• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Những chiếc cầu ở quận Madison -Robert James Waller

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Những chiếc cầu ở quận Madison -Robert James Waller

    (...vài chương cuối....)

    Robert James Waller

    Những chiếc cầu ở quận Madison



    Tro tàn


    Đêm đã phủ xuống quận Madison. Sinh nhật lần thứ 67, năm 1987. Từ hai tiếng đồng hồ, Francesca vẫn nằm dài trên giường, bà vẫn có thể thấy, sờ hay cảm thấy tất cả những gì bà trải qua hai mươi hai năm về trước.
    Bà còn nhớ, nhớ mãi. Hình ảnh ánh đỏ của đèn sau xe hơi ông khuất dần về phía Tây dọc đường 92, trong sương mù và trong làn mưa, vẫn theo bà từ hơn hai mươi năm rồi. Bà sờ nhẹ lên vú và cảm thấy bắp thịt ở ngực mình săn chạm vào tay bà. Chúa ơi, bà yêu ông ấy biết chừng nào. Bà yêu ông ấy hơn là bà có thể tưởng, bà càng yêu ông ấy hơn nữa trong giờ phút này, qua ngần ấy năm. Bà đã có thể làm bất cứ điều gì cho ông, ngoại trừ huỷ hoại gia đình bà và có lẽ, huỷ hoại cả chính ông nữa. Bà bước xuống cầu thang và ngồi xuống bên chiếc bàn cũ kỹ bằng mi-ca vàng trong nhà bếp. Trước đây Richard đòi mua một chiếc mới cho bằng được. Bà đành chìu nhưng khăng khăng đòi phải đem chiếc bàn cũ vào cất trong xưởng và bà chăm chút bọc lại trước khi khiêng đi.
    ”Anh thật chẳng hiểu tại sao em lại quá gắn bó với cái bàn cũ mèm này như vậy“. Richard nhận xét khi giúp bà mang bàn vào xưởng. Sau khi Richard chết, bà bảo Michael mang lại vào trong nhà. Michael không bao giờ hỏi mẹ tại sao lại muốn thay cái bàn mới bằng cái cũ này. Cậu chỉ đưa mắt nhìn dò hỏi và Francesca không nói gì cả.
    Bây giờ thì bà ngồi vào chính chiếc bàn ấy. Rồi bà lấy từ tủ ra hai ngọn nến trắng cắm trên giá bằng đồng. Bà châm nến và mở máy thu thanh, đổi kênh cho đến khi máy phát ra một ban nhạc dịu dàng.
    Bà đứng yên trước bồn rửa chén một lúc lâu, nhẹ ngẩng đầu như nhìn ông, lẩm bẩm: ”Em nhớ anh, Robert Kincaid. Có lẽ Đấng Tối cao trong sa mạc có lý. Có lẽ anh là người cuối cùng. Có lẽ tất cả những chàng cao bồi ngày nay đều đang biến mất“.
    Trước khi Richard chết, bà không bao giờ thử gọi điện hay viết cho Richard, mặc dù suốt chừng ấy năm, ngày nào bà cũng thôi thúc muốn làm như vậy, bởi nếu ông còn bảo bà một lần nữa, hẳn bà sẽ ra đi với ông. Nếu bà viết thư, bà biết chắc chắn ông sẽ bay ngay đến tìm bà. Trong suốt chừng ấy năm, ông không hề gọi điện hoặc viết thư, sau khi gởi cho bà một bưu phẩm nhỏ gồm mấy tấm ảnh và một bản thảo. Bà biết rằng ông hiểu điều bà cảm nhận và hiểu những phức tạp mà ông có thể gây ra cho cuộc đời bà.

    Bắt đầu từ năm 1965, bà đặt mua dài hạn tờ National Geographic. Bài phóng sự về những chiếc cầu có mái che xuất hiện năm sau và người ta thấy trên tạp chí hình chiếc cầu Roseman trong ánh sáng đầu tiên của bình minh, cái ngày mà ông nhận mẩu giấy nhắn của bà gắn trên cầu. Bìa cũng đăng một trong những tấm hình ông chụp: đó là ảnh hai con ngựa kéo chiếc xe về phía cầu Hogback. Bài viết cũng ký tên ông.
    Phía sau tờ tạp chí, người ta thường giới thiệu các phóng viên và các nhà nhiếp ảnh, đôi khi còn đăng hình họ nữa. Thỉnh thoảng cũng có đăng hình ông. Vẫn mái tóc xám bạc, chiếc vòng, quần jean hoặc kaki, máy ảnh đeo vai, đường gân hằn rõ nơi cánh tay. Khi thì ở Kalahari, trước bức tường đền jaipar ở ấn Độ, trong chiếc xuồng ở Guatemala, khi ở phía Bắc Canada. Con đường và chàng lãng tử. Bà cắt ảnh và bài của ông cùng cả số báo có bài về cây cầu, bản thảo và ảnh bà cùng mẫu giấy nhắn bà viết, tất cả vào một phong bì giấy dày và để vào ngăn tủ quần áo, lẫn lộn với mớ đồ lót, chỗ mà Richard không bao giờ sờ tới.
    Nhìn những bức ảnh chụp Robert Kincaid, theo dấu ông qua bao nhiêu năm, bà nhận thấy ông già đi nhiều. Vẫn luôn luôn nụ cười đó. Vẫn cái thân hình dong dỏng, mềm mại và đầy bắp thịt. Nhưng bà có thể nhìn thấy những nếp nhăn nơi khéo mắt, khuôn mặt hơi trĩu nặng. Bà có thể đọc thấy tất cả điều đó. Bà đã từng quan sát chăm chú thân thể ông trước đây. Và bây giờ thấy ông già đi, bà lại thấy ham muốn ông hơn. Bà đoán - không, bà chắc chắn ông đang sống một mình. Và quả như vậy.

    Giờ đây, hai mươi hai năm sau, ngồi bên bàn, bà lặng lẽ ngắm nghía những tấm hình cắt ra từ tờ tạp chí. Từ những miền xa xôi, ông nhìn lại bà. Bà lần giở bức ảnh trên số tạp chí năm 1967. Ông đứng gần một dòng sông ở Tây Phi, cận cảnh, mắt nhìn thẳng vào ống kính, cặp mày hơi nhíu lại, như đang nhắm vào một điểm nào đó.
    Nhiều năm trước đây, khi nhìn bức ảnh này lần đầu, bà đã để ý thấy nơi sợi dây chuyền bạc ông đeo ở cổ có gắn thêm một hình trái tim nhỏ. Richard và Carolyn thì đã đi ngủ, bà bèn lấy cái kính lúp mà hồi bé Michael vẫn dùng để xem bộ sưu tập tem và đưa lại gần tấm ảnh.
    ”Chúa ơi“ - bà kêu lên. Trên hình trái tim có khắc chữ: ”Francesca“. Bà mỉm cười tha thứ cho hành động thiếu kín đáo duy nhất đó của ông. Trong những bức ảnh chụp sau đó, luôn luôn vẫn có hình trái tim nơi dây chuyền bạc của ông.
    Từ sau năm 1975, ảnh của ông không còn xuất hiện trên tờ tạp chí nữa. Cả tên cũng không. Bà kiểm tra từng số nhưng không thấy. Năm đó ông hẳn đã sáu mươi hai tuổi.

    Khi Richard chết vào năm 1979, sau tang lễ và sau khi các con đã đi, bà mới nghĩ đến việc gọi điện cho Robert Kincaid. Ông lúc đó đã sáu sáu, còn bà năm chín. Vẫn còn thời gian trước mặt hai người, dẫu cho là họ đã đánh mất đi mười bốn năm trời. Bà suy nghĩ thật lâu về điều này trong cả tuần lễ, rồi cuối cùng tìm số điện thoại ghi nơi thư ông và gọi ông.
    Tim bà ngừng đập khi nghe chuông reo. Bà nghe tiếng trả lời, một giọng đàn bà:
    ”Bảo hiểm Mc Gregor đây“. Francesca choáng váng nhưng cố trấn tĩnh để hỏi lại xem có phải đúng số đó không. Đúng. Bà cám ơn và buông máy. Sau đó bà cố thử gọi tổng đài ở Bellingham, ở bang Washington để hỏi. Chẳng ai có tên này trong danh mục. Bà thử hỏi ở Seattle. Cũng không. Rồi các phòng thương mại ở Bellington và Seattle nữa. Cũng không nốt. Bà cũng yêu cầu người ta kiểm tra lại nơi các cuốn niên gíam của thành phố. Họ kiểm tra lại và không tìm thấy ai có tên này cả.
    ”Anh ấy có thể ở bất cứ nơi nào“ - Bà tự nhủ.
    Bà nhớ đến tờ tạp chí, ông có dặn nếu cần thì gọi nơi đó. Bà liền gọi thử. Cô tiếp khách trả lời nhã nhặn nhưng cho biết hỏi người khác mới trả lời được, vì cô ta là nhân viên mới. Bà phải gọi qua ba người nữa rồi mới được nói chuyện với người phó tổng biên tập, là người đã làm ở đây từ hai mươi năm. Bà hỏi về Robert Kincaid.
    Rõ ràng cái ông phó tổng biên tập này còn nhớ Kincaid. ”Bà muốn tìm lão ta hả? Cái lão nhiếp ảnh gia chết tiệt đó, ơ, xin lỗi bà. Lão khó chịu lắm, rất bướng bỉnh. Lão cứ nhất định nghệ thuật vị nghệ thuật, mà điều đó thì không ”ăn“ với độc giả của chúng tôi rồi. Họ muốn có những bức ảnh đẹp, chụp khéo nhưng không lập dị, vô lý cơ.
    ”Chúng tôi luôn luôn nghĩ là Kincaid hơi khác thường, lão cũng chẳng biết nhĩn xa trong công việc. Nhưng đó là một tay chuyên nghiệp thật sự. Người ta có thể gởi lão đến bất cứ nơi đâu lão cũng làm việc ra trò, kể cả khi lão không đồng ý với quyết định của ban biên tập. Còn về địa chỉ của lão, thì tôi đang xem lại để cho bà biết đây. Lão thôi làm ở tạp chí này từ năm 1975. Tôi có giữ địa chỉ và số điện thoại sau đây...“. Ông ta cho bà những địa chỉ, số điện thoại mà bà đã biết. Sau lần đó bà thôi không cố tìm nữa, dường như bà sợ những điều có thể phát hiện.

    Bà tiếp tục sống, cho phép mình nghĩ đến Robert Kincaid thường xuyên hơn. Thường nhiều lần trong năm, bà đến Des Moines để ăn trong cái quán ăn họ đã từng ăn với nhau. Một trong những dịp đó, bà mua một cuốn sổ bìa da. Và trên những trang giấy trắng tinh, bằng một nét chữ trau chuốt, bà bắt đầu kể lại đầy đủ chi tiết về cuộc tình của họ và về những tư tưởng mà ông đã gợi ra cho bà. Bà phải dùng hết ba cuốn sổ như vậy mới có cảm giác là mình đã hoàn tất xong nhiệm vụ. Winterset bây giờ đã tân tiến nhiều. Thị xã có một hội đồng nghệ thuật tích cực, phần lớn do các bà đảm trách. Người ta bàn đến việc sửa chữa, tân trang các cây cầu cũ kỹ bị bỏ quên nhiều năm. Tâm lý dân chúng cũng thay đổi nhiều, những mái tóc dài của đàn ông không còn làm cho người ta xì xào bàn tán nữa, dẫu vẫn có ít người đi xăng-đan và hầu như không có thi sĩ ở đây.
    Dẫu sao thì Francesca cũng đã hoàn toàn rút lui ra khỏi cộng đồng, ngoại từ mối liên hệ với một ít người bạn thân. Người ta hơi chú ý đến điểm này và còn kể là thường thấy bà đi đến cây cầu Roseman và đôi khi, đến cầu Cedar nữa. Khi đã già người ta hay lẩn thẩn lạ lùng vậy đó, họ bình luận như thế và bằng lòng về cách giải thích này.

    Ngày 2 tháng 2 năm 1982, một chiếc xe tải của Công ty giao hàng rẽ lên ngõ nhà bà. Francesca không nhớ là mình có đặt mua hàng gì không. Ngạc nhiên, bà ký nhận và nhìn địa chỉ ghi ngoài kiện hàng: ”Francesca Johnson RR2, Winterset, Iowa, 50273“. Gói hàng đó do một hãng luật ở Seattle gởi.
    Gói hàng được bọc cẩn thận và gởi bảo đảm. Bà đặt lên bàn bếp và cẩn thận mở ra. Phía trong cuộc sống ba cái hộp, chèn giữa bằng những miếng xốp, trên một trong ba hộp đó là một phong bì dán kín. Trên một hộp khác là một phong bì ghi tên bà trong có lá thư của hãng luật.
    Bà tháo phong bì đó và run run mở ra.

    ”25 tháng giêng 1982
    Kính gởi bà Francesca Johnson
    RR2 Winterset Iowa 50273
    Kính bà Johnson,
    Chúng tôi xin thay mặt cho ông Robert L. Kincaid vưà mới từ trần...

    Francesca đặt phong thư lên bàn. Bên ngoài tuyết đang phủ cánh đồng mùa đông. Bà nhìn tuyết bay phấp phới trên những cuốn rạ, và cuốn theo những vỏ bắp bay tung toé rồi dồn vào trong một góc rào kẽm gai. Bà đọc lại câu đầu trong lá thư.

    Chúng tôi xin thay mặt cho ông Robert L Kincaid vừa mới từ trần...

    ”Ôi, Robert... Robert... không...“. Bà thốt lên dịu dàng, đầu gục xuống ngực.
    Mãi một giờ sau bà mới có thể đọc tiếp bức thư. Hình thức hành chánh, giọng văn vô hồn của nó khiến bà phẫn nộ.

    Chúng tôi xin thay mặt cho...

    Hẳn là một luật sư tận tuỵ.
    Thế còn con báo của vùng hoang vu, còn kẻ đu vào đuôi sao chổi, còn gã phù thuỷ đi tìm cây cầu Roseman vào một ngày nóng nực tháng Tám, còn cái con người đứng trên bục chiếc xe Harry cố quay lại nhìn bà, cái con người đau đớn trong làn bụi mờ nơi một ngõ hẹp ở Iowa, tất cả những cái đó ở đâu nơi những dòng chữ lạnh lùng này?

    Lá thư đúng ra phải dài dòng nghìn trang. Đúng ra nó phải nói về điểm tối hậu một dây chuyền tiến hoá về sự cáo chung của tự do hành động, về những chàng cao bồi đang vùng vẫy nơi góc rào kẽm gai, như những vỏ bắp mùa đông kia. Thế mà nó chỉ có vài dòng:

    Chúc thư duy nhất của ông ta ghi ngày 8 tháng 7 năm 1967. Ông đã để lại những chỉ dẫn rõ ràng rằng những vật kèm theo đây phải được đưa đến tay bà. Trong trường hợp người ta không thể tìm ra bà, các vật đó phải được thiêu huỷ.
    Cũng kèm theo đây là một hộp có ghi "Thư", chứa một lời nhắn của bà mà ông gởi đến cho chúng tôi vào năm 1978, còn thư kia thì ông ta niêm kín và chúng tôi không hề mở ra.
    Thi hài ông Kincaid đã được hoả táng. Theo yêu cầu của ông, không một vật gì được khắc tên ông. Cũng theo yêu cầu của ông, tro tàn được rắc ở một nơi gần nhà bà, theo chỗ tôi biết, nơi đó gọi là cầu Roseman.
    Nếu bà cần thêm tin tức gì, xin bà cứ liên lạc với chúng tôi, đừng ngần ngại.
    Xin bà nhận cho ở đây lời chào trân trọng của chúng tôi.
    Allen B Quippen, luật sư.

    Bà lấy lại hơi thở, dụi mắt rồi tiếp tục xem xét bên trong kiện hàng.
    Bà biết cái gì nằm bên trong phong bì nhỏ dày cộm đó. Bà biết như bà biết mùa xuân sẽ trở lại sang năm vậy. Bà thận trọng mở và lấy ra một sợi dây chuyền đã cũ và có khắc chữ ”Francesca“. Phía sau lưng là một dòng chữ rất nhỏ viết bằng mực: ”Trong trường hợp người đeo bị chết, xin đưa lại cho Francesca John, RR2, Winterset, Iowa, USA“
    Chiếc vòng deo tay bằng bạc thì được gói trong giấy lục nhét cuối phong bì. Cùng chiếc vòng là một mảnh giấy. Chính chữ của Francesca.
    Chính là tờ thư nhắn của bà gắn trên cầu Roseman. Ông đã giữ làm kỷ niệm. Tờ giấy nhàu bẩn và đầy lằn gấp, chắc ông đã cất lâu ngày trong ví.
    Bà tự hỏi ông đã đọc đi đọc lại tờ giấy bao nhiêu lần trong suốt những năm dài đó, từ những nơi rất xa con sông Middle, rất xa quận Madison. Bà hình dung thấy ông đang nhướng mắt đọc lại dưới ngọn đèn nhỏ trên chiếc máy bay phản lực đang bay về những xứ sở vô tận. Hoặc đang ngồi bệt trên đất cạnh một túp lều tre tại một vùng dành riêng cho cọp và đọc dưới ánh sáng cây đèn bấm, hoặc xếp lại và cất cẩn thận trong ví da trong những đêm mưa tầm tã ở Bellingham, rồi lại ngắm nhìn bức ảnh chụp một người đàn bà đang dựa lưng vào hàng rào một buổi sáng mùa hạ, hay đang bước ra khỏi một chiếc cầu có mái che vào lúc mặt trời lặn.
    Cả ba cái hộp trong kiện hàng này đều đựng máy ảnh và các ống kính. Tất cả đều nứt nẻ, hư cũ. Nơi lưng một ống kính, bà thấy khắc chữ ”Nikon“ và phía bên trái nhãn hiệu là một chữ ”F“. Đó là cái máy bà đã đưa cho ông nơi cầu Cedar.

    Cuối cùng, bà mở lá thư niêm kín của ông. Lá thư viết bằng tay trên giấy viết thư, ghi ngày 16 tháng Tám năm 1978.

    Francesca thân yêu,
    Tôi hy vọng rằng lá thư này đến với em khi em còn khoẻ mạnh. Tôi cũng không biết khi nào thì lá thư này gởi đến em, sau khi tôi chết. Tôi bây giờ đã 65, và như thế hôm nay là đã 13 năm kể từ khi chúng ta gặp nhau, lúc tôi lái xe lên ngõ hẻm nhà em để hỏi thăm đường.
    Tôi đành liều nếu thư và những đồ vật này có thể làm xáo trộn đời sống của em theo một cách nào đó. Đơn giản chỉ là vì tôi không thể chịu nổi cái ý tưởng rằng cuối cùng những đồ đạc của tôi tình cờ nằm trong một cửa hiệu hay trong tay một kẻ xa lạ nào đó. Khi em nhận những đồ này thì chắc là chúng đã ở tình trạng cũ nát tồi tệ, nhưng tôi không còn có ai khác trên đời để giao lại và tôi đành liều gởi đến cho em. Suốt thời gian từ 1965 đến 1975, tôi đã dùng hầu hết thì giờ để ở trên đường. Để cưỡng lại cái ý định gọi điện hoặc đến tìm em, cái ý định đã theo đuổi tôi hầu như suốt cuộc đời còn lại của tôi, tôi chấp nhận đi là tất cả những phóng sự bên kia Đại Tây Dương mà người ta đề nghị với tôi. Đôi khi rất thường khi, tôi tự nhủ: Kệ xác. Mình sẽ đến Winterset. Iowa, giá nào đi nữa mình cũng phải dẫn Francesca theo mình". Nhưng rồi tôi nhớ điều mà em nói với tôi và tôi tôn trọng những tình cảm của em. Có lẽ em có lý. Tôi cũng không biết nữa. Tôi biết rằng việc tôi rời bỏ con hẻm trước nhà em vào buổi sáng Thứ sáu nóng nực đó là hành động khó khăn nhất mà tôi đã làm trong đời. Và thật tôi cho là không có một ai trong đời lại phải làm một việc khó khăn hơn thế.
    Tôi đã thôi việc ở tạp chí National Geographic từ năm 1975 và tôi dùng những năm tháng sau đó để chụp những gì tôi thích, bằng cách nhận làm những việc lặt vặt như làm phóng sự địa phương, những công việc chỉ chiếm mất vài ba ngày. Như thế tất nhiên là có khó khăn về mặt tài chính, nhưng tôi đã quyết rút lui. Thì tôi luôn rút lui mà.
    Công việc lớn nhất của tôi liên hệ đến Puget Sound. Việc này làm tôi vui. Tôi có cảm giác là càng về già, người ta hay quay về với nước.
    à, hiện giờ tôi có nuôi một con chó, một loại lông xù màu vàng. Tôi gọi nó là "Con Đường" và nó đi theo tôi phần lớn khắp mọi nơi, mũi luôn luôn dán vào cửa xe, chắc để đánh hơi những phong cảnh đẹp.
    Năm 1972, tôi bị té nơi một bờ dốc ở Công viên Quốc gia Acadia, Maine, bị bể mắt cá chân. Sợi dây chuyền và hình trái tim văng ra khi tôi té. May mắn là rơi không xa lắm. Tôi đã tìm lại được và nhờ một người thợ kim hoàn sửa lại.
    Đã có những người đàn bà đến với tôi trước em, một số người, nhưng không có ai sau em. Tôi đã tự chọn cuộc sống độc thân, tôi không còn thích thú cuộc sống gia đình. Một ngày nọ, ở Canada, tôi nhìn thấy một con ngỗng đực mà con ngỗng cái của nó đã bị thợ săn giết chết. Em biết đó, ngỗng là loài sống với nhau suốt đời. Thế là con ngỗng đực đó giờ suốt ngày bay trên ao hồ, lần cuối cùng tôi thấy, nó đang rúc vào những đám lúa dại để tìm kiếm con cái một cách vô vọng. Chắc cái ẩn dục như thế này, về mặt văn chương, không được hay lắm. Nhưng đó là những gì mà tôi cảm thấy.
    Trong những buổi sáng mù sương hay trong những buổi chiều khi ánh sáng mặt trời phản chiếu lên làn nước của vùng Tây Bắc, tôi cứ nghĩ đến em và cố hình dung ra em đang ở đâu, em đang làm gì trong cuộc đời này. Chắc cũng chẳng có gì đặc biệt em đi ra vườn, ngồi trên chiếc xích đu dưới mái hiên hay em đang đứng nơi bồn rửa chén ở nhà bếp. Đại loại như vậy.
    Tôi nhớ rõ tất cả. Nhớ mùi hương của em, nhớ cái hương vị của em, giống như hương vị mùa hè. Nhớ cái cảm giác khi thân thể em chạm thân thể tôi và những lời em thốt ra khi tôi đang yêu em. Ngày nọ, Robert Penn Warren có nói về ”một thế giới dường như bị Thượng đế bỏ quên. Tuyệt vời, tất cả những gì mà tôi cảm thấy. Nhưng tôi không thể cứ mãi sống theo cách ấy. Khi tình cảm quá mạnh mẽ, tôi phải mở máy cheíec Harry đi đâu đó với "Con Đường" vài ngày.
    Tôi không thích làm ra vẻ tự thương xót mình. Đó không phải là tính cách của tôi. Thường khi tôi không có như vậy đâu. Ngược lại, tôi ý thức rằng cuối cùng, tôi cũng sẽ tìm lại được em. Chúng ta rồi sẽ gặp lại nhau như hai hạt bụi của vũ trụ.
    Thượng đế, hay vũ trụ, hay ta gọi tên gì đi nữa, đã tạo ra cái hệ thống lớn của sự thăng bằng và trật tự này, không thể nào nhân ra nỗi kiếp người. Đối với vũ trụ thì bốn ngày cũng chẳng kém gì hơn bốn tỷ năm ánh sáng. Tôi luôn luôn nhớ điều đó trong tâm trí.
    Thế nhưng, dẫu sao, tôi cũng chỉ là một con người. Tôi có thể trích dẫn ra đủ lời lẽ duy lý triết học, nhưng điều đó cũng không ngăn cản nổi tôi thèm muốn em từng ngày, từng phút, từng giây. Tận cùng nơi tôi là một lời than khóc tàn nhẫn về thời gian, cái thời gian mà tôi không thể cùng sống với em.
    Tôi yêu em đến tận cùng và toàn diện. Và tôi yêu em mãi mãi.
    Người cao bồi cuối cùng.
    Robert
    TB. Hè vừa rồi tôi đã thay động cơ của chiếc Harry và giờ nó chạy rất tốt.

    Kiện hàng này đã đến muộn năm năm. Và việc bà ngồi mân mê, ngắm nghía những vật bên trong gói hàng đã là một phần của nghi thức trong ngày sinh nhật hàng năm của bà. Bà để những máy ảnh, sợi dây chuyền với hình trái tim, chiếc vòng vào trong một hộp nhỏ đặt vào tủ áo quần. Bà đã đặt và chỉ dẫn cho bác thợ mộc ở Madison đóng chiếc hộp này, với đủ ngăn, ô cầu kỳ. Khi giao chiếc hộp, bác nói: ”Hộp đóng chi li rối rắm quá“, nhưng Francesca hài lòng và mỉm cười.
    Đọc bản thảo của Kincaid là phần cuối cùng của nghi thức. Bà luôn luôn đọc dưới ngọn nến cuối ngày. Bà thận trọng đặt bản thảo lên chiếc bàn mi ca vàng cạnh ngọn nến, đốt điếu thuốc duy nhất trong năm, một điếu Camel, nhấp một ngum brandy và bắt đầu đọc:

    Rơi từ chiều vô tận
    Robert Kincaid
    Có những ngọn gió hằng trăm năm mà tôi chưa hề biết đến bao giờ, nhưng ngay cả vậy, luôn luôn tôi vẫn có cảm giác như là mình đã cỡi trên lưng chúng bay đi. Tôi đang chuyển vào chiều vô tận, là cái thế giới hiện hữu bên kia, nơi cái phần kia của sự vật, song song với cái thế giới của tôi. Như thế này, tay đút vào túi, hơi khom người, tôi nhìn thế giới đó xuyên qua khung kính của một cửa hiệu lớn. ở trong chiều vô tận, có những khoảnh khắc lạ thường. Như khi tôi đang lái xe đi dưới cơn mưa từ New - Mexico đến phía Tây của Magdalena, xa lộ bỗng biến thành đường rừng và đường rừng biến thành lối mòn. Rồi chiếc cần gạt nước gạt qua, lối mòn bỗng biến thành một góc rừng chưa ai đặt chân đến. Rồi một cái gạt nữa, thì là một không lùi xa. Lần này đầy sương móc. Tôi bước trên cỏ mịn, mặc áo lông thú, tóc bù xù, tay cầm cây giáo ngắn, mảnh khảnh và rắn rỏi như một tảng băng, người đầy bắp thịt và lòng đầy quỷ kế. Đằng sau tảng băng, xa hơn tầm hiện hữu của sự vật, nước biển sâu thẳm trong đó toi bơi lội tung tăng, người đầy vảy, thở bằng mang. Tôi không thể nhìn xa hơn nữa, nhưng sau cái giống phiêu sinh ấy thì là độ không, là vô tận.
    Euclide không phải bao giờ cũng đúng. Ông giả định rằng có đường song song vĩnh viễn, cho đến tận cùng sự vật, nhưng người ta vẫn có thể hình dung một viễn cảnh phi Euclide, nơi đó các đường gặp nhau ở tít phía xa. Một điểm khuất. Một ảo ảnh của sự hội tụ. Dẫu sao, tôi biết đó không gì khác hơn là một ảo ảnh. Đôi khi có một sự gặp gỡ tự sinh, khi đó hai thực thể hoà tan làm một. Một mối ràng buộc êm đềm. Không hề có một chỗ giao ngang được vạch nên bởi một thế giới của lý tính chính xác. Không một tiếng động của sự vãng lai. Chỉ làmột hơi thở. Vâng, đúng, đó là cách thế và có lẽ cả cảm xúc của nó nữa.
    Và tôi chậm rãi đi về cái thực tại khác đó, đi mấp mé bên nó, lướt qua nó, luôn luôn với tất cả sức mạnh, nhưng luôn luôn với tấm lòng thành. Và cái con người kia biết điều đó, nó tiến lại gần bằng cái sức mạnh của nó và đến lượt nó, biến thành chính tôi.
    Đâu đó, trong luồng hơi thở này, hiện lên một điều nhạc và một vũ điệu kỳ lạ bắt đầu theo một nhịp bước kỳ ảo làm dịu lòng con người của băng giá với ngọn lao và bộ tóc bù xù. Và chầm chậm - luôn luôn quay chậm, quay chậm - con người của băng giá ngã xuống... rơi ra ngoài chiều vô tận... rơi đến nơi nàng.

    Và thế là chấm dứt ngày sinh nhật thứ sáu mươi bảy, Francesca sắp xếp lại phong bì vào nơi ngăn trên của tủ. Sau cái chết của Richard, bà quyết định cất các di vật đó vào két sắt nhà băng, nhưng cứ vào giai đoạn này trong năm, bà lại đem về để ở nhà vài ngày, đặt trong tủ áo trong phòng bà.
    Hồi chiều, bà đã đến cầu Roseman. Còn bây giờ bà bước ra hiên, lấy khăn lau chiếc xích đu rồi ngồi xuống đó. Trời lạnh nhưng bà luôn luôn ngồi lại đó vài phút, sau đó đi về phía hàng rào nơi cánh đồng, đứng yên một lúc, rồi đi đến lối vào ngõ nhà. Hai mươi hai năm sau, bà vẫn còn thấy hình ảnh ông bước xuống khỏi chiếc xe tải để hỏi đường, bà vẫn còn thấy hình ảnh chiếc Harry nhấp nhô trên đường quê và thấy Robert Kincaid đứng trên bục xe, ngước mắt nhìn lên phía ngõ.
    Đã chỉnh sửa bởi GRANDET; 29-07-2009, 12:45 AM.
    Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......
    Similar Threads
  • #2

    Những chiếc cầu ở quận Madison







    Lá thư của Francesca


    Lá thư của Francesca
    Francesca chết vào tháng giêng năm 1989, khi đó bà 69 tuổi. Robert Kincaid nếu còn sống thì năm đó đã 75. Người ta chẩn đoán cái chết của bà là ”tự nhiên“. Người bác sĩ bảo Michael và Carolyn: ”Đơn giản là bà chỉ ra đi. Tuy vậy chúng tôi hơi bối rối một chút. Chúng tôi không tìm thấy nguyên nhân rõ ràng của cái chết này. Một người hàng xóm thấy bà nằm gục xuống trên chiếc bàn phòng bếp“.

    Trong một lá thư gửi cho luật sư của mình, năm 982, bà đã yêu cầu khi bà chết thân thể phải được hỏa táng và tro thì rải xuống cầu Roseman, ở quận Madison. Việc hoả thiêu thi hài là điều có một không hai - chẳng rõ đặt trên cơ sở nào, nhưng người ta vẫn xem việc hoả thiêu là một hành động bại hoại - vì thế yêu cầu này của bà gây ra nhiều bàn tán trong dân chúng ở quán nước, ở trạm xăng...

    Sau tang lễ, Michael và Carolyn đi chậm chậm đến cầu Roseman và làm theo ước nguyện cuối cùng của mẹ mình. Do chỗ chiếc cầu này cũng chẳng xa cho nên việc làm này cũng không phải là một đòi hỏi quá đáng đối với gia đình, nhưng họ tự hỏi tại sao mẹ mình, một người khá sáng suốt, lại xử sự một cách có vẻ thần bí như vậy và tại sao bà lại không đòi được chôn cất cạnh cha mình như người ta thường làm.
    Sau đó Michael và Carolyn trở về nhà thu xếp mọi chuyện. Họ nhận được những di sản trong chiếc hộp ở ngân hàng về trước sự hiện diện của một luật sư trong vùng.

    Tại nhà, hai anh em chia nhau giấy tờ mà họ sắp phải đọc. Các phong bì bằng giấy dày thuộc phần Carolyn, nằm trong một đống giấy tờ, đồ đạc khác. Cô ngạc nhiên mở và lấy ra một tập tài liệu. Cô đọc lá thư mà Robert Kincaid viết năm 1965 cho Francesca. Rồi cô đọc lướt qua lá thư năm 1978 và lá thư mà luật sư Seattle gởi năm 1982. Cuối cùng cô nghiên cứu những bài cắt trong báo.
    ”Anh Michael này“, giọng nói mơ màng và hỗn loạn của cô làm anh ngạc nhiên và anh ngẩng đầu lên. Mắt Carolyn nhoà lệ và giọng cô run run: ”Mẹ yêu một người đàn ông tên là Robert Kincaid. Anh có nhớ số báo National Geographic về những cây cầu có mái che mà cả hai đứa mình đều phải đọc không? Chính ông ta là người đã chụp những bức ảnh này. Và anh có nhớ hồi đó bọn con trai có nói về một người lạ mặt mang máy ảnh không? Chính ông ta đấy“.
    Michael ngồi đối diện với cô ta, cà-vạt nới rộng, cổ áo mở tung. ”Nói ại chậm chậm đi nào. Anh chẳng hiểu gì hết“.
    Sau khi đọc mấy bức thư, Michael đứng dậy lục trong tủ nơi tầng trệt, rồi lên phòng Francesca. Trước đây anh không bao giờ thấy cái hộp bằng gỗ hồ đào này. Anh mở ra và đặt lên tên bàn phòng bếp. ”Carolyn này, đây là những chiếc máy ảnh“.
    Trong hộp, dán vào một bên thành là một phong bì niêm kín bên ngoài tự tay Francesca viết tên của Michael và Carolyn, còn chen vào giữa mấy cái máy ảnh là ba cuốn sổ tay đóng bìa da.
    ”Anh không chắc đủ sức đọc những điều trong phong bì này - Michael bảo cô em - Đọc cao giọng lên nếu em thấy đủ can đảm“.
    Carolyn xé phong bì và bắt đầu đọc:

    Ngày 7 tháng 1 năm 1987
    Carolyn và Michael thân yêu,
    Bởi mẹ thấy mình đang hoàn toàn khoẻ mạnh, mẹ nghĩ rằng đã đến lúc mẹ phải thu xếp mọi chuyện hậu sự của mẹ đâu vào đấy, như người ta thường nói. Có một điều, một điều rất quan trọng mà các con phải biết. Đó là lý do tại sao mẹ viết thư này cho các con.
    Khi các con nhận cái hộp này của mẹ và tìm thấy trong đó cái phong bì lớn gởi cho mẹ năm 1965, thì mẹ nghĩ rằng các con đã đọc xong lá thư này. Mẹ muốn các con nếu có thể được ngồi nơi bàn ở nhà bếp để đọc. Các con sẽ hiểu ngay tại sao mẹ lại yêu cầu như vậy.
    Thật cũng khó cho mẹ khi phải viết tất cả những điều này cho các con mình, nhưng mẹ phải làm. Có một điều quá mạnh mẽ, quá đẹp nên không thể để nó chết theo mẹ được. Và nếu các con bắt buộc phải biết mẹ các con là ai, với những sai lầm và với những tính chất như thế nào, thì các con cần phải biết những điều mà mẹ sắp nói đây. Vậy các con hãy can đảm lên.
    Chắc các con đã biết, ông ấy tên là Robert Kincaid. Còn "L" là tên giữa nhưng mẹ cũng chẳng biết nó là chữ tắt của tên gì. Ông ấy là nhiếp ảnh gia và ông đến đây năm 1965 để chụp những chiếc cầu mái che.
    Chắc các con còn nhớ, cả thành phố mình náo động lên khi các bức ảnh này xuất hiện trên tờ National Geographic. Có lẽ các con cũng còn nhớ mẹ đã đặt mua dài hạn tờ tạp chí này kể từ lúc đó. Bây giờ hẳn các con hiểu lý do vì sao mẹ đã quan tâm đặc biệt như vậy. Cũng nên nói cho các con biết là mẹ đã ở cùng ông ấy (mẹ mang xách cho ông) khi ông chụp ảnh chiếc cầu Cedar.
    Các con nên hiểu rằng, mẹ yêu quý cha các con trước đây và bây giờ nữa. Mẹ biết cha các con là người tốt và ông đã cho mẹ hai đứa con mà mẹ yêu dấu.
    Nhưng Robert Kincaid là một con người hoàn toàn khác, không giống như bất cứ người nào trên đời mẹ đã gặp hoặc người nào mẹ đã từng nghe nói, dầu là qua sách vở. Mẹ khó có thể làm cho các con không phải là mẹ. Sau nữa các con không hề tiếp xúc với ông ấy, các con không nhìn thấy ông ấy đi hay nghe ông ấy kể lại việc ông ấy đã tìm ra cái điểm chung cục của dòng tiến hoá như thế nào. Có lẽ những cuốn sổ nhật ký và những bài cắt ra từ báo sẽ giúp các con hiểu hơn, nhưng như thế chắc cũng không đủ.
    Theo một nghĩa nào đó, ông ấy không thuộc về trái đất này. Mẹ không thể nào diễn đạt tốt hơn. Mẹ luôn nghĩ rằng ông ấy giống như một con báo đi phiêu du trên đuôi của một sao chổi. Ông đúng là có thân thể và cách chuyển động của con báo. Ông có thể tập trung một sức mạnh không ngờ với một tính tình vừa sôi bỏng vừa dịu dàng cũng như nơi ông có một ý thức sâu xa về điều bi thảm. Ông cảm thấy không còn có lý do để hiện hữu trong một thế giới của máy tính và robot, một thế giới được tổ chức quá hoàn hảo. Ông ấy tự xem mình như là một trong những chàng cao bồi cuối cùng - chữ của ông ấy - và ông cũng xem mình như là một người duy - quá - khứ.
    Lần đầu tiên mẹ thấy ông là lúc ông đang dừng lại để hỏi thăm đường đến cầu Roseman. Khi đó ba cha con đang đi dự chợ phiên ở Illinois. Các con hãy tin rằng không phải mẹ đi tìm một cuộc phiêu lưu đâu. Đó là điều cuối cùng mà mẹ nghĩ đến. Nhưng mẹ đã nhìn ông ấy chưa đầy năm phút và mẹ biết rằng mẹ đã ham muốn ông ấy, dẫu rằng sau đó mẹ còn ham muốn ông ấy nhiều hơn nữa.
    Và mẹ van các con, các con đừng hình dung ra một gã Casanova chuyên chạy theo tán tỉnh các cô gái quê. Ông ấy không hề giống loại người đó chút nào. Thật ra ông ấy khá nhút nhát và mẹ cũng chịu trách nhiệm như ông ấy về những điều gì đã xảy ra. Còn hơn nữa. Mẹ đã móc tờ giấy nhắn - hiện đang nằm cùng với chiếc vòng tay trong hộp - nơi cầu Roseman để nhắn ông gặp lại buổi sáng sau lần gặp gỡ đầu tiên. Không kể những bức ảnh mà ông đã chụp mẹ, tờ giấy này là bằng chứng duy nhất về sự hiện diện của mẹ mà ông đã giữ suốt bao nhiêu năm trời.
    Mẹ biết rằng con cái thì thường hay có khuynh hướng nghĩ rằng cha mẹ chúng không có dục tình gì hết, bởi vậy mẹ hy vọng rằng những điều mẹ sắp nói với các con đây không làm các con chấn động và nhất là mẹ hy vọng rằng điều đó không phá huỷ những ký ức mà các con đã có về mẹ.
    Trong căn nhà bếp cũ kỹ của chúng ta, Robert Kincaid và mẹ đã trải qua những giờ bên nhau, mẹ và ông ấy đã nói chuyện, đã khiêu vũ dưới ánh sáng của ngọn đèn cầy. Và rồi, đúng vậy, mẹ và ông ấy đã yêu nhau trong căn phòng này, trong phòng ngủ, trên cỏ và hầu như trên khắp mọi nơi mà các con có thể hình dung ra được. Đó là một mối quan hệ tình dục phát xuất từ sức mạnh lạ lùng siêu việt kéo dài trong nhiều ngày không hề gián đoạn. Trước đây mẹ luôn luôn dùng từ "sức mạnh" khi nghĩ về ông ấy. Và đó cũng chính là cái ấn tượng mà ông ấy toát ra khi bọn mẹ gặp nhau lần đầu tiên.
    Ông ấy có tiềm lực như một mũi tên. Đơn giản là mẹ mất hết sức tự vệ khi ông ấy yêu mẹ. Mẹ không hề cho mình là yếu đuối. Nhưng mẹ như bị chìm lỉm bởi cái sức mạnh thể chất và cảm xúc thuần tuý đó. Lúc mà mẹ thốt lên điều ấy với ông, ông chỉ trả lời mẹ: "Tôi là con đường, là kẻ lữ hành và là tất cả những cánh buồm dẫn về biển cả".
    Sau đó mẹ đã kiểm tra lại từ này trong từ điển. Người ở đây khi nghe đến từ "Lữ hành" (peregrine), trước hết họ nghĩ về một con diều. Nhưng từ này có rất nhiều nghĩa là "kẻ lạ, không chốn ở". Một nghĩa khác là "kẻ lang thang lạc loài hay người di trú". Từ này xuất phát từ tiếng La tinh "peregrinus", có nghĩa là kẻ lạ. Ông ta đồng thời là tất cả những thứ đó - một kẻ lạ theo cái nghĩa chung nhất của từ này, một kẻ lang thang và bây giờ mẹ nhớ lại ông cũng rất giống một con diều nữa. Các con nên hiểu rằng điều mẹ cố diễn đạt không thể nói ra hết bằng một vài từ nghữ. Mẹ chỉ mong muốn rằng cả hai chúng con đều trải qua những kinh nghiệm như mẹ, dẫu rằng hiện nay điều đó khó có thể được. Mẹ biết rằng cái quan niệm như thế không phù hợp trong thời đại chúng ta, và mẹ không nghĩ rằng một người đàn bà có thể có được một sức mạnh đặc biệt như Robert Kincaid. Vậy thì Michael, dành cho con đấy. Còn về Carolyn, điều bất hạnh là trên đời này chỉ có một Robert Kincaid duy nhất và sau ông ấy không còn ai nữa.
    Nếu ngày đó không có cha con và các con thì mẹ đã đi theo ông ấy ngay, bất cứ đi đâu. Ông ấy có yêu cầu mẹ cùng đi, ông van nài mẹ. Nhưng mẹ đã không nghe lời và đó là một con người quá nhạy cảm và quá tốt nên ông ấy không bao giờ có ý định làm đảo lộn cuộc đời của chúng ta. Tuy vậy, ở đây có một điều nghịch lý: Nếu không do ở Robert Kincaid thì không chắc mẹ có ở lại nơi trang trại này nữa không. Trong bốn ngày, ông ấy đã cho mẹ một cuộc đời toàn diện, một vũ trụ và đã kết hợp những phần khác nhau của mẹ lại thành một thực thể duy nhất. Mẹ không bao giờ ngừng mơ tưởng về ông ấy. Ngay cả khi mẹ không nghĩ một cách có ý thức, mẹ vẫn cảm thấy ông, ông luôn luôn có mặt ở đó. Điều này không làm sứt mẻ đi chút nào tình cảm mà mẹ dành cho các con và cho cha các con. Nếu trong một khoảnh khắc nào đó mẹ chỉ nghĩ về mình thì mẹ không còn chắc là mẹ đã quyết định đúng.
    Nhưng nếu mẹ nghĩ về gia đình chúng ta thì mẹ gần như chắc chắn rằng mẹ đã hành động đúng.
    Tuy vậy, để thành thật với các con, mẹ phải nói rằng, ngay từ đầu, Robert Kincaid đã hiểu hơn mẹ về cái mà mẹ cùng ông ấy hợp thành. Mẹ nghĩ rằng mẹ chỉ bắt đầu hiểu lần lần điều đó với thời gian. Nếu mẹ đã hiểu một cách rõ ràng khi đó thì có lẽ mẹ đã ra đi cùng với ông.
    Robert nghĩ rằng thế giới này đã trở nên quá duy lý, đã thôi tin vào khả năng huyền bí của sự vật. Và mẹ thường tự hỏi có phải mẹ đã quá duy lý khi quyết định như vậy không.
    Mẹ chắc rằng các con thấy những ý nguyện cuối cùng của mẹ là khó hiểu hoặc nghĩ rằng mẹ hơi lẩn thẩn vì tuổi già. Khi các con đã đọc lá thư mà người luật sư ở Seattle gởi cho mẹ năm 1982 và những cuốn sổ tay của mẹ, các con sẽ hiểu vì sao. Mẹ đã trao cuộc đời mẹ cho gia đình, và mẹ trao cho Robert Kincaid những gì còn lại của mẹ. Mẹ nghĩ rằng cha các con biết có một cái gì đó nơi mẹ mà ông không thể đạt tới, cũng như đôi khi mẹ tự hỏi có thật ông không mở cái phong bì mà vào lúc đó mẹ còn để trong tủ áo trong nhà. Ngay trước khi chết, lúc mẹ ngồi sát cạnh ông trong bệnh viện ở Des Moines, ông đã bảo mẹ: "Francesca, anh biết rằng em giữ nơi người em những giấc mơ. Anh rất buồn đã không thể thực hiện được những giấc mơ đó". Đó là cái khoảnh khắc xúc động nhất trong đời sống chung của mẹ và cha các con.
    Mẹ cũng không muốn các con bày tỏ sự quy trách, òng thương hại hay những tình cảm đại loại như vậy. Mẹ không hề có ý định đó. Mẹ chỉ muốn rằng các con biết mẹ đã yêu Robert Kincaid đến mức nào. Mẹ đã sống với cái tình yêu ấy suốt mọi ngày mọi năm và ông ấy cũng vậy.
    Dẫu rằng sau đó ông ấy và mẹ không bao giờ còn được nói với nhau nữa thì mẹ và ông ấy vẫn bị buộc chặt lấy nhau như hai con người trong cuộc đời này có thể buộc chặt với nhau. Mẹ không thể tìm ra từ để diễn đạt cho đúng. Chính ông ấy là người đã diễn tả tỏ tường hơn khi nói rằng mẹ và ông ấy đã thôi là hai cá thể riêng biệt để trở thành một con người thứ ba tạo thành bởi chính hai người kia. Kể từ đó, cả ông ấy và cả mẹ không bao giờ hiện hữu mà không có cái con người thứ ba kia. Và cái con người đó đã bị đày ải phải lang thang cho đến phút cuối cùng.
    Carolyn, con còn nhớ lần mẹ con mình cãi vã khủng khiếp về chuyện chiếc áo màu hồng nhạt móc ở trong tủ mẹ không? Con tìm thấy và con muốn mặc. Con có nói con nhớ rằng mẹ không bao giờ mặc cáo áo đó cả, vậy tại sao không cho con. Thì chính đó là chiếc áo mẹ đã mặc lần đầu tiên khi Robert Kincaid và mẹ yêu nhau. Mẹ chưa bao giờ đẹp như trong đêm ấy. Đó là lý do tại sao mẹ không bao giờ mặc nữa và mẹ cũng không chịu đem cho con.
    Sau khi Robert Kincaid đi khỏi đây vào năm 1965, mẹ mới thấy là mình biết rất ít về ông ấy cũng như về chuyện gia đình ông ấy. Nhưng mẹ nghĩ rằng mẹ đã biết tất cả những điều còn lại - những điều thật sự quan trọng - trong những ngày ngắn ngủi đó. Ông là đứa con duy nhất, cha mẹ ông đã chết và ông sinh ra tại thành phố nhỏ ở bang Ohio.
    Mẹ không biết chắc là ông ta có học đại học không, ngay cả trung học nữa, nhưng ông có một trí tuệ sắc bén, trực giác, nguyên thuỷ, gần như thần bí. Ông đã cùng đi với thuỷ quân lục chiến với tư cách là phóng viên nhiếp ảnh ở Nam Thái Bình Dương trong thế chiến thứ hai.
    Ông đã kết hôn và ly dị, rất lâu trước khi gặp mẹ. Ông không có con. Vợ cũ ông ta là một nhạc công, một ca sĩ hát dân ca. Theo chỗ mẹ biết, việc ông vắng mặt dài để đi làm phóng sự đã làm hôn nhân của họ tan vỡ. Ông chịu trách nhiệm về cuộc chia tay này. Ngoài điều nói trên, Robert Kincaid không còn có gia đình theo như mẹ biết. Mẹ mong muốn các con dành cho ông một chỗ trong gia đình chúng ta, dẫu mẹ biết điều đó thật khó khăn cho các con lúc đầu. ít ra thì mẹ cũng có một gia đình, một cuộc sống để chia sẻ với người khác. Robert thì chỉ có một mình. Đó là một điều bất công và mẹ biết điều đó.
    Mẹ muốn, ít ra mẹ tin rằng tất cả những điều này các con sẽ giữ riêng trong gia đình chúng ta để giữ lòng tôn kính về cha các con và để cho các con quyết định. Trong trường hợp nào đi nữa, mẹ cũng không bao giờ hổ thẹn về những gì mà Richard và mẹ đã chia sẻ. Ngược lại, dẫu mẹ đã yêu ông ấy một cách tuyệt vọng trong suốt ngần ấy năm trời, nhưng vì những lý do của riêng mẹ, mẹ chỉ tìm cách liên lạc với ông ấy một lần duy nhất. Đó là sau cái chết của cha các con. Nhưng mẹ không tìm được và mẹ đã sợ rằng có điều gì đó xảy đến với ông ấy. Chính vì sợ như thế mà mẹ đã không dám tìm thêm nữa. Chẳng qua là mẹ sợ chạm trán với sự thật. Vậy thì các con có thể tưởng tượng ra mẹ đã cảm thấy như thế nào khi nhận được gói hàng có lá thư của người luật sư vào năm 1982.
    Mẹ đã nói mẹ hy vọng rằng các con hiểu và không phê phán mẹ. Nếu các con yêu thương mẹ, các con phải yêu thương những gì mẹ đã làm.
    Robert Kincai đã mang lại cho mẹ cái điều mà một người đàn bà, rất ít hoặc có lẽ không một ai, có thể có được. Ông ấy rất người và rất nhiệt thành, ông ấy xứng đáng với lòng kính trọng và có lẽ cả lòng yêu thương nữa, của các con. Mẹ hy vọng rằng các con cho ông ấy cả hai thứ. Qua mẹ, và theo cách của mình, ông ấy đã tỏ ra tốt với các con. Mẹ luôn luôn ở bên các con.
    Mẹ

    Hai anh em im lặng ngồi trong căn phòng bếp cũ kỹ. Michael cố định thần và nhìn ra cửa sổ. Carolyn tẩn mẩn quan sát căn phòng, bồn rửa chén, nền, bàn... tất cả những gì quanh cô.
    Khi cô mở miệng được thì chỉ là một lời thì thầm: ”Anh Michael, hãy nghĩ về họ, yêu nhau đến thế trong ngần ấy năm trời. Mẹ đã từ khước không đi với ông ấy vì cha và vì chúng ta. Còn Robert Kincaid thì xa mẹ do kính trọng tình cảm của mẹ. Anh Michael, đó là ý tưởng mà em khó chịu đựng. Chính một phần vì chúng ta mà mối tình lạ thường ấy phải đứt đoạn.
    Mẹ và ông ta đã sống với nhau bốn ngày. Chỉ bốn ngày, cho tất cả cuộc đời. Chuyện đó xảy ra khi chúng ta đang đi dự cái chợ phiên ngốc nghếch ở Itilinois. Anh hãy nhìn ảnh mẹ này. Em chưa bao giờ thấy mẹ như vậy. Đó là do tác động của ông ấy. Anh xem đây, mẹ trông kiêu sa và duyên dáng biết chừng nào với mái tóc bay trog gió và khuôn mặt tràn đầy sức sống. Mẹ tuyệt vời quá“.
    Chúa ơi - Đó là tất cả những gì Michael có thể thốt ra và anh lấy khăn tay lau trán, kín đáo quệt nước mắt trước Carolyn.
    Carolyn tiếp: ”Rõ ràng là ông ấy không hề cố liên lạc trong suốt những năm đó. Hẳn ông ấy đã chết một mình, đó là lý do ông gởi lại tất cả đồ đạc cho mẹ. Em còn nhớ chuyện em cãi lộn với mẹ về cái áo đó. Nhiều ngày. Em giả đò tức tưởi và đòi mẹ giải thích. Rồi em lẫy không nói chuyện với mẹ nữa. Nhưng mẹ chỉ nói: ”Không, Carolyn, cái áo này thì không được“.
    Michael nhớ đến cái bàn cũ xì mà hiện họ đang ngồi. Thế ra đó là lý do tại sao mẹ anh lại bảo anh mang lại vào phòng bếp sau khi cha anh mất.
    Carolyn lấy tay mở cái phong bì cồm cộm:
    ”Đây là vòng, dây chuyền bằng bạc có gắn hình trái tim. Và cả cái mảnh giấy nhắn mà mẹ có nhắc đến trong thư, mảnh giấy mẹ đã móc lên cầu Roseman. Vì thế mà trên tấm ảnh ông ta gởi, mình thấy một mảnh giấy nhỏ gắn trên cầu.
    Anh Michael, thế chúng mình sẽ làm gì đây? Anh cứ suy nghĩ đi. Em xuống ngay“.
    Cô chạy lên cầu thang rồi ít phút sau chạy xuống với chiếc áo dài màu hồng bọc cẩn thận trong bao ni lông.
    Cô lấy ra và chỉ cho Michael.
    ”Anh hãy hình dung mẹ trong chiếc áo này, khiêu vũ với ông ta trong nhà bếp. Anh hãy nghĩ đến suốt thời gian họ ở đây và về hình ảnh mẹ, phải thấy khi mẹ đang nấu ăn và khi mẹ ngồi ở bàn này thảo luận về chuyện anh em mình, về việc chọn lựa trường học và về những khó khăn mà anh em mình phải vượt trong cuộc hôn nhân sau này của chúng mình. Chúa ơi, so với mẹ, chúng mình hiện nay còn ngây thơ và kém trưởng thành quá đi mất“.
    Michael lắc đầu bước về phía tủ bếp. ”Em có nghĩ rằng mẹ có để một ít rượu nào ở đây không? Anh thấy cần uống một chút quá. à, lúc nãy em hỏi, anh thật không biết chúng ta phải làm gì?“.
    Anh lục tủ và tìm được một chai brandy đã gần cạn. ”Còn đủ cho hai người. Em muốn uống không?“.
    Có, cho em một chút.

    Michael lấy ra hai ly rượu dùng để uống brandy và để lên bàn. Anh rót hết phần rượu còn lại trong chai ra ly trong khi Carolyn bắt đầu lặng lẽ đọc cuốn nhật ký đầu tiên: ”Robert Kincaid đến với mình ngày Thứ hai, 16 tháng 8 năm 1965. Ông ta đi tìm cây cầu Roseman. Đó là một buổi chiều nóng nực và ông lái một chiếc xe tải nhỏ tên là Harry...“.
    Đã chỉnh sửa bởi GRANDET; 29-07-2009, 12:59 AM.
    Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

    Comment

    • #3

      Những chiếc cầu ở quận Madison


      Tái bút


      Con ó đêm ở Tacoma

      Trong thời gian tôi viết về câu chuyện của Robert Kincaid và Francesca Johnson, tôi càng muốn tìm hiểu chi tiết về cuộc đời của Kincaid thì tôi càng ít biết về ông và cuộc sống của ông.
      Chỉ một vài tuần trước khi cuốn sách này được in ra, tôi đáp máy bay đi Seattle. Một lần nữa, tôi cố gắng tìm những thông tin bổ túc về Robert Kincaid.
      ý tưởng này chợt đến với tôi khi tôi nghĩ rằng là một người yêu nhạc và bản thân ông ta cũng là một người chơi ghi-ta, Robert Kincaid hẳn phải quen biết với một ai đó trong giới âm nhạc và nghệ sĩ ở Puget Soud. Người có trách nhiệm ở Tiểu ban Nghệ thuật và Sân khấu của tờ Seattle Times đã giúp tôi nhiều. Ông ta chưa hề nghe nói về Robert Kincaid, nhưng ông để cho tôi tham khảo tất cả danh mục của tờ báo từ năm 1975 đến 1982, giai đoạn mà tôi quan tâm.
      Khi lật qua những số in vào năm 1980, tôi gặp một bức hình chụp một người da đen chơi nhạc nhạc Jazz, một tay thổi saxo có biệt danh là John ”ó đêm“ Cummings và bức ảnh ký tên Robert Kincaid. Nghiệp đoàn nhạc công địa phương đưa tôi địa chỉ của Cummings, cũng cho tôi biết thêm là ông ta không còn chơi nhạc với tư cách chuyên nghiệp nữa đã năm năm nay. Ông ta ở một con phố nhỏ nơi khu công nghiệp ở Tacoma, chỗ xa lộ 5 dẫn đến Seattle.
      Tôi đã phải lui tới nhiều lần nơi căn hộ Cummings mới gặp được ông ta. Lúc đầu, ông ta có vẻ không muốn nói, nhưng khi thấy rằng tôi thành thật quan tâm đến Robert Kincaid, ông trở nên nhiệt tình và nói huyên thuyên. Những trang sau đây là lời nói của Cummings do tôi ghi lại - có sửa đôi chút chữ nghĩa - khi đó ông này đã bảy mươi tuổi. Tôi chỉ mở máy ghi âm và nghe ông kể về Robert Kincaid.

      Bài phỏng vấn "ó đêm" Cumming
      Khi đó tôi chơi cho một ban nhạc ở Seattle và tôi cần một tấm ảnh đen trắng để quảng cáo. Tay chơi bass trong ban nhạc có nói với tôi về một gã sống trên một hòn đảo gần đấy chụp coi bộ được lắm. Y ta chẳng có điện thoại nên tôi phải viết nhắn vài chữ.
      Y ta đến, té ra là một lão trông tàng lắm, mặc quần jean, đi ủng và dây đeo quần màu cam. Y ta lôi ra mấy cái máy ảnh cũ xì đến phát khiếp, côi bộ không còn dùng được khiến tôi phải la lên: Ô là là!
      Y bảo tôi đứng dựa vào bức tường sáng cầm cây saxo và yêu cầu tôi chơi chứ đừng ngừng lại. ừ chơi thì chơi, trong chừng ba phút gì đó. Nhìn kỹ, tôi thấy y ta trông cũng được, có cặp mắt xanh lạnh buồn mà tôi chưa hề thấy trước đó bao giờ.
      Một lúc, y ta bắt đầu chụp. Rồi y hỏi tôi có thể chơi bài ”Lá úa“ không. ừ chơi thì chơi. Tôi chơi chừng mươi phút trong khi y thay hết máy ảnh này đến máy ảnh khác và chụp. Rồi y bảo: ”Tốt rồi, mai ông có ảnh“.
      Ngày sau, y mang anh lại cho tôi và tôi té ngửa. Người ta đã chụp tôi hàng tá nhưng chưa có bức nào sánh được với những tấm này. Y bảo tôi trả y 50 đôla, với tôi số tiền đó không đắt lắm. Y ta cám ơn tôi và khi đi ra, y hỏi tôi chơi ở đâu. Tôi trả lời: ”ở quán Shorty“.
      Hôm sau, khi ở trên bục, tôi nhìn xuống thính giả và thấy nơi một bàn khuất trong góc, y đang ngồi lặng lẽ lắng nghe. Từ đó y thường đến quán mỗi tuần một lần, luôn luôn vào ngày Thứ ba, luôn luôn uống bia, nhưng không uống nhiều.
      Đôi khi lúc ngừng chơi, tôi ghé lại bàn y và nói chuyện ít phút. Y trầm lặng, không nói gì nhiều nhưng rất dễ thương. Y luôn luôn nhã nhặn yêu cầu tôi chơi bài ”Lá úa“.
      Biết nhau một ít, người ta dễ thân nhau. Tôi rất thích đi dọc hải cảng ngắm nhìn những chiếc tàu, té ra y cũng vậy. Vì thế chúng tôi hay ngồi trên ghế đá chuyện vãn suốt buổi chiều. ừ thì chuyện lẩm cẩm của hai lão già cảm thấy mình hết còn hữu dụng, đã ở bên lề cuộc đời.
      Thường y hay dắt theo con chó. Trông khá đẹp. Y gọi nó là ”Con Đường“.
      Y có biết về ma thuật. Những tay chơi nhạc jazz cũng vậy. Cho nên chúng tôi hợp nhau. Anh bạn biết đấy, anh bạn chơi một khúc đã chơi hàng ngàn lần mà nay đột nhiên hàng tá ý tưởng mới mẻ vọt ra từ cây ”xắc“ của anh bạn thì không phải chúng có được từ bộ óc của anh bạn đâu. Y nói với tôi rằng nhiếp ảnh và đời sống nói chung cũng thường như vậy. Và y thêm: ”Làm tình với người đàn bà mình yêu cũng vậy“.
      Y đang nghiên cứu một kỹ xảo để tạo ra hình ảnh từ âm nhạc. Một ngày nọ, y bảo tôi: ”John, anh thấy cái điệp khúc mà anh luôn chơi trong nhịp thứ bốn của bài ”Người đàn bà kiêu kỳ“? Tôi nghĩ là tôi đã bắt được cái này vào ảnh sáng nay. ánh sáng chiếu trên nước đúng hệt như ý toi muốn và con hạc xanh bay một vòng trong ống ngắm của tôi, tất cả đều cùng một lúc. Chính là tôi đã thật sự nghe và thấy điệp khúc của anh. Tôi đã dựa vào đó để đưa vào máy ảnh“.
      Y dùng tất cả thời gian để nghiên cứu việc chuyển âm nhạc thành hình ảnh. Coi bộ điều này ám ảnh y dữ lắm. Tôi cũng chẳng biết y sống bằng gì nữa. Y cũng chẳng nói gì nhiều về mình. Tôi chỉ biết là y từng đi nhiều nơi để chụp ảnh chứ không biết gì khác hơn. Một ngày nọ, tôi hỏi y về cái miếng bạc gắn nơi sợi dây chuyền y đeo ở cổ. Nhìn gần, tôi thấy trên đó có khắc chữ ”Francesca“. Tôi mới hỏi y: ”Chắc là một cái gì đặc biệt lắm?“.
      Y không nói gì một lúc, chỉ nhìn làn nước. Rồi y hỏi: ”Anh có rảnh không?“. Có chứ, hôm đó ngày Thứ hai, tôi được nghỉ, nên tôi bảo y tôi có đủ thì giờ.
      Thế là y bắt đầu nói, như thể người ta mở một cái vòi nước vậy. Y nói suốt cả buổi chiều rồi gần như suốt buổi tối luôn. Tôi có cảm giác như y giữ tất cả những điều đó sâu trong lòng từ quá lâu rồi.
      Y chẳng bao giờ giờ nói cho tôi họ của người đàn bà, cũng như câu chuyện xảy ra ở đâu. Nhưng mà, anh bạn ạ, cái lão Kincaid này quả là một nhà thơ khi y nói về bà ta. Bà này hẳn phải là một cái gì đáng kể, một cái gì linh thiêng lắm. Y cũng đọc cho tôi đoạn đầu của một bài viết về bà ấy - cái gì về chiều vô tận, nếu tôi nhớ không lầm. Tôi nhớ là khi đó tôi nghĩ nó giống những bài sáng tác ngẫu hứng của Ornette Coleman vậy.
      Và anh bạn ơi, y vừa nói vừa khóc. Y khóc, những giọt nước mắt to bự, cái loại nước mắt mà phải già người ta mới có thể khóc thế được, cái điệu khóc mà một tay saxo có thể chơi. Sau đó tôi mới hiểu tại sao y bao giờ cũng muốn tôi thổi bài ”Lá úa“. Ông bạn ạ, tôi bắt đầu thấy yêu cái lão này. Một con người có những tình cảm như thế đối với một người đàn bà thì đáng cho ta yêu lắm chứ.
      Thế là tôi bắt đầu nghĩ về y và người đàn bà của y. Nghĩ về cái mà y gọi là ”những phong cách của tiền nhân“. Tôi tự nói: ”Mình sẽ chơi về cái sức mạnh ấy, về cái tình yêu ấy, những cái ”phong cách của tiền nhân“ ấy phải phát ra từ cây kèn của mình“. Cái ấy thật trữ tình.
      Thế là tôi viết cái bản nhạc này. Tôi muốn sử dụng một thủ pháp đơn giản, sắc sảo. Viết những cái phức tạp thì rất dễ. Cái khó là đơn giản. Tôi hì hục suốt ngày cho đến khi thành công. Rồi tôi viết lại và soạn luôn hoà âm cho dương cầm và thụ cầm. Rồi một tối nọ, tôi chơi bài đó trên sân khấu.
      Y có mặt, tối Thứ ba, như mọi lần. Được, tối hôm đó quán yên tĩnh, chỉ có chừng hai mươi khác, người ta cũng chẳng thật chú ý chúng tôi cho lắm.
      Y ngồi im, chăm chú nghe như bao giờ, tôi tuyên bố trong mi-crô: ”Tôi sẽ chơi một bản nhạc do chính tôi viết tặng một người bạn. Bài đó tên là ”Francesca“.
      Vừa nói tôi vừa nhìn y. Y đang quan sát chai bia nhưng khi nghe tôi nói ”Francesca“ y từ từ ngẩng đầu lên, đưa hai tay lùa vào mái tóc bạc xám, thắp một điếu camel và đôi mắt xanh của y đăm đăm nhìn tôi.
      Cây ”xắc“ của tôi chưa bao giờ chơi hay đến như vậy. Tôi làm cho nó khóc than cho cả ngàn cây số và cho những năm dài cách biệt. Có một khúc buồn trong khổ đầu của bài lặp theo tên của người đàn bà ấy: ”Fran...ces...ca“.
      Khi tôi chơi xong, y đứng thẳng lên, mỉm cười rồi lắc nhẹ đầu, trả tiền và bước ra. Sau đó, tôi luôn luôn chơi bài này khi thấy y đến. Y có đóng khung một bức ảnh chụp chiếc cầu có mái che cũ kỹ đem tặng tôi để cám ơn. Bức ảnh treo kia kìa. Y chẳng bao giờ nói y chụp ở đâu, nhưng dưới chỗ y ký tên có ghi ”Cầu Roseman“.

      Một chiều Thứ ba nọ, cách đây bảy hay tám năm, không thấy y đến. Tuần tiếp theo cũng vậy. Tôi nghĩ y bị bệnh hay gặp chuyện gì đó. Tôi bắt đầu lo ngại. Tôi xuống cảng, hỏi thăm. Chẳng ai biết y cả. Cuối cùng, tôi phải đáp tàu đi qua hòn đảo chỗ y ở. Đó là một túp lều cũ kỹ nằm gần bờ nước.
      Tôi đang đi quanh lều thì một người hàng xóm bước ra hỏi tôi tìm gì. Tôi trả lời. Người hàng xóm bảo rằng y đã chết cách đây khoảng mười ngày. Anh bạn ơi, nghe thế tôi hết sức đau lòng. Cho đến bây giờ cũng vậy. Tôi thực sự yêu mến y ta. Có một cái gì lạ nơi con người y. Tôi cho rằng y biết những điều mà chúng ta không hiểu được.
      Tôi hỏi người hàng xóm về con chó. Ông ta không biết. Ông ta cũng không biết cả tên Robert Kincaid nữa. Thế là, tôi bèn gọi bên chỗ ”phú de“ để hỏi cho chắc và quả họ đang giữ con chó. Tôi bèn đến lãnh về và đem cho thằng cháu. Lần cuối cùng tôi thấy, thằng cháu tôi và ”Con Đường“ thích nhau lắm. Điều đó làm tôi vui.
      Thế là gần hết chuyện. Không lâu sau khi tôi biết chuyện xảy ra cho Kincaid, cánh tay trái của tôi bị tê khi chơi kèn quá hai mươi phút. Có chuyện không ổn ở cột sống của tôi. Thế là tôi thôi việc.
      Nhưng mà ông bạn ạ, tôi bị ám ảnh bởi câu chuyện y kể, về y và về người đàn bà. Thế là, vào tất cả những tối Thứ ba, tôi đều lấy cây saxo ra và chơi bản nhạc tôi đã viết tặng y. Tôi chơi ở đây và chỉ để cho chính tôi nghe.
      Tôi cũng chẳng hiểu tại sao, khi chơi, tôi luôn luôn nhìn vào tấm ảnh y tặng. Tôi không biết rõ, nhưng có một cái gì đó khiến tôi không thể rời mắt khỏi bức ảnh khi chơi bản nhạc này.
      Tôi còn ở đây, trong hoàng hôn của cuộc đời. Tôi làm cho cây kèn già nua khóc lên. Tôi chơi bản nhạc dành cho một người đàn ông tên là Robert Kincaid và một người đàn bà mà y gọi là Francesca.

      hết

      Link

      [ame="http://www.youtube.com/watch?v=ueDf_Hh7Ojo&hl=vi"]YouTube - The Bridges of Madison County Neil Diamond The Story of my Life[/ame]
      Đã chỉnh sửa bởi GRANDET; 29-07-2009, 08:41 AM.
      Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

      Comment

      • #4

        Blog nhà Hếch

        Ghi lại những mẩu chuyện vu vơ về gia đình con cái, về nhân tình thế thái, về cái quái gì nữa không biết. Chỉ biết là viết để thấy mình đang buồn buồn vui vui, thực thực hư hư, lẫn lộn lỗn lận



        Những cây cầu ở quận Madison

        Thursday, 2. July 2009, 03:58:48
        Sách, Mẹ viết
        Bận quá, chơi cả năm cả đời không sao, đúng lúc người ta có tình yêu lớn (Perfume ) thì sếp dí cho cái "đít-lai" vào đít làm người ta chạy cong cả đít. Tranh thủ viết vài dòng để oánh dấu.

        Bạn lại gửi cho cuốn này, nhân dịp sinh nhật...26/6, hẹ hẹ. Mới nhận được hôm qua, chả thèm cảm ơn lời nào. Mình thật là đểu.

        Còn nhớ hồi năm 2006, mình gạ bạn đọc, bạn còn tinh tướng kêu không thèm đọc bản mềm, nhức mắt nhức đầu. Vậy mà đến lúc mình gửi cho cái file mềm, bạn đọc lấy đọc để. Đọc xong bạn điên lấy điên để . Giờ còn đi mua truyện về đọc nữa. Mình biết thừa quyển này nó đọc rồi mới tặng mình, chứ không phải tặng sách mới toanh . Nên mình chẳng thèm cảm ơn lời nào cũng không có gì là quá đáng .

        Bản mềm gốc chị Hằng Scoobidoo gửi cho mình. Hồi ấy mình dưới 30 tuổi.

        Chả rì viu gì, copy vài đoạn trong truyện ra đây, thay rì viu:

        "Chúng ta phải làm gì bây giờ?".
        Bà im lặng, một sự im lặng nát lòng.
        Rồi bà nói dịu dàng: "Em không biết".

        "Em nghe đây, anh có thể ở lại đây nếu em muốn hoặc tại thành phố, hoặc bất cứ đâu. Khi gia đình em trở về, anh sẽ nói chuyện với chồng em và anh sẽ giải thích cho ông ấy hiểu hoàn cảnh của chúng mình. Thật không dễ dàng gì đâu nhưng anh sẽ làm".

        Francesca lắc đầu: "Richard không bao giờ hiểu được đâu, anh ấy không suy tính theo cách suy nghĩ của mình. Anh ấy không thể thấy được điều huyền ảo cũng như niềm đam mê và tất cả những điều mà chúng ta đã nói chuyện với nhau cũng như chúng ta đã sống qua. Anh ấy cũng không bao giờ chấp nhận, không phải vì anh ấy là một người thấp hèn đâu. Đơn giản chỉ là vì tất cả những điều đó quá xa vời những gì anh ấy cảm thấy hoặc suy nghĩ. Anh ấy không có cách gì để tiếp cận với vấn đề cả".

        Thế thì chúng ta đành phải bỏ cuộc sao?
        Ông nói nghiêm trang không cười nữa.

        Em cũng không biết nữa. Em thuộc về anh, Robert ạ. Trước đây em không hề muốn ai chiếm đoạt em, em không cần điều đó và em biết rằng anh cũng không hề có ý định, nhưng điều này đã xảy ra. Bây giờ em không còn ngồi trên cỏ ở cạnh anh nữa. Em ở trong anh, người tù nhân hạnh phúc của anh".

        Ông trả lời: "Anh không thể biết có phải em ở trong anh hay anh ở nơi em, hoặc em có thuộc về anh không. Nhưng một điều chắc chắn, anh không hề muốn chiếm đoạt em. Anh nghĩ rằng chúng ta là hai người nằm bên trong một thực thể khác do chúng ta tạo ra và tên nó là "chúng mình".
        Thật ra chúng ta không ở bên trong của thực thể đó. Chúng ta chính là thực thể đó. Cả hai chúng ta đều đã mất đi và chúng ta tạo ra một cái khác, một sự sống chỉ hiện hữu với tư cách là một hợp chất của hai chúng ta. Chúng ta yêu nhau, yêu say đắm, yêu đến tận cùng như con người có thể yêu nhau.
        Hãy đi với anh Francesca. Điều này không gây ra nhiều vấn đề lắm đâu. Chúng ta sẽ yêu nhau trên cát sa mạc, chúng ta sẽ uống brandy trên những mái hiên nhà ở Mombasa để ngắm nhìn những con diều vùng sa mạc ả Rập lướt cánh trong ngọn gió đầu tiên của buổi ban mai. Anh sẽ chỉ cho em xem chỗ trú ngụ của sư tử, ta sẽ đến một thành phố kiểu Pháp xưa cũ nằm trong vịnh Bengal với một quán ăn tuyệt vời đặt trên nóc nhà, những đoàn tàu hoả dẫn đến những con đường khuất nẻo trên núi cũng như những quán ăn nhỏ vùng Pyresnees. Còn nữa, ở phía Nam ấn Độ có một hòn đảo nằm giữa một cái hồ mênh mông, nơi đó người ta dành để nuôi cọp... Còn nếu em không muốn đi du lịch, anh sẽ mở một cửa tiệm đâu đó và anh sẽ trở thành thợ chụp ảnh địa phương, anh sẽ chụp chân dung hay bất cứ cái gì để chúng ta sống.

        Robert, tối hôm qua khi chúng ta ân ái với nhau, anh đã nói một điều làm em nhớ mãi. Em nói với anh về năng lực của anh và anh đã trả lời: "Anh chính là con đường, là kẻ lữ hành và là những cánh buồm dẫn về biển cả". Anh nói đúng. Đó chính là điều anh cảm thấy, anh cảm thấy cuộc du hành trong anh. Không, còn hơn thế nữa, điều mà em không chắc là có thể giải thích được, nhưng anh chính là cuộc hành trình. Anh là kẻ ở nơi lằn ranh chỗ ảo ảnh gặp gỡ thực tại, ở nơi con đường và anh chính là con đường.
        "Anh chính là chiếc ba lô cũ kỹ anh mang sau lưng, chính là chiếc xe tải Harry cà tàng, chính là những chuyến phản lực bay đến á châu. Và đó chính là điều em muốn về anh. Nếu như nhánh dòng tiến hoá của anh không còn hậu quả, như anh từng nói, thì em muốn anh sống mạnh mẽ cho hết cái đích cuối cùng đó. Em không chắc là anh có thể làm điều đó khi em bên cạnh. Chắc anh không hiểu đâu, em yêu anh vô cùng, đến nỗi em không thể làm hạn chế đời sống của anh. Bởi nếu em làm thế, em sẽ giết chết cái con thú hoang dã phi thường nơi anh, và cả cái sức mạnh kia cũng cùng chết với anh".

        Ông muốn nói, nhưng Francesca đã chặn lời.

        "Robert, em chưa nói hết. Nếu anh ôm em trong tay, mang em ra xe và bắt em đi theo anh, em sẽ không nói gì hết. Và anh cũng không cần làm thế, anh chỉ bảo em đi theo thì em cũng đi. Nhưng em nghĩ rằng anh sẽ không làm như vậy. Anh quá nhạy cảm, quá ý thức về tình cảm của em. Và em có một tình cảm về trách nhiệm của em ở đây.

        "Vâng, về một mặt nào đó, cuộc sống của em ở đây nhàm chán. Cuộc sống thiếu lãng mạn, thiếu dục tình, thiếu cuộc khiêu vũ trong căn phòng bếp được ánh nến soi sáng, thiếu cái cảm giác tuyệt vời được gần người đàn ông biết cách yêu một người đàn bà. Và nhất là, anh cũng thiếu. Nhưng em còn có những tình cảm thiêng liêng về trách nhiệm. Đối với Richard, đối với con em. Nếu em ra đi, nếu em vắng mặt thì đó sẽ là một điều khó chịu đựng nổi cho Richard. Chừng đó đủ để huỷ hoại anh ấy.

        "Ngoài ra, còn tệ hơn nữa, anh ấy phải sống cuộc đời còn lại để nghe những lời đàm tiếu của người ở đây. "Richard Johnson đó. Cái con vợ người ý bốc lửa của lão đã bỏ đi với một tay nhiếp ảnh tóc dài vài năm trước đây". Richard phải chịu đựng điều đó và con cái em phải nghe những lời ngồi lê đôi mách chừng nào chúng còn sống. Tất cả chúng cũng phải chịu đựng. Và chúng sẽ ghét em vì điều ấy.

        "Ngay cả khi em muốn ở với anh, muốn là một phần của anh, em cũng không thể tách rời khỏi bổn phận. Nếu anh ép em, dẫu bằng thể chất hay tinh thần, để đi với anh, thì như em đã nói, em sẽ không kháng cự lại đâu. Em không có cái sức mạnh như sức mạnh mà em cảm thấy nơi anh. Em đã nói là em không muốn lấy đi cuộc hành trình của anh, nhưng em rất muốn đi theo anh chỉ bởi để thoả mãn nhu cầu vị kỷ của em là được ở bên anh.

        "Cho nên, em van anh, đừng ép buộc em. Đừng ép buộc em từ bỏ trách nhiệm. Em không thể làm vậy để rồi sống với cái ý tưởng đó. Nếu hôm nay em ra đi với anh, ý tưởng đó sẽ biến em thành con người khác với người đàn bà mà anh đã yêu dấu".

        Robert Kincaid im lặng. Ông hiểu điều bà nói về con đường, về trách nhiệm và về cái mặc cảm tội lỗi có thể làm thay đổi con người bà. Ông biết bà có lý, về một mặt nào đó. Ông ngó ra cửa sổ và tự tranh đấu với mình, tranh đấu với mình để hiểu những tình cảm của Francesca. Bà bật khóc.

        Rồi họ ôm lấy nhau im lặng một lúc lâu. Và ông thì thầm vào tai bà: "Anh có một điều muốn nói, chỉ một điều thôi, anh chưa hề nói điều này cho ai bao giờ, và anh muốn em nhớ lấy: trong một vũ trụ hàm hồ, loại xác tín như thế này chỉ đến với em một lần, không bao giờ có lại, cho dù ta có trải qua bao nhiêu cuộc đời đi nữa".


        Cái này mình copy từ blog nhà nó luôn, chứ đang bận bỏ hịa, đã đọc được chữ nào đâu.

        Một câu truyện đáng để đọc. Nhất là đối với phụ nữ. Chứ mấy bác zai đọc xong chắc cười khẩy: Ngu ngốc ơi, ta gọi tên mi là ĐÀN BÀ!

        Tuy nhiên, chống chỉ định (hoặc cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng) với phụ nữ dưới 30. Vì bản lĩnh chưa dày lắm (sozi những bạn nào dưới 30 nếu tớ có phạm huý hay nói sai). Vì nữa là dưới 30 tuổi còn đẹp, còn ong bướm dập dìu, nguy cơ cao.

        Tất nhiên, phụ nữ trên 30 xài vô tư. Càng già càng đỡ nguy hiểm. Vì những lý do ngược lại với những gì trình bày ở chỗ "tuy nhiên" kia, he he.

        Mình chưa đọc, nhưng biết trước là câu chuyện sẽ không làm mình nhũn nhùn nhùn ra như mấy năm về trước nữa. Vậy mà có đứa hèn ơi là hèn, chuyển công tác, cũng copy về cùng, rồi lại xoá đi mất, vì ...hèn, để trong máy tính, sợ lại mở ra đọc. Hèn ơi hèn ơi!

        Mình quyết định viết những dòng này không phải vì cuốn sách. Mà vì...

        3 năm rồi, tình cảm con người vì những lý do khỉ nợ gì đó, vô tình hoặc hữu tình, đã sứt mẻ đi. Có những lúc tưởng vỡ toang hết cả rồi, đến mức lướt web, nhìn thấy bài viết bằng nick bạn là không muốn vào đọc, đã có lúc mình cực đoan đến thế. Đã có lúc đi làm về đi phía sau xe bạn trước cổng Big C, bịt khẩu trang, phóng vù lên. Vượt mà không gọi bạn. Không muốn gọi vì không muốn nói chuyện. Mình là thế: yêu, ghét rõ ràng. Đã thù là thù dai, chả có tí vị tha nào.

        Nhưng, không phải tự nhiên người ta gọi nhau bằng hai từ "bạn hiền" đúng không? Mình đã rất xúc động. Không phải vì món quà, không phải vì cuốn sách. Mà vì hai từ "bạn hiền". Dù mình biết, mình chả hiền tí nào.

        Một cái gì đó đang trở lại. Có vẻ tốt đẹp. Trong mình.

        Viết để đánh dấu. Hãy yêu nhau đi quên ngày u tối....

        HÃY YÊU NHAU ĐI

        Tác giả: Trịnh Công Sơn
        Ca sĩ: Trần Thu Hà - Thanh Lam

        Hãy yêu nhau đi khi rừng thay lá
        Hãy yêu nhau đi, giòng nước đã trôi xa
        Nước trôi qua tim rong đầy trí nhớ
        Ngày mãi mong chờ, ngày sẽ thiên thu

        Hãy ru nhau trên những lời gió mới
        Hãy yêu nhau cho gạch đá có tin vui
        Hãy kêu tên nhau trên ghềnh dưới bãi
        Dù mai nơi này người có xa người

        Hãy yêu nhau đi quên ngày u tối
        Dù vẫn biết mai đây xa lìa thế giới
        Mặt đất đã cho ta những ngày vui với
        Hãy nhìn vào mặt người lần cuối trong đời

        Hãy yêu nhau đi bên đời nguy khốn
        Hãy yêu nhau đi bù đắp cho trăm năm
        Hãy yêu nhau đi cho ngày quên tháng
        Dù đêm súng đạn, dù sáng mưa bom

        Hãy trao cho nhau muôn ngàn yêu dấu
        Hãy trao cho nhau hạnh phúc lẫn thương đau
        Trái tim cho ta nơi về nương náu
        Được quên rất nhiều ngày tháng tiêu điều.



        (Cảm ơn Trần Lan Anh về những điều bạn vừa share...) L.G.
        Đã chỉnh sửa bởi GRANDET; 28-07-2009, 07:03 PM.
        Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

        Comment

        Working...
        X
        Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom