• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Thư cho con gái sau ngày Lễ Tạ Ơn

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Thư cho con gái sau ngày Lễ Tạ Ơn

    Trần Mộng Tú


    Letter after Thanksgiving


    My Dear Angie,

    This morning when I was standing at the front door, I let my eyes follow you pulling your suitcase, and watched you disappear behind the car. I felt mixed between happiness and sadness.
    I know that this young lady is my daughter who just gave me a good bye warm hug. But also she is a someone, someone who has grown up and stepped out of her family door into her own life.
    I closed the door with my heart sobbing, came up stairs, entered your room, and you know what? I got into your bed, under the blanket, your warmness still remaining, and I breathed into my lungs your body scent and it brought back to me the scent of your childhood. I closed my eyes and put myself to a nap in that fragrance.

    When I woke up, the house was so quiet, I got out of the bed, and while making the bed, I found a long hair on the pillow, I picked it up. It is a fine chestnut color hair, it is yours. I hold the hair close to my eyes, thinking about all the hairs I found on the beds in my family.
    The long silver one of your grandma Tran, the gray color very fine one of your grandpa Pease, little white twisted and short of grandma Pease, the short blond of your father, dark and very straight of your younger brother, Phil, honey color of your older brother, Jean Paul.
    All these hairs are memories now ( except the hairs of your father I sometimes still find on my pillow). Some of the hairs have gone far away. Now and then, they appear on the pillows, and disappear behind the door. And some of them I will never find on the pillows again, they follow your ancestors and become fairy tales.

    In the afternoon of the day after Thanksgiving, as I stood in your room by myself with your hair on my hand, I suddenly recognized I could not hold all the hairs of my loved ones in my palms forever.
    Through time the hairs will be gone somewhere, somehow, but they all always remain in my heart. My heart is a pillow for the hairs to lie down.

    One day, you will marry, will become a mother of all grown up children, a daughter whose parents passed away. You will find yourself standing in a room with a hair on your hand, and you shall know nothing in the world worthier than a hair of your loved one.

    Love you
    Mom



    Thư cho con gái sau ngày Lễ Tạ Ơn

    Angie yêu quý,

    Sáng nay khi mẹ đứng trước cửa nhà nhìn con kéo chiếc va li khuất sau cánh cửa xe, lòng mẹ vừa vui vừa buồn.
    Mẹ biết cô thiếu nữ thanh tân kia là con gái của mẹ, cô vừa ôm từ giã mẹ một cái ôm ấm áp thương yêu, nhưng cô cũng là một ai đó, một ai đã trưởng thành bước qua ngưỡng cửa gia đình vào đời sống riêng cô.
    Mẹ khép cánh cửa với trái tim thổn thức, lên lầu, và con biết gì không? Mẹ đã chui vào trong giường của con, ở dưới chăn, hơi ấm của con còn nguyên, mẹ hít cái mùi thân thể con vào lồng ngực, và cái hơi hướm của con thời thơ ấu chợt trở về với mẹ, mẹ nhắm mắt tìm cho mình một giấc ngủ trong hương thơm đó.

    Khi mẹ tỉnh dậy, căn nhà yên ắng, mẹ bước xuống giường và trong khi làm giường mẹ tìm được một sợi tóc dài, mẹ cầm lên, đó là một sợi tóc rất mảnh có mầu hạt dẻ, sợi tóc của con. Mẹ cầm sợi tóc lên ngang mắt, nghĩ đến những sợi tóc mẹ đã tìm thấy trên những cái giường trong nhà mình.
    Sợi tóc dài bạc như cước của bà ngoại Trần; sợi tóc mảnh và xám của ông nội Pease; sợi tóc nhỏ trắng quăn của bà nội Pease; sợi tóc ngắn mầu lúa mạch của cha con, đen và rất thẳng của em trai con, Phillip; mầu mật ong của anh con, Jean Paul. Tất cả những sợi tóc này đã trở thành kỷ niệm, (chỉ trừ tóc của cha con thỉnh thỏang vẫn tìm thấy trên gối của mẹ) Có những sợi tóc đã đi rất xa, thoảng xuất hiện trên gối, thoảng mất hút sau cánh cửa, có những sợi tóc đã đi theo tổ tiên của con và trở thành huyền thoại.

    Trong một buổi chiều sau ngày lễ Tạ Ơn, mẹ một mình đứng trong buồng con, đứng với sợi tóc của con trên tay, mẹ bỗng nhận ra là mẹ không thể nào giữ được tóc của tất cả những người thân yêu trong lòng tay mình mãi mãi.
    Theo thời gian bằng cách nào đó, về một nơi nào đó, tóc sẽ bay đi nhưng những sợi tóc này sẽ ở lại mãi trong tim mẹ. Trái tim của mẹ là chiếc gối cho những sợi tóc ngả vào.

    Một ngày nào đó con sẽ lập gia đình, sẽ trở thành người mẹ của những đứa con đã trưởng thành, một người con có bố mẹ đã qua đời. Con sẽ thấy mình đứng trong một căn buồng với một sợi tóc trên tay, con sẽ hiểu không có gì trên đời này giá trị hơn sợi tóc của người thân.

    Yêu con
    Mẹ




    Trần Mộng Tú

    Đôi dòng về tác giả: Sang Mỹ tháng Tư năm 1975 (Thư Ký cho Hãng Thông Tấn The Associated Press ở Sàigon 1968-1975).
    Hiện sống ở Seattle, Washington với gia đình.
    Thường xuyên cộng tác với các tạp chí văn học ở Mỹ và các nước khác.

    Viết truyện nhi đồng cho báo Los Angeles Times từ năm 2000, có thơ Anh Ngữ...

    (damau.org)
    Đã chỉnh sửa bởi GRANDET; 25-07-2009, 12:22 AM.
    Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......
    Similar Threads
  • #2

    Thư Cho Con Gái Ngày Đính Hôn -Trần Mộng Tú

    Thư Cho Con Gái Ngày Đính Hôn

    Trần Mộng Tú 02.08.2008

    Con gái yêu của mẹ.

    Tháng sáu, những cánh hoa bông goòng bay hoang mang như tuyết lạc trong bầu trời mùa hạ. Hoa bông bay cả vào trong cửa xe, bám trên tóc trên vai áo mẹ. Lòng mẹ xôn xao bay lạc giữa những vui buồn.
    Tháng sáu, mẹ lái xe đi vào tiệm vải, tiệm bánh, tiệm rượu, tiệm trà. Mẹ đi sắm sửa cho một ngày lễ hội hân hoan và trọng đại cho mọi người trong gia đình mình. Hôm nay, mẹ vừa làm xong những tấm thiệp, mẹ lái xe ra bưu điện, mang gửi đi báo tin và mời họ hàng, bạn hữu của gia đình mình đến dự Đám Hỏi của con vào ngày hai mươi tháng bẩy sắp đến.
    Từ mùa hè năm ngoái, khi mẹ nhận được điện thoại của bạn trai con, lịch sự báo tin cho mẹ biết, anh ấy sẽ ngỏ lời cầu hôn với con chiều hôm đó. Mẹ buông điện thoại xuống mà nước mắt trào ra. Mẹ chưa biết rõ là vui hay buồn nhưng mẹ biết là mẹ xúc động đến run rẩy, bối rối và mẹ chạy đi tìm cha con để khóc.
    Cô con gái duy nhất của mẹ sắp lập gia đình. Sắp bước vào cuộc đời của một phụ nữ với bao nhiêu bổn phận trước mặt. Con sẽ vui, buồn, theo buồn vui của chồng, của những đứa con, của gia đình bên chồng. Con không còn chỉ thuộc về riêng con nữa.
    Cha con trấn an mẹ, nói với mẹ là cha tin vào sự chọn lựa của con, và nhắc mẹ phải tin vào sự chọn lựa của Thiên Chúa dành cho mỗi người.
    Đời sống hôn nhân là một cuộc đời tự nhiên, và tất có của hầu hết mọi người trên mặt đất. (Không kể những nhà tu hành và người chọn ở độc thân) Nhưng ai cũng biết có may mắn và rủi ro trên định mệnh đặc biệt này.

    Mẹ nhớ lại cuộc hôn nhân dị chủng giữa cha mẹ. Cha con, một người đàn ông Mỹ trẻ chưa hề biết gì về văn hóa, về phong tục của cái xứ sở xa xăm thuộc về người phụ nữ mà mình muốn kết hôn; Mẹ, một phụ nữ Việt Nam di tản, mới định cư trên xứ sở này hơn một năm, hãy còn hoang mang trên đất lạ (giống như một người lênh đênh trên sông nước, vừa tắp vào bờ, còn một chân trên bến, một chân dưới thuyền.) Cả cha con và mẹ chắc đều là mối lo lắng cho hai bên gia đình. Ông bà nội, ông bà ngoại của con thế nào cũng có những đêm không ngủ.
    Vậy mà cha mẹ đã ở với nhau hơn ba mươi năm. Cũng có những con sóng nhỏ, có những ngày mưa, ngày gió. Nhưng chiếc thuyền hôn nhân vẫn trôi êm ả nhờ có ba đứa con ngồi trong đó nên thuyền không bị chao đi.

    Mùa hè năm ngoái mẹ đi Yellow Stone với vợ chồng người anh họ. (Chương trình có cả cha con, nhưng đến phút chót cha con không đi được.) Khi lái xe từ Seattle đến Montana, ở lại đó một đêm, mẹ bồi hồi nhớ lại đã bao nhiêu lần mẹ về đây. Những lần đưa các con về quê nội mỗi mùa hè.
    Thành phố Helenna của tiểu bang Montana, nơi nổi tiếng về bầu trời cao xanh, về những dẫy núi sừng sững và những con ngựa núi đẹp đến ngất ngây, không phải là nơi định cư đông đảo của người Á Đông, nên thực phẩm Á Đông rất hiếm. Mỗi lần về, mẹ mang theo một thùng thực phẩm đặc biệt như: bún, nước mắm, miến và gia vị xả, ớt, v.v để làm thức ăn cho mọi người. Mẹ đã gửi gấm (hay nói một cách khác, mẹ muốn chứng tỏ) cái văn hóa đông phương của mình cho người bản xứ. Và chính cái văn hóa ẩm thực này đã kéo mọi người gần gũi nhau hơn.

    Bây giờ thì ông bà nội đã qua đời, các con thì như chim bay tứ tán vào những khoảng trời khác, xa vời cha mẹ, và căn nhà cũ của ông bà nội, bây giờ cũng đã có người khác ở.
    Nhớ lại lần đầu tiên mẹ về đó ra mắt nhà chồng vào dịp lễ Giáng Sinh của năm 1976. Lúc đó mẹ có mang anh con được hơn 1 tháng. Ông bà nội con mời họ hàng và lối xóm đến để giới thiệu cô con dâu mới. Trước khi khách đến, ông nội con cho mẹ uống một ly nước trái cây có pha rượu, mẹ bị say ngất ngư. Khi khách đến đầy nhà, mẹ vẫn nằm bẹp trên gác không xuống được, cha con lên gọi mẹ, và nói:
    Em ráng xuống đi, mọi người đang muốn xem có phải cô dâu Việt Nam có ba mắt, hai mũi không?
    Đó là một câu nói đùa của cha con cho mẹ cười, nhưng cũng cho mẹ hiểu rằng, ngoài cha con ra, những người ở trong bàn tiệc hôm đó sẽ rất tò mò về mẹ: Một cô dâu thuộc về bên kia trái đất, nơi người ta chưa bao giờ đặt chân đến.
    Bây giờ con cũng lấy một người chồng thuộc về một phần đất khác. Cũng có những phong tục, tập quán khác. Nó không quá khác biệt như Đông với Tây. Nhưng con cũng phải bay mười mấy tiếng mới tới phần đất có gia đình nhà chồng. Mẹ cũng lo lắng, cũng hoang mang như ông bà ngoại ngày trước, và mẹ cũng đã có nhiều đêm không ngủ.
    Mấy tháng nay sắm sửa khăn áo cho con. Đi chọn áo cô dâu với con. Đi mua trà, mua bánh, mua rượu. Mỗi lần đi về mẹ lại khóc. Mẹ cũng không hiểu "Tại Sao" lại khóc. Chắc bà mẹ nào có con gái sắp lấy chồng cũng khóc như mẹ. Người Việt Nam (hay người Á Đông) thường nói:_-Khóc như cô dâu ngày về nhà chồng- Khấp như thiếu nữ vu quy nhật- Nhưng mẹ thấy là -Khóc như mẹ của cô dâu- thì đúng hơn. Vì cô dâu của thế kỷ này không khóc nữa, nhưng mẹ của cô dâu thì thế kỷ nào cũng vẫn là bà mẹ cô dâu, bà mang môt trái tim thổn thức trong ngực mình khi con gái mình về nhà chồng.
    Đối với các bà mẹ, con gái mình là chuỗi ngọc trai, là chiếc vòng cẩm thạch, là hoa mẫu đơn, là ly nước suối, là miếng bánh thơm tho. Con gái bà là tất cả phần gia bảo mình có. Bây giờ bà đứng nhìn cái phần gia bảo đó đang chuyển sang nhà người khác. Làm sao mà ngăn được nước mắt ứa ra!

    Trong đời sống đầy đủ vật chất này, mẹ chẳng biết món quà nào mang ý nghĩa xứng đáng cho con, một cô gái có trái tim mẫn cảm một tấm lòng nhân hậu, và một đầu óc vừa thực tế vừa lý tưởng. Mẹ tìm cho con một món quà giản dị.
    Mẹ mua tặng con hộp kim chỉ, mẹ biết bây giờ không còn ai may cắt quần áo ở nhà. Tất cả đều mặc quần áo may sẵn. Mẹ chỉ muốn gửi gấm tặng con lời dặn dò trong món quà đó:
    "Với tình yêu và sự kiên nhẫn ai cũng có thể vá được những miếng rách nhỏ, khâu lại những cái khuy bị đứt, có thể có, trong đời sống vợ chồng."

    Nói một cách khác, đừng nghĩ đến thay hôn nhân như thay áo. Hãy mặc cái áo hôn nhân đẹp đẽ ngày hôm nay. Nó không cần phải lúc nào cũng mới nhưng hãy giữ cho nó tinh tươm, lành lặn bằng tất cả tình yêu và sự kiên nhẫn của một người vợ.
    Phần còn lại đặt vào trong tay Thượng Đế.
    Mẹ yêu con.
    Đã chỉnh sửa bởi GRANDET; 24-07-2009, 01:39 AM.
    Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

    Comment

    • #3

      Tôi là ai --tùy bút :Trần Mộng Tú

      Tôi là ai

      tùy bút :Trần Mộng Tú

      "Tôi là ai mà yêu quá đời này" - TCS


      Có phải nếu mình ở một nơi nào trên dưới ba mươi năm thì mình là người thuộc địa phương đó, đúng không? Đã biết bao nhiêu lần tôi đặt ra câu hỏi đó sau một ngày nhìn vào lịch thấy con số ghi năm đã bước vào năm thứ ba mươi của một người tị nạn. Bây giờ có ai mới quen gặp tôi, hỏi: Bà ở đâu đến vậy? Thì chắc tôi sẽ trả lời rất tự nhiên là Tôi ở Seattle hay khi đang đi du lịch thì sẽ trả lời Tôi ở Mỹ đến. Tôi sẽ không trả lời là tôi ở Việt Nam đến nữa, chỉ trừ người ta hỏi Bà là người nước nào? Thì lúc đó tôi chắc chắn nói Tôi là người Việt Nam. Để cho họ không nhầm với người Trung Hoa, Nhật, hay Phi.

      Đúng, tôi ở Mỹ trên, dưới ba mươi năm rồi, tôi là một người Mỹ. Bây giờ thử xem lại con người Mỹ của tôi. Trước tiên mặt mũi, chân tay tôi chẳng có gì thay đổi cả. Vẫn khuôn mặt cấu trúc ít góc cạnh của người Á Đông và cái mũi khiêm tốn, tóc sợi to và đen, khi có tóc bạc thì nhìn thấy ngay, muốn giấu thì phải nhuộm.
      Đối với người Á Đông thì tôi được gọi là người có nước da trắng, nhưng mầu trắng này thực ra là mầu ngà, và đứng cạnh một ông Tây, bà Mỹ nào thì nó vẫn cho cái căn cước là da vàng rất rõ rệt. Khi tôi nói tiếng Anh thì cách phát âm vẫn có vấn đề, đôi khi nói nhanh quá thì sẽ vấp phải lỗi nói tiếng Anh theo cách dịch tiếng Việt trong đầu. Như thế bị chê là nói Tiếng Anh bể (Broken English) Về cách phục sức, nhà ở, xe cộ bên ngoài tôi có thể không kém một người Mỹ chính gốc. Nhưng khi bước vào nhà tôi; Từ những bức tranh treo ở phòng khách, bát đũa bầy ở bàn ăn, chai nước mắm, hũ dưa cải trong bếp và nhất là sách, báo tiếng Việt ở khắp nơi trong nhà, thì chắc ai cũng sẽ nhận ra ngay đó là một gia đình Việt Nam. Như thế thì tôi là người Seattle hay người Hà Nội, người Mỹ hay người Việt? Tôi ở đất này đến ba mươi năm rồi cơ mà.

      Người ở Lạng Sơn, Thanh Hóa ra Hà Nội ở trên dưới ba mươi năm thì tự nhận mình là người Hà Nội; Người ở Hải Phòng, Hải Dương vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 75, 76 tự nhận mình là người trong Nam.

      Tôi ở Mỹ tìm về Việt Nam không ai chịu nhận tôi là người Việt nữa, dù tôi có yêu quê hương đến quặn thắt cả ruột gan, có gặp lại họ hàng nước mắt khôn cầm thì khi thăm viếng, hỏi han, họ vẫn thỉnh thoảng nói rất tự nhiên: Chị đâu có phải là người Việt nữa. Bây giờ Chị là người Mỹ rồi, chắc cái này không hạp với chị hay cái kia chị không ăn được, cái nọ chị không biết đâu. Những lúc đó tôi chẳng biết mình phải phản ứng thế nào cho đúng. Cứ cãi tôi vẫn Việt hay nhận đúng rồi tôi là Mỹ? Không, cả hai cùng sai cả.
      Những khi cần quyên tiền đóng góp vào việc công ích nào ở Việt Nam thì ai ai cũng nhắc lại cho tôi đến ngàn lần tôi là một người Việt Nam chính gốc. Tôi phải có bổn phận và tình thương với đất nước, đồng bào. Tình thương thì nhất định lúc nào tôi cũng đầy ắp trong ngực rồi, tôi chẳng cần ai nhắc nữa, nhưng bổn phận thì cho tôi nghĩ lại. Tôi đã đóng góp bổn phận của tôi cho đất nước đó rồi. Một mối tình chết tức tưởi trong chiến tranh hơn ba mươi năm về trước, xương thịt của người tôi yêu nằm trong lòng đất, rồi lại phải đào lên, đốt thành tro than, bị đuổi mộ như đuổi nhà, đã trả bổn phận đó thay tôi rồi. Không đủ hay sao? Bây giờ tôi phải có bổn phận đóng thuế hàng năm ở đất nước tôi đang sống để phụ với chính phủ sửa đường, xây trường học và nuôi những người ở khắp nơi mới tới, như trước kia đất nước này đã nuôi người Việt, vì giấy tờ cá nhân hiện tại xác định tôi là người Mỹ. Tôi phải làm bổn phận công dân.

      Có những ngày tôi lái xe bị kẹt ở xa lộ vào một buổi chiều mưa mùa thu; Hay một buổi sáng mùa xuân vắng lặng, êm ả đứng trong nhà nhìn ra mặt hồ. Tôi cảm nhận được nơi mình đang hiện diện không phải là quê mình, không phải nước mình. Chẳng có một lí do gì cụ thể, chỉ là những giọt mưa đập vào kính xe, chỉ là mặt nước hồ gờn gợn sóng, Mưa trên xa lộ Mỹ nhắc nhớ đến những cơn mưa tháng Năm ở Thị Nghè, nhà mình; ở Trần quý Cáp, nhà anh; ở trước rạp ciné Eden đúng trú mưa với nhau. Nước ở hồ Sammamish trước nhà nhắc đến nước sông ở bến Bạch Đằng mỗi lần qua phà sang bên kia Thủ Thiêm chơi với bạn, hay sóng nước ở bắc Mỹ Thuận những lần qua phà đi thăm họ hàng ở tận Bạc Liêu. Những lúc đó tôi bất chợt bắt gặp mình Việt Nam quá, vì những cái bóng Việt Nam thật mờ, thật xa lại chồng lên hình ảnh rõ rệt ngay trước mặt mình. Và kỳ diệu làm sao những cái bóng đó nó mạnh đến nỗi mình quên mất là mình đang ở Mỹ. Chắc tại tôi là người Việt Nam.

      Lại có những lần tôi ở Việt Nam, bị muỗi đốt kín cả hai ống chân, bị đau bụng liên miên cả tuần lễ. Đi đâu cũng phải hỏi đường, ai nhìn mình cũng biết mình từ đâu đến và đang đi lạc,tiền bạc tính hoài vẫn sai. Nhiều khi đứng chênh vênh trên đường phố Sài Gòn, biết đất nước này vẫn là quê hương mình, những người đi lại chung quanh là đồng bào mình, nhưng sao không giống Việt Nam của mình ngày trước, hình như đã có điều gì rất lạ. Ngôn ngữ Việt thì thay đổi rất nhiều, pha trộn nửa Hán nửa Ta, chắp đầu của chữ này với cuối chữ của chữ kia, làm nên một chữ mới thật là "Ấn Tượng." Cách phát âm của người Hà Nội bây giờ không giống cách phát âm cũ của ông bà, cha mẹ tôi ngày trước, và họ nói nhanh quá, tôi nghe không kịp. Cái tiếng nói trầm bổng, thanh lịch, chậm rãi, rõ ràng từng chữ của thời xa xưa bây giờ chỉ còn là cổ tích.

      Ngửng mặt lên nhìn bầu trời, vẫn bầu trời xanh biếc của thời tuổi trẻ, cúi xuống nhìn mặt đất, vẫn mặt đất thân quen, nhưng sao lòng hoang mang quá đỗi, và thấy đã có một khoảng cách nghìn trùng vô hình giữa mình và quê hương đất Việt. Chắc tôi là người Mỹ.

      So sánh thời gian tôi sinh ra, sống ở Việt Nam và thời gian tôi bỏ Việt Nam ra đi, sống ở Mỹ hai con số đó đã gần ngang nhau. Tôi được học từ nhỏ quê hương là nơi tổ tiên lập nghiệp, là nơi chôn nhau cắt rốn, Ở trong nước có bài hát nổi tiếng :Quê hương mỗi người có một, như là chỉ một mẹ thôi. Nhưng có người lại nói: Nơi nào mình sống ở đó suốt một quãng đời dài, có những người thân chung quanh mình, hưởng những ân huệ của phần đất cưu mang mình, thì nơi đó cũng được gọi là quê hương mình. Như vậy thì tôi có một hay hai quê?

      Tôi sống ở Mỹ thì bạn bè gặp nhau thường nói: Cái này người Việt mình không hạp, hoặc người Mỹ họ mới thích nghi được việc này, người Việt mình không quen. Khi đi dự buổi tiệc cuối năm của một công ty lớn ở Mỹ, toàn là những người Mỹ sang trọng thì thấy rõ ngay mình là người Việt đi lạc, dù mình có sang trọng, lịch sự như họ. Hóa ra ở Mỹ hay về Việt Nam mình đều lạc chỗ cả.

      Tôi nhớ mấy năm trước có lần trò chuyện với Mẹ của một người bạn, lúc đó cụ ngoài 80 hãy còn minh mẫn, cụ theo đạo Phật. Trưởng nam của cụ và con dâu cụ tự nhiên rủ nhau theo đạo Công Giáo. Găïp tôi cụ hỏi: Không biết anh Bình nhà tôi khi chết thì đi đâu? Phật giận anh ấy, vì anh ấy bỏ đi, Chúa chắc gì cho anh ấy vào, vì anh ấy mới quá! Năm nay cụ ngoài 90 tuổi rồi và may quá, cụ bị Alzheimer, cụ không còn minh mẫn để lo con mình không có chỗ dung thân cho phần hồn.

      Bây giờ thỉnh thoảng nghĩ lại những lời cụ nói, thấy mình ngay ở đời sống này cũng đã là một vạt nắng phất phơ bay. Quê nhà, quê người, quê Mỹ, quê Việt. Chao ôi! Cái thân cỏ bồng.

      Nhưng lạ lắm, tôi biết chắc mình là người Việt nhất là khi tôi nằm mơ. Trong giấc ngủ tôi thường gặp cha mẹ, gặp ngay trong những ngôi nhà cũ ở Việt Nam, gặp bạn bè cũng gặp trên đường phố Việt Nam từ ngày rất xa xưa, và bao giờ trong mơ cũng đối thoại bằng tiếng Việt. Tỉnh dậy đôi khi vẫn ứa nước mắt, dù là một giấc mơ vui. Thấy nhớ quê nhà quá đỗi!

      Tôi nhớ lại trong những truyện ngắn, những bài thơ Đường tôi đọc thời rất xa xưa về người bỏ làng đi xa lâu năm trở về không ai nhận ra nữa. Hồi đó sao mà mình thương những ông già trong thơ đó thế! Bây giờ nghĩ lại thì người trong sách đó còn may mắn hơn mình, họ đâu có đi đến tận một nước khác như mình. Họ chỉ bỏ làng, chứ không bỏ nước. Thế mà khi về còn ngơ ngác, bùi ngùi, tủi thân vì lạc chỗ ngay trong làng mình.

      So sánh tôi với người bỏ làng ra đi trong những trang sách đó thì hoàn cảnh của tôi đáng buồn hơn nhiều. Không những đã bỏ làng, bỏ nước đi, còn nhận quốc tịch của một nước khác.

      Khi về đổi họ thay tên. Núi chùng bóng tủi sông ghen cạn dòng.

      Tôi là ai?


      Tháng 4/2006
      Đã chỉnh sửa bởi GRANDET; 24-07-2009, 01:38 AM.
      Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

      Comment

      • #4

        Bình Thủy 1969 _Trần Mộng Tú

        Bình Thủy 1969

        Trần Mộng Tú 30.04.2007

        Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi đang ngồi xem những tấm ảnh đám cưới bằng màu gửi từ Mỹ về, sắp xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai người làm cùng Sở đứng trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi làm thư ký cho hãng Thông Tấn The Associated Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: từ phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v. Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm. Cả hai người bước vào phòng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình nói trước.

        Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì. Cuối cùng, Carl nói:

        - Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận.

        Tôi đứng ngẩn người, không nói được tiếng nào.

        Carl nói tiếp:

        - Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang), xác định tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của đại học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.

        Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.


        Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng Bảy, năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh học Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được một năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi, chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi-khu Trà Bồng) chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được. Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung biệt phái về dậy học (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho giáo chức được biệt phái về vào tháng 10-1969), rồi sẽ ra ở riêng.

        Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ. Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài:

        - Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sài Gòn.

        Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay đặt giữa lòng phi đạo.

        Người anh chồng tôi dặn:

        - Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.

        Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chỏng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng, trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó. Tôi thấy mình bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt nhầu nát, tóc tai bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình. Cái sân bay trông sao mông mênh thế mà cái quan tài thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những "phuy" dầu chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ quan tài, tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹn thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.

        Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không còn nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa Ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa Ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.

        - Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con.

        Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong, chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giày saut ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thòi nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có giẫm phải ai không. Tôi cố gắng không giẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì đâu, chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo: "Đúng là Cung rồi".

        Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một giòng nước đục chẩy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.

        Người ta đem xác Cung về trại gia binh Tiểu Khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh quan tài cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây nến chẩy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi.

        Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang khác với những người trong trại lính này. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần. Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay sát xã Vĩnh Thanh Vân. Nơi này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau:

        - Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!

        Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có ba người trong gia đình này ít khóc nhất. Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp, bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sàigòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con. Bà giỏi lắm.
        Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm "được" Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông "được" mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dậy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá mười tuổi tìm đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả tí một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà, cô còn may mắn chán.

        Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sàigòn. Trong khi đó thì các con của bà, con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.

        Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Chiếc quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhầu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương. Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi. Sau này tôi nghĩ lại, vẫn tự hỏi: Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường? Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.

        Một chiếc xe nhà binh đón chở quan tài từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất chôn Cung trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được. Ngày đưa đám, họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế!
        Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Họ nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh này những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.

        Họ nghĩ chẳng sai mấy. Khi tôi bị đẩy ra khỏi nước, gia đình chồng cũng bỏ đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung chẳng khác gì những người còn sống, cũng bị đuổi nhà, bị chiếm đoạt tài sản. Người anh họ ở lại tìm cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.

        Tôi trôi mãi rồi cũng phải giạt vào một chỗ. Bảy năm sau tôi lấy chồng, sanh con, tôi sống bình thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm của đời sống. Qua đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện diện trong kiếp người của mình. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như còn sống hay về như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm dao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống trước mặt: giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con.

        Thời gian cứ thản nhiên trôi, buồn và vui đầy ắp hai tay. Ngày trắng tóc rồi cũng đến.


        Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau hai mươi ba năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định. Tôi len lỏi giữa những dẫy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần "T" là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu quan tài của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.

        Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến.


        Bình Thủy 8/1969
        Tân Định 11/1998
        Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

        Comment

        • #5

          Một Nửa Người Đàn Ông _Trần Mộng Tú

          Một Nửa Người Đàn Ông

          Trần Mộng Tú 29.10.2007

          Cô chăm chú sửa lại bản thảo cuốn tiểu thuyết một lần chót trước khi mang sang nhà in. Làm công việc biên tập cho nhà xuất bản, không lúc nào mà cô rảnh rỗi được. Trong tháng này có 5 cuốn truyện dài sẽ được in, và cả 5 cuốn đều là sách của tác giả có sách xuất bản lần đầu.
          Cô nghe tiếng gõ cửa, rồi chiếc đầu của người tùy phái ló vào.
          "Thưa cô, có một bà muốn gặp cô."
          "Ai vậy, ông có hỏi tên hộ tôi không?"
          "Tôi có hỏi, bà âý nói tên là Lan."
          Cô cố nhớ tên của các tác giả mới trong đầu. Không có ai là Lan cả, họ đều là phái nam. Cô nói với người tùy phái;
          "Ông mời hộ bà Lan vào văn phòng ngoài đó, tôi sẽ ra. Cũng sắp đến giờ tôi đi ăn trưa rồi."
          Đợi cho người tùy phái khuất sau cánh cửa, cô quay điện thoại gọi anh.
          "Hôm nay em muốn đi ăn mì ở Hải Ninh, em sẽ đến đó độ 20 phút nữa, em có một người khách đang chờ. Nhưng em sẽ tiếp họ 5 phút thôi."
          Người đàn bà khỏang ngoài 40 tuổi, ăn mặc giản dị nhưng lịch sự, nét mặt khô nhưng trí thức. Bà ta ngồi yên không đứng lên khi cô xuất hiện. Cặp chân mày hơi cau lại một chút, bà chờ cô tự giới thiệu trước.
          Cô hơi khựng lại một giây, nhưng tự chủ được ngay, cô quen với những người đến gặp cô để nhờ vả, nên cô hỏi với giọng không được vồn vã lắm:
          "Tôi là Tâm, bà cần gặp tôi có việc gì?"
          Người đàn bà nhìn thẳng vào mặt cô, nói chậm và ngắn.
          "Tôi là vợ của ông Minh."
          Cô đứng lặng, nghe như có một đường nước mưa lạnh vừa chẩy từ cổ áo xuống lưng. Cô biết chuyện này rồi thế nào cũng đến, nhưng cô không thể đoán trước là nó đến vào buổi trưa hôm nay. Cô biết rất rõ mình phải nói gì với bà Lan. Cô lấy lại bình tĩnh, kéo một chiếc ghế ngồi đối diện với vợ của người yêu mình (hay người mình yêu, cũng thế).
          Cô ngồi yên, thở một hơi thật sâu, quan sát một bà vợ. Vợ của người đàn ông mình đang liên hệ. Cô muốn biết chắc người đàn bà này sẽ hiểu những điều mình sắp nói.
          Cô đi thẳng vào vấn đề hộ người đàn bà.
          "Chắc bà đến đây để cho tôi biết là anh Minh đã có gia đình. Thưa bà, tôi biết điều này đã lâu, và không bao giờ tôi có ý định kéo anh Minh ra khỏi gia đình của anh ấy." Cô nói luôn một hơi dài.
          Người đàn bà ngạc nhiên về sự bình tĩnh của cô, bà ngẩn ra một lúc ngắm tình địch của mình. Trước mặt bà là một phụ nữ trẻ (chắc chỉ lớn hơn con gái lớn của bà bốn, năm tuổi.) Hai con mắt sáng trên một khuôn mặt nhỏ, cắt tóc ngắn, mặt không phấn chỉ thoa một chút son mầu san hô nhạt, cùng mầu với chiếc sơ mi, chiếc quần jeans đen sát vào người, cô hơi gầy. Cả người cô toát ra vẻ vừa thông minh vừa bướng bỉnh. Bà tự hỏi, "Cái vẻ nào của người con gái này đã quyến rũ chồng mình?" Bà hỏi lại với giọng hơi ngập ngừng.
          " Cô không bao giờ có ý định kéo anh Minh ra khỏi gia đình của anh ấy thì tại sao cô đi lại với anh ấy cả hai năm nay, có điều gì bảo đảm là cô sẽ không lấy anh ấy một ngày gần đây?"
          Cô điềm đạm:
          "Thưa bà đã hai năm nay, từ khi anh Minh có liên hệ với tôi, ngày nào anh Minh cũng có mặt ở nhà một bữa ăn. Hôm thì về ăn trưa, hôm thì ăn cơm chiều, buổi tối, anh Minh ngủ ở nhà, lương đem về không thiếu một đồng. Như thế không chứng tỏ được là tôi sẽ chẳng bao giờ muốn chiếm đoạt anh ấy của bà hay sao?"
          Người đàn bà ngẩn ra vài giây trước lý luận lạ lùng của cô. Bà ta chưa biết phải nói gì thì cô đã tiếp, cô nói như cô đang tâm sự với một người bạn thân hay có thể cô đang viết một trang tiểu thuyết thì cũng thế.
          " Xin bà cứ an tâm. Anh Minh kết bạn với tôi là một sự an toàn cho hạnh phúc gia đình của bà. Thú thực với bà, tôi đã hơn 30 tuổi. Nhưng không bao giờ tôi có tư tưởng muốn lệ thuộc, hay muốn làm sở hữu chủ nguyên một người đàn ông. Tôi xin lỗi bà khi phải nói điều này. Tôi không hiểu được tại sao phần đông những người đàn bà trên mặt đất này lại có thể đặt mình lệ thuộc vào một người đàn ông nguyên một ngày, rồi những ngày đó kéo ra cả suốt đời mình. Hay có người đàn bà muốn làm chủ một người đàn ông như làm chủ một ngôi nhà, một cái thuyền, một chiếc xe. Rồi khi không ưng ý cũng không làm sao mà đem cầm, đem bán đi được như cái xe, như ngôi nhà. Đành đợi đến ngày họ chết mới đem chôn xuống đất.
          Tôi chỉ có thể ăn một bữa trưa với anh Minh, hoặc một bữa chiều, gặp mặt vài tiếng trong một ngày. Nếu bây giờ anh Minh đòi hỏi tôi phải là của anh ấy 24 giờ trong một ngày, phải buộc vào một tờ văn tự như giấy chủ quyền động sản, hay bất động sản, thì chắc chắn là tôi sẽ chấm dứt sự liên hệ lập tức.
          Bà không mất mát gì cả. Anh Minh là người đàn ông đào hoa, anh ấy không có tôi, anh ấy sẽ đi với người khác. Lúc đó bà mới nên lo ngại. Nếu tôi không có anh Minh, dĩ nhiên cũng rất nhiều người đàn ông khác muốn đến làm bạn với tôi. Vì họ biết tôi không bắt họ cưới hỏi, không lệ thuộc vào họ, cũng không muốn làm chủ họ, tôi không nhận quà tặng, khi đi ăn, đi chơi thì tôi cũng thay phiên trả tiền."
          Người đàn bà ngắt lời cô bằng một cái khoát tay, trước khi nói.
          " Thế cô cho là cô chỉ gặp anh Minh có mấy tiếng một ngày, không phải là chiếm đoạt hay sao?"
          "Thưa bà, tôi xin hỏi lại. Trong một ngày của bà, bà nghĩ đến bà bao nhiêu tiếng? Bà nghĩ đến anh Minh bao nhiêu tiếng? Chúng ta, ai cũng có thế giới riêng của mình, và ai trong một lúc nào đó chắc cũng muốn người khác để cho mình được yên thân. Những lúc bà không cần có anh Minh bên cạnh, thì việc anh ấy đi đâu và làm gì có quan trọng lắm không?
          Tôi biết bà đang nghĩ gì trong đầu. Chắc bà cho tôi là một người mất thăng bằng. Hay có thể là bà cho tôi đang tìm cách lừa bà, để một ngày nào đó tôi sẽ chiếm đoạt nguyên cả anh Minh.
          Không, không bao giờ tôi cần nguyên một người đàn ông cả, tôi chỉ cần một nửa thôi. Có nhiều người phải uống nguyên một ly trà mới thấy vị ngon, phải ăn nguyên một trái táo mới hài lòng, phải đến được chân núi, hay trèo lên đỉnh núi để thưởng thức thì mới mãn nguyện, sông thì phải đi hết dòng mới thỏa chí, phải được lấy nguyên một ông chồng và được gọi là vợ thì mới cho là sung sướng. Tôi thì trà uống một ngụm, táo cắn một miếng, núi nhìn một góc, sông yêu một khúc, đàn ông hưởng một nửa. Suốt đời chỉ là người tình thì cũng đã thấy mình dư thừa hạnh phúc. Bà cứ an lòng ra về."
          Người đàn kéo ghế đứng lên, bà thấy không cần phải nghe thêm nữa. Bà biết có nói gì cũng vô ích. Minh sẽ không bao giờ buông được người con gái đầy quyến rũ lạ lùng mà không ai phải cưu mang này. Và cô ta là người sống với những sản phẩm của tưởng tượng đó thì cũng sẽ chẳng bao giờ muốn thế chỗ của bà. Bà ra về. Họ không chào nhau. Nhưng người tình đứng nhìn theo cho đến lúc cái bóng của người vợ khuất ở một ngã rẽ.
          Bà không an lòng chút nào như lời khuyên của cô. Bà vừa đi vừa nghĩ về những câu nói của tình địch, bà phân vân tự hỏi. Cô ta là nhà văn, cô làm việc cả ngày với chữ, là những tưởng tượng của riêng cô và của thiên hạ trộn chung vào với nhau. Những điều cô nói ra là mặt thật của đời sống, hay chỉ là một chương sách cô vừa đọc hoặc cô sắp viết? Nhưng thật hay không, đời sống hay tiểu thuyết, những lời đó làm bà phải lưu ý. Gần ba chục năm nay tại sao bà lại để mình lệ thuộc vào nguyên một người đàn ông như thế? Nếu bà biết sớm suy nghĩ như cô ta, chỉ cần giữ một nửa thôi, thì cuộc sống sẽ thanh thản biết bao!

          Cô đổi ý định ra ngoài ăn trưa, cô nhờ người tùy phái ra mua thức ăn đem về sở. Cô gác ống điện thoại ra ngoài. Một nửa người đàn ông hôm nay cô cũng không thấy hấp dẫn nữa.

          9/01
          Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

          Comment

          • #6

            NHỮNG ĐÔI MẮT -Trần Mộng Tú

            NHỮNG ĐÔI MẮT
            Trần Mộng Tú 17.03.2008
            ( Hợp Lưu số 99 (tháng 3 & 4 -2008))


            Gửi những người lính ở Iraq

            Jessica đi ra phía hồ cá ở vườn sau nhà. Cô cầm theo hộp đựng thức ăn cho cá. Một đàn cá chép Nhật trong chiếc hồ của cha cô, chúng đang đợi cái bóng cô nghiêng xuống. Cô đã nghe thấy tiếng quẫy mình của chúng, và cô đoán chúng cũng đang nghe thấy tiếng bước chân cô. Cô giơ bàn tay ra nắng, nắng rất ấm, lung linh trên tay, trên vai và thả những khoang nắng trên mặt cô. Cô ngồi xuống bên thành hồ, thong thả ném từng nắm thức ăn cho cá.
            Có một bàn tay cũng ấm lắm đang đặt lên trên bàn tay cô.
            - Cho anh ném với.
            - A, Cory, anh về bao giờ vậy? Jessica kêu lên thảng thốt.
            - Anh được về phép ba tuần, anh mới về đêm hôm qua.
            - Anh đi khẽ quá, khẽ hơn cả tiếng cá đớp mồi.
            Cory nắm chặt tay cô hơn, anh lấy nắm thức ăn vứt xuống cho cá rồi ôm đầu cô gần sát vào ngực mình.
            - Anh muốn cho em ngạc nhiên nên anh không báo trước ngày về.
            Cory chỉ cần nhấc cái then cổng vườn sau nhà anh là anh ngồi ngay được ở bờ hồ cá nhà Jessica. Họ là hai đứa trẻ hàng xóm, lớn lên cùng với nhau. Tuy đi học khác trường nhưng họ thân nhau hơn là bạn cùng lớp. Rồi bỗng một ngày họ yêu nhau, rồi bỗng một ngày Cory đi vào chiến tranh.
            Mẹ cô khuyên "Con tập chấp nhận, hãy cầu nguyện cho anh ấy trở về bình an." Jessica chấp nhận, cô bình thản tiễn anh và bình thản nhận những lá thư anh gửi về. Cô vẫn đến trường, vẫn theo dõi tin tức ngoài mặt trận. Trái tim cô bắt đầu cũng nổ tung ra cùng với những chiếc xe gài bom nổ, cùng với những thân xác ôm bom nổ, nhưng rồi nó cũng phải chấp nhận, tập bình thản và tập trông cậy vào phép lạ của những lời cầu nguyện.
            Ba tuần ở nhà, Cory và Jessica quanh quẩn bên hồ cá sau vườn nhà nàng, hay trong bếp nhà Cory, họ chơi game, (những cái game mà chỉ có Cory mới hiểu và chơi được với nàng,) họ nấu ăn, rồi dắt nhau ra vườn, làm tình với nhau trên bãi cỏ, cạnh hồ, cùng với tiếng quẫy nước của những con cá. Cha mẹ họ mặc cho họ tự do hạnh phúc giữa hai ngôi vườn. Jessica đã qua tuổi thiếu nữ rồi, và Cory thì đang đi lính. Hãy để cho họ hưởng những hạnh phúc vốn sẵn mong manh giữa hai người.
            Cory đã trở lại mặt trận. Mỗi buổi tối, trước khi đi ngủ, Jessica mở ngăn kéo lấy ra một chiếc hộp gỗ. Cô đếm những viên nhựa tròn trong chiếc hộp. Chúng lớn nhỏ hơi khác nhau một chút. Cô đếm bao nhiêu lần mà vẫn không nhớ được bao nhiêu cặp cùng một cỡ. Cô vừa khóc vừa nhớ lại lời mẹ dặn:
            "Ba tháng đầu thì mỗi tuần thay một cặp, từ ba tháng đến một năm thì ba tuần thay một cặp. Từ một năm đến ba năm thì một tháng thay một cặp. Từ ba năm đến mười năm thì sáu tháng thay một cặp. Sau đó cứ mỗi năm thay một cặp cho đến năm thứ hai mươi, cơ thể hết phát triển, không phải thay nữa."
            Cứ thế, ban ngày, ở trường về, cô ra hồ cho cá ăn, cô đặt tay trên thảm cỏ, chỗ hai người đã yêu nhau. Buổi tối, cô đếm những viên nhựa, cô cất lại vào hộp, cô quỳ gối trước bàn thờ và đọc kinh cầu nguyện cho Cory trở về bình an.
            Người ta báo tin Cory trở về, không bình an. Cory về, không vào bếp nấu ăn với Jessica, không ra hồ cho cá ăn, và không ôm cô lăn trên thảm cỏ nữa.
            Anh về trong một chiếc áo quan.
            Jessica điên cuồng đi tìm cái hộp gỗ. Cô gọi:
            - Mẹ ơi! Mẹ ơi, phụ con!
            Mẹ cô trút tất cả những viên nhựa vào một cái túi. Bà đưa cô đến nhà quàn.
            Chiếc áo quan mở một nửa để thân nhân đến viếng, một nửa có phủ quốc kỳ. Người đàn bà đưa cô con gái đến bên cạnh chiếc áo quan.
            - Cory, đây là những đôi mắt của em, những đôi mắt lớn lên với em từ thời thơ dại. Anh còn nhớ những đôi mắt này không? Chúng đã nhìn anh khôn lớn, đã nhìn tình yêu của chúng ta trưởng thành. Khi em lớn lên và yêu anh, em khám phá ra, chính những viên nhựa vô hồn này là mắt thật trong sáng của em. Em bỏ chúng vào đây để mắt em lúc nào cũng được nhìn anh bên kia đời sống.
            Jessica bỏ chiếc túi vải có những đôi mắt vào trong áo quan, cô cúi xuống hôn lên môi người lính, bình thản ra về.

            Cô gái mù hoàn toàn, trong hai hốc mắt có gắn hai con ngươi giả bằng nhựa trong veo.

            Tháng 3/2008

            (damau.org)
            Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

            Comment

            • #7

              Chuyện Trò Với Đá Biển --Trần Mộng Tú

              Trần Mộng Tú

              Chuyện Trò Với Đá Biển

              Anh dắt cô ra biển xem mặt trời lặn, biển mùa đông mặt trời lặn sớm. Khi hai người đến nơi thì mặt trời đang sửa soạn để trầm mình. Anh chỉ cho cô những giải ánh nắng mầu đỏ nằm song song với biển, nói:


              “Em nhìn đi, mặt trời xuống nước nhanh lắm. Những đám sương ở phía Nam sắp phủ lên mặt trời bây giờ.”


              Hai người vừa đi vừa theo dõi đám sương ở phía Nam. Góc biển bên đó đã chìm hẳn vào bóng tối. Cô nắm chặt bàn tay anh, bàn tay lúc nào cũng truyền cho cô hơi ấm. Họ đi song song với biển. Anh cúi xuống, cô cúi xuống. Chiều nay họ chú tâm chọn lựa những viên đá sỏi, nên quên cả hôn nhau. Viên nào họ cũng thấy đẹp. Họ chia nhau xem viên nào cô sẽ cất ở nhà và viên nào anh sẽ mang đến bàn viết ở sở.

              Đám mây phía Nam đã phủ chụp lên mặt trời, phủ chụp lên hai người, phủ chụp lên bãi cát, những viên đá đen nhòe trong bóng tối.


              Họ khoác tay nhau đi song song với biển, những viên đá biển nằm ngoan ngoãn trong túi áo lạnh của hai người. Họ đi như thế, chìm trong bóng tối, chìm trong nhau, im lặng nghe tiếng đá sỏi thầm thì trong túi, nghe hạnh phúc đời người hiếm, quý như những giọt mặt trời còn sót lại trên biển.


              Buổi tối, ăn cơm chiều xong anh hỏi.
              “Mấy viên đá em cất đâu, em có lấy nhầm của anh không đấy?”

              Cô cười :
              “ Nhầm sao được, mấy viên của em nhỏ, và đẹp hơn. Của anh thì em để ngoài xe, để mai anh nhớ đem đến sở, của em thì em để ở bàn ngủ. Tối nay em còn ngắm nghía lại.”


              Biết tính cô đến bây giờ vẫn còn hay đem những cái mình thích vào giường ngủ giống như thời còn rất trẻ, anh hỏi:
              “Em không định đem mấy viên đá vào trong giường chứ? Anh không muốn đêm đang ngủ lại moi ra được viên đá dưới lưng.”

              Cô cười cười, không nói gì. Thế là anh hiểu, tối nay anh sẽ cong người ôm lưng cô và cô sẽ cong người ôm mấy viên đá biển.


              “Thế Đá có mặt trên trái đất này bao lâu rồi?” Mấy ngón tay vừa vuốt ve trên lưng Đá vừa hỏi.

              “Ồ, mới vào khoảng 4, 5 tỷ năm thôi.”

              “Đá già quá nhỉ. Thế Đá nghĩ gì về loài người?”

              “Loài người à? Khó nói quá, họ còn trẻ và làm điều gì cũng nông nổi. Tuổi mới có độ 100 ngàn năm thì làm sao mà phán đoán được. Phải đợi khi họ làm nên lịch sử đã.”

              “Không, muốn hỏi Đá về cách con người đang sống kìa. Họ yêu, hờn, giận, ghét như thế có đúng không?
              “ Sao hỏi dấm dớ thế! Biết thế nào là đúng thế nào là sai. Loài người ai cũng cho mình là nhất, đúng cả. Nhưng cô ơi, Thượng Đế sinh ra con người, cho sướng, cho khổ, cho khóc, cho cười. Ông ấy viết kịch bản cho mỗi người rồi đứng xem ai diễn xuất hay, dở thế nào. Đôi lúc ông ấy muốn thay vở kịch, đổi vai tuồng, ráng chịu. Làm gì được ông ấy.”

              “Vậy con người có cần Tôn Giáo không?”

              “Tôn Giáo là cái gì vậy? Tại sao Đá đang ở núi, ở biển lại đem về xay ra, đẽo đục rồi thờ. Giết nhau cãi nhau vì thờ những tảng đá, hòn đá khác nhau. Chẳng biết đến bao giờ thì trí óc của loài người mới trưởng thành. Cứ chém nhau, giết nhau, ghét nhau, ganh tị nhau, xong rồi đi thờ một tảng Đá thì có phải là “Đạo” hay không”

              “Nếu không có Tôn Giáo thì sẽ lung tung lắm. Vì không ai sợ gây tội, tha hồ làm xằng, tha hồ chém giết, gây nên chiến tranh.”

              “Cô ơi! Có loài người thì phải có chiến tranh chứ. Chính vì những cái gọi là “Tôn Giáo” làm nên chiến tranh đấy.”


              Thế giới của đá không bao giờ có chiến tranh à?

              Không đến nỗi gọi là chiến tranh, chỉ xích mích nhẹ thôi. Hồi đó hai ngọn núi Mt.Hood và Mt.Jefferson là hàng xóm của nhau bỗng không còn thân thiện nữa. Họ gây hấn với nhau. Bầu trời bỗng tối xầm, hai ông Thần Núi quần thảo nhau tiếng rền vang vọng, cả hai làm thành những cơn sấm , và những viên đá có hình quả trứng văng ra từ cả hai trái núi. Người ta đặt tên cho những viên đá trứng đó là Trứng Sấm bị lấy đi từ những con Chim Sấm *


              Thế ngoài Đá với Đá đánh nhau có bao giờ Đá đánh ai khác không?

              Đá cựa mình một cái, lăn khỏi những ngón tay đang gãi trên lưng Đá.

              Cô chóng quên nhỉ, cái truyện Sơn Tinh Thủy Tinh cũng của nhà cô chứ nhà ai?

              “Cái giống người là cái giống hiếu chiến, hiếu sát. Trước kia chưa có loài người thì làm gì có chiến tranh trên mặt đất. Sông, hồ, đá, biển, núi, rừng sống thật yên lành. Tự nhiên Đá dại dột đi yêu cái giống người mà lại yêu một người phụ nữ như cô đấy, nên đã đánh nhau cả với Thủy Thần. Bây giờ thì tỉnh ngộ rồi.

              “Thế Đá nghĩ gì về trận chiến ở Iraq?”

              “Ồ, chẳng quan tâm lắm, chẳng qua chỉ là một trận đánh nhỏ trong những trận chiến của 2000 năm nay thôi. Có gì lạ đâu?Mà sao là đàn bà mà cứ hay hỏi về chiến tranh thế, hỏi việc khác đi.”


              Những ngón tay lại loay hoay tìm Đá ôm vào lòng.

              “Thế Đá nghĩ gì về Văn Học Nghệ Thuật? Thế giới của Đá có hội họa, thơ phú gì không?”

              Hỏi gì lạ vậy? Loài người có khác, chỉ biết mình, mà không biết đến thế giới chung quanh. Trong thế giới của Đá có đầy đủ cả. Văn chương, âm nhạc, hội họa, tình yêu. Tình yêu của đá còn sôi động bằng trăm lần tình yêu của loài người với nhau. Khi núi lửa hoạt động, khi địa chấn hoành hoành là Đá đang yêu đấy. Những tảng đá lớn xô vào nhau văng ra hàng ngàn mảnh nhỏ là Đá đang yêu đấy, Đá sanh con đẻ cái đấy.

              Còn về văn chương à. Đá có ngôn ngữ của Đá. Bài Phú “Bái Thạch Vi Huynh”( Lậy Đá nhận làm anh) của Phan Bội Châu cũng được dịch ra ngôn ngữ của đá rồi. Thơ phú của loài người ca tụng Đá cũng được Đá thưởng thức và nhớ:


              Thủa ban sơ trên trái đất này
              Hẳn nhiên núi đã cao vời vợi
              Người từ ngàn dậm đứng trông lên
              Đá dựng ngất ngư đầu chới với
              (Đỗ Quý Toàn)


              Nhưng tâm loài người còn động quá! Còn phải tu nhiều mới có cái tâm của Đá được.
              Còn âm nhạc nữa. Mấy cái anh nhạc sĩ loài người này sao đi học bao lâu rồi mà vẫn không nhớ Đá bao nhiêu tuổi, cứ hỏi hoài: “Hỏi đá xanh rêu bao nhiêu tuổi rồi?” Xong lại nghêu ngao “Đá đau niềm đau của đá” Đá chẳng bao giờ đau cả. Câu thơ “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” học mãi mà không thuộc. Khổ thật!”


              Mấy ngón tay lại gãi gãi, xoa xoa lưng Đá.

              “Đá chê thơ loài người ở chỗ nào?”

              “Ủy mị, thiếu hiểu biết. Thơ phú của loài người thì cứ than ầm lên là “Tôi cô đơn như đá” Thật sự nếu cứ để Đá ở ngoài thiên nhiên thì không bao giờ Đá cô đơn cả. Khi Đá song song với biển, khi Đá giữa cánh đồng hoa, khi soi mình xuống sông, hay ngâm mình trong suối. Chỉ khi bị loài người mang Đá về, đẽo gọt đặt lên ngai xì xụp hương khói thì lúc bấy giờ Đá mới thấy lạc lõng, cô đơn.

              Hội họa của Đá thì vượt xa loài người. Chỉ cần lấy ra một vài bức họa của Đá làm thí dụ:
              Bức tranh Đá vẽ ngoài Vịnh Hạ Long ở Việt Nam, bức tranh của mấy trăm tảng đá nhô lên mặt biển mà loài người bảo đấy là Tiên Đồng Ngọc Nữ từ trời xuống chơi rồi ở lại.
              Dẫy Rocky Mountains hùng vĩ chạy dài từ Canada tới Colorado, dẫy núi xuyên lục địa với những quang cảnh đẹp đến nín thở.

              Gate of the mountains trên con sông Missouri chảy qua Helena, bang Montanan. Mỗi lần thuyền đi đến đâu thì hai cánh cửa Đá từ từ mở ra ngay trên mặt nước cho thuyền vào, loài người nhìn thấy cảnh Thiên Thai của Lưu Nguyễn ngay trước mặt mình. Khi thuyền đi ra , quay đầu lại, thấy hai cánh cửa Đá từ từ khép kín.

              Núi đá vôi Rock of Gibraltar thuộc Tây Nam Âu Châu cao tới gần một ngàn bốn trăm trương không phải là một nét phóng cọ tuyệt vời của Thượng Đế hay sao?
              Những bức tranh Đá như thế thì ngay cả tranh của Michael Angelo cũng không đem ra so sánh được.”


              Có tiếng cười khúc khích trước câu hỏi.

              “Thế Đá có yêu ai, có thất tình bao giờ không?”

              Có tiếng thở dài trong bóng đêm.

              “Có chứ. Nhiều khi chỉ muốn trầm mình xuống tận đáy biển chẳng bao giờ lên nữa.”

              Có tiếng kêu thảng thốt.

              “Trời ơi! Thế thì rõ ràng là “Đá đau niềm đau của đá rồi.”


              Giọng buồn bã cất lên

              “Nhưng cái đau này cũng do loài người tạo ra. Như buổi chiều hôm nay vậy. Đá đang ngồi bên cạnh người yêu nghe tiếngsóng vỗ vào bờ, cái tiếng mà loài người gọi là “lãng mạn”(Lãng là sóng, mạn là bờ) thì bị hai vợ chồng loài người đi dạo ngoài biển nhặt bỏ vào túi, người yêu của Đá thì bị nhặt lên xong rồi lại ném xuống một chỗ khác, ngay cạnh những cụ già Đá. Chắc cô ấy bây giờ đang khóc hết nước mắt.”


              Cô tỉnh hẳn ngủ, trong bóng tối cô xoa tay xuống mặt nệm tìm kiếm những viên đá nhỏ lăn xa, thu vào, đạt chúng tất cả dưới gối. Sáng mai cô sẽ dậy thật sớm trước khi mặt trời mọc, cô sẽ mang trả lại biển những viên đá này. Cô nghĩ đến nhữnng viên đá cô đang có trong nhà, những viên đá cô thu thập từ các nước xa xôi mỗi lần đi du lịch. Cô bỗng ân hận quá! Chắc chúng đang nhớ người yêu, đang nhớ vợ, nhớ chồng. Làm sao bây giờ, cô khó mà trở lại được tất cả các nơi mà mình đã đến một lần?


              Thôi, cô sẽ mang tất cả ra biển, ít ra ở đó chúng được sống chung với những loài Đá khác.



              Tháng 6/06



              * Indian Legend
              Đã chỉnh sửa bởi GRANDET; 25-07-2009, 12:17 AM.
              Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

              Comment

              • #8

                Dạ Vũ Hóa Trang

                Trần Mộng Tú


                Chàng là người đàn ông trong bộ y phục của dân viễn tây trong phim Wild Wild West, mang một khuôn mặt với những nét Á Đông trông rất thu hút . Nàng trong quốc phục Đại Hàn, mặt hơi vuông, lông mày cong, tóc chải quấn cao ra sau và cài một cái trâm. Họ gặp nhau trong buổi Dạ Vũ Hóa Trang cuối tháng Mười của Công Ty IFL Insurance tổ chức trên một du thuyền.

                - Anh là người nước nào vậy?
                - Việt Nam
                - Đàn ông nước anh đẹp thật, em không thích đàn ông Âu Mỹ, trông họ thô tháp quá!
                - Anh cũng thích gái Mỹ hơn, gái Việt phần đông hơi gầy, em sanh ở đâu?
                - Em sanh ở Nữu Ước, lớn lên ở San Francisco, em mới về làm việc ở Seattle được một năm.
                Hai người quấn lấy nhau như hai sợi chỉ rối. Cả hai như hài lòng là mình đã tìm được một người tâm đầu ý hợp. Tiệc chưa tàn, cô gái mắt xanh mặc quốc phục Đại Hàn mời chàng cao bồi viễn tây Việt Nam về nhà nàng tiếp tục uống rượu, và nghe nhạc. Cô nói căn chung cư của cô ngay ở ngã ba này, gần đến có thể nghe thấy tiếng nhạc ở thuyền vọng đến. Lời mời quyến rũ quá, còn đợi gì hơn nữa.
                Việc gì phải đến sẽ đến thôi. Sau khi uống chung nhau một ly rượu mạnh. Cô gái nói vào trong buồng thay áo cho thoải mái, Chàng tháo đôi giầy ủng, chiếc nón, bộ quần áo cao bồi vứt vào một góc phòng. Chàng hiện nguyên hình một phụ nữ Á Đông, mảnh dẻ, Cô chờ đợi một người con gái Mỹ quyến rũ bước ra, ngã vào vòng tay mình. Cô tin mình đủ sức thu hút người con gái này. Cô nhắm mắt lại, ngả mình nằm dài trên ghế, nghĩ đến cảm giác chinh phục được cô gái Mỹ hấp dẫn, kiêu gợi, được sống thật với chính mình.
                Một tiếng kêu thảng thốt:
                “Oh!” làm cô gái giật mình mở mắt, ngồi phắt dậy. Trước mặt cô là một người đàn ông tóc vàng, mắt xanh, ở trần, quấn một chiếc khăn tắm ngang lưng. Anh ta cũng hoảng hốt như không tin ở mắt mình. Anh đâu có muốn một phụ nữ. Anh cũng đang cần một người đàn ông, anh chưa kịp có một phản ứng nào thì cô gái đã vừa vơ quần áo, vừa chạy ra ngoài căn hộ, quên cả nón, cả giầy.

                Chiếc du thuyền không xa lắm giữa hai người vẫn phát ra những tiếng nhạc làm rung chuyển cả mặt hồ.

                .
                ----------------------------

                Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                Comment

                • #9

                  Bỗng dưng trời rộng lượng


                  Gửi Kim-Vi ở xa

                  Bỗng dưng trời rộng lượng
                  cùng với đất sang trang
                  viết bài thơ mầu trắng
                  thả xuống giữa không gian

                  thân cây giơ cành tay
                  hứng đóa hoa vô lượng
                  mái nhà trong thinh lặng
                  như chiếc bánh đứng chờ
                  phủ lớp kem tuyết trắng
                  dẫy thùng thư ngần ngại
                  mở ra lại đóng vào
                  những tấm thiệp lạnh buốt
                  mang ngọn lửa nhỏ nhoi
                  hàng cột đèn tung xuống
                  đám thiêu thân trắng tinh
                  ai rắc đường mặt đất
                  vị ngọt trôi vào hồn.

                  Bỗng dưng trời rộng lượng
                  xoay vũ trụ một vòng
                  có ngàn cánh bướm tuyết
                  bay trong trời mênh mông

                  tuyết tung chiếc khăn quàng
                  phủ mọi vật xấu xí
                  đất trời về nguyên thủy
                  đẹp như thủa hồng hoang

                  bỗng dưng hồn rất cũ
                  được mang ra giữa trời
                  bọc vuông lụa trắng nõn
                  bật tiếng khóc tinh khôi.


                  tmt (Những ngày tuyết-Dec.2008)
                  ----------------------------

                  Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                  Comment

                  • #10

                    Thử dịch tình yêu



                    Em thử dịch tình yêu ra tiếng Huế
                    tình yêu suốt ngày đội nón bài thơ
                    tình yêu bị nhốt vào chùa Thiên Mụ
                    rồi cô gái nào cũng thành cung nữ
                    và tình nhân của nàng là ông vua

                    Em thử dịch tình yêu ra tiếng Bắc
                    yêu thật nhiều mà vẫn nói “Không”
                    tình yêu đi quanh bờ hồ Hoàn Kiếm
                    xanh như cốm mới đỏ như hồng

                    Em thử dịch tình yêu ra tiếng Nam
                    tình yêu sẽ đơn sơ và rộng lượng
                    yêu mênh mông như sông nước Đồng Nai
                    tung lưới xuống tình nhân bơi vào như cá

                    Hãy cho em dịch tình yêu bằng tiếng rất lạ lùng

                    Người ngây ngất yêu em dịch: là người say
                    dấm chua: là rượu chát
                    đêm đen: nắng giữa ngày

                    Tên anh là Thu em dịch là Thú
                    anh là con hươu, con gấu, con cọp, con nai
                    tên em là Hoa em dịch thành Gai
                    một bụi hồng hoang
                    với đầy hương thơm và chùm gai nhỏ

                    Ta sẽ yêu nhau như thú yêu rừng

                    Hãy cho em dịch tình yêu
                    bằng ngôn ngữ của riêng em

                    Em dịch Tình yêu: là đám mây
                    đám mây: là giọt nước
                    giọt nước: là dòng sông
                    dòng sông: là con cá
                    con cá: là viên sỏi
                    viên sỏi: là tảng đá
                    tảng đá là: đám mây
                    đám mây là: tình yêu

                    Ai biết em dịch sai hay đúng
                    vì chỉ có mình em là người duy nhất
                    dịch tình yêu.


                    tmt 12/08
                    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 16-03-2010, 11:27 PM.
                    ----------------------------

                    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                    Comment

                    • #11

                      Ông Mỹ Tho

                      Trần Mộng Tú

                      Cũng như hầu hết những cặp vợ chồng không chung một chủng tộc, quê hương của người phối ngẫu bao giờ cũng là một vùng đất hấp dẫn để đến quan sát, tìm hiểu và thưởng thức. Hơn ba chục năm lập gia đình với người phụ nữ Việt Nam này, trong khoảng thời gian mười năm gần đây, anh đã về quê vợ đến sáu lần, lần nào anh cũng thấy hài lòng cho chuyến đi của mình.

                      Cái hài lòng của anh giản dị lắm! Anh đến Việt Nam chỉ muốn tìm xem đời sống, văn hóa của một nước Á Châu khác nước Mỹ như thế nào, nhất là nước đó lại sau mấy chục năm nội chiến. Anh là người thích tìm hiểu về đường xá, về địa phương ở những chỗ khác nhau, và anh rất giỏi ở mặt này. Chỉ với một cái bản đồ trong tay, không cần biết ở quốc gia nào, và dùng ngôn ngữ nào, bao giờ anh cũng tìm ra những con đường một cách dễ dàng. Có lần anh chị sang tận Hung (Hungary) đi cùng với hai người bạn văn của chị ở Na-Uy, anh cũng là người hướng dẫn đường xá, không hề lạc, mặc dù bản đồ xe bus và bảng chỉ đường bằng tiếng Hung, cả bốn người, chẳng ai đọc được.

                      Lần nào đến Việt Nam cũng thế, những ngày không đi du ngoạn xa chung với nhau, chị muốn đi mua sắm, đi thăm bạn riêng, chị đưa cho anh một ít tiền, cắt nghĩa qua về trị giá khác biệt giữa một trăm ngàn đồng Việt và một Mỹ kim thế nào, dặn anh mua bán ra sao, rồi chị đưa cho anh tấm thiệp của khách sạn cất vào túi, sợ anh lạc đường về. Sau này chính anh phải cắt nghĩa lại về tiền cho vợ khi chị lúng túng, anh nghĩ anh giỏi toán hơn vợ, chị chỉ biết làm thơ; anh chào chị, đi lang thang một mình, không bao giờ lạc. Anh có thói quen thức dậy thật sớm, ra đi cùng với tiếng chuông nhà thờ.

                      Những buổi sáng ở Hà Nội, có khi chị còn ngủ, anh dậy đi xem lễ 5 giờ sáng ở nhà Thờ Lớn. Xem lễ xong anh quay về góc phố gần khách sạn anh chị ở, ngay vỉa hè nơi có bà cụ bán nước trà, bánh chưng rán, bánh mì và trứng ốp la cho khách. Anh kéo chiếc ghế thấp sát đất, ngồi chênh vênh trên cái ghế quá nhỏ với mình; vừa ăn, anh vừa mở cuốn tự điển cầm tay nhỏ xíu ra, nói chuyện với bà cụ chít khăn mỏ quạ, răng đen. Anh ngắm cụ, cụ ngắm anh, cả hai cùng hạnh phúc.
                      Sau hai năm anh trở lại góc phố này, tìm bà cụ ngày trước, cụ vẫn ngồi đó, nhưng không nhận ra người khách cũ, anh buồn mãi, than với chị, tại sao không nhận ra tôi. Chị biết rồi, cụ cũng coi anh như những ông “Tây ba lô ấy mà,” cụ bán hàng xong, cụ nhớ làm gì, cụ đâu có biết anh có tình như thế. Tội nghiệp anh!

                      Có lần anh thuê một chiếc xe đạp, anh đi lang thang mỗi ngày, anh chụp hình, anh mua nải chuối, quả bưởi, cái bánh đa, gói xôi của những người buôn gánh, bán bưng, anh mang về xếp đầy buồng. Khi bất chợt có người thân đến tìm thăm anh chị, anh đem ra mời, để được dịp kể lại những khuôn mặt, cách bán mua ở những người anh được may mắn gặp trên phố. Anh đi cả năm cửa Ô bằng chiếc xe đạp này, anh về nói với vợ: Chân cầu Long Biên bẩn quá sức, người ta buôn bán ngay ở đó, không biết làm sao mà thở được!

                      Có một buổi sáng khác, anh thức dậy trước tiếng chuông, anh ngủ lơ mơ thế nào, cứ ngỡ chuông nhà thờ đổ rồi, anh vội vàng sửa soạn đi, anh xuống nhà, đánh thức người gác khách sạn, mở cửa cho anh. Ra đến ngoài đường, anh mới giật mình vì trời còn tối quá, chắc mới hai, ba giờ sáng (anh không bao giờ đeo đồng hồ,) quay lại đánh thức người gác cửa lần nữa, không nỡ; anh đi thử một quãng, mới vài chục bước, bỗng từ đâu, bốn năm phụ nữ ùa ra, chặn trước mặt anh; anh nhìn cách ăn mặc của họ, phấn son trên mặt, anh biết anh đang gặp ai rồi, anh cứ bước thẳng về phía nhà thờ. Một cô níu tay anh lại, cô không nói được tiếng Anh, cô giơ tay làm hiệu, anh lắc đầu, cô khác lại đến cắt nghĩa thêm, anh lắc đầu tiếp. Anh đành phải quay lại làm phiền người gác cửa. Anh về kể cho vợ nghe, rồi than, đáng nhẽ tôi phải cho người ta ít tiền chứ, nhưng tôi không có nhiều trong túi. Tội nghiệp họ, việc làm của họ mà.

                      Anh đang đi ngoài đường, gặp những thanh niên lao động, hay sinh viên ngồi ăn ở vỉa hè, bên dưới cái bảng có chữ “Chả Rươi” hay có chữ: “Miến Lươn,” anh chẳng biết là món gì, nhưng họ giơ chai bia lên, cười với anh, chỉ nói: “Hello” thế là anh sà xuống ngay; anh nói với chị là họ muốn thực tập tiếng Anh đấy. Hôm sau anh lại hẹn hò ra ngồi uống bia với họ, cho họ thực tập tiếp.

                      Một lần khác anh đang đi trên cầu Long Biên, đang ngó ngang ngó dọc, bỗng anh thấy có ai móc tay vào túi sau quần, anh quơ tay lại, nắm được cổ tay một thanh niên, người đó sợ quá, vội buông cái ví đã cầm được trong tay ra, rồi vụt chạy. Anh thấy người đàn ông đó ốm yếu, anh rượt theo, muốn cho ít tiền, nhưng người đó chắc sợ anh đánh, nên chạy vụt xuống phía dưới chân cầu; anh về kể với vợ, chạy nhanh quá, tôi không bắt kịp.

                      Anh thích nhất được cắt tóc ở vỉa hè, chị cản thế nào cũng không được. Chị đành đi theo anh đến chỗ cắt tóc. Người thợ treo cái gương nước thủy đã mờ trên một bức tường thấp, sứt mẻ, nước vôi cũ, loang lổ; hộp đồ nghề để dưới chân tường, anh ngồi vào ghế, người thợ mở ra một cái khăn có một mầu nhờ nhờ, không phải trắng, không phải vàng, nó gần tiệp mầu với cái áo người thợ đang mặc, giũ một cái rồi đeo vào cổ khách. Chị gần đứng tim khi thấy người thợ mở con dao lưỡi lam cán dài ra đưa vào cổ anh cạo ngược lên mặt. Chị rên thầm trong cuống họng. “Chúa ơi, ông này không phải là người trở về từ Trường Sơn chứ? Ông ta có từng hô chống Mỹ cứu nước không? Ông ta có bị chiến tranh làm cho tinh thần xuy xụp không?” Chị thở phào khi thấy con dao lưỡi lam được gấp lại cho vào cái hộp gỗ dưới đất. May quá! Ông thợ ít nói, nhưng không chống Mỹ. Anh ngồi nhắm mắt một cách khoan khoái khi được ông thợ tẩm quất trên vai, trên cổ. Lần kế về Hà Nội, chị nhất định không cho anh cắt tóc vỉa hè nữa, chị dọa anh, coi chừng lưỡi dao đó có vi trùng HIV, và có thể làm trầy da anh. Anh nể vợ, thôi lần đó, nhưng cũng trốn đi cắt tóc vỉa hè ở hai chuyến về Việt Nam kế tiếp.

                      Anh về Yên Bái nơi có họ hàng bên nội của vợ, anh cũng sẵn sàng đón miếng trầu từ tay mấy bà chị, cho vào miệng nhai thử. Anh ăn tất cả những thức ăn được tiếp vào bát, dù đã quá no, hay có miếng rất lạ, chưa ăn bao giờ. Ăn xong anh cũng ra giếng múc nước rửa tay, rửa mặt, anh nói với chị. Họ sung sướng hơn mình nhiều! Anh làm sao hiểu được con sông Hồng sau nhà là một mối lo cho mọi người. Anh theo các anh chị ra thăm mồ mả thân nhân bên vợ ngoài đồng, đi theo những rẻo đất bên bờ ruộng, và ao ước có một ngày được bước xuống cấy thử một nắm mạ, được tát thử một gầu nước như mấy nông gia ở đây. Anh nói với chị, thế nào anh cũng phải thử một lần cho biết.

                      Anh về nhà cháu vợ ở vùng ngoại ô Tân Thái Sơn, Sài Gòn. Những người hàng xóm, những trẻ con trong xóm kéo đến đầy nhà thăm hỏi vợ chồng anh. Chỉ mười phút sau, chị đã thấy anh ngồi trên một cái thành tường thấp, đưa hai chân xuống cho trẻ nhỏ bám đu lên, và hai mươi phút sau thì đứa trên vai, đứa trên lòng bu kín lấy anh, không nhìn thấy anh đâu cả, chỉ nghe thấy tiếng cười ròn rã, tiếng nói huyên thuyên của trẻ con tranh nhau đòi trèo lên anh.

                      Lần đi Việt Nam vừa qua, anh cũng có thêm bao nhiêu bạn. Một người cháu có nhà trong một con hẻm ở đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn, mời anh chị đến ở. Cháu bận đi làm việc cả ngày, đưa chùm chìa khóa cho anh chị, nên anh chị đi, về rất thoải mái. Sáng sớm, chị còn ngủ, anh đã ra đường, anh đi bộ ra công viên ở góc Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Trãi, xem hoặc cùng tập thể dục với những người ở đó, rồi anh đi bộ ra chợ Bến Thành, lấy xe bus trở về lại Nguyễn Trãi. Bao giờ anh về cũng có gói quít, và cái bánh đa. Đó là bữa điểm tâm của anh. Rồi anh lang thang vào sâu những con hẻm nhỏ hơn ở phía sau nhà, những con hẻm chia ra như những con lạch nhỏ giữa hai con hẻm chính của Nguyễn Trãi và Cống Quỳnh. Chính trong những hẻm này anh đã lúc trưa, lúc chiều ngồi xuống với từng nhóm bạn mới, chung quanh một cái bàn thấp kê sát tường hay dưới một gốc cây, hay trước một cái quán, với vài ba cái ghế nhỏ. Những người đàn ông làm bạn với anh, có nhóm mới khoảng trên dưới ba mươi, có nhóm xấp xỉ tuổi anh. Anh và họ không nói chung một ngôn ngữ nhưng vẫn hiểu nhau nói gì, và vẫn hòa đồng với nhau trong một “buổi nhậu” được. Anh ăn bất cứ cái gì họ mời, anh luôn luôn giành phần trả tiền, nhưng đôi khi với số tiền nhỏ anh để họ trả như một điều anh tôn trọng họ. Có hôm anh về hỏi chị:
                      - Em biết chả chìa là chả gì không?
                      - Biết chứ, là thịt thái mỏng, xiên vào cái que nhỏ nướng chứ gì?
                      - Sai rồi, thịt đó ở cái xương sườn, người ta tuốt thịt vào giữa, để chìa hai đầu xương ra, rồi mới nướng.
                      Chị há hốc miệng, à ra thế. Hóa ra anh ngồi ở mấy cái quán “Cầy Tơ” trong con hẻm Cống Quỳnh. Anh kể lại với chị, mới đầu anh tưởng thịt bò, ăn xong họ mới nói là thịt chó, tôi không dám ăn nữa.

                      Anh chị ở Sài Gòn ít ngày, xong ra Hà Nội, đi Cam Bốt, rồi quay lại Sài Gòn ở thêm mấy ngày nữa. Chị ngất ngư, muốn nghỉ ngơi trước khi về Mỹ, nhưng anh thì không. Anh tiếc rẻ mấy ngày còn lại, muốn đi thăm được càng nhiều nơi càng thích. Anh lấy mấy tấm bản đồ, trải ra, anh tìm đường đi Vũng Tàu. Anh làm một chuyến đi “Solo”, vừa đi vừa về trong ngày. Đi bằng cả đường thủy, đường bộ cho biết. Chị tin anh làm được, đưa cho anh thêm ít tiền, dặn anh đến nơi phải gọi về cho chị an lòng. Anh đi xe đò từ Sài gòn lúc bảy giờ sáng; buổi trưa chị đã nhận được email anh gửi về từ Vũng Tàu. Anh về lại Sài Gòn bằng tàu cánh ngầm, bảy giờ chiều anh đã ngồi ở quán cóc với bạn.

                      Anh có cái thú nói chuyện với thanh niên lao động, với những bà bán hàng gánh (chẳng hiểu bằng cách nào mà họ hiểu nhau). Anh thích nhìn hình ảnh trẻ em mặc đồng phục tan học túa ra ở cổng trường, thích ngắm nghía những người đàn ông lớn tuổi ở Hà Nội đi cái xe đạp khiêm nhường không có chắn bùn, chắn xích, mặc cái áo vét cũ nhưng vẫn rất tươm tất, anh nói ngay cả những người rất nghèo ở Việt Nam, nhất là Hà Nội, áo quần luôn thẳng, không nhàu nhĩ, chị bảo, đó là những người có gốc Hà Nội cũ, họ cố giữ câu “Đói cho sạch, rách cho thơm” đấy.

                      Hơn ba mươi năm lập gia đình với chị, anh ăn những thức ăn chị nấu, bưng lên bàn. Món thích, ăn nhiều, món không thích lắm, ăn ít, anh không bao giờ kén chọn. Chắc anh ăn cái tình của chị trong thức ăn hơn là chính thức ăn. Hình như cái bao tử của anh cũng bị Á Đông hóa rồi, nên thỉnh thoảng ăn thức ăn của Âu, Mỹ anh than nặng bụng quá. Cuối tuần chị có đi chơi với bạn gái, chỉ cần thổi cho anh một đĩa xôi lạc, để sẵn lên bàn, chị yên tâm đi chơi nửa ngày. Anh yêu không khí tụ họp giỗ tết trong gia đình, anh giới thiệu với các bạn Mỹ về truyền thống tốt đẹp của bên vợ và anh mời các bạn mình đến dự, khi chị làm giỗ cho cha mẹ chồng. Anh sống thoải mái với phong tục, tập quán Việt, mặc dù trước khi lập gia đình với chị, anh không có một chút khái niệm gì về quê hương chị. Hơn thế nữa, chị là người phụ nữ Á Đông đầu tiên anh gặp. Anh như dòng nước mặn hòa tan vào dòng nước ngọt không một chút do dự. Trong khi chị sống ở Mỹ, lúc nào cũng lúng túng, không tự nhiên như một người bé nhỏ được ai cho cái áo dày quá, rộng quá, hơi sặc sỡ, mặc vào vì lịch sự cộng thêm một chút hàm ơn, thế thôi.

                      Chị đặt tên anh là: “Ông Mỹ Tho” vì anh đã Việt hóa. Còn chị, chị yêu chồng, yêu con, yêu cái phần đất bao dung chị, nhưng vẫn chẳng bao giờ Mỹ hóa được. Chị nghĩ, trong cuộc hôn nhân này, anh là người sung sướng hơn chị.

                      Tháng 2/2010
                      (Viết sau chuyến thăm Việt Nam)
                      ----------------------------

                      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                      Comment

                      • #12

                        Đã chỉnh sửa bởi M Mít Đặc; 17-03-2010, 12:11 AM.
                        Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.

                        Comment

                        Working...
                        X
                        Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom