Ba lối hội nhập đất mới trong thơ hải ngoại
Trần Văn Nam
Link" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Hội nhập buồn, hội nhập vui, hội nhập tất nhiên, đó là ba cách ở đời của người Việt tại hải ngoại. Ba thái độ đó đã phản ánh vào thi ca. Người Việt đã định cư tại hải ngoại qua nhiều đợt ra đi: đợt di tản, đợt vượt biên, đợt ra đi có trật tự, đợt ra đi từ các nước Đông Âu và Liên Xô, sau cùng lẻ tẻ hơn hết là đợt ra đi du học rồi tìm cách ở lại của một số ít người. Phản ánh vào văn chương sâu đậm nhất và dồi dào nằm ở ba giai đoạn đầu. Những thái độ hội nhập không phải là bất biến đối với thi nhân mà ta sẽ nêu ra làm đại diện, nhưng đó chính là xúc cảm đầu tiên của họ thể hiện vào thơ. Càng định cư lâu thì thái độ dần dần đổi khác, nhưng thơ của họ vẫn còn đó, phát biểu của họ vẫn còn đó, giúp cho ta tài liệu về thái độ một giai đoạn trong đời họ, không phải thái độ cho trọn cả cuộc đời. Tuy là giai đoạn trong đời của một cá nhân, nhưng trở thành chứng tích cho từng lối hội nhập đất mới, nên nhà thơ làm đại diện cho đa số thầm lặng có cùng một thái độ. Ước mong càng ngày càng dồi dào phần tuyển thơ có cùng nội dung một lối hội nhập, dĩ nhiên cũng cùng có giá trị, và phải có riêng bản sắc. Nếu dễ dãi quá thì còn đâu ý nghĩa của từ ngữ tuyển thơ.
Có một điều hình như trái ngược: Hội nhập buồn mà trở thành vui thì ta gọi là hội nhập vui, vì từ đây người buồn đã quen dần với cảnh mới, lối sống mới, đã có công ăn việc làm, đã thành công trên thương trường; hoặc con cái đã thành đạt nên người, thậm chí còn xuất sắc hơn người bản xứ. Nhưng hội nhập vui mà trở thành buồn thì ta không goị là hội nhập buồn, vì không còn giai đoạn hội nhập nữa. Có thể họ buồn vì làm ăn thất bại, vợ bỏ chồng bỏ, con cái không ra gì, đó là cái buồn chung cuả nhân loại trong cùng một hoàn cảnh, không vì đất mới mà đổ thừa cho hội nhập. Vậy hội nhập buồn chỉ thể hiện ở giai đoạn đầu cuả mỗi thời kỳ nhập cư, thời di tản cũng có, thời vượt biên cũng có, thời ra đi trật tự cũng có. Giai đoạn mới đến đất mới thời di tản 1975, có hai nhà thơ nổi tiếng là Thanh Nam và Cao Tần biểu lộ đậm nét tính chất hội nhập buồn. Thơ Thanh Nam thật cảm động trong baì “ Thơ xuân đất khách”. Lúc đó ngươì Việt rất ít ỏi, sống rải rác, không làm thành một cộng đồng đông vui mà cũng phức biệt như ngày nay. Cũng như thơ Cao Tần, thơ ông hiện thực đời sống của một giai đoạn. Nhưng trong khi thơ Cao Tần hậm hực như nguyền rủa, thơ ông chỉ ngậm ngùi buồn đau thế sự, chua chát như giọng điệu bài “Hành phương Nam” của Nguyễn Bính:
Quê người nghĩ xót thân lưu lạc
Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
Thức ngủ một mình trong tủi nhục
Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
Giống như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa
Hình ảnh cuộc thua trận, ông vẽ ra thật thê thảm nhưng có vẻ chung chung , kiểu sách vở về chiến tranh Đông Tây Kim Cổ, lời thơ như thuộc về thời “ Chinh Phụ Ngâm”. Chỉ cái hiện thực đời sống là được ông nói đến một cách đặc thù, diễn ra cho người mơí đến Hoa Kỳ. Vào năm 1975, nhà văn Thanh Nam đã ở vào tuổi trung niên, tất nhiên là dở dang khi hội nhập vào xứ người, khó khăn về nghề nghiệp, khó khăn về ngôn ngữ:
Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
Tập làm con trẻ nói ngu ngơ
Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
Thân phận không bằng đứa mãng phu.
Chứng nhân của thời kỳ đầu di tản sang Hoa Kỳ, đại diện rõ nét trong thi ca về hiện thực đời sống là Cao Tần và Thanh Nam. Cùng đi vào cảng mới, nhưng Cao Tần bỏ neo bằng một văn phong lạ, văn phong đưa văn xuôi sống sượng vào thơ như lời nhận định của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, trong khi đó Thanh Nam chỉ bỏ neo bằng một văn phong cổ kính vào nền văn chương hải ngoại. Bây giờ đọc lại những câu thơ sống sượng cuả Cao Tần, ta thông cảm những phẩn chí nhất thời cuả ông( Ví dụ rõ ràng hơn hết ở trong bài “ Mai mốt anh về”). Ai cũng phải trải qua giai đoạn khó khăn buổi đầu, nhưng lời nguyền rủa thực tế đáng chán của người không phải thi nhân rồi nhỏ dần, tan dần qua thời gian khi từ hội nhập buồn trở thành hội nhập vui; họ vô danh nên không trở thành đaị diện cho hội nhập buồn đi vào văn học sử bằng những lời nguyền rủa lớn tiếng như thi phẩm “ Thơ Cao Tần”( Nhà xb. Văn Nghệ, 1987). Dù thơ Cao Tần là loại thơ thời thế, có nhiều câu như một lời chửi đổng, nhưng thiên nhiên đất nước người phản ánh vào thơ có nét đẹp của miền băng giá sương mù, thường là ngày ngắn đêm dài. Thơ ông cũng không thiếu những lời cảm khái về nước non, về tư tưởng siêu thoát:
.....
Chiều mới vừa đây mà đã tối
Thấy chăng sa mạc rộng hơn trời
.....
Chiều về lên dốc thân tơi tả
Một quả hoàng hôn đỏ kín trời
Mình mới ngoi lên ngày đã ngả
Đêm phờ lăn lóc ngủ thay chơi
Giữa đỉnh sương mù thông đáy vực
Ngược xuôi ngơ ngẩn một linh hồn
Còng lưng gánh nốt đời lưu lạc
Nặng trĩu nghìn cân nhớ nước non
Hình như người nào đã từng định cư ở Canada mà tâm hồn thi sĩ đều cùng bị môi trường băng giá vây bọc, không thể không nói đến sương mù, rừng thông, thác ngàn đáy vực, mặt trời đỏ bên kia nuí, và tâm hồn muốn xa đời huyên náo. Đến cùng thời 1975, ở cùng nơi xứ Canada, thơ Đỗ Quý Toàn ngược lại không thể hiện rõ nét là hội nhập buồn hay hội nhập vui. Cũng không rõ nét hội nhập trung tính, nghiã là thái độ coi cuộc sống đều đặn nơi xứ người là tất nhiên, thường lệ. Vì vậy tập thơ “ Cỏ và Tuyết” của nhà thơ Đỗ Quý Toàn( Nhà xb. Văn Nghệ, 1989) không có những lời phẩn nộ nơi tạm dung, không có những lời ca tụng xứ tự do, không có cả những lời dửng dưng lãnh đạm, chỉ chứa đựng ý tưởng về an nhiên tự tại phản ánh tâm hồn được vây bọc bởi môi trường hoặc hùng vĩ, hoặc âm u, thấp thoáng có ánh dương hồng tương phản nơi xứ tuyết:
.....
Có bốn chàng bạch dương phong nhã
Đứng trên vách núi thở bình yên
Cành thả nhẹ nhàng như cánh hạc
Rễ chìm trong tảng đá an nhiên
.....
Thác đổ quằn quại thắt lại mở
Lũng sâu tùng bách sông biệt tăm
.....
Những đỉnh cây tròn chín ửng tà dương
Thu đã thắp ngọn lửa hồng trên núi
Về lời lẽ sống sượng do nhà thơ Cao Tần khởi xướng nay đã thành cao trào, một phần do từ thơ cuả ông, nhiều phần do từ những nguồn khác như Hậu Hiện Đại, Tân Hình Thức, do từ thơ Bùi Giáng hoặc Nguyễn Đức Sơn của thời Văn Học Miền Nam. Cả những nhà thơ nữ bây giờ một đôi người cũng ưa dùng từ ngữ táo bạo như Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh Bình... Nhà thơ nữ có một số thơ đăng rải rác trên tạp chí “ Khởi Hành” là Kiều Mộng Hà, trước hội nhập buồn với các lời thơ còn đậm nét cổ điển như “Xứ lạ quê người mười bảy năm- Đời không như mộng, lắm thăng trầm- Con vào trường học bao ngơ ngác- Mẹ nhập trường đời gai nhọn đâm”( Trong tập thơ “ Trái tim đau”, xb. năm 2000, Texas), nay bằng lời lẽ sống sượng mà tứ thơ rất độc đáo có vẻ khinh miệt tình đời, đem bán rẻ rúng những kỷ niệm của người phụ bạc trong bài thơ “Garage Sale”. Trước khi đọc những lời khinh miệt đó, cũng xin nói lướt qua sự kiện thường thấy ở đây để những ai chưa từng sống ở nước Mỹ cùng biết, sự kiện chủ nhà thường bày ra bán tại sân hay garage của mình vào những ngày cuối tuần, bán những đồ lặt vặt lấy chút ít tiền thay vì vứt bỏ đi vì để chật chội nhà cửa, hoặc vì sắp dọn nhà bán đi những đồ không còn cần thiết. So sánh tình xưa nghĩa cũ như những đồ lặt vặt nên bỏ đi dứt khoát, quả là trả miếng phũ phàng, một tứ thơ có lẽ chưa ai có:
Đêm qua em đã thức suốt đêm
Nhặt hết những gì anh bỏ lại
Kể cả cái đồng hồ reo, bàn chải
Từ phòng ngủ mang xuống nhà xe
.....
Khăn trải giường, áo ngủ sọc careau
Đôi dép Nike, đôi giày da láng
Cái máy cà phê lâu rồi bụi bám
Vẫn có người mua, cả cái cà vạt kiểu xưa
Sáu năm cuộc tình, thoáng một buổi trưa
Từng kỷ vật đi theo người xa lạ
Tôi đứng ngó lòng buồn như chiếc lá
Và trái tim, đổi thành tiền cắc, thu về.
Kiều Mộng Hà
(Tạp chí Khởi Hành, số 72, tháng 10/ 2002)
Bây giờ xin nói đến hội nhập vui. Tâm lý chung của các thi nhân thì không thích đứng về phía huy hoàng, thành công, lạc quan, đỗ đạt, thỏa nguyện. Những điều đó dễ biểu hiện ra bề ngoài với xã hội, trút hết cho cuộc đời trong hân hoan, trong chào mừng, trong chúc tụng. Do đó ít lắng vào bề sâu cô đơn như thất bại, thua thiệt, tuyệt vọng, một mình trầm tư gậm nhấm nỗi buồn. Nên rất ít thi nhân biểu hiện hội nhập vui, rất ít nhà thơ cảm hứng về những rạng rỡ sung túc nơi xứ người; cả những thắng cảnh cũng ít được đề cập đến nhiều so với tâm hồn thường nhớ nhung về những nghèo khổ, quê mùa, hoang sơ của quê hương cũ. Tâm hồn nhà văn nhà thơ thường cúi xuống với tha nhân hơn là ngẫng đầu lên hãnh tiến một mình. Có người nói quan niệm chà đạp nhân aí, chà đạp không thương sót kẻ thấp kém trong tư tưởng của Nietzche như là điều kiện sức mạnh để hình thành siêu nhân, mở đầu cho cuộc tàn sát người Do Thái cuả Đức Quốc Xã dưới thời Hitler coi chủng tộc Đức là trên hết. Nhưng cũng có người nói quan niệm sức mạnh hình thành siêu nhân đó phải hiểu theo nghĩa siêu hình, sự chà đạp phải hiểu theo nghĩa chà đạp số mệnh; chà đạp lòng yếu đuối khuất phục trong tư tưởng bi quan cùng thời là triết lý của Schopenhauer. Các nhà văn nhà thơ tự nhiên thường có khuynh hướng đi về với nỗi buồn tha nhân, không phải do ảnh hưởng của triết lý nào. Cho nên dẫn chứng thơ về hội nhập vui không được dồi dào, thậm chí nhiều người còn chê trách văn minh kỹ nghệ phá hỏng môi trường thiên nhiên nguyên thủy, cao ốc cứ mọc lên che lấp bầu trời xanh, sung túc dễ đưa con người đến ăn chơi sa đọa, phát minh cho giải trí càng nhiều càng thui chột suy tư và tưởng tượng cần thiết cho sáng tạo.
Những suy nghĩ tiêu cực về văn minh gần như đã thành nếp nghĩ quen thuộc; các nhà thơ thường cũng là những nhà môi trường bài bác kỹ nghệ, văn minh cao ốc. Nhà thơ Quỳnh Thi sớm có nhận định thành phố cao ốc New York là đầu não tính toán kinh tế toàn cầu hóa, tính toán lạnh lùng bằng thảo chương phưc tạp trong computer . Bài thơ làm trước khi hai toà nhà thương mại thế giới ở New York bị phá sập do khủng bố, hẳn là nhà thơ cũng giật mình về tư tửởng bênh vực môi trường thiên nhiên và đòi kinh tế cục bộ cho từng quốc gia nghèo không thể theo kịp thị trường chung cuả thế giới phát triển. Ý tưởng trong bài thơ “ New York” cuả tác giả không phải hoàn toàn chưa ai nghĩ như vậy, nhưng có lẽ chưa có nhà thơ ngươì Việt nào thể hiện thành hẳn bài thơ về thành phố cao ốc này của Hoa Kỳ, trong đó chỉ nói khiá cạnh tiêu cực, không có một nét nào có thể gọi là hội nhập vui. Hơn nữa, bài thơ viết trước khi có biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 làm rúng động thế giới xảy ra ở Hoa Kỳ. Một đọan của bài thơ đó như sau:
Dãy phố cao tầng của Manhattan
Những tên khổng lồ không có linh hồn
Đang ve vãn loài kiến bé tí teo
Dáng ngạo nghễ như trêu chọc thiên hạ
.....
Riêng các ngọn điện trong cao ốc là bất tận
Những bài tính đầy mưu toan
Dự kiến úp mở cực kỳ chính xác
Kim chỉ nam cho kinh tế thế giới...
Quỳnh Thi
(Trích trong tập thơ “ Tên em là Hoa Kỳ”, xb. 1998, Texas)
Tạp chí Văn Học đã nhận định nhà thơ Trần Mộng Tú như là một trong số ít nhà thơ có quan điểm hội nhập vui: “ Trong làng văn hải ngoại, Trần Mộng Tú suốt hai mươi năm làm thơ viết truyện ngắn vẫn giữ một nét riêng. Chị luôn luôn lạc quan, yêu đời... Trong lúc những nhà thơ khác dửng dưng trước cảnh vật xứ người vì thương nhớ không nguôi một tàu lá chuối, một vườn ôỉ, chị thưởng thức trọn vẹn nét đẹp của một đóa hoa lạ tên, của những đồi tuyết trắng” ( Tạp chí Văn Học số 114, tháng 10/1995). Ta chưa có dịp đọc hết thơ văn suốt hai mươi năm của tác giả này, nhưng ta đoán quan điểm hội nhập vui đã phản ánh trong phần lớn tác phẩm, biểu hiện ra nhiều thì người đọc mới có ấn tượng như vậy. Đây là một trường hợp hiếm hoi, vì như ta đã nói ở đoạn trên các nhà thơ thường có thái độ tiêu cực đối vơí những gì rạng rỡ sung túc xã hội. Không phải họ không cần những thứ đó, nhưng những thứ đó biểu hiện trong giao tiếp xã hội là đủ rồi, không tác động đến bề sâu suy tư như sự thất bại, nỗi tuyệt vọng, cảnh hoang sơ buồn thảm... Với Trần Mộng Tú, đa số thơ của tác giả là những bài tình ca, những thơ tình lãng mạn và trang trọng. Tác giả hạnh phúc với nơi chốn và gia đình đầm ấm ở tại thành phố Seatle, thủ phủ tiểu bang Washington. Vì vậy ta mới gọi là hội nhập vui. Nhà thơ lạc quan với cảm thức chủ quan độc đáo, với ý tưởng lạ chưa ai chủ quan bằng như thấy bầu trời không ở đâu cao hơn và xanh hơn bầu trời trên mái nhà mình, không ở đâu có “ mưa tinh khiết và mưa lãng mạn” hơn mưa trong vườn nhà mình. Biểu hiện hội nhập vui rồi cũng phải song hành với hội nhập buồn, và chính lúc đó ta mới có dịp hiểu sâu hơn tâm hồn về với quê hương, về với niềm đau nhân thế. Thì ra tác giả chỉ muốn tránh đồng dạng, tránh lặp lại những cảm nghĩ giống nhau dễ biến thành ước lệ, khuôn sáo. Ta không thấy khuôn sáo khi cảm thức vẻ riêng biệt trong những biểu hiện của tác giả về lòng hoài hương; nỗi buồn cuộc chiến; thương những cảnh đời nghèo khổ; gợi nhớ dĩ vãng thời cắp sách đến trường cũng cực thân như mọi học sinh xứ sở chưa phát triển đầy đủ tiện nghi. Tạp chí Văn Học đã nêu ra được một trường hợp hội nhập vui, nên ta lấy đó làm dẫn chứng cho một trong ba lối hội nhập đất mới của người Việt, trong khi chưa sưu tầm được nhiều hơn về thơ hội nhâp vui. Có những bài thơ như Welcome America cuả một vài tác giả khác, ta tưởng đâu là thơ hội nhập vui, mà hóa ra là thơ bất mãn với xã hội văn minh lạnh lùng; bất mãn với môi trường phẳng phiu trơ trọi đẩy lùi thiên nhiên; bất mãn với nếp sống ồn ào náo nhiệt. Có những bài thơ đứng dưới tượng Nữ Thần Tự Do, nhưng cũng hàm ý chua chát với thứ tự do quá trớn, tự do mạnh được yếu thua.
Thắng cảnh ở Hoa Kỳ vô cùng phong phú. Nào Grand Canyon với tầng tầng địa chất, mỗi tầng nói lên tiếng thời gian hàng trăm hàng ngàn triệu năm trải qua, lại phô bày lịch sử địa tầng ấy lộ thiên từ dưới vực đi lên, vậy mà sao chưa có nhà thơ hải ngoại nào cảm hứng. Nào khu lâm viên quốc gia Yosemite gần San Jose với những vách đá dựng đứng cao ngất, chứng tích bào mòn của thời đại băng hà, mà sao cũng chẳng có ai( người Việt mà thôi) làm nên những bài thơ độc đáo. Từ giữa thập niên 50, các nhà thơ Nguyên Sa và Cung Trầm Tưởng viết nên những vần thơ đẹp ca ngợi Paris, bây giờ rất đông người Việt định cư tại Pháp có trên 20 năm mà sao không sản xuất thêm một baì thơ đẹp nào nữa về Paris, phải chăng vì thủ đô ánh sáng nay đã làm sáng cuộc đời nên họ không còn thấy ước mơ, không cần làm thơ hội nhập vui, chỉ cần phô diễn niềm vui bằng sắm sanh, nô nức hưởng thụ, đầu tư cho mình bây giờ và ngày mai cho con cháu. Định cư vui không gây cảm hứng sáng tác trong thi ca mà thôi, nhưng trong âm nhạc thì lại khá dồi dào, phải chăng vì âm nhạc gắn liền với trình diễn; mà trình diễn thì cần bóng sắc tươi đẹp, lộng lẫy đèn màu, điệu nhảy lã lướt hoặc rộn ràng, tiếng hát trẻ trung. Từ ngày định cư sau 1975 đến nay lại có thêm hai bài hát về Paris thật đẹp, nhạc điệu yêu đời trong tâm cảnh hạnh phúc du chơi, hoặc có nhớ nhung vì tạm biệt giữa Paris và California thì viễn ảnh không phải chia ly mà thật dễ dàng gặp lại nhờ phương tiện văn minh hiện đại. Ta muốn nói đến bài hát “ Mùa thu yêu đương” của nhạc sĩ Lam Phương và bài hát “ Để lại con tim” của nhạc sĩ Đức Huy. Từ hội nhập buồn vì “ Một đời tan vỡ” buổi đầu taị California, nhạc sĩ Lam Phương đã hội nhập vui tại Paris với người tình mới hay người tình tưởng tượng ta không biết rõ, nhưng quang cảnh du chơi Paris và vùng ngoại biên thủ đô mô tả trong bài hát thật hạnh phúc, chứng tỏ hội nhập vui dễ bắt vào lời ca trình diễn. Chỗ dụng võ của hội nhập vui là âm nhạc, không tâm đắc với thi ca im lìm chữ nghĩa. Im lìm chữ nghĩa tâm đắc với trầm tư hoặc với nỗi muộn phiền nên thích hợp nhất cho thơ hội nhập u hoài. Trở lại với hội nhập lạc quan trong văn chương Trần Mộng Tú, tính chất này không phải mang tính toàn bộ trong thơ tác giả, nhà thơ sáng tác nhiều bài thơ tình được ưa chuộng, vậy hội nhập vui chỉ là một khía cạnh do Tạp chí Văn Học nêu ra vì thấy đó là nét đặc biệt ánh lên trong phần lớn thi ca người Việt hải ngoại thường u hoài tình hoài hương. U hoài đó vẫn không thiếu trong tâm thức tác giả Trần Mộng Tú. ( Ví dụ trong bài tạp ghi “ Mưa” đăng trong nhật báo Người Việt, số ra ngày 17 tháng 7/2003). Nhưng màu xám u hoài và hồi tưởng nhiều người đã nói, có lẽ tác giả thấy cần hướng văn chương về lạc quan. Lạc quan hội nhập không thể không trộn lẫn với lạc quan tình yêu, xin nêu vài điển hình của hoà điệu đó:
Em đặt bàn chân qua thế kỷ
Những viên gạch mới lót hân hoan
.....
Thế kỷ ở bên ngoài lồng ngực
Làm sao hiểu được những cơn mơ
(Trong bài “ Thế kỷ”)
Buổi sáng khoan thai vào góc bếp
Rắc nắng lên mầu tím vỏ khoai
.....
Buổi sáng nhẹ nhàng kéo chiếc ghế
Thả cánh trà xanh xuống đáy bình
(Trong bài “ Điểm tâm”)
Ôi tình yêu như giọt sương buổi sáng
Làm sao em giữ được đến buổi chiều
Nếu tình yêu là mặt trời đứng bóng
Giọt nắng nào sẽ ở lại qua đêm
( Trong bài “ Thời gian và tình yêu”)
Chàng có đôi chân thật dài
Chàng đi bộ
băng qua những cánh rừng thông
chiếc đầu tròn ngửng cao
thỉnh thoảng lại vướng vào
những ngọn cây
Tôi đứng đón chàng
ở bìa rừng Tây Bắc
Khi chúng tôi gặp nhau
chàng cúi xuống hôn tôi
cả hai cùng khóc
nước mắt chàng nhuộm vàng
thân thể tôi
tôi bật gọi tên chàng
Trăng ơi!
(Trọn bài “Gọi tên” của Trần Mộng Tú)
Trần Văn Nam
Có một điều hình như trái ngược: Hội nhập buồn mà trở thành vui thì ta gọi là hội nhập vui, vì từ đây người buồn đã quen dần với cảnh mới, lối sống mới, đã có công ăn việc làm, đã thành công trên thương trường; hoặc con cái đã thành đạt nên người, thậm chí còn xuất sắc hơn người bản xứ. Nhưng hội nhập vui mà trở thành buồn thì ta không goị là hội nhập buồn, vì không còn giai đoạn hội nhập nữa. Có thể họ buồn vì làm ăn thất bại, vợ bỏ chồng bỏ, con cái không ra gì, đó là cái buồn chung cuả nhân loại trong cùng một hoàn cảnh, không vì đất mới mà đổ thừa cho hội nhập. Vậy hội nhập buồn chỉ thể hiện ở giai đoạn đầu cuả mỗi thời kỳ nhập cư, thời di tản cũng có, thời vượt biên cũng có, thời ra đi trật tự cũng có. Giai đoạn mới đến đất mới thời di tản 1975, có hai nhà thơ nổi tiếng là Thanh Nam và Cao Tần biểu lộ đậm nét tính chất hội nhập buồn. Thơ Thanh Nam thật cảm động trong baì “ Thơ xuân đất khách”. Lúc đó ngươì Việt rất ít ỏi, sống rải rác, không làm thành một cộng đồng đông vui mà cũng phức biệt như ngày nay. Cũng như thơ Cao Tần, thơ ông hiện thực đời sống của một giai đoạn. Nhưng trong khi thơ Cao Tần hậm hực như nguyền rủa, thơ ông chỉ ngậm ngùi buồn đau thế sự, chua chát như giọng điệu bài “Hành phương Nam” của Nguyễn Bính:
Quê người nghĩ xót thân lưu lạc
Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
Thức ngủ một mình trong tủi nhục
Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
Giống như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa
Hình ảnh cuộc thua trận, ông vẽ ra thật thê thảm nhưng có vẻ chung chung , kiểu sách vở về chiến tranh Đông Tây Kim Cổ, lời thơ như thuộc về thời “ Chinh Phụ Ngâm”. Chỉ cái hiện thực đời sống là được ông nói đến một cách đặc thù, diễn ra cho người mơí đến Hoa Kỳ. Vào năm 1975, nhà văn Thanh Nam đã ở vào tuổi trung niên, tất nhiên là dở dang khi hội nhập vào xứ người, khó khăn về nghề nghiệp, khó khăn về ngôn ngữ:
Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
Tập làm con trẻ nói ngu ngơ
Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
Thân phận không bằng đứa mãng phu.
Chứng nhân của thời kỳ đầu di tản sang Hoa Kỳ, đại diện rõ nét trong thi ca về hiện thực đời sống là Cao Tần và Thanh Nam. Cùng đi vào cảng mới, nhưng Cao Tần bỏ neo bằng một văn phong lạ, văn phong đưa văn xuôi sống sượng vào thơ như lời nhận định của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, trong khi đó Thanh Nam chỉ bỏ neo bằng một văn phong cổ kính vào nền văn chương hải ngoại. Bây giờ đọc lại những câu thơ sống sượng cuả Cao Tần, ta thông cảm những phẩn chí nhất thời cuả ông( Ví dụ rõ ràng hơn hết ở trong bài “ Mai mốt anh về”). Ai cũng phải trải qua giai đoạn khó khăn buổi đầu, nhưng lời nguyền rủa thực tế đáng chán của người không phải thi nhân rồi nhỏ dần, tan dần qua thời gian khi từ hội nhập buồn trở thành hội nhập vui; họ vô danh nên không trở thành đaị diện cho hội nhập buồn đi vào văn học sử bằng những lời nguyền rủa lớn tiếng như thi phẩm “ Thơ Cao Tần”( Nhà xb. Văn Nghệ, 1987). Dù thơ Cao Tần là loại thơ thời thế, có nhiều câu như một lời chửi đổng, nhưng thiên nhiên đất nước người phản ánh vào thơ có nét đẹp của miền băng giá sương mù, thường là ngày ngắn đêm dài. Thơ ông cũng không thiếu những lời cảm khái về nước non, về tư tưởng siêu thoát:
.....
Chiều mới vừa đây mà đã tối
Thấy chăng sa mạc rộng hơn trời
.....
Chiều về lên dốc thân tơi tả
Một quả hoàng hôn đỏ kín trời
Mình mới ngoi lên ngày đã ngả
Đêm phờ lăn lóc ngủ thay chơi
Giữa đỉnh sương mù thông đáy vực
Ngược xuôi ngơ ngẩn một linh hồn
Còng lưng gánh nốt đời lưu lạc
Nặng trĩu nghìn cân nhớ nước non
Hình như người nào đã từng định cư ở Canada mà tâm hồn thi sĩ đều cùng bị môi trường băng giá vây bọc, không thể không nói đến sương mù, rừng thông, thác ngàn đáy vực, mặt trời đỏ bên kia nuí, và tâm hồn muốn xa đời huyên náo. Đến cùng thời 1975, ở cùng nơi xứ Canada, thơ Đỗ Quý Toàn ngược lại không thể hiện rõ nét là hội nhập buồn hay hội nhập vui. Cũng không rõ nét hội nhập trung tính, nghiã là thái độ coi cuộc sống đều đặn nơi xứ người là tất nhiên, thường lệ. Vì vậy tập thơ “ Cỏ và Tuyết” của nhà thơ Đỗ Quý Toàn( Nhà xb. Văn Nghệ, 1989) không có những lời phẩn nộ nơi tạm dung, không có những lời ca tụng xứ tự do, không có cả những lời dửng dưng lãnh đạm, chỉ chứa đựng ý tưởng về an nhiên tự tại phản ánh tâm hồn được vây bọc bởi môi trường hoặc hùng vĩ, hoặc âm u, thấp thoáng có ánh dương hồng tương phản nơi xứ tuyết:
.....
Có bốn chàng bạch dương phong nhã
Đứng trên vách núi thở bình yên
Cành thả nhẹ nhàng như cánh hạc
Rễ chìm trong tảng đá an nhiên
.....
Thác đổ quằn quại thắt lại mở
Lũng sâu tùng bách sông biệt tăm
.....
Những đỉnh cây tròn chín ửng tà dương
Thu đã thắp ngọn lửa hồng trên núi
Về lời lẽ sống sượng do nhà thơ Cao Tần khởi xướng nay đã thành cao trào, một phần do từ thơ cuả ông, nhiều phần do từ những nguồn khác như Hậu Hiện Đại, Tân Hình Thức, do từ thơ Bùi Giáng hoặc Nguyễn Đức Sơn của thời Văn Học Miền Nam. Cả những nhà thơ nữ bây giờ một đôi người cũng ưa dùng từ ngữ táo bạo như Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh Bình... Nhà thơ nữ có một số thơ đăng rải rác trên tạp chí “ Khởi Hành” là Kiều Mộng Hà, trước hội nhập buồn với các lời thơ còn đậm nét cổ điển như “Xứ lạ quê người mười bảy năm- Đời không như mộng, lắm thăng trầm- Con vào trường học bao ngơ ngác- Mẹ nhập trường đời gai nhọn đâm”( Trong tập thơ “ Trái tim đau”, xb. năm 2000, Texas), nay bằng lời lẽ sống sượng mà tứ thơ rất độc đáo có vẻ khinh miệt tình đời, đem bán rẻ rúng những kỷ niệm của người phụ bạc trong bài thơ “Garage Sale”. Trước khi đọc những lời khinh miệt đó, cũng xin nói lướt qua sự kiện thường thấy ở đây để những ai chưa từng sống ở nước Mỹ cùng biết, sự kiện chủ nhà thường bày ra bán tại sân hay garage của mình vào những ngày cuối tuần, bán những đồ lặt vặt lấy chút ít tiền thay vì vứt bỏ đi vì để chật chội nhà cửa, hoặc vì sắp dọn nhà bán đi những đồ không còn cần thiết. So sánh tình xưa nghĩa cũ như những đồ lặt vặt nên bỏ đi dứt khoát, quả là trả miếng phũ phàng, một tứ thơ có lẽ chưa ai có:
Đêm qua em đã thức suốt đêm
Nhặt hết những gì anh bỏ lại
Kể cả cái đồng hồ reo, bàn chải
Từ phòng ngủ mang xuống nhà xe
.....
Khăn trải giường, áo ngủ sọc careau
Đôi dép Nike, đôi giày da láng
Cái máy cà phê lâu rồi bụi bám
Vẫn có người mua, cả cái cà vạt kiểu xưa
Sáu năm cuộc tình, thoáng một buổi trưa
Từng kỷ vật đi theo người xa lạ
Tôi đứng ngó lòng buồn như chiếc lá
Và trái tim, đổi thành tiền cắc, thu về.
Kiều Mộng Hà
(Tạp chí Khởi Hành, số 72, tháng 10/ 2002)
Bây giờ xin nói đến hội nhập vui. Tâm lý chung của các thi nhân thì không thích đứng về phía huy hoàng, thành công, lạc quan, đỗ đạt, thỏa nguyện. Những điều đó dễ biểu hiện ra bề ngoài với xã hội, trút hết cho cuộc đời trong hân hoan, trong chào mừng, trong chúc tụng. Do đó ít lắng vào bề sâu cô đơn như thất bại, thua thiệt, tuyệt vọng, một mình trầm tư gậm nhấm nỗi buồn. Nên rất ít thi nhân biểu hiện hội nhập vui, rất ít nhà thơ cảm hứng về những rạng rỡ sung túc nơi xứ người; cả những thắng cảnh cũng ít được đề cập đến nhiều so với tâm hồn thường nhớ nhung về những nghèo khổ, quê mùa, hoang sơ của quê hương cũ. Tâm hồn nhà văn nhà thơ thường cúi xuống với tha nhân hơn là ngẫng đầu lên hãnh tiến một mình. Có người nói quan niệm chà đạp nhân aí, chà đạp không thương sót kẻ thấp kém trong tư tưởng của Nietzche như là điều kiện sức mạnh để hình thành siêu nhân, mở đầu cho cuộc tàn sát người Do Thái cuả Đức Quốc Xã dưới thời Hitler coi chủng tộc Đức là trên hết. Nhưng cũng có người nói quan niệm sức mạnh hình thành siêu nhân đó phải hiểu theo nghĩa siêu hình, sự chà đạp phải hiểu theo nghĩa chà đạp số mệnh; chà đạp lòng yếu đuối khuất phục trong tư tưởng bi quan cùng thời là triết lý của Schopenhauer. Các nhà văn nhà thơ tự nhiên thường có khuynh hướng đi về với nỗi buồn tha nhân, không phải do ảnh hưởng của triết lý nào. Cho nên dẫn chứng thơ về hội nhập vui không được dồi dào, thậm chí nhiều người còn chê trách văn minh kỹ nghệ phá hỏng môi trường thiên nhiên nguyên thủy, cao ốc cứ mọc lên che lấp bầu trời xanh, sung túc dễ đưa con người đến ăn chơi sa đọa, phát minh cho giải trí càng nhiều càng thui chột suy tư và tưởng tượng cần thiết cho sáng tạo.
Những suy nghĩ tiêu cực về văn minh gần như đã thành nếp nghĩ quen thuộc; các nhà thơ thường cũng là những nhà môi trường bài bác kỹ nghệ, văn minh cao ốc. Nhà thơ Quỳnh Thi sớm có nhận định thành phố cao ốc New York là đầu não tính toán kinh tế toàn cầu hóa, tính toán lạnh lùng bằng thảo chương phưc tạp trong computer . Bài thơ làm trước khi hai toà nhà thương mại thế giới ở New York bị phá sập do khủng bố, hẳn là nhà thơ cũng giật mình về tư tửởng bênh vực môi trường thiên nhiên và đòi kinh tế cục bộ cho từng quốc gia nghèo không thể theo kịp thị trường chung cuả thế giới phát triển. Ý tưởng trong bài thơ “ New York” cuả tác giả không phải hoàn toàn chưa ai nghĩ như vậy, nhưng có lẽ chưa có nhà thơ ngươì Việt nào thể hiện thành hẳn bài thơ về thành phố cao ốc này của Hoa Kỳ, trong đó chỉ nói khiá cạnh tiêu cực, không có một nét nào có thể gọi là hội nhập vui. Hơn nữa, bài thơ viết trước khi có biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 làm rúng động thế giới xảy ra ở Hoa Kỳ. Một đọan của bài thơ đó như sau:
Dãy phố cao tầng của Manhattan
Những tên khổng lồ không có linh hồn
Đang ve vãn loài kiến bé tí teo
Dáng ngạo nghễ như trêu chọc thiên hạ
.....
Riêng các ngọn điện trong cao ốc là bất tận
Những bài tính đầy mưu toan
Dự kiến úp mở cực kỳ chính xác
Kim chỉ nam cho kinh tế thế giới...
Quỳnh Thi
(Trích trong tập thơ “ Tên em là Hoa Kỳ”, xb. 1998, Texas)
Tạp chí Văn Học đã nhận định nhà thơ Trần Mộng Tú như là một trong số ít nhà thơ có quan điểm hội nhập vui: “ Trong làng văn hải ngoại, Trần Mộng Tú suốt hai mươi năm làm thơ viết truyện ngắn vẫn giữ một nét riêng. Chị luôn luôn lạc quan, yêu đời... Trong lúc những nhà thơ khác dửng dưng trước cảnh vật xứ người vì thương nhớ không nguôi một tàu lá chuối, một vườn ôỉ, chị thưởng thức trọn vẹn nét đẹp của một đóa hoa lạ tên, của những đồi tuyết trắng” ( Tạp chí Văn Học số 114, tháng 10/1995). Ta chưa có dịp đọc hết thơ văn suốt hai mươi năm của tác giả này, nhưng ta đoán quan điểm hội nhập vui đã phản ánh trong phần lớn tác phẩm, biểu hiện ra nhiều thì người đọc mới có ấn tượng như vậy. Đây là một trường hợp hiếm hoi, vì như ta đã nói ở đoạn trên các nhà thơ thường có thái độ tiêu cực đối vơí những gì rạng rỡ sung túc xã hội. Không phải họ không cần những thứ đó, nhưng những thứ đó biểu hiện trong giao tiếp xã hội là đủ rồi, không tác động đến bề sâu suy tư như sự thất bại, nỗi tuyệt vọng, cảnh hoang sơ buồn thảm... Với Trần Mộng Tú, đa số thơ của tác giả là những bài tình ca, những thơ tình lãng mạn và trang trọng. Tác giả hạnh phúc với nơi chốn và gia đình đầm ấm ở tại thành phố Seatle, thủ phủ tiểu bang Washington. Vì vậy ta mới gọi là hội nhập vui. Nhà thơ lạc quan với cảm thức chủ quan độc đáo, với ý tưởng lạ chưa ai chủ quan bằng như thấy bầu trời không ở đâu cao hơn và xanh hơn bầu trời trên mái nhà mình, không ở đâu có “ mưa tinh khiết và mưa lãng mạn” hơn mưa trong vườn nhà mình. Biểu hiện hội nhập vui rồi cũng phải song hành với hội nhập buồn, và chính lúc đó ta mới có dịp hiểu sâu hơn tâm hồn về với quê hương, về với niềm đau nhân thế. Thì ra tác giả chỉ muốn tránh đồng dạng, tránh lặp lại những cảm nghĩ giống nhau dễ biến thành ước lệ, khuôn sáo. Ta không thấy khuôn sáo khi cảm thức vẻ riêng biệt trong những biểu hiện của tác giả về lòng hoài hương; nỗi buồn cuộc chiến; thương những cảnh đời nghèo khổ; gợi nhớ dĩ vãng thời cắp sách đến trường cũng cực thân như mọi học sinh xứ sở chưa phát triển đầy đủ tiện nghi. Tạp chí Văn Học đã nêu ra được một trường hợp hội nhập vui, nên ta lấy đó làm dẫn chứng cho một trong ba lối hội nhập đất mới của người Việt, trong khi chưa sưu tầm được nhiều hơn về thơ hội nhâp vui. Có những bài thơ như Welcome America cuả một vài tác giả khác, ta tưởng đâu là thơ hội nhập vui, mà hóa ra là thơ bất mãn với xã hội văn minh lạnh lùng; bất mãn với môi trường phẳng phiu trơ trọi đẩy lùi thiên nhiên; bất mãn với nếp sống ồn ào náo nhiệt. Có những bài thơ đứng dưới tượng Nữ Thần Tự Do, nhưng cũng hàm ý chua chát với thứ tự do quá trớn, tự do mạnh được yếu thua.
Thắng cảnh ở Hoa Kỳ vô cùng phong phú. Nào Grand Canyon với tầng tầng địa chất, mỗi tầng nói lên tiếng thời gian hàng trăm hàng ngàn triệu năm trải qua, lại phô bày lịch sử địa tầng ấy lộ thiên từ dưới vực đi lên, vậy mà sao chưa có nhà thơ hải ngoại nào cảm hứng. Nào khu lâm viên quốc gia Yosemite gần San Jose với những vách đá dựng đứng cao ngất, chứng tích bào mòn của thời đại băng hà, mà sao cũng chẳng có ai( người Việt mà thôi) làm nên những bài thơ độc đáo. Từ giữa thập niên 50, các nhà thơ Nguyên Sa và Cung Trầm Tưởng viết nên những vần thơ đẹp ca ngợi Paris, bây giờ rất đông người Việt định cư tại Pháp có trên 20 năm mà sao không sản xuất thêm một baì thơ đẹp nào nữa về Paris, phải chăng vì thủ đô ánh sáng nay đã làm sáng cuộc đời nên họ không còn thấy ước mơ, không cần làm thơ hội nhập vui, chỉ cần phô diễn niềm vui bằng sắm sanh, nô nức hưởng thụ, đầu tư cho mình bây giờ và ngày mai cho con cháu. Định cư vui không gây cảm hứng sáng tác trong thi ca mà thôi, nhưng trong âm nhạc thì lại khá dồi dào, phải chăng vì âm nhạc gắn liền với trình diễn; mà trình diễn thì cần bóng sắc tươi đẹp, lộng lẫy đèn màu, điệu nhảy lã lướt hoặc rộn ràng, tiếng hát trẻ trung. Từ ngày định cư sau 1975 đến nay lại có thêm hai bài hát về Paris thật đẹp, nhạc điệu yêu đời trong tâm cảnh hạnh phúc du chơi, hoặc có nhớ nhung vì tạm biệt giữa Paris và California thì viễn ảnh không phải chia ly mà thật dễ dàng gặp lại nhờ phương tiện văn minh hiện đại. Ta muốn nói đến bài hát “ Mùa thu yêu đương” của nhạc sĩ Lam Phương và bài hát “ Để lại con tim” của nhạc sĩ Đức Huy. Từ hội nhập buồn vì “ Một đời tan vỡ” buổi đầu taị California, nhạc sĩ Lam Phương đã hội nhập vui tại Paris với người tình mới hay người tình tưởng tượng ta không biết rõ, nhưng quang cảnh du chơi Paris và vùng ngoại biên thủ đô mô tả trong bài hát thật hạnh phúc, chứng tỏ hội nhập vui dễ bắt vào lời ca trình diễn. Chỗ dụng võ của hội nhập vui là âm nhạc, không tâm đắc với thi ca im lìm chữ nghĩa. Im lìm chữ nghĩa tâm đắc với trầm tư hoặc với nỗi muộn phiền nên thích hợp nhất cho thơ hội nhập u hoài. Trở lại với hội nhập lạc quan trong văn chương Trần Mộng Tú, tính chất này không phải mang tính toàn bộ trong thơ tác giả, nhà thơ sáng tác nhiều bài thơ tình được ưa chuộng, vậy hội nhập vui chỉ là một khía cạnh do Tạp chí Văn Học nêu ra vì thấy đó là nét đặc biệt ánh lên trong phần lớn thi ca người Việt hải ngoại thường u hoài tình hoài hương. U hoài đó vẫn không thiếu trong tâm thức tác giả Trần Mộng Tú. ( Ví dụ trong bài tạp ghi “ Mưa” đăng trong nhật báo Người Việt, số ra ngày 17 tháng 7/2003). Nhưng màu xám u hoài và hồi tưởng nhiều người đã nói, có lẽ tác giả thấy cần hướng văn chương về lạc quan. Lạc quan hội nhập không thể không trộn lẫn với lạc quan tình yêu, xin nêu vài điển hình của hoà điệu đó:
Em đặt bàn chân qua thế kỷ
Những viên gạch mới lót hân hoan
.....
Thế kỷ ở bên ngoài lồng ngực
Làm sao hiểu được những cơn mơ
(Trong bài “ Thế kỷ”)
Buổi sáng khoan thai vào góc bếp
Rắc nắng lên mầu tím vỏ khoai
.....
Buổi sáng nhẹ nhàng kéo chiếc ghế
Thả cánh trà xanh xuống đáy bình
(Trong bài “ Điểm tâm”)
Ôi tình yêu như giọt sương buổi sáng
Làm sao em giữ được đến buổi chiều
Nếu tình yêu là mặt trời đứng bóng
Giọt nắng nào sẽ ở lại qua đêm
( Trong bài “ Thời gian và tình yêu”)
Chàng có đôi chân thật dài
Chàng đi bộ
băng qua những cánh rừng thông
chiếc đầu tròn ngửng cao
thỉnh thoảng lại vướng vào
những ngọn cây
Tôi đứng đón chàng
ở bìa rừng Tây Bắc
Khi chúng tôi gặp nhau
chàng cúi xuống hôn tôi
cả hai cùng khóc
nước mắt chàng nhuộm vàng
thân thể tôi
tôi bật gọi tên chàng
Trăng ơi!
(Trọn bài “Gọi tên” của Trần Mộng Tú)
Comment