuần, đã dạy võ công cho đệ tử ở chùa Thiếu Lâm về nội công và ngoại công. Nhờ đó có thể họ trở nên mạnh mẽ hơn, tinh thần tỉnh thức hơn sau những giờ tham thiền bất động. Nhiều sách võ thuật được cho là của Bồ Ðề Ðạt Ma biên soạn như quyển Dịch Cân Kinh cùng các tác phẩm về nội công tâm pháp. Và cũng theo truyền thuyết, nhờ có sự phối hợp giữa Thiền và võ công nên phái Thiếu Lâm một thời được đề cao là Võ Lâm Bắc Ðẩu. Tiếp đến đời nhà Tống, Trương Tam Phong một vị lào sư hào kiệt, xuất thân từ Thiếu Lâm Tự, sáng chế ra Thái cực Quyền, chú trọng nhiều đến sự điều hòa hơi thở và để cho các luồng chân khí trong cơ thể lưu chuyển tự nhiên, trở thành trưởng môn phái Võ Ðang. Dù các câu chuyện võ thuật Trung Hoa nói trên nhuốm màu thần bí, trên thực tế thiền đã nâng cao ngành võ lên hàng đạo, Võ Ðạo.

        Vào thế kỷ thứ 13, có sự trùng hợp đặc biệt là Thiền Tông đã hưng thạnh ở Việt Nam và Nhật Bản khi hai quốc gia nhỏ bé này đánh tan đạo quân xâm lăng hung mạnh của đế quốc Mông Cổ. Ðế quốc này đã chinh phục và cai trị một giải đất mênh mông chạy dài từ Á sang Âu, có một đạo quân sức mạnh vô địch và rất tàn bạo.

        Nhật Bản, nhờ vị trí bao bọc bốn bề bởi đại dương, nên ngoài yếu tố can trường và chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ, những cơn bão lớn mà người Nhật tôn xưng là Thần Phong (Kamikaze) đã làm cho chiến thuyền Mông Cổ tan nát khi tiến đến bờ biển Nhật Bản để chuẩn bị cho một cuộc đổ bộ ồ ạt. Nhờ đó mà cán cân lực lượng đã bị lệch hẳn và số quân Mông Cổ còn lại nếm mùi thảm hại trước các chiến sĩ can trường xứ Phù Tang.

        Ở Việt Nam, quân đội Mông Cổ có nhiều lợi điểm hơn vì họ có thể xử dụng chiến thuật cố hửu với kỵ binh và bộ binh. Với đạo quân bách chiến bách thắng họ đã tràn xuống chiếm thủ đô Thăng Long. Nhưng ba lần xâm lăng, ba lần họ đã gặp phải một lực lượng đối kháng mãnh liệt, với sự điều động uyển chuyển và với sự hợp nhất ý chí quyết tâm bảo vệ xứ sở từ vua quan đến quân dân. Do đó, ba lần xâm chiếm Việt Nam, ba lần quân Mông Cổ thảm bại đến nỗi thái tử Mông Cổ Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để cho bộ hạ kéo chạy trốn mới thoát nạn. Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị đại tướng trực tiếp điều động các đạo quân chiến đấu. Ngài là một vị dũng tướng đầy thao lược nhưng cũng đầy lòng hỷ xả của một thiền gia: không để tâm thù hận riêng tư (sự xích mích giữa hai gia đình của thân sinh Hưng Ðạo Vương và vua Trần Thái Tông do sự vụng về của Trần Thủ Ðộ gây ra) đặt sự an nguy và tồn vong của quốc gia xã tắc cùng tôn trọng hạnh phúc của người dân trên mọi hận thù cá nhân nhỏ bé. Nhân cách và tài năng siêu việt của Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đã phản ảnh qua cách xử thế tiếp vật khi an cũng như lúc nguy của Ngài. Các tác phẩm về chiến thuật, chiến lược, bài hịch tướng sĩ, các bài văn thơ cũng như cách sống lúc còn nắm giữ binh quyền hay những năm tuổi già sống cuộc đời một bậc trưởng lão đạt đạo nơi chốn điền trang, phản chiếu hình ảnh của một người chín mùi nếp sống giải thoát, dù lúc còn đang xông pha trước làn tên mũi đạn hay lúc an cư chốn điền trang.

        Nhưng trên hết, người đã biết cổ động sự nức lòng kháng giặc, sự đoàn kết keo sơn, sự nổ lực xả thân cho đất nước của các tướng lãnh, binh sĩ và dân chúng khắp nơi là vua Trần Nhân Tông. Sứ Thần Ngô Sĩ Liên đã ca tụng nhà vua như sau:

        “Vua được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần tuý, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên Ðồng Tử, ở vai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có thể cán đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm, nhường ngôi năm năm, xuất gia tám năm, thọ 51 tuổi, băng ở Am Ngọa Vân núi Yên Tử. Hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp phục hưng làm vẻ vang đời trước thực là vua hiền của đời Trần.”

        Từ nhỏ vua đã có ý nhường ngôi cho em mà đi tu nhưng chuyện đi trốn bất thành. Sau đó, tuy ngồi trên ngôi báu trị vì trăm họ nhưng không lúc nào xao lãng chuyện tu học. Nhà vua thờ Tuệ Trung Thượng Sĩ làm thầy. Tuệ Trung là một vị thiền sư cư sĩ, anh cả của Ðức Trần Hưng Ðạo, Tuệ Trung Thượng Sĩ được vua Trần Thánh Tông ký thác con là vua Nhân Tông cho ông dạy dỗ. Về mặt tinh thần, ông cũng là người hỗ trợ thượng Hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông trong việc chống quân Mông Cổ xâm lăng.

        Sau khi đã làm xong nhiệm vụ của một ông vua thời chiến, một người lãnh đạo thương yêu trăm họ thời thái bình thịnh trị, một người cha nhân từ và sáng suốt đối với con cái, một người con hiếu thảo với cha mẹ (Mà sử gia Ngô Sĩ Liên đã kính phục: “Nhân Tông trên thờ Từ Cung tỏ ra hiếu đạo, dưới dùng người hiền lập ra võ công, nếu không phải là bậc nhân minh anh vũ thì sao được như thế”), cuối cùng đã rời bỏ cung vàng điện ngọc, sống cuộc đời của một thiền sư khổ hạnh, lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Ðầu Ðà, đi chân đất, ăn mỗi ngày một bữa, nỗ lực tu tập để thâm nhập chân lý không thể nắm bắt được bằng khái niệm, bằng chữ nghĩa.

        Ðối chiếu với lịch sử các triều đại những dân tộc khác, dân tộc Việt Nam có thể tự hào chưa có một ông vua nào có được lòng thương yêu dân chúng tràn đầy, sự dũng mãnh và sáng suốt vô cùng, và cuối cùng, qua con đường thiền đạo tu tập, đã chứng nghiệm sở đắc tâm linh cao vút. Với đầy đủ lòng thương yêu rộng lớn và sự hiểu biết chân thật nên nhà vua, trong đời sống đạo hạnh gương mẫu của nhà sư, đã không nài khó nhọc đi khắp nơi trong nước chỉnh đốn lại các phong tục tập quán. Sách Tam Tổ Thực Lục ghi năm 1304 Trúc Lâm Thiền Sư “Ði khắp mọi nơi thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo lý làm mười điều thiện.”

        Ngoài ra, Ngài còn nhìn xa hơn trong việc thực hiện hạnh phúc cho dân tộc và thịnh vượng quốc gia nên đích thân Ngài đi sang thăm vua Chiêm Thành là Chế Mân. Ðể kết tình hòa hiếu giữa hai dân tộc Chiêm Việt đã nhiều lần tranh chấp nhau, Ngài hứa gả con gái mình là Ngọc Hân Công Chúa cho vua Chiêm Thành, một vị vua anh hùng của dân tộc Chiêm. Tiếc thay, sau khi Ngài qua đời, những diễn biến bên trong triều đình Chiêm và Việt đã đưa đến những cuộc chiến tranh làm cho hai dân tộc suy yếu và nhà Trần kiệt quệ dần.

        Trong những năm cuối đời ngài, Thiền Sư Trúc Lâm đã dồn nỗ lực đào tạo một thế hệ xuất sắc về đức và trí đễ nối tiếp dòng thiền Trúc Lâm. Sách Tam Tổ Thực Lục kể lại những ngày cuối của ông vua thiền sư nàỵ

        “Năm Mậu Thân (1308) ngày 1 tháng 11, đúng nửa đêm (trên ngọn núi Ngọa Vân), Ðiều Ngự (Trúc Lâm) hỏi: “Bây giờ là giờ gì?” Bảo Sát (Ðệ tử của ngài) thưa: “Giờ Tý”. Ðiều Ngự đưa tay ra hiệu mở cửa sổ để nhìn ra ngoài, nói: “Ðến giờ ta đi rồi vậy.”. Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đâu bây giờ?”. Ðiều Ngự nói:

        “Mọi pháp đều không sinh
        Mọi pháp đều không diệt
        Nếu hiểu được như thế
        Chân lý thường hiện tiền
        Chẳng đi cũng chẳng lại”
        (Nhất Hạnh dịch)

        Nói khác đi, mọi hiện tượng kể cả đời sống của con người đều do nhiều thứ hợp lại. Khi thuận duyên thì những thứ riêng biệt kết lại thành một sự vật nào đó. Khi hết duyên thì các yếu tố kết hợp đó chia lìa. Như thế, không có cái gì sanh ra mà chẳng có cái gì bị diệt đi. Khi chúng ta quay về với tâm chân thật thì thấy rõ, kinh nghiệm rõ ràng về trạng thái bất sanh bất diệt, chẳng đến chẳng đi đó.

        I. Hỗn Tục Hòa Quang
        Thân sống trong cuộc đời nhưng lòng lúc nào cũng chan hòa ánh sáng đó là điều vua Nhân Tông thường dạy bảo cho đám môn sinh vì chính mình đã thực hiện được điều ấy. Ngài luôn luôn nhắc nhở chúng ta “Cư trần lạc đạo”: Vui đạo giữa trần thế.

        Vui đạo giữa trần thế là sống an vui trong chính hoàn cảnh mình đang sinh sống. Một thầy tu, một cư sĩ, một ông vua, một người dân, một người cha, một người mẹ, con cái, công tư chức, công nhân, chủ nhân, binh sĩ, sĩ quan, v.v… đều đang sống trong cuộc đời và cùng đóng góp vào trong sự duy trì và phát triển đời sống chung. Mỗi người tuy có những sinh hoạt, suy nghĩ, vị trí xã hội, hoàn cảnh cá nhân và gia đình khác nhau nhưng ai cũng muốn sống tràn đầy an vui. Niềm an vui đó vốn có sẵn trong ta mà ta không biết đến. Khi chúng ta để lòng mình thoải mái, buông xả mọi sự trách móc giận hờn, để cho tình thương yêu tự nhiên chỗi dậy thì lòng ta lập tức sạch trong, tâm ta lập tức rỗng lặng rộng lớn bao la, trí óc ta lập tức tươi mát linh động. Chỉ cần buông xả các ý tưởng mình là sang hay hèn, giỏi hay dở, cao quý hay hèn kém, tốt hay xấu, chỉ cần để lòng mình thoải mái an ổn trong sự thấy biết yên lặng chói sáng khi những ý tưởng đối nghịch, những xúc cảm khuấy đảo chổi dậy thì tâm ta chỉ là một khối tươi mát rỗng lặng bao la, linh động vô cùng. Những ý tửng như ưa ghét, thân thù, khơi dậy những vui buồn, sướng khổ như những đám mây bay qua bầu trời rộng lớn rồi tan biến vào vũ trụ mênh mông.

        Tâm rỗng lặng rộng lớn đó là tâm không “tạp niệm”, là trạng thái vô ngã hay là vô tâm mà Ngài Lục Tổ Huệ Năng gọi là tâm vô niệm, mà kinh Kim Cang nói đó là cái tâm không dính mắc vào cái gì cả. Trong cái tâm bao la rỗng lặng ấy, tùy người, tùy lúc mà các trạng thái tâm linh xuất hiện. Trong lòng ông thầy tu thì tràn đầy tình thương yêu trong sáng và sự hiểu biết chân thật, suối nguồn của dòng hạnh phúc kỳ diệu ngất ngây không chủ thể đối tượng. Nơi một người cầm quyền, một người công chức là sự sáng suốt, ngay thẳng, thành thật và lòng mong muốn đem lại sự vui vẽ và tốt đẹp cho đời sống người dân. Nơi một vị tướng lãnh, sĩ quan, quân nhân là sự dũng cảm, sự không sợ hãi, lòng xem thường gian khổ, sinh hoạt thoải mái trong các hoàn cảnh khó khăn và hy sinh cho sự an vui của đồng bào. Nơi một người chồng là lòng thương mến vợ con, nơi người con là lòng hiếu thảo với cha mẹ, v.v…

        Như thế, cái “vô tâm” ấy vốn không có thể nhìn thấy hay cảm nhận được như luôn luôn tràn đầy nơi mỗi chúng ta từng giây phút, rỗng lặng và an nhiên tự tại nhưng chứa đựng mọi thứ mà chẳng chút dính mắc, yên tĩnh trầm lặng nhưng chiếu sáng linh động và uyển chuyển vô cùng. Ðó chính là Phật tánh, con người chân thật bất diệt của chúng ta.

        II. Tâm Bất Ðộng
        Trong Võ Ðạo, tâm không dính mắc ấy là điều các chiến sĩ luôn luôn mong đạt đến. Khi an trú trong tâm rỗng lặng hay ở trong trạng thái “Vô tâm” thì các ý tưởng (Tạp niệm) như muốn chiến thắng - sợ thất bại, sống-chết, ưa-ghét, tự tôn-tự ti không còn khuấy nhiễu nữa. Ðó là trạng thái mà thiền gọi là Tâm Bất Ðộng hay Trí Bất Ðộng. Chúng ta hãy nghe thiền sư Trạch Am (Takuan 1573-1645) dạy cho đệ tử là kiếm sư Yasyu Tajima-no-Kami, một bậc thầy dạy kiếm cho các vị tướng quân (Shogun) Nhật Bản về kiếm đạo:

        “Ðiều hệ trọng nhất trong nghệ thuật đấu kiếm là phải có một thái độ gọi là “trí bất động”. Trí đó được thành tựu bằng trực giác sau nhiều huyên tập thực sự. “Bất động” không có nghĩa là cứng đơ, nặng trịch và vô hồn như gỗ như đá. Bất động là trình độ cao nhất của động với một tâm điểm không hề giao động. Rồi tâm mới đạt được cao đìểm mẫn tiệp tuyệt đối sẵn sàng hướng sự chú tâm của nó vào bất cứ nơi nào cần thiết - hướng sang trái, sang phải, hướng tới mọi chiều hướng tùy sở thích. Khi sự chú tâm của con bị lôi cuốn và bị điều động bởi ngọn kiếm tấn công của địch thủ, con mất cơ hội đầu tiên để tạo ra vận động kế tiếp cho chính mình. Con lưỡng lự, suy nghĩ, và một phút đắn đo diễn ra, địch thủ đã sẵn sàng đánh con ngã gục. Ðừng để cho y có dịp may nào như thế. Con phải theo dõi sự vận động của ngọn kiếm trong tay địch thủ, giữ tâm trí thong dong theo sự phản kích của chính nó, đừng để tâm niệm đắn đo chen vào. Con chuyển động khi đối phương chuyển động, và do thế mà khuất phục được y.

        “Ðiều đó - điều mà người ta có thể gọi là tâm trạng không tạp niệm – là yếu tố sinh tử nhất trong nghệ thuật đấu kiếm cũng như trong Thiền. Nếu có một chút gián tạp giữa hai hành vi dù chỉ cách nhau bằng một sợi lông, đấy là tạp niệm. Khi hai bàn tay cùng vỗ, tiếng trổi lên ngay không chút lưỡng lự. Tiếng không đợi suy nghĩ đã rồi mới phát. Ở đây không trung gian, vận động này nối tiếp với vận động khác không bị gián đoạn bởi tâm niệm cố ý.”

        “Nếu con bị giao động và đắn đo rằng phải làm gì khi đối phương sắp hạ con, thì con đã chừa dịp cho y, nghĩa là một dịp may cho một đòn sinh tử. Cứ thủ theo thế công đừng khoảnh khắc gián đoạn, công và thủ không rời nhau gang tấc. Tính cách trực khởi của hành động đó nơi con, nhất định cuối cùng sẽ hạ được đối thủ. Cũng như xuôi dòng nước mà đẩy con thuyền nhẹ trôi đi; trong thiền, cũng như trong thuật đấu kiếm, tâm không do dự, không gián đoạn, không gián tạp, được đánh giá cao.”


        “Trong Thiền, người ta thường ưa nói tới một làn chớp hay những đóm lửa lòe lên từ hai viên đá mồi lửa. Nếu hiểu sự kiện đó có nghĩa là mau lẹ, thế là đã hiểu lầm nghiêm trọng. Quan niệm này muốn nói tới tính cách trực khởi của hành động, một dòng vận động không gián đoạn của sinh lực. Hễ lúc nào có gián đoạn, xao lãng, chắc chắn con mất thế thượng phong. Ðiều đó đương nhiên không có nghĩa rằng phải hành sự một cách nhanh nhẹn hết sức. Nếu có ý muốn như thế, tức là đã có gián đoạn, xao lãng, chắc chắn con mất thế thượng phong. Ðiều đó đương nhiên không có nghĩa rằng con phải hành sự nhanh nhẹn hết sức. Nếu có ý muốn như thế, tức là có gián đoạn, xao lãng. Khi có người hỏi: “Thực tại cứu cánh là gì?” bậc thầy trả lời tức khắc không đắn đo: “Một cành mai”, hay “Cây bách trước sân”. Ðó là bất động, nhưng động tùy ứng với những gì hiện diện trước nó. Gương trí huệ phải chiếu chúng từng khoảnh khắc cái này nối tiếp cái kia, tất cả an nhiên không rối loạn. Tay kiếm khách phải bồi dưỡng điều này.” (Tuệ Sỹ dịch)

        III. Chiến Thắng Mà Không Nói Ðến Võ Công

        Vua Trần Thái Tông đã oanh liệt lãnh đạo các cuộc kháng chiến chống quân mông cổ. Tuy vậy, ngài chỉ chú trọng đến Phật học và thực hành quán chiếu trong đời sống hàng ngày. Các tác phẫm của ngài phản ảnh đời sống tâm linh trong sáng đó gồm có những quyển như Thiền Lâm Chuyết Ngữ Lục, Trúc Lâm Hậu Lục, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Ðại Hương Hải Ấn Thi Tập và Tăng Già Toái Sự. Những tác phẩm này gồm có những bài kệ tụng, những thiền ngữ, những phần vấn đáp giữa Trúc Lâm và môn đệ học thiền, cùng những bài thơ tỏa ra tinh thần giải thoát. Có điểm đặc biệt là ngài không đả động gì đến chuyện võ công hiển hách cũng như sự ứng dụng tinh thần thiền vào việc chiến đấu, dù ngài đã lãnh đạo và chiến thắng những cuộc ngoại xâm một cách rực rỡ. Ðiều ấy thật khác xa với một số các vị thiền sư Nhật Bản khi hướng dẫn môn đệ là những chiến sĩ xông pha ngoài trận mạc trong đó có Bắc Diều Thời Tông (Hojo Tokimune), vị tướng quan đã điều động cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ xâm lăng, oanh liệt chiến thắng đạo quân hung dữ này khi họ đổ bộ lên bờ biển phía tây nước Nhật vào thế kỷ thứ mười ba. Do đó, khi nói đến thiền và vũ thuật, chúng ta nên tìm hiểu sự phát triển thiền tại nước này.

        Khi nói về Thiền Tông, người Tây Phương nghĩ ngay đến Nhật Bản vì khi Thiền Tông bị tiêu mòn sinh khí ở Trung Hoa, Ðại Hàn và Việt Nam thì Thiền Tông đã phát triển ở Nhật Bản và ảnh hưởng sâu rộng đến các sinh hoạt vũ thuật, văn chương, thi ca, hội họa, âm nhạc và kịch nghệ. Có một điểm đặc biệt là Thiền Tông là một hệ phái Phật giáo, dù theo tông phái nào, người tín đồ Phật giáo cũng tránh xa sự tranh chấp và chiến đấu, tại sao tại Nhật Bản cũng như Việt Nam thời nhà Trần, thiền được giới chiến sĩ - mà ở Nhật gọi là giai cấp võ sĩ đạo – ưa chuộng?

        Các chiến sĩ có nhu cầu học thiền vì hai lý do: Thiền chủ trương luôn sống trong hiện tại. Cái hiện tại đó không phải là sự trống rỗng lạnh lùng mà tràn đầy sự tỉnh thức chiếu diệu. Trong sự tỉnh thức chiếu sáng ấy lòng ta thấy an ổn, tự tại và thoải mái. Người sống với hiện tại tràn đầy như thế thì không ngoái cổ nhìn lại quá khứ để hối tiếc cũng không mơ tưởng tương lai để mong chờ. Thực tại tối thượng luôn luôn là bây giờ và nơi đây trong từng giây từng phút tràn đầy niềm trong sáng tĩnh lặng. Tâm giác ngộ rỗng lặng và bất động, nhưng uyển chuyển và bén nhạy vô cùng.

        Lý do thứ hai là về phương diện lý thuyết và kinh nghiệm thật sự tâm linh, thiền không phân biệt sống và chết thành hai trạng thái đối nghịch: Khi tâm bất động, ở vào trạng thái định, thì mọi sự phân biệt đều tự chúng tan biến cho nên mọi sự sợ hãi đều tự chúng tiêu trừ.

        Do đó khi ứng dụng thiền vào đời sống hàng ngày, người chiến sĩ khi tuốt gươm ra trận thì không còn ngoái cổ lại, không còn bị phân tâm khi đối diện với sự sống chết, chỉ còn một con đường tiến tới như một vị thiền sư kiếm sĩ Cung Bổn Vũ Tàng (Miyamoto Mushashi) đã nói:

        “Dưới lưỡi kiếm đưa cao
        Dù gặp địa ngục
        Hãy tiến bước
        Cực lạc là đây”

        Cực lạc lúc nào cũng bây giờ và nơi đây.

        Ðó là một điều cần thiết cho người chiến sĩ khi họ cần có một chỗ nương tựa tinh thần và thiền cho họ điều ấy cũng như cung ứng cho họ một triết lý giản dị cho đời sống vào sanh ra tử, luôn luôn phải đối diện với những bất trắc, tận trung với cấp trên, coi thường sự đau khổ cá nhân, bình thản trước mọi biến chuyển của cuộc đời… Thiền không những cống hiến cho họ một triết lý giản dị về ý nghĩa cuộc sống mà còn giúp cho họ một phương pháp huấn luyện tâm linh để thâm nhập vào thể tánh của niềm an bình tịch lặng và sự bất động của tâm trước mọi biến động trong thời buổi chiến tranh. Những vị thiền sư lớn tuổi, trưởng thành rong đời sống tâm linh và đạo hạnh, xa lánh chuyện công danh lại là chốn nương tựa tâm linh của những chiến sĩ trẻ trung gan dạ, đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống hào hung nhưng cũng mong manh như những cánh hoa Anh Ðào rực rỡ mùa xuân.

        Phương pháp hành thiền thì thật giản dị, trực tiếp, không nương tựa vào ngôn tự, chỉ trông cậy vào nỗ lực chính mình để nguồn tâm tự nó yên tĩnh và chiếu sáng, cái ngã nhỏ bé với các bệnh hoạn của nó tự tan biến đi. Lúc đó ta nắm đưọc thực tại trong đội tay trần: nắm bắt cái không thể nắm bắt được qua sự buông xả tuyệt đối. Thiền sinh chỉ nghe lời hướng dẫn của vị thầy, không cần nghiên cứu sách vỡ, tầm chương trích cú, sao lục kinh điển. Những lời hướng dẫn của bậc thầy cho môn đệ thì rất linh động, tùy theo tâm trạng, nỗ lực, mức độ tỉnh thức của mỗi nguời mà chỉ dẫn một cách trực tiếp và giản dị. Những cuộc hỏi đáp giữa thầy trò là Lưu Ðàm, nói trôi chảy tự nhiên như giòng sông trong sáng thảnh thơi để giúp họ đạt được trạng thái chiếu sáng trong tĩnh lặng hay Mặc Chiếu.

        Thiền sinh không còn chỗ nào để bám víu vào vì tất cả các khái niệm đều bị đập tan và chỉ còn cách là trông cậy vào nỗ lực không ngừng nghĩ nơi chính bản thân mình. Khi thâm nhập vào thể tánh uyên nguyên, khi uống được ngụm nước đầu nguồn của dòng suối tâm linh thì thiền sinh trực tiếp kinh nghiệm, sống với sự rỗng lặng, chói sáng, linh động, uyển chuyển mà trưóc đây chỉ nghe nói bằng danh từ. Thật đúng như lời Bồ Ðề Ðạt Ma, vị sơ tổ Thiền Tông Trung Hoa đã nói về thiền:

        “Truyền riêng ngoài giáo
        Không dùng chữ nghĩa
        Chỉ thẳng tâm người
        Thấy tánh thành Phật.”


        Truyền riêng ngoài giáo là một nét đặc biệt của thiền: Không xử dụng những kinh điển để giúp người thấy được chỗ tâm yếu. Người chiến sĩ vốn không thích nhiều về lý thuyết mà chú trọng việc rèn luyện võ công. Khi lâm trận, tâm thức của họ chẳng khác gì một thiền gia: Chỉ có sự chú tâm tuyệt đối vào hiện tại, không ngoái cổ nhìn lại phía sau. Nếu có chút phân tâm ha mối nghi ngại nào thì tinh thần sẽ bị chao động ngay.

        Những chiến sĩ tài ba thường là những người có ý chí sắt đá, coi thường chuyện sống chết, lòng không bận bịu chuyện danh lợi, tâm luôn luôn bình thản. Họ sống cuộc đời nhiều lúc như kẻ khắc kỷ: Tự tại trong sự dũng mãnh, đơn giản và thanh tịnh. Do đó, ở Nhật Bản thường có câu truyền tụng: “Hoàng gia theo Thiên Thai tông, giới quý tộc theo Chân Ngôn tông, chiến sĩ thực hành Thiền Thiên Thai và Chân Ngôn Tông chú trọng rất nhiều đến các nghi lễ. Tịnh Ðộ tông thì rất giản dị về phương diện lý thuyết lẫn thực hành để được cứu rỗi, còn Thiền tông thì thích hợp với giới chiến sĩ can trường, những kẻ vào sanh ra tử.

        Vì tướng quân Nhật Bản đầu tiên của dòng họ Bắc Ðiều (Hojo) học thiền là Bắc Diều Thời Lại (Hojo Tokijori, 1227-1263). Ông ta đã cung thỉnh các vị thiền sư Trung Hoa đời nhà Tống sang dạy đạo và tự mình tham cứu chuyên cần. Khi Thời Lại qua đòi thì con là Bắc Ðiều Thời Tông (Hojo Tokimune, 1251-1258) kế nhiệm chức vụ Tướng Quân. Vị Tướng Quân này đã lập đại chiến công với quốc gia khi ông điều động quân sĩ đánh bại cuộc xâm lăng của đại quân Mông Cổ. Nếu không có cuộc chiến thắng này, lịch sử Nhật Bản đã xoay chuyển theo đường lối khác.

        Bắc Ðiều Thời Tông tượng trưng cho tinh thần can đảm, bất khuất của người chiến sĩ Nhật Bản xuyên qua lịch sử của dân tộc này. Quân đội của ông đã lặng lẽ dàn quân trên bờ biển phía tây nước Nhật chờ đợi đại quân Mông Cổ đổ bộ từ các chiến thuyền to lớn. Sự chiến đấu dũng cảm của chiến sĩ Nhật Bản cộng thêm cơn bảo Thần Phong (Kamikaze) làm tan rả các chiến thuyền xâm lăng, đã làm cho ý đồ quân Mông Cổ tiêu tan thành mây khói. Sau cuộc chiến thắng đó, tướng quân Thời Tông lại chỉnh đốn binh bị, tổ chức lại nguồn máy hành chánh cho hữu hiệu hơn. Ðiều đặc biệt nơi Thời Tông là tuy bận việc quân quốc rất nhiều, nhưng ông ta lại rất chuyên cần học đạo với các vị thiền sư từ Trung Hoa sang.

        Trong một buổi tham vấn với ngài Phật Quang Quốc Sư, vị thầy của mình, Thời Tông đã tìm đến tận đầu nguồn.

        Thời Tông hỏi: “Kẻ thù xấu xa nhất của ta là sự hèn nhát, làm sao con thoát được nó?”
        Quốc Sư trả lời: “Hãy cắt cội nguồn sự hèn nhát đó.”

        Thời Tông: “Nó đến tự nơi nào?”
        Quốc Sư: “Nó đến từ Thời Tông.”

        Thời Tông: “Con ghét sự hèn nhát nhất, làm thế nào lại đến từ con được?”
        Quốc Sư: “Hãy quan sát cảm giác chính mình khi nắm được cái tôi tên là Thời Tông. Chúng ta sẽ gặp nhau lại khi con thực hiện được điều ấy.”

        Thời Tông: “Làm sao thực hiện được điều này?
        Quốc Sư: “Hãy chận đứng mọi ý tưởng.”

        Thời Tông: “Làm sao gạt ý tưởng ra khỏi tâm được?”
        Quốc Sư: “Hãy ngồi tĩnh tọa, nhìn vào chốn phát xuất ra các ý tưởng mà con gọi là Thời Tông.”

        Thiền đã làm cho nhân cách Thòi Tông chiếu sáng hay nói ngược lại, nhân cách Thời Tôn chiếu sáng nguồn Thiền.

        Dĩ nhiên, ngoài sự can trường, Thời Tông còn là một bình gia xuất sắc, đã chuẫn bị kỹ lưỡng vấn đề chiến thuật, chiến lược như điều quân, tiếp vận, vận động tinh thần chiến đấu quân sĩ, nghiên cứu cách hành binh của đối phương, v.v… Ông ta cũng là một nhà hành chánh tài ba và hữu hiệu. Cuộc đời của hai vị Tướng quân dòng Bắc Ðiều đã ảnh hưởng rất nhiều đến các nhà quý tộc, chiến sĩ cũng như người dân Nhật Bản. Thiền Tông từ đó lan tràn đến Tây Kinh (Kyoto) là nơi ngự trị của Thiên Hoàng Nhật Bản. Vua và các nhà quý tộc cũng thành tâm học thiền.

        Khi Thời Tông qua đời, Phật Quang Quốc Sư đã đọc một bài ai điếu:

        “Trong lúc sinh tiền, Tướng Quân Thời Trung đã thực hành mười điều tốt đẹp như mười hạnh nguyện của vị Bồ Tát: Là một người con chí hiếu đối với cha mẹ, một tôi trung của Hoàng Ðế, một vị tướng quân lo lắng chăm sóc cho hạnh phúc người dân, một người đã nỗ lực học thiền và đã đạt được chân lý tối thượng, đã thay mặt vua vỗ an trăm họ, đã đánh tan đạo quân Mông Cổ xâm lăng mà lòng chẳng chút tự kiêu, đã xây dụng ngôi đại tự để tế tự các vong linh của những chiến sĩ (đã bo mình trong cuộc chiến, không phân biệt Nhật hay Mông.), đã tỏ sự tôn kính thầy tổ, và trước khi qua đời đã bình thản khoác chiếc áo của hành giả tu thiền và viết một bài kệ từ biệt với tinh thần sáng suốt vô cùng…” (Zen and Japanese Culture)

        Thiền đã thay đổi sâu xa đời sống của người chiến sĩ, khi dòng suối tâm linh họ khai mở, họ khoác lên người chiếc áo mới tinh của sự vô chấp và nhân cách họ hoàn toàn thay đổi vì họ thấy rõ ý nghĩa thật sự của đời sống. Từ đó tinh thần võ sĩ đạo của người chiến sĩ khác hẳn với tính hiếu sát cuồng nộ hay hung bạo mà vô trách nhiệm. Người chiến sĩ luôn luôn có những đức tính quý báu: Trung thành, hy sinh, trang trọng, hòa ái, không câu chấp hay cuồng tín, dũng mãnh mà nghiêm túc.

        IV. Vô Chiêu

        Người học kiếm cũng như kẻ học thiền, ban đầu còn bở ngỡ vì chưa biết được kỹ thuật luyện tập và cách thức chiến đấu, không khác gì người học thiền trong lúc đầu luôn luôn bị các ý tưởng và cảm xúc làm cho điên đảo. Dần dần, cả hai đều nỗ lực thực hành. Khi người chiến sĩ đạt được kiến thức, kỹ thuật và khả năng chiến đấu cao thì ông ta như kẻ học thiền đã biết cách đối trị các ý tưởng, các điều ham muốn quấy nhiễu tâm mình. Nhưng nếu cả hai chưa khai mở được sự hiểu biết chân thật thì họ chỉ là những kẻ còn chạy mãi ở vòng ngoài. Cuối cùng, người chiến sĩ cũng như kẻ học thiền đến được bờ cõi của Tâm-Bất Ðộng: Không còn dấu vết của tâm chấp trước, nỗ lực tìm cầu, ham muốn hay phân biệt hai thế giới đối nghịch bên ngoài và bên trong.

        Các vị kiếm sư hiểu rõ tâm lý người đệ tử và thường họ giải thích như sau: Lúc đầu người môn sinh chưa biết cách cầm kiếm cho đúng và xử dụng thanh kiếm. Khi bị tấn công thì đưa kiếm lên đỡ chứ không theo chiêu thức nào cả. Dần dần, qua nhiều năm tháng tập luyện, anh ta biết thế công và thế thủ, nhưng mỗi lần đưa kiếm lên hay hạ kiếm xuống anh ta điều hành động theo sự suy nghĩ. Như thế, mỗi lần ra chiêu là tinh thần anh ta ngưng lại nơi một chủ đích và điều đó làm tâm anh ta ngưng trệ dù trong một thời gian rất ngắn ngủi. Mỗi lần tâm ngưng trệ như thế thì ý tưởng xuất hiện làm cho anh ta có thể phân tâm, sợ hải, lo lắng tạo cho anh hồi hộp bất an. Sau nhiều năm chuyên cần luyện them thì thân và tâm người kiếm sĩ dần dần trở thành một khối và trạng thái vô tâm xuất hiện: Anh không còn chú tâm đến kỹ thuật, ý muốn chiến thắng hay chứng tỏ mình là hơn kẻ khác. Người kiếm sĩ đã hiểu được Kiếm Ðạo, an nhiên tự tại, không còn bị thế sự ràng buộc. Thanh kiếm của họ giờ đây trở thành “Vô Tâm Kiếm”, và kỹ thuật chiến đấu giờ đây trở thành “Kiếm Vô Sở Trụ Tâm Pháp”. Do đó mà Hariya Sekiun chưởng môn kiếm phái chủ trương vô hành, vô chiêu thức, tâm vô trụ xứ, đã giải thích cặn kẻ tinh yếu của kiếm pháp:

        “Thể tánh uyên nguyên nơi chúng ta ở trạng thái tinh túy nhất khi chúng ta là đứa trẻ thơ, khi còn được bồng trên tay và bú sữa mẹ. Khi còn bé thì chúng ta hòa hợp với thiên nhiên, vậy thì khi trưởng thành chúng ta cũng có thể để cho thiên nhiên tự do hoạt động nơi chúng ta mà không cần can dự vào. Nhưng bất hạnh thay, khi vừa bắt đầu khôn lớn là chúng ta bị nhồi sọ bởi đủ mọi lý thuyết. Do sự khái niệm hóa mà các giác quan của chúng ta đã chuyển cho chúng ta hình ảnh của một thế giới bên ngoài sai lạc. Khi nhìn một ngọn núi, chúng ta không nhìn thấy ngọn núi như chính ngọn núi, chúng ta không thấy ngọn núi đó đúng với hình ảnh thật sự của nó. Chúng ta thêm vào đó đủ mọi ý tưởng, đôi lúc hoàn toàn có tính cách trí thức, nhưng phần nhiều chứa đựng các xúc động kèm theo. Khi tư tưởng và tình cảm bao phủ ngọn núi, ngọn núi biến thành quỷ quái. Ðó là do sự nhồi sọ hay do những kiến thức ta thu lượm được qua các sinh hoạt cá nhân, chính trị, xã hội, kinh tế hoặc tôn giáo. Hình ảnh đó biến thành hình ảnh kỳ dị, sai lạc, méo mó. Thay vì sống trong một thế giới tự hiển bày chân tính một cách tự nhiên, chúng ta lại sống trong một thế giới gỉa tạo bởi sự vò nắn của ý tưởng. Ðiều đáng tội là chúng ta không ý thức được sự kiện hiển nhiên như vậy.”

        Ông ta lại nhấn mạnh đến điểm quan yếu như sau:

        “Nếu một kiếm sĩ muốn biết cái thế giới méo mó đó ảnh hưởng đến các hoạt động của ông ta ra sao, ông ta chỉ việc quan sát chính mình trong khi chiến đấu. Ông ta sẽ thấy tất cả những hoạt động của mình đi ngược lại với nguyên tắc “Kiếm Vô Sở Trụ” vì tâm không linh động đưọc như trẻ thơ. Theo phương thức đó, những chiêu thức xử dụng không nhanh mà cũng chẳng chậm, cứ để tự nhiên cho cái tánh uyên nguyên tự nhiên hành động tùy theo hoàn cảnh luôn luôn chuyển biến. Người kiếm khách không muốn tỏ lòng gan dạ hay cảm thấy lo lắng. Ông ta không có ý nghĩ về một địch thủ đang ở trước mặt hay mình đang gặp một địch thủ. Ông ta hành động tự nhiên như trong công việc bình thường hàng ngày như việc ông ta ăn điểm tâm. Ông ta ca6`m kiếm như cầm đôi đũa gắp thức ăn bỏ vào miệng rồi bỏ đũa xuống. Việc xử dụng kiếm cũng giản dị, không đòi hỏi nỗ lực nào khác hơn là cầm đôi đũa ăn điểm tâm… Do đó, ông ta được tự do hoàn toàn, không chút sợ hãi, không chút lo lắng, không chút bất an, không cần tỏ ra can trường” (Zen and the Japanese Culture)

        Do đó, khi tinh thần võ sĩ đạo tan biến vào nguồn thiền thì tâm người chiến sĩ trở thành an nhiên bất động, vững vàng như ngọn núi lớn, thư thái tự nhiên và uyển chuyển linh động. Họ bình thản trước mọi biến động vì tâm và cảnh chẳng còn là hai thực thể đối nghịch khi đạt được trạng thái vô tâm như trong một công án thiền:

        “Tây không cầm cán mai,
        Ði bộ lưng trâu ngồi
        Qua cầu trên bến nước
        Cầu trôi nước chẳng trôi.”

        Thiền Ðạo, Hoa Ðạo, Trà Ðạo, Thi Ðạo… cũng đều dựa theo những nguyên lý vô hành, vô tâm, tâm vô trú xứ như trên. Khi đạt được tâm yếu ấy và nắm bắt chân lý tối thượng trong đôi tay trống rỗng thì các vị thiền sư, hoa sư, trà sư, thi sư, vũ sư, kiếm sư không còn quan tâm đến giáo lý, kinh điển, kỹ thuật, nguyên tắc, vì chính cuộc sống của họ thể hiện chân lý tự thân. Người chưng hoa, kẻ pha trà, người vẽ tranh, kẻ làm thơ ung dung hành động một cách tự nhiên, dung dị để tạo ra vẻ đẹp, nét linh động, sự uyển chuyển tinh khôi như chính thiên nhiên tự phơi bày đưòng nét. Do đó, ở Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bổn, Ðại Hàn thời trước, nhiều chiến sĩ, ngoài việc trau dồi vũ thuật, họ còn là những người tận tụy học thiền. Với tâm thức chói sáng trong niềm an bình tĩnh lặng, họ thưởng thúc nghệ thuật uống trà, chưng hoa, làm thơ…Tâm hồn họ chín mùi dần trong Ðạo và hướng về niềm an lạc bên trong.

        V. Võ Ðạo không Hướng Ðến Chiến Thắng

        Học võ để tấn công hay để tự vệ đều hướng về sự chiến thắng. Tuy nhiên, đối với những người chín mùi trong võ đạo thì lòng mong ước chiến thắng kẻ khác cũng tan biến. Người đã chín mùi trong Ðạo – võ đạo, hoa đạo, thi đạo, trà đạo, thiền đạo, Phật đạo, v.v… thì cái tôi (ngã) không còn có mặt. Các ý tưởng thắng bại, khen chê, hay dở, quý tiện, cao thấp, cùng các tâm tư thương ghét, thân thù, thích chán, yêu giận không còn vướng bận lòng họ. Tâm họ buông xả thoải mái nên các ý tưởng đối nghịch, các tâm tư xung đột tự chúng quay về trạng thái an ổn bao la. Trong tâm rộng lớn đó, tình thương yêu trong sáng và sự hiểu biết chân thật tràn đầy. Họ sống trong niềm an vui chân thật tỏa sáng. Những bậc võ sư chín mùi trong ánh sáng giải thoát thường nhấn mạnh đến tình thương yêu và sự hòa hợp hơn là giao tranh và khắc phục địch thủ vì họ không còn thấy ai là địch thủ nữa.

        Ngài Morihei Ueshiba, vị tổ sư sáng lập Hiệp Khí Ðạo (Aikido) đã dạy đệ tử:

        “Con phải nhớ rằng trong tình yêu không có sự tranh chấp, trong tình yêu không có kẻ thù. Một tâm hồn chứa chấp sự phân biệt không còn thích hợp với tình yêu… Hãy coi chiến thắng là sự chiến thắng trên chính tâm hồn bất hòa điệu của con… Tinh thần phục vụ cho nền hòa bình thế giới là cần thiết trong Hiệp Khí Ðạo chứ không phải là tinh thần đầy ấp sự tranh chấp, chỉ muốn học kỹ thuật để đánh ngã kẻ đối đầu.” (Trần Văn Quang dịch)

        Lời nói đó làm cho chúng ta liên tưởng đến lời Ðức Phật: “Chiến thắng một vạn quân không bằng tự chiến thắng lấy mình” cùng lời dạy của Ngài về sự thực hành Phật Ðạo để đóa hoa tình thương và sự thông minh tươi mát nở rộ đưa chúng ta về chốn an vui kỳ diệu đầu nguồn.

        Kẻ đã an ngự nơi vũ trụ bao la của tự tâm thanh tịnh thì tâm lúc nào cũng tỏa sáng và bén nhạy trong niềm tĩnh lặng bao la. Do đó, các vị võ sư sau những giờ phút dốc lòng dạy dỗ cho đám môn sinh ưu tú và đạo đức để truyền lại cho họ tinh hoa của võ đạo, họ tìm đến nhừng nơi thanh vắng, thưởng thức nghệ thuật uống trà trong cô đơn tĩnh lặng, bên cạnh một bình hoa đơn giản, thanh nhã điểm vài đóa hoa tươi mát mong manh. Cũng có thể trong lúc xuất thần, họ cầm chiếc bút lông viết một bài thơ Hài Cú (HaiKu, thể thơ rất ngắn gồm 17 vận) như:

        “Một lữ khách cô đơn
        Xin gọi tên tôi là thế
        Cơn mưa thu này.”

        Ba Tiêu (Tuệ Sỹ dịch)

        Cũng có thể, họ chẳng vào trà thất, không cầm lấy bút lông, không ngắm bức cổ họa hay những đóa hoa mong manh tươi mát trong tiếng nước sôi reo nhẹ mơ hồ như tiếng gió ngàn khơi vọng lại. họ chỉ bước những bước nhẹ nhàng như mây trôi, với tâm thức rỗng lặng và trong sáng, hướng về một thiền đường, để tất cả áo giáp bên ngoài và khoát lên người một chiếc áo tràng đơn giản. Họ khoan thai ngồi lên chiếc tọa cụ để trên tấm bồ đoàn, và trong sự tĩnh mịch mênh mông của buổi chiều thu, họ nhiếp tâm để rồi tan biến vào cái một bao la của vũ trụ vô cùng.
        Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

        Comment

        • #5

          .................................................. ...........................

          .........



          12. Xuân Tươi Thắm



          Mỗi năm, người dân Việt Nam dù theo tôn giáo nào cũng đều ăn mừng Tết Nguyên Đán. Nguyên là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên Đán là lễ chào mừng một năm mới, một nguồn hy vọng mới với tất cả sự mới mẻ trong lòng chúng ta cũng như cảnh vật thiên nhiên bên ngoài. Việc cử hành các lễ lạc mừng xuân mang rất nhiều ý nghĩa trong lòng người dân Việt trong nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm của dân tộc. Lúc thanh bình là lúc cảm tạ Phật trời đã giúp cho người dân sống đời an lạc, vua chúa cai trị anh minh, thời loạn lạc chiến tranh thì tỏ lòng mong ước sớm có hòa bình thịnh trị, lúc xa xứ thì tỏ lòng cầu chúc quê nhà sớm được an vui, người xa nhau chóng được đoàn tụ.

          Dù bận bịu chuyện gì, vào những ngày gần Tết, người dân Việt Nam đều lo trang hoàng lại nhà cửa, đánh bóng lai các lư hương chân đèn bằng đồng, cùng chưng dọn lại bàn thờ cho đẹp đẽ. Hoa quả được bầy biện trang hoàng, các câu đối cũ, nếu có thể, được thay bằng câu đối mới. Mỗi nhà đều cố gắng sắm sửa bánh tét, bánh chưng, dưa hành, mứt hạt dưa, bông hoa quả phẩm. Các người thuộc dòng thứ còn gởi Tết (phẩm vật để cúng) tới nhà trưởng, tức là người con trưởng có trách nhiệm đại diện các em và con cháu để cúng tổ tiên trong dịp Tết.

          I. Lễ Gia Tiên Hay Cúng Ông Bà
          Chiều ba mươi Tết, sau khi giãi quyết các việc cần thiết cũng như trang hoàng bày biện bàn thờ, các gia đình Việt Nam sửa soạn lễ cúng gia tiên. Nhang đèn trên bàn thờ được thắp sáng và tỏa mùi thơm thanh khiết, hoa quả phẩm vật được bày biện đẹp mắt. Ở Việt Nam trước đây, nhang vòng được dùng vào ngày lễ cúng gia tiên vào chiều 30 Tết, lễ mời ông bà cha mẹ về ăn Tết cùng con cháu, vì nhang vòng cháy suốt đêm mới hết. Trên bàn thờ ông bà luôn luôn có hương khói trong ba ngày Tết. Người gia trưởng đại diện cho mọi người khấn tên vị quá vãng và mời họ về chứng giám cùng chung vui ba ngày xuân. Sau đó theo thứ bực, mỗi người tuần tự đến bàn thờ lễ (lạy) bốn lạy và vái 3 vái. Cùng vào lúc ấy tiếng pháo nổ rộn ngoài sân làm cho không khí thêm phần vui tươi, háo hức. Để tỏ lòng thành kính, sáng mồng một Tết, chúng ta cúng lễ gia tiên, cỗ chay hay mặn.



          Những người Phật tử thường cúng chay. Có những ông bà trước khi qua đời tu hành tinh tấn, dặn dò con cháu khi đến ngày kỵ giỗ thì cúng chay nên họ thực hành điều đó. Vì thế ngày Tết nhiều gia đình nấu mâm cỗ chay và đặt mua các thức bánh chay để cúng và cùng đãi đằng những Phật tử đến viếng thăm vào ngày mùng một Tết.

          II. Ý Nghĩa Việc Cúng Ông Bà Trong Ngày Tết

          Chúng ta đang ở thời đại khoa học tân tiến. Mọi người đều biết thế giới này rộng lớn mênh mông. Quả đất to lớn của chúng ta chỉ là một thành phần nhỏ bé của thái dương hệ, gồm mặt trời và các hành tinh khác. Giải Ngân Hà, thế giới của chúng ta, có đến hằng tỷ tỷ mặt trời. Như thế thái dương hệ cũng chỉ là một thành phần rất nhỏ của giải Ngân Hà, ví như một hạt bụi cô đơn trong lâu đài to lớn. Giải Ngân Hà cũng chỉ là một thế giới nhỏ bé so với hàng tỷ tỷ thế giới khác trong vũ trụ rộng lớn mênh mông.

          Theo các nhà khoa học hiện đại thì vũ trụ có trên 200 ngàn tỷ giải thiên hà mà giải Ngân Hà chúng ta là một. Vũ trụ to lớn hiện nay bắt đầu xuất hiện sau vụ nổ lớn (BigBang) vào khoảng mười lăm tỷ (15,000,000,000) năm trước đây. Vụ nổ vĩ đại đó đã tung ra khắp vũ trụ những đám mây năng lượng, từ đó các ngôi sao thành hình. Quanh các ngôi sao này có các khối lửa nóng nguội dần và trở thành các khối tinh cầu tự quay tròn quanh chúng, và đồng thời chạy vòng quanh mặt trời các nhóm hành tinh (như trái đất), vệ tinh (như mặt trăng) và định tinh (như trái đất), vệ tinh (như mặt trăng) và đinh tinh (như mặt trời) có hằng hà sa số trong vũ trụ bao la này. Kinh điển Phật giáo gọi bầu vũ trụ mênh mông rộng lớn vô cùng đó là tam thiên đại thiên thế giới. Ngay trong giải Ngân Hà (Milky way) này, thái dương hệ mà trái đất chúng ta là một thành phần cũng được ví như hạt bụi nhỏ cô đơn trong một căn phòng vĩ đại và giải Ngân Hà cũng chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ vô cùng vô tận.

          Khi cúng kỵ ông bà, người Phật tử trên quả đất này khấn nguyện tên người quá vãng, hay lúc chúng ta làm lễ gia tiên, mời ông bà về cùng hưởng xuân với con cháu thì họ từ đâu trong cõi vũ trụ mênh mông ấy trở về với chúng ta.
          Đức Phật luôn luôn nhắc nhở người Phật tử đừng có mê tín dị đoan, tất cả các niềm tin phải xuất phát từ kinh nghiệm tự thân, phải dựa trên các sự hiểu biết chính xác. Việc thờ cúng của ngưòi Phật tử ở nhà hay ở chùa cũng đều phản ảnh lời dặn dò đó.

          Khi ta thành tâm đốt nén nhang cùng để lòng thanh tịnh mà khấn nguyện các vị quá vãng, một sự nhiệm mầu hưng khởi trong tâm ta. Lúc đó lòng thành bao trùm tất cả, không có một ý tưởng tạp nhạp (tạp niệm) nào xen vào. Tất cả, bên trong cũng như bên ngoài trở nên trong sạch và vắng lặng. Tâm ta trở nên rộng lớn mênh mông như vũ trụ, đèn, nhang, bông hoa quả phẩm ngời sáng lung linh. Sự an lạc và tĩnh lặng tràn đầy khắp chốn. Với tâm rộng lớn, ngời sáng, rỗng lặng và an vui đó con cháu nghĩ tưởng đến ông bà cha mẹ thì ông bà cha mẹ hiện ra tràn đầy, an vui, tươi sáng trong tâm con cháu và cùng vui hưởng ba ngày xuân. Từ sự thành tâm đó mà niềm an vui thật sự dâng lên trong lòng chúng ta. Mỗi người trong gia đình từ giờ phút đó ý thức nhiều hơn đến việc đem lòng thương mến mà đối xử, nói năng với nhau, trẻ con người lớn đều hớn hở vui tươi, chuẩn bị cho buổi cúng giao thừa với sự hiện diện của ông bà, cha mẹ tràn đầy nơi tâm chúng ta: Lòng thương yêu hiếu kính của con cháu đã xóa tan sự cách biệt về không gian lẫn thời gian, giữa kẻ sống và kẻ qua đời. Ba thời quá khứ hiện tại và vị lai cùng hai cõi sống và chết đã hợp thành một chống trong sáng, an vui, rộng lớn bây giờ và nơi đây.

          III. Lễ Giao Thừa



          Giao là giao lại cái cũ và thừa là tiếp nhận cái mới. Người Á Đông trước đây tin rằng hàng năm có một vị thần Hành Khiền coi việc nhân gian, hết năm thì có vị Hành Khiền mới đến thay vị Hành Khiền cũ. Lễ giao thừa là cúng tế tiển đưa ông cũ và chào mừng vị mới. Sau này lễ giao thừa mang nặng ý nghĩa tống cựu nghinh tân, tiển đưa cái cũ và đón chào tất cả sự mới mẻ tốt đẹp của năm sắp đến. Lễ này cũng được gọi là lễ trừ tịch. Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt qua năm mới.

          Vào chiềungày 30 tháng Mười Hai âm lịch, chùa cử hành lễ tiển cúng chư hương linh, hiệp kỵ các vị tổ sư khai sơn cũng như các vị tăng sĩ viên tịch. Sau đó là cúng linh vị các vị Phật tử quá vãng ký linh tại chùa. Lễ giao thừa được cử hành long trọng tại các tư gia, đình, miếu. Bàn thờ giao thừa được bày ở ngoài sân (lộ thiên). Trên bàn thờ có trầm hương bốc khói hương trầm nhẹ thơm, hai cây nến thắp sáng hai bnê, bông hoa quả phẩm được chưng bày gọn ghẽ. Người gia trưởng đại diện mọi người dâng hương, khấn nguyện, sau đó cắm nhang vào lư hương. Lễ giao thừa xong, người Phật tử mặc áo tràng lên chùa lễ phật, nghe giảng và hái lộc đầu xuân. Ngoài ra, nhiều Phật tử đón giao thừa tại chùa rồi sau đó mới cúng ở nhà vì lễ giao thừa ở chùa trang nghiêm và có nhiều đạo vị.

          Ngày Vía Đức Phật Di Lặc
          Ngày vía tức là ngày Đản Sanh của các vị Phật hay Bồ Tát. Bên Công Giáo và Tin Lành có ngày Giáng Sinh, còn bên Phật Giáo thì lại có rất nhiều ngày Đản Sinh, tức là ngày vía của nhiều vị Phật khác nhau. Như ngày vía Đức Phật Thích Ca Đản Sanh vào ngày rằm (15) tháng tu âm lịch, vía Đức Phật A Di Đà vào ngày 17 tháng 11, vía Đức Phật Di Lặc vào ngày mùng một Tết, vía Đức Quán Thế Âm vào ngày 19 tháng sáu. Chúng ta thường nghe nói đến ngày lễ Đức Phật Đản Sanh vào ngày rằm tháng tư và có thể ít nghe đến một ngày lễ quan trọng trong chốn thiền môn là ngày lễ vía Đức Phật Di Lặc. Có lẽ vì có sự trùng hợp giữa ngày Tết cho nên có nhiều người nghĩ ngày xuân đi chùa lễ Phật, thăm viếng các vị tăng ni, gặp gỡ các vị đồng đạo, cùng tụng kinh niệm Phật và hái lộc đầu năm ở chùa. Chúng ta hãy tìm hiểu xem ngoài việc đi chùa như thế, ngày đầu xuân có ý nghĩa gì đối với người Phật tử tại gia và xuất gia.
          Khi gần đến giờ giao thừa, các Phật tử ngồi theo thứ lớp ở chánh điện, nam bên tả, nử bên hửu. Ba hồi chuông báo chúng nhắc nhở các vị tăng ni chuẩn bị y hậu tề chỉnh. Ba hồi bản tiếp theo báo giờ hành lễ sắp bắt đầu. Ba hồi chuông trống bát nhã vang lên theo bước chân các vị tăng vân tập chánh điện (Phật điện) rồi an vị. Giờ giao thừa vừa điểm thì một tràng pháo nổ vang lên những tiếng dòn dã ngoài sân, vị Hòa Thượng, tăng chúng và toàn thể Phật tử cử hành lễ giao thừa.
          oDâng hương cúng Phật, đánh lễ chư Phật và Bồ Tát.
          oLàm lễ cầu an cho tất cả Phật tử hội viên và gia quyến. Cầu cho quốc gia được thái bình, chúng sanh an lạc.
          oTụng kinh Phổ Môn, Bát Nhã và kết thúc bằng tam quy.
          Sau đó, vị Giảng Sư của chùa giảng về sự tích và ý nghĩa ngày vía Đức Phật Di Lặc liên quan đến lòng cầu mong giác ngộ của Phật tử. Tiếp đến là chư tăng đánh lễ chúc mừng Hòa Thượng và vị này chúc lại chư tăng. Phật tử chúc mừng và cám ơn chư tăng đã dìu dắt họ tu học và sống cuộc đời thanh đạm, tinh tấn tu hành để làm gương sáng cho mọi người. Hòa Thượng đại diện chư tăng mừng tuổi quý vị Phật tử, chục họ được mọi sự an lành và vững tiến trên con đường học đạo.

          Sáng mồng một Tết, chùa cử hành lễ thù ân để tỏ lòng kính trọng và nhớ ơn chư Phật, chư Bồ Tát đã thị hiện trên cõi đời này để khai thị Phật pháp, cùng các bậc Tổ Sư, Tôn Túc đã dẫn dắt Phật tử trên con đường tu học, an vui.
          Ở các thiền viện, tôn các vị Phật được xướng tên là sáu vị cổ Phật đến Đức Phật Thích Ca, sau đó là hai mươi tám vị tổ sư Tây Trúc rồi đến các vị tổ Trung Hoa và kế tiếp. Thiền nhấn mạnh đến tâm ấn truyền thừa như một sợi dây dài không đứt đoạn từ xưa cho đến nay. Việc niệm danh hiệu các ngài là xác nhận việc truyền thừa tâm ấn và tỏ lòng kính ngưỡng các bậc tiền bối đó.

          IV. Nội Dung Ngày Lễ
          Chúng ta tự hỏi hình thức lễ lạc như vậy chỉ là tập quán, một cuộc tụ họp vui vẻ hay còn có một ý nghĩa nào khác? Tại sao người Phật tử xem lễ vía Đức Phật Di Lặc vào ngày mồng một Tết là quan trọng trong đời sống tu tập của họ? Muốn hiểu điều này, chúng ta phải đi sâu hơn vào sự mầu nhiệm của tâm uyên nguyên nơi mỗi chúng ta.

          Phật giáo hay đề cập đến ba Thân Phật: Pháp Thân, Báo Thân và Hóa Thân Phật. Pháp Thân là “Thân” tròn đầy và khắp giáp vũ trụ. Phật và chúng sanh không có gì khác nhau. Phật tánh luôn luôn hiện hữu nơi chúng ta, chiếu sáng tràn đầy nhưng chúng ta bị các ham muốn, lo lắng, sợ hãi, buồn phiền che mờ nên không nhận biết được Phật tánh ấy…

          Báo Thân là hình tướng tốt đẹp, trang nghiêm của những vị Phật đã thành chánh giác. Nơi chúng sanh là thân và tâm tràn đầy niềm an lạc, hạnh phúc bao la khi thực hành sự tu tập.

          Hóa thân là thân của các Ngài thị hiện làm người để giúp đỡ kẻ khổ đau cùng hướng dẫn loài người trên con đường an vui và hạnh phúc. Ba thân này luôn luôn hiện hữu mà không ngăn ngại nhau. Chúng ta thường nghe nói chúng sanh vì mê tánh giác (không biết được Phật tánh nơi chính mình) nên sống trầm luân trong khổ đau, còn Đức Phật là người thấy rõ tất cả các hiện tượng vật chất và tâm lý đều nương tựa vào nhau mà có, mà hiện hữu (vạn pháp do duyên khởi), có tính cách vô thường và vô ngã nên tuy sống trong thế giới đảo điên nhưng luôn luôn an nhiên tự tại.

          Sự thực hành đạo Phật siêng năng giúp ta kinh nghiệm được niềm an vui kỳ diệu vốn rộng lớn bao la và mãi mãi có mặt, trong sáng tinh sạch. Đó là tính cách chân thường, chân ngã, chân lạc và chân tịnh của con người chân thật, của chân tâm hay Phật tánh của mỗi người chúng ta. Do đó, khi đi chùa vào dịp đầu năm, có người Phật tử cầu phúc, cầu lộc, nhưng có nhiều người bày tỏ ước mong tu hành tinh tấn và hướng về sự giải thoát an vui vô cùng.

          Phật giáo chú trọng đến sự trong sạch của tâm tức là buông thả tất cả các vọng niệm (ý tưởng phân biệt, so đo, hiềm khích, khen chê, hay dở v.v…). Khi tâm buông thả tất cả mọi tạp niệm gây ra phiền não thì tâm chúng ta tự nó trở thành trong sạch, chiếu sáng rỗng lặng. Tánh tự nhiên của ta, con người chân thật của ta, cái bản lai diện mục (mặt mũi ngàn đời của ta) tự nó lộ diện, tự nó tỏa rộng sáng. Lúc đó tâm của chúng ta đi vào cõi bình an rộng lớn. Chúng ta uống ngụm nước đầu nguồn của dòng suối hạnh phúc uyên nguyên nơi chính chúng ta. Khi tâm đã an bình như thế thì chúng ta tức khắc hiểu được thực tại một cách trực tiếp không qua các lời nói hay chữ viết. Nói theo ngôn ngữ của Lăng Già, sự mầu nhiệm đó có thể diễn tả qua bài kệ ca ngợi tâm giác ngộ của Bồ Tát Đại Huệ như sau:
          Thế gian lìa sanh diệt
          Ví như hoa hư không
          Trí chẳng thấy có không
          Mà khởi tâm đại bi
          Các pháp đều như huyễn
          Xa lìa nơi tâm thức
          Trí chẳng thấy có không
          Mà khởi tâm đại bi
          Xa lìa chấp đoạn thường
          Thế gian hằng như mộng
          Trí chẳng thấy có không
          Mà khởi tâm đại bi
          Biết nhân pháp vô ngã
          Phiền não và sở tri
          Thuờng thanh tịnh không tướng
          Mà khởi tâm đại bi.

          Nói khác đi khi buông xả tất cả các ý tưởng phân biệt, mâu thuẫn tương tranh thì tâm ta đi vào chốn yên lặng sâu thẳm tự nhiên của nó. Từ chốn yên lặng sâu thẳm tự nhiên ấy mà lòng thương yêu rộng lớn (từ bi) và sự hiểu biết chân thật (trí tuệ) bừng dậy, đưa ta vào thế giới ban sơ, thế giới của tình yêu thương bao la ngời sáng không chủ thể đối tượng tràn đầy yên vui. Đó chính là tâm chân thật, tâm Phật hay còn gọi là tâm giải thoát. Và đó chính thật là mùa Xuân Di Lặc.

          V. Ngài Là Ai
          Đầu năm chúng ta thường niệm Nam Mô Di Lặc Tôn Phật. Ngài tượng trưng cho nguồn an vui uyên nguyên, linh động chiếu sáng cho nên tượng của Ngài được tạc theo hình ảnh một ông Phật to lớn, mập mạp, ngồi rất tự tại, áo phành ngực, bụng phình ra, và miệng cười rạng rỡ. Trên người vị Phật đó đôi lúc còn có sáu đứa bé tinh nghịch, đứa móc tai, đứa sờ mũi, đứa kéo miệng, v.v…

          Tên Di Lặc là chữ phiên âm từ tiếng Phạn (Sankrist) là Maitreya, có nghĩa là Từ Thị (Thị: họ, Từ: từ bi), vì Ngài tu Từ Tam Muội, tâm luôn luôn tỏa chiếu ánh sáng của tình thương yêu trong lành và rộng lớn và phát nguyện cứu độ mọi người. Khi lòng thương yêu tràn đầy thì sự hiểu biết chân thật chiếu sáng cho nên tâm luôn luôn an vui trước mọi biến chuyển trong cuộc đời. Sáu đứa bé tinh nghịch là nói về sáu căn của chúng ta (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân và ý) luôn lyôn thúc bách đòi hỏi. Nhưng khi đã thâm nhập vào niềm an vui kỳ diệu của tánh chân thật tự nhiên của mình thì mọi thúc bách, đòi hỏi bên trong đều trở thành một sức mạnh duy trì tâm bình an, linh động và tỏa chiếu. Từ đó, sự an vui tự nhiên xuất hiện nên chúng ta thoải mái và tự tại trong cuộc đời chuyển biến và náo nhiệt.

          Vì thế, ngày mùng một Tết lễ chùa không phải là chỉ để cầu xin được giầu, được sang, mà chính là để xin Chư Phật gia hộ cho thân tâm được an vui, gia đạo bình an, phát tâm rộng lớn tu hành để chóng thành Phật quả như Thiện Tài cầu đạo trong kinh Hoa Nghiêm:
          “Các bậc dũng mãnh vĩ đại đó,
          Đã thành tựu vô số hạnh
          An trụ nơi tháp này
          Tôi chắp tay kính lễ
          Tôi nay cung kính lễ,
          Đức Di Lặc Tôn quý
          Là con trưởng Chư Phật
          Mong Ngài đoái tưởng tôi.”

          VI. Hái Lộc Đầu Xuân
          Nhà hay chùa vào ngày Tết đều có chưng mai vàng. Với tâm tỉnh thức, trong sáng, thoải mái chúng ta biết cành mai nở rộ đó chính là niềm an vui thanh tịnh lớn lao trong mỗi chúng ta. Ngoài ra, sự tươi mát và đẹp đẽ của hoa, lá và cành là sự báo hiệu tốt đẹp của một năm mới vừa đến cùng với biết bao hy vọng trong lòng. Có một nhánh hoa đẹp để chưng trong ba ngày Tết là đều ai cũng mong ước.

          Hái lộc (hái một cành cây có hoa lá) đầu xuân là một tục lệ của người Việt Nam. Chùa ở quê nhà thường rộng rãi. Vườn tược được chăm sóc kỹ lưỡng. Vào mùa xuân cành lá mới đơm chồi nẩy lộc, nhiều loại hoa xuân hé nở xinh tươi. Quanh năm ai cũng bận bịu làm ăn, ba ngày xuân mỗi nhà đều cố gắng mua những cành mai, chậu cúc đẹp đẽ nhất để trang hoàng. Dù ở nhà đã có hoa, người Phật tử đến chùa thường thỉnh một nhánh lộc đầu xuân, một nhánh cây hay một cành hoa nhỏ. Chùa là chốn đạo tràng thanh tịnh. Phật tử tin tưởng rằng sự thanh tịnh an vui cả chốn thiền môn thấm nhuần nơi cả hoa cỏ, cây cối chung quanh. Tâm của các vị tu hành thanh tịnh thì cõi đời trở thành thanh tịnh. Nhận một cành lộc đầu xuân hay để tránh việc cây cảnh bị bẻ, các vị tăng ni phát một cành hoa hoặc một trái cây cho người Phật tử đem về nhà để vào chổ cao ráo, sạch sẽ hoặc là chưng nơi bàn thờ là để được sự che chở, bảo vệ của Chư Phật.

          Riêng những người Phật tử mong cầu giác ngộ, hái lộc về nhà không phải chỉ để có đưọc nhiều sự may mắn trong năm mới mà còn là sự biểu lộ lòng mong ước được cận kề với thế giới Chư Phật mà kinh điển thường mô tả là chiếu sáng bởi các đám mây ngũ sắc lóng lánh với những cành vàng lá ngọc, tiếng nhạc êm ả huyền diệu từ các tiếng hót của các loài chim quý.

          Khi đem một nhánh cây hay một cành hoa về nhà với niềm tin và sự an vui tràn đầy trong lòng thì đó tức là “phép mầu” đã thế hiện. Tâm của chúng ta đã vượt ra khỏi giới hạn của thấy biết hạn hẹp mà đi vào chốn vô cùng. Cành lộc đầu xuân trở nên sáng chói trong lòng chúng ta và cả bên ngoài.

          Với cái tâm an vui, rực sáng đó chúng ta sum họp gia đình, thì lòng ta tràn đầy sự thương yêu giữa vợ chồng, cha mẹ ông bà, con cháu, thân thuộc và bạn hữu. Các nụ cười thật hồn nhiên tươi sáng, thanh thoát, ròn rã. Các lời chúc tụng nói năng, xưng hô cũng trở nên êm dịu, thành thật vì chúng phát xuất từ đáy lòng: chốn không một chút ngăn ngại, tinh sạch như lòng trẻ thơ. Với lòng tràn ngập tình thương yêu và trí sáng suốt như thế chúng ta tiếp tục hưởng ba ngày xuân tươi thắm: thăm viếng bà con, bạn bè, lì xì mừng tuổi trẻ thơ, lễ bái cúng giổ các vị tiền nhân, cúng dường ngôi Tam Bảo.

          Thế giới bên ngoài vẫn xe cộ rộn rịp, tiếng động ồn ào nhưng trong tâm ta từ khi thấy được nụ mai xuân hé nở, vũ trụ bên ngoài không còn như trước nữa: mầu sắc tươi thắm và rực rỡ hơn, các chuyển động xô bồ, ồn ào vẫn diễn ra trong trật tự và êm ả, bầu trời trở nên rộng rãi mênh mông, những đám mây xuân trở thành nồng ấm và chiếu sáng.

          Nhờ thế ta không còn lạ gì trước sự kiện người Việt Nam suốt trong dòng lịch sử dân tộc nhiều lần rộng mở cõi lòng mà tiếp nhận các nhóm chủng tộc hay tôn giáo khác để đưa đến một chủng tộc Việt Nam đa dạng hiện nay và một nền tín ngưỡng hòa đồng Nho – Thích – Lão. Chí cho đến kẻ xâm lăng Sầm Nghi Đống và gần hai mươi vạn quân Thanh vẫn được người dân Việt ở làng Đồng Quang cứ mỗi năm mở hội tại chùa làng tụng kinh cho họ được siêu độ, hay xa hơn nữa trong lịch sử, các tướng lãnh Trung Hoa và quân sĩ xâm chiếm Việt Nam bị tử trận vẫn được đồng bào ta cầu cho được siêu độ sau khi họ bị thảm tử. Điều này cũng xảy ra ở Nhật Bản khi quân Mông Cổ bị tiêu diệt bởi cơn bảo Thần phong và sự chiến đấu anh dũng của những chiến sĩ Phù Tang thì Bắc Điều Thời Phong, một Phật tử hành thiền tinh tấn và cũng là vị tướng quân nổi danh của thế kỹ thứ 13 chỉ huy cuộc kháng Mông oanh liệt này, lập ra một ngôi chùa thật lớn để cầu siêu cho cả chiến sĩ Mông Cổ và Nhật Bản.

          Nền văn minh Phật Giáo với lòng bao dung đáng làm cho chúng ta suy nghĩ thêm về khả năng đóng góp vào sự hiểu biết và hòa hợp nhân loại. Và chúng ta, trên con đường tìm về cội nguồn hạnh phúc bao la thực hành sự buông xả, sự tha thứ, lòng bao dung cho mình lẫn cho người để tình thương yêu nồng ấm, trong sáng bao la và sự hiểu biết chân thật bừng dậy tràn đầy đưa ta về chốn hạnh phúc vô cùng nơi chính cuộc đời này, như thiền sư Viên Chiếu đã mở bày:
          “Đạo vốn không nhan sắc
          Mà ngày thêm gấm hoa
          Trong ba ngàn cõi ấy
          Đâu chẳng phải là nhà.”
          (T.T. Nhất Hạnh dịch)

          Ngôi nhà chân thật của chúng ta chính là suối nguồn hạnh phúc tụ lại thành biển lớn. Đó chính là mùa xuân vĩnh cữu hay xuân Di Lặc vậy.

          13. Ăn Chay

          Một Phong Trào Đang Phát Triển Mạnh Trên Thế Giới.
          Khi nói đến McDonald ai cũng biết đó là tiệm chuyên bán thịt bằm chiên, hamburger, tại Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới. Ngoài hàng ngàn tiệm McDonald chuyên bán thực phẩm ăn liền (fast food) tại Mỹ Quốc, công ty này có 13,000 tiệm khắp nơi trên thế giới. Tuy vậy, vào năm 1992 họ quyết định bán hamburger chay, làm bằng đậu, tại 84 tiệm thịt chiên ăn liền này ở nước Nertherlands.
          Đối thủ của McDonald là Burger King đã có món Spicy Bean Burger, Đậu Chiên Thơm Ngon, bán tại các quầy hàng của hệ thống nhà hàng này từ ba năm nay. Nhiều người ở Hoa Kỳ mong các món hamburger bằng đậu chiên sẽ có mặt sớm ở các hệ thống tiệm bán thực phẩm ăn liền trong nước này.

          Những điều trên nằm trong một tiến trình lâu dài ở nhiều nơi và đặc biệt là tại Hoa Kỳ biểu lộ sự quan tâm của quần chúng đối với thực phẩm. Mùa xuân năm 1991, Bộ Canh Nông Hoa Kỳ thông báo cho dân chúng Mỹ sự cần thiết của gạo, bánh mì, bún, rau cải, trái cây, các thứ đậu trong những bữa ăn thường ngày. Đây là một cuộc cách mạng về quan niệm dinh dưỡng xảy ra trong hệ thống hành chánh của bộ Canh Nông vì từ lâu các chuyên viên về dinh dưỡng đã lưu ý dân chúng bớt ăn thịt cá và gia tăng số lượng rau cải, trái cây và các loại hạt để bớt bịnh tật.

          Thông cáo nói trên tuy ra đời muộn màng nhưng vẫn gặp phản ứng mạnh mẽ của các nhóm sảnh xuất sữa, bơ, phó mát (Cheese), thịt, cá cùng những công ty sản xuất thực phẩm khác. Từ lâu Hàn Lâm Viện Khoa Học và Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ khuyên các dân chúng nên ăn thêm nhiều rau trái nhưng chưa một thông cáo nào chính thức được công bố từ chính phủ nhất là Bộ Canh Nông Hoa Kỳ. Lý do là các nhóm sản xuất thực phẩm có sức mạnh chính trị quá lớn, và họ đã ảnh hưởng rất nhiều trong việc quy định các thành phần thực phẩm trong các buổi ăn của người dân.

          I. Bốn Nhóm Thực Phẩm Chính
          Bộ Canh Nông Hoa Kỳ vào năm 1956, trong mục đích làm gia tăng sức khỏe của người dân, đã chia thực phẩm thành bốn loại căn bản: Nhóm sửa, nhóm thịt, nhóm rau trái, và nhóm ngũ cốc.
          Nếu chúng ta nhìn vào hình nói trên thì thấy tuy rau trái và ngũ cốc được xem là cần thiết nhất, nhưng các nhóm sữa và thịt cá vẫn được khuyến khích ăn càng nhiều càng tốt. Điều ấy đã phản ảnh trong những buổi ăn sáng, trưa và tối của đa số dân chúng: Uống sữa, ăn phó mát, bơ, trứng, thịt bò, thịt gà, thịt heo, cá, tôm ca, cùng bánh mì và rau trái. Thực phẩm chính trên bàn ăn không phải là bánh mì hay ngũ cốc và rau trái mà là thịt bò hay thịt gà, cùng với phó mát, bơ và sữa tươi. Hình ảnh về các bữa ăn Hoa Kỳ là điều mơ ước của nhiều người dân xứ khác với miếng thịt thật lớn ở giữa, những ly sữa tươi mát mẽ, bánh mì, những miếng khoai tây chiên vàng, những chai nước sốt, trứng chiên, những miếng bơ, phó mát, cùng bánh ngọt bổ dưỡng. Ngày nay, nhiều bác sĩ và chuyên viên dinh dưỡng báo động đó là cách ăn đưa đến nhiều bệnh tật nhất cho người dân.



          Khi số lượng người bị bệnh động tim (Heart attack), bệnh xuất huyết não, bệnh áp huyết cao, bệnh ung thư ruột già, ung thư vú cùng những chứng bệnh khác gia tăng do việc ăn uống thì nhiều bác sĩ đã báo động cách thức dinh dưỡng thường ngày của người Hoa Kỳ cần phải được thay đổi. Phản ứng này cũng tương tự như khi được báo động mỗi năm trên 400,000 người bị chết do thuốc lá chính quyền cương quyết hơn trong việc cấm hút thuốc lá các nơi công cọng như trên máy bay, nơi tiệm ăn, những công hay tư sở.

          Ngoài ta đã so sánh với lối ăn uống của người Nhật. Người Nhật ăn rất nhiều cơm, rau, các loại đậu và một ít cá. Người Mỹ ngược lại phần chính trong bữa ăn là thịt. Bác sĩ Peter Greenwald thuộc cơ quan Phòng Ngừa và Kiểm Soát Ung Thư của Viện Quốc Gia Ung Thư cho biết: “Nguời Nhật ở Nhật Bản chỉ có một phần năm hay một phần sáu bị ung thư vú so với Hoa Kỳ. Khi họ qua Hawai ở, số người bị ung thư gia tăng.” Điều này cũng rất đúng với người Việt Nam. Nhiều người Việt sáng đây cũng bị gia tăng các chứng bệnh tim cùng ung thư do cách ăn uống nhiều thịt và mỡ. Những người Việt tại quê nhà thường ăn rau, đậu, các thứ nước chấm như nước mắm, xì dầu, tương, các loại trái cây. Những người khá giả ở thành phố thì ăn nhiều thịt cá, phần đông ăn các bữa ăn nhiều cơm, rau, các loại ngũ cốc. Những buổi cơm nhà nghèo ấy ngày nay lại phù hợp với tiêu chuẩn ăn uống để được lành mạnh tại nước giàu có Hoa Kỳ.

          Những người Á Châu không cần phải đợi đến lúc sang định cư ở nước Mỹ mới có sự gia tăng bệnh tật nói trên. Ở Nhật Bổn số người tiêu thụ các loại thịt, kem lạnh, các thức chiên cùng các thức ăn nhiều mỡ đang gia tăng và nâng cao con số những người bị bệnh ung thư cùng những chứng bệnh khác. Tại Thái Lan ngày nay uống sữa tươi là một cái mốt, tại Trung Hoa Lục Địa các tiệm bán các loại thức ăn Fast Food chứa nhiều mỡ là những nơi được rất nhiều khách hàng tìm đến. Đó là chưa kể cách ăn đặc biệt gồm có tôm, các loại bộ phận súc vật như ruột non, ruột già, gan, phổi bò heo chứa một số lượng cholesterol cao hơn thịt.

          Mỗi lần đi thử máu, bác sĩ sẽ thông báo cho chúng ta biết rõ về mức độ cholesterol cùng cho các lời khuyên cần thiết về cách giảm bớt chất này. Cách giản dị nhất là bớt ăn mỡ cùng các thứ dầu như dầu dừa, dầu thốt nốt (Dừa nước, palm oil) và dầu đậu phụng. Càng ít ăn những thứ ấy càng tốt vì chúng chứa nhiều chất a xít béo bảo hòa (Ssaturated fatty acid) là chất đóng quanh vành trong các mạch máu làm cho mạch máu nhỏ lại. Dù ăn dầu thường như dầu đậu nành, dầu hạt hướng dương, dầu bắp, mè là những loại có chất a xít béo không bảo hòa (non saturated fatty acid) là tốt hơn, nhưng nếu dùng chúng để chiên thực phẩm các thứ dầu ấy sẽ biến đổi một phần tánh chất thành dầu bảo hòa, có tính chất tác hại nói trên. Ngoài ra, nếu nướng thịt hay cá thì sẽ tạo ra chất độc Polycyclic Aromatic Hydrocarbon (PHA) là chất gây ra ung thư bao tử.

          II. Kim Tự Tháp Về Ăn Uống Đúng Cách
          Dù nhiều bác sĩ cùng những trung tâm nghiên cứu về dinh dưỡng đã khuyến khích gia tăng ăn rau trái và bớt ăn cá thịt, nhưng đại đa số người Mỹ vẫn tiếp tục ăn uống như trước. Người ta cho rằng chính sự vận động mạnh mẽ của các nhà sản xuất thịt và sữa tươi đã làm cho Bộ Canh Nông không dám có quyết định khuyên dân chúng bớt dùng những thứ hai nhóm trên đang sản xuất.
          Mùa xuân 1991, Bộ Canh Nông đã vẽ lại thành phần của các nhóm thực phẩm trong bữa ăn. Trước đây họ trình bày theo hình chữ nhật như một chiếc bánh mà mỗi nhóm thực phẩm là một miếng, giờ đây họ trình bày chúng theo hình Kim Tự Tháp mà bánh mì, cơm, các ngũ cốc là nền, tiếp theo đó là rau trái, phần trên cao là sửa cùng các thứ do sửa làm ra, thịt cá, và cuối cùng là nhóm mỡ, dầu, cùng các thức ăn ngọt. Trong hình Kim Tự Tháp này, càng ăn nhiều những thực phẩm nền tảng càng tốt, càng bớt ăn những thứ ở trên chop càng giúp gia tăng sức khỏe, và Bộ Canh Nông gọi đó là Kim Tự Tháp Ăn Uống Đúng Cách (The Eating Right Pyramid).
          Kim Tự Tháp Dinh Dưỡng này tuy rất cần thiết cho dân chúng nhưng lại yểu tử vì sự chống đối của những nhà sản xuất thực phẩm liên hệ. Ông Edward R. Madigan, Bộ Trưởng Bộ Canh Nông Hoa Kỳ, đã ra lệnh đình chỉ vĩnh viễn việc phổ biến tài liệu nói trên vì Bộ “đang duyệt lại”.



          III. Ăn Chay
          Từ năm 1970 đến nay, số người ăn chay gia tăng 30%. Theo cuộc thăm dò ý kiến của Hiệp Hội Các Nhà Hàng Quốc Gia thì tại Hoa Kỳ quan tâm đến các món ăn chay trong các thực đơn. Các chuyên viên dinh dưỡng cho biết những người ăn ít thịt cá thì ít bị các bệnh như tim, bệnh ruột già, tiểu đường, áp huyết cao và chứng bị quá mập.

          Sự phổ biến các tin tức liên hệ mật thiết giữa ăn uống và bệnh tật là một nguyên do thúc đẩy phong trào ăn chay gia tăng ở Mỹ và những nước Tây Âu. Theo cuộc điều tra của tờ Vegetarian Time ở Illinois, Hoa Kỳ vào năm 1992 có 124 triệu ngưòi Mỹ trong số đó có 8 triệu người ăn chay trường hoàn toàn ăn các loại rau trái, ngũ cốc, bơ sữa, phó mát và trứng. Họ tuyệt đối không ăn cá và thịt. Có nhiều người đi xa hơn nữa, không ăn cả bơ động vật, trứng, sữa và phó mát. Họ ăn uống như thế được khỏe mạnh: giảm thiểu tối đa chất cholesterol, đuờng cũng tăng nhiều chất xơ (Fiber) trong thực phẩm. Có người ăn chay vì lý do tôn giáo, có người ăn chay vì lý do sức khỏe, có người ăn chay vì thương xcú vật và có người ăn chay vì muốn chữa trị các bệnh tật. Nhiều bác sĩ khuỳên bệnh nhân ăn chay để chữa trị bệnh ung thư, bệnh tim, bệnh tăng áp huỳết cùng một số bệnh khác. Trong nhiều trường hợp, ăn chay trở thành một sự cần thiết. Người Hoa Kỳ khi nghĩ đến đạo Phật là người ta nghĩ đến ăn chay mặc dù không phải ai theo đạo Phật cũng đều ăn chay. Đạo Phật cũng không bắt buộc Phật tử phải ăn chay và cũng không cho rằng ai không ăn chay là có tội. Đạo Phật khuyến khích Phật tử phát tâm ăn chay từ một đến nhiều ngày trong một tháng để thân và tâm được lành mạnh và trong sáng về thể chất lẫn tinh thần.

          Thịt bò, gà, heo được bán nhiều và rẽ tại các nước Mỹ, Úc và Âu Châu. Ngoài ra trứng, sữa, bơ, động vật, phó mát, kem lạnh, bánh kẹo là những món ăn thông dụng tại những nơi này. Các món ăn này rất ngon miệng, rất bổ vì có nhiều sinh tố và chất đạm nhưng lại kèm theo sự nguy hiểm là có quá nhiều chất cholesterol và chất béo. Những thứ này đóng quanh phía bên trong các mạch máu làm cho sự lư thông máu bị giảm dần hay có nơi bị nghẽn lại. Khi các mạch máu vành quả tim bị nghẽn, một phần bắp thịt tim không còn được máu đến nuôi dưỡng và chuyền dưỡng khí nên bị hư thúi đưa đến chứng thối tim mà chúng ta thường gọi là chứng tim ngưng đập cấp tính (Heart attack). Người Việt Nam thường nói chết vì bị trúng gió. Thật ra, rất nhiều người chết do chứng nói trên chứ không phải trúng gió.

          Nếu các mạch máu trên não bộ không thông vì bị chất béo đóng nhiều bên trong thì tạo nên chứng nghẽn động mạch não gây ra sự vỡ mạch máu não mà chúng ta gọi là bị kích ngất(stroke). Bệnh động tin (heart attack) và kích ngất là hai nguyên nhân chính đưa đến nhiều cái chết hay bệnh tật tai hại hiện nay tại Hoa Kỳ làm cho nhiều người bị tàn phế như tê liệt, mất tri nhớ, tim yếu đi cùng các thứ bệnh nguy hại khác.

          Ngoài ra, ăn nhiều chất béo cũng làm gia tăng bệnh huyết áp, do mỡ đóng bên trong mạch máu. Chưa kể nếu người đó hút thuốc lá thì tỷ lệ bệnh tật lại càng cao hơn nữa. Ăn chay là cách giảm thiểu tối đa những rủi ro nói trên.

          Hiện nay có bốn cách ăn chay chính trên thế giới.
          1.Không ăn thịt như bò, dê, heo, gà, nhưng ăn cá, trứng, uống sữa, các thực phẩm từ sữa như bơ, phó mát và các loại rau trái cùng ngũ cốc (Non meat diet).
          2.Không ăn thịt cá, chỉ ăn trứng, sữa bơ, phó mát, rau trái và ngũ cốc (lacto ovo vegetarian diet).
          3.Chỉ ăn bơ, phó mát, uống sữa cùng ăn rau trái và ngũ cốc (Lacto vegetarian diet).
          4.Chỉ ăn ngũ cốc và rau trái (vegan hay strict vegetarian diet).

          Đạo Phật khuyến khích ăn chay để nuôi dưỡng tình thương yêu đối với mọi loài nên người Phật tử ăn chay theo lối 2, 3 hay 4. Một số người Việt và Hoa Kỳ ăn chay theo lối Oshawa theo lối 4. Có điều khác biệt là những người Việt ở Việt Nam chỉ ăn gạo lức muối mè, uống rất ít nước. Những người ở Hoa Kỳ khi ăn theo phương pháp dưỡng sinh Oshawa chú trọng nhiều đến tính cách “âm dương” của mỗi loại rau cỏ và ngũ cốc. Họ không ăn gạo lức muối mè mà thôi, họ ăn rất nhiều thực phẩm bổ dưỡng như sữa nguyên chất, rong biển, các loại rau và ngũ cốc. Khi ăn những thức có chất protein chúng ta phải uống nước nhiều để cơ thể có thể thải những chất protein không hấp thụ được qua đường tiểu nếu không dễ bị bịnh sạn thận do những chất protein và calcium kết lại thành.

          IV. Ăn Chay Làm Sao Cho Tốt
          Điều tốt nhất cho việc ăn chay là đừng xem ăn chay là thánh thiện, ăn mặn là tội lỗi. Đó là một quan niệm quá đà của những người thích kết án người khác. Ăn chay là để có sức khỏe cho mình, sống phù hợp với lòng thương yêu của mình đối với động vật.

          Các Phật tử được khuyến khích ăn chay ít nhất là hai ngày một tháng vào ngày rằm và mùng một để nuôi dưỡng lòng từ bi với sinh vật. Riêng các vị tu hành, ăn chay là điều cần thiết để làm gương tốt cho cộng đồng tôn giáo của mình nếu tôn giáo ấy xem việc ăn chay là sự biểu lộ tình thương yêu, là sự không bị lệ thuộc vào những thứ bên ngoài, là sự tinh khiết trong đời sống tôn giáo, là sự biểu lộ hạnh nguyện cứu độ chúng sanh và cũng là cách sống theo niềm tin, lời nguyện và làm điều tốt đẹp. Sống với tín, nguyện và hành đó thì quả tim ta mở rộng, trí óc thông minh, hạnh phúc tràn đầy. Một người có tình thương yêu và có hạnh phúc chân thật không kết án người khác là tội lỗi khi họ khác mình. Một người có sự hiểu biết chân thật thì chia xẻ những gì làm cho người khác hầu gia tăng sự an lành, sức khỏe và niềm an vui trong cuộc sống.

          Đạo Phật khuyến khích người Phật tử ăn một tháng vài ngày hay nhiều ngày tùy theo hoàn cảnh và khả năng cho phép. Ngày nay có nhiều Phật tử cũng như không phải là Phật tử ăn chay trường, vậy chúng ta nên thực hành việc ăn chay sao cho thật có lợi ích cho mình để thể chất được mạnh khỏe, tinh thần an vui và tránh đuợc nhiều bệnh tật.

          Mỗi ngày chúng ta cần ăn đủ số calory, chất đạm, các chất sinh tố và khoáng chất để cơ thể được khỏe mạnh. Trunh bình mỗi ngày một người nặng độ 55 kí lô cần độ 2200 calories để tạo ra năng lượng cho những bắp thịt của anh ta được hoạt động cùng tạo ra sự ấm áp cho cơ thể. Nếu thiếu thì chúng ta dễ bị mệt mõi và yếu sức. Số calories đó tăng hay giảm đôi chút tùy theo người lớn hay nhỏ con.

          Thứ đến chúng ta cần có chất đạm (Protein). Chất đạm cần thiết vì là thực phẩm của các tế bào. Chất đạm có trong thịt, cá, đậu nành và các loại đậu, sữa, trứng, các loại ngũ cốc và một ít nơi rau trái. Chất đạm ca sữa và trứng là tốt nhất vì cơ thể chúng ta hấp thụ rất dễ dàng. Tuy nhiên, trứng chứa rất nhiều cholesterol và sữa bò lại có quá nhiều mỡ, do đó không nên dùng nhiều các thứ này. Người ăn chay tuy không ăn các chất có nhiều cholesterol như thịt nhưng tốt hết đừng ăn năm cái trứng gà một tuần. (Trứng gà ở Mỹ không có ngòi, không nở thành gà con dù có ấp những cái trứng này. Ăn trứng gà này không vi phạm đến lời nguyện Bất Sát của người ăn chay. Do đó, ăn trứng này không “Có Tội” như một số người hiểu lầm. Tuy nhiên, những người nào ăn chay mà không muốn ăn trứng cũng tốt, nhất là với tâm thanh tịnh thật sự không đặt thành vấn đề mình ăn chay là mình hơn người khác. Ăn chay là để tâm thanh tịnh. Nếu ăn chay mà lòng giận hờn hay trách móc thì chỉ có ăn chay hình thức mà không có ăn chay thật sự trong tâm.)

          Các loại chất đạo trong đậu và ngũ cốc tuy không tốt bằng sữa, trứng và thịt nhưng lại hơn các thứ trên ở chổ không chứa nhiều các chất độc hại cho cơ thể. Nếu các loại đậu này được trộn chung nhiều thứ thì sẽ giúp chơ cơ thể hấp thụ chúng một cách dễ dàng. Người dân Nam Mỹ ăn nhiều đậu, riêng về ngưòi Việt Nam chúng ta thấy ông bà mình rất hiểu biết về khoa dinh dưỡng khi ăn cơm với muối mè, đậu phọng, xôi bắp, xôi nếp, xôi đậu xanh, bánh chưng, bánh khúc, cùng các thứ đậu hay hạt khác.

          Theo tiêu chuẩn của Hội Đồng Thực Phẩm và Dinh Dưỡng Hoa Kỳ thì số lượng chất đạm cần thiết cho mỗi người thì mỗi ngày ăn từ 50 đến 70 gram proteine là đủ (Độ 1 gram cho mỗi ký lô cơ thể). Như thế, một người lớn chỉcần ăn ba miếng đậu hủ (đậu khuông) bằng ba ngón tay là đủ cộng với các thứ rau đậu và hạt khác. Trẻ so sinh cần khoảng từ ba đến bốn lần số lượng proteine cho một ký lô thân thể (so với người lớn). Trẻ em từ 6 tháng đến 15 tuổi cần gấp đôi số lượng protein echo một ký lô thân thể (so với người lớn). Một cách tổng quát, các em bé cần từ 23 đến 36 gram protein một ngàỵ Do đó, cha mẹ khi muốn cho con cái ăn chay tốt hơn hết là chính mình và con cái cần được sự cố vấn của bác sĩ và nên được bác sĩ gia đình theo dõi sức khỏe theo chương trình thường lệ trong năm.

          Các loại rau trái cung cấp một số các sinh tố và khoáng chất cần thiết. Tuy vậy, người ăn chay thường bị thiếu sinh tố B12, chất sắt (Fe) và kẽm (Zinc) cùng một vài loại khoáng chất như calcium cần cho xương. Đối với phụ nữ, cần phải khám nghiệm bác sĩ để theo dõi số lượng calcium cần có để sau khỏi bị còng lưng. Cám có nhiều sinh tố B, sữa, khuôn đậu nành, tròng trắng trứng có nhiều calcium.

          V. Những Buổi Ăn Thưòng Và Những Buổi Ăn Chay
          Sau đây chúng ta hãy so sánh hai buổi ăn thường và ăn chay. Nếu những vị nào ăn chay trường thì rất tốt. Những vị nào ăn thường thì cần tránh bớt thịt, mỡ và các thứ chất béo có hại cho sức khỏe.
          Ăn Thường:
          Ăn Sáng
          Tốt
          Không Tốt
          Bánh mì lức, cơm, bún Ý Đại Lợi (Spaghetti), trái cây, nước trái cây, sữa ít chất béo (Low fat milk hay skim milk), xôi với đậu, da ua (Yogurt) ít chất béo, cottage cheese, các loại cereal có cám, v.v…
          Ăn thịt và những thứ mỡ súc vật, bánh mì trắng, nhiều bơ súc vật, cheese, trên sáu cái trứng một tuần, bánh croissant nhiều bơ hay dầu, nhiều bánh chiên hay bánh kẹp (pan cake hay waffle), thịt heo chiên (Beacon), cà phê nhiều caffeine, sữa có nhiều chất béo, nhiều muối, nước cốt dừa, dầu dừa, v.v…


          Ăn Trưa và Tối
          Tốt
          Không Tốt
          Cơm, cơm gạo lức, bánh mì lức, rất ít thịt, cá, tôm, cua. Nếu ăn cá nhỏ thì tốt hơn cá lớn, rau, đậu, các thức ăn tươi, luộc, hấp hay xào ít dầu mỡ tốt hơn là chiên, các loại tương ít sodium, trái cây tươi và nước trái cây hay nước lạnh, v.v…
          Hambuger, khoai chiên, nhiều thịt, nhiều mỡ súc vật hay dầu thực vật, dầu dừa, dầu thốt nốt, các thứ chiên quá vàng, bột ngọt và nhiều muối, trứng quá nhiều, bánh ngọt, các thứ có nhiều đường.


          Ăn Chay
          Tốt
          Không Tốt
          Cơm gạo lức càng tốt, đậu hủ xào, luộc hay nấu canh. Bớt chiên vàng càng nhiều càng tốt. Mì căn xào hay luộc, bớt chiên dòn càng tốt. Rong biển, rau câu, các loại bún. Các hạt đậu có vỏ, rau tươi xào luộc, hấp hay nấu canh. Các loại dầu không bảo hòa. Dưới bốn (4) cái trứng một tuần. Ít gia vị như bột ngọt, ớt, ít trà và cà phê có nhiều chất caffeine, v.v…
          Nhiều cơm trắng quá, đậu hủ chiên quá vàng, các loại dầu bảo hòa (Saturated oil) như dầu dừa, dầu mè, dầu thốt nốt (Dừa nước) và dầu phụng. Nhiều đồ hộp nhất là những thứ không để khi nào hết hạn. Nhiều xì dầu mặn, chao mặn, tương mặn do quá nhiều muối. Nhiều trà và cà phê có nhiều caffeine.


          Như thế, dù ăn thường hay ăn chay, chúng ta tránh ăn nhiều dầu mỡ, chất muối, chất đường, các chất hóa học như bột ngọt, các chất nhuộm màu, cùng những thú gia vị khích thích vị giác. Nói như thế không phải là ăn kham khổ. Nấu chay cũng vẫn có thể rất ngon. Các tiệm chay tại San Francisco lúc nào cũng đầy thực khách. Ngoài ra, một tiệm chay thuộc thiền đường Tassajara mở tại vùng San Francisco nấu rất ngon và rất nổi tiếng. Muốn ăn tối vào ngày cuối tuần, thực khách phải ghi tên trước sáu tháng.

          Đức Phật khi tu hành Ngài đã khám phá ra con đường trung đạo, không dính mắc vào một thái độ cực đoan quá khổ hạnh hay quá ham muốn dục lạc. Người cư sĩ sống trong cuộc đời, quán sát hoàn cảnh sinh sống mà sắp xếp chuyện học hành, làm việc, ăn uống, giải trí, v.v… cho được lành mạnh an vui và hạnh phúc.
          Dân chúng các nước kỹ nghệ giờ đây rất quan tâm đến vấn đề sức khỏe và bảo vệ môi sinh. Phong trào ăn chay đang gia tăng tại Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới. Ăn chay để được nhiều sức khỏe, để bớt bịnh tật, để nuôi dưỡng tình thương, để sống đời sống an vui tinh thần theo sự chọn lựa của mình.

          VI. Phòng Ngừa Bệnh Truyền Nhiễm
          Cách ăn dùng chén đũa theo người Việt Nam rất gọn ghẽ và thân mật. Hiện nay có một số bệnh truyền nhiễm có thể lây qua nước bọt (nước miếng) nên cách dọn ăn ở nhà, nơi công cộng và chùa chiền cần được chú trọng để những người tham dự bữa ăn được bảo vệ không bị lây bệnh.
          1.Mỗi người cần có một chén nước chấm riêng để tránh việc mọi người đều chấm và cùng một chén.
          2.Mỗi dĩa thức ăn cần có một cái muỗng hay đôi đũa chung để chuyển thức ăn vào chén riêng.
          3.Tránh không dùng muỗng hay đũa cá nhân (muỗng hay đũa riêng của mỗi người) múc canh hay gắp thức ăn ở tô canh hay dĩa thức ăn để giữ vệ sinh chung.
          4.Khi nấu ăn đừng nếm thức ăn rồi đổ phần còn lại vào trong nồi. Dùng muỗng sạch để nếm, nhất là nấu cho khách ăn.
          5.Rữa sạch tay trước khi nấu ăn hay khi dọn bàn.
          Những điều nói trên lại càng phải thực hành kỹ lưỡng hơn khi chúng ta mời các bạn ngoại quốc đến dùng cơm. Rất nhiều người Hoa Kỳ sẽ an “không ngon” nếu chúng ta dùng đũa của mình hay muỗng của mình gắp hay múc vào đĩa hay tô chung. Thực hành những điều trên hàng ngày giúp chúng ta gia tăng sự chú tâm lúc nấu ăn, khi dọn bàn và lúc ăn uống đồng thời bảo vệ được sức khỏe cho chính mình và cho mọi người.

          VII. Bảng Liệt Kê Một Số Thức Ăn Chay
          Để giúp các bà nội trợ trong việc chọn thực phẩm, dược sĩ Chân Huyền phân tích số lượng calories và protein trong bài Những Điều Nên Biết Khi Ăn Chay trong tập san Nguồn Sống số 15. Ngoài ra, dược sĩ Chân Huyền dặn chúng ta khi ăn chay cần nhớ những điều quan trọng sau:
          1.Trong bữa ăn, ngoài rau trái, nên ăn vài loại hạt và đậu khác nhau.
          2.Ăn các loại gao lức, bánh mì lức, bún lức (có nhiều chất cám).
          3.Để ý tỷ lệ 20-30% rau đậu và 70-80% ngũ cốc để số protein được hấp thụ nhiều hơn.
          4.Mì căn là một nguồn protein rất tốt, trừ những người bị phản ứng với gluten thì phải cử vì có thể bị đau ruột nặng. Bột mì căn thường được bán ở các tiệm thực phẩm quốc tế hay các health food store.
          5.Tránh ăn bột ngọt (Glutamate de sodium) vì có thể gây những phản ứng khó chịu cho cơ thể. Trong phòng thí nghiệm, bột ngọt gây phản ứng bất lợi cho chuột và thỏ.
          Vào mùa xuân 1992, hình kim tự tháp về dinh dưỡng lại xuất hiện trên các báo chí Hoa Kỳ, dân chúng càng lúc càng quan tâm và thực hành lối ăn giảm bớt thịt cùng chất béo. Cô Neva Cochran, chuyên viên dinh dưỡng và là phát ngôn viên của Hội Dinh Dưỡng Hoa Kỳ, American Dietic Association, khuyến cáo nên gia tăng ăn các loại rau trái và ngủ cốc và giảm thật nhiều thịt và chất béo. Cô đề nghị cho một bữa ăn dựa theo đề nghị của Bộ Canh Nông nói trên như sau:
          Ăn Sáng
          ¾ cup có 40% chất cám (bran) hay cám có nho khô (raisin bran), ½ cup sửa không có chất béo (skim milk), 1 trái chuối, một ly nước cam.
          Ăn dặm buổi sáng
          Một bánh có cám (brain muffin).
          Ăn Trưa
          Sandwich: 2 miếng bánh mì lức, 2 ounces gà tây (một miếng nhỏ đối vói người ăn thịt, còn người ăn chay có thể ăn đậu khuôn), một miếng phó mát (cheese), một muỗng nhỏ mayonaise.
          Một dĩa rau 1 cup gồm có: cải broccoli xanh cà rốt và cải bông với thứ nước tưới lên ít chất béo (low fat dressing).
          Ăn dặm chiều
          Một cốc ya-ua (yoyurt) ít chất béo và một trái đào.
          Ăn chiều
          Ăn nhiều gạo lức (brown rice), giá, cà chua, dưa leo, bánh mì lức, v.v…
          Thức ăn thông thường của người Việt Nam vốn nhiều rau trái, chúng ta chỉ cần quay về với lối ăn lành mạnh của mình có sẵn và gia tăng thêm những thực phẩm tốt và rẻ tại Hoa Kỳ như rau, trái cây, sửa đậu nành hay sửa không chất béo, các loại thức ăn sáng có nhiều chất cám v.v… thì chắc chắn chúng ta sẽ gia tăng sự khỏe mạnh trong đời sống hàng ngày.

          .................................................. ......................

          [url="http://www.quangduc.com/vanhoa/09netvanhoa.html"][COLOR=black]Error - 404
          Đã chỉnh sửa bởi GRANDET; 04-07-2009, 09:34 AM.
          Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

          Comment

          Working...
          X
          Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom