Vu lan nhớ về cội nguồn
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can
Ngày cha mẹ lìa xa cõi thếLink" align="right" border="0" alt="" style="padding:7px;" />
Tất lòng con tựa thể nát tan!
Mẹ ơi! Cha hỡi! không tàn?
Thương Cha, nhớ mẹ tim vàng héo khô!!!
Thời gian đi nhanh quá, thấm thoát đến nay đã gần 10 năm lưu vong nơi xứ lạ quê người, cách xa quê nhà cả nửa vòng trái đất, thế là cuộc đời tôi phải nhận nơi đây làm quê hương thứ hai và có lẽ cũng là nơi gửi nắm xương tàn ở một đất nước mà hàng triệu người hiện đang muốn đến lập nghiệp. Mặc dầu nước Mỹ là một nước hiện tại có đầy đủ về vật chất, văn minh và dân chủ nhất thế giới, nhưng đối với tôi và có lẽ hầu hết những người Việt Nam đã sinh ra và trưởng thành nơi quê nhà đều cảm thấy buồn về phong tục, tập quán của nhân dân Hoa Kỳ, nó trái ngược hẳn với dân tộc Á Châu nói chung và truyền thống của dân tộc Việt Nam nói riêng.
Đường lối giáo dục của Chính Quyền Hoa Kỳ chỉ nhắm vào Trí Dục và Thể Dục mà coi nhẹ phần Đức Dục, ngược lại tập quán của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa, các cụ tiền nhân đã để lại một nền văn hóa hết sức phong phú nhất là Đức Dục, phải được đặt lên trên hết. Nền giáo dục của Nho giáo, Lão giáo, Khổng giáo và Phật giáo luôn luôn lấy Đức Dục làm đầu rồi mới đến Trí Dục và Thể Dục. Do đó, mọi người trong lúc thiếu thời mới cắp sách đến trường đã được học thuộc lòng câu đầu tiên là: “Tiên học lễ, hậu học văn” hay với những lời khuyên dậy của Ông Bà, Cha Mẹ để lại là: “Có Học mà không có Hạnh hoặc có Tài mà không có Đức con người đó sống cũng vô dụng đối với gia đình và xã hội”. Những người con gái được giáo dục từ trong gia đình là “Cái nết đánh chết cái đẹp”, phải lấy Tiết Hạnh làm đầu, có nhan sắc đẹp lộng lẫy nhưng cái tính nết lãng mạn, hỗn xược, ăn nói không nhu mì, nhã nhặn, hiền hậu và ý tứ thì người đó cũng là những kẻ bị mọi người khinh bỉ và ghép cho một danh từ là “Con nhà vô giáo dục” Cha Mẹ cũng hổ thẹn với bạn bè, họ hàng và làng xóm.
Theo tôi, con người đúng nghĩa là một sinh vật siêu Việt, có một lý trí cao cả mà Trời Phật đã ban cho và đã được giáo dục qua các trào lưu văn hóa của một dân tộc, có truyền thống hiếu hạnh từ lâu đời, không thể quan niệm như chủ thuyết “Duy vật biện chứng pháp” của Kác-Mác và Lenin mà cho là vì một chút hoan lạc nào đó mà sinh con, hay thủy tổ của con người là loài vượn… Đó là một luận điệu phi nhân tính, đó không thể có trong quan niệm của người Phật Tử chân chính, hay bất cứ người nào đã có lý trí phán xét đều không thể chấp nhận được.
Đức Phật đã dậy cho ta rằng “Hiếu Tâm tức là Phật Tâm, Hiếu Đạo vô phi Phật Đạo” “Tâm hiếu là tâm Phật, đạo hiếu là đạo Phật” vì vậy mà đạo Phật xác định “cùng cực điều thiện, không có gì hơn hiếu”. Trong nền giáo dục Việt Nam từ bao thế hệ trước đây cũng đã đề cao chữ hiếu, mà ta khi còn thiếu thời, cắp sách đến trường ta đã được học thuộc lòng bài học:
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Thế thì một người có chút lương tri, làm sao lại không biết công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Mỗi người chúng ta chỉ có một cha, một mẹ sinh ra. Trong kinh nhà Phật cũng đã truyền lại rằng: Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta lang thang trong nẻo luân hồi, bỏ thân này, nhận thân khác, sinh đi sinh lại bao lần, sữa mẹ mà ta đã uống còn nhiều hơn nước của biển đại dương. Điều này nhắc nhở cho ta thấy công ơn cha mẹ to biết chừng nào. Trong kinh Mục Liên Sám Pháp, Đức Phật đã nói. Trong con người ta có mười hai bệnh, bệnh căn sâu nặng không được thấy Phật. A Nan hỏi Phật: Đó là bệnh gì ? Đức Phật trả lời: “Không kính cha mẹ, đó là một bệnh; ngu si tạo ác; đó là hai bệnh, gian xảo điêu ngoa; đó là ba bệnh, lời nói hại người, đó là bốn bệnh; hay tìm lỗi người, đó là bệnh thứ năm; giết hại chúng sanh, căn bệnh thứ sáu; không biết hổ thẹn, đó là bẩy bệnh; ham mê sắc dục, đó là bệnh thứ tám; kiêu ngạo khinh người, đó là chín bệnh; phạm tội không hối, là bệnh thứ mười; khen mình chê người, là bệnh thứ mười một; không biết lợi hại, là bệnh thứ mười hai”. Chúng ta nên tâm niệm lời Đức Phật nêu trên, để lấy đó làm kim chỉ nam cho mình, tự tu sửa hàng ngày hầu loại trừ được những căn bệnh như lời Phật dậy. Ta sẽ trở thành người tốt.
Mỗi năm cứ gần đến ngày trăng tròn tháng 7 âm lịch và cũng là cuối mùa hạ, bắt đầu sang thu, lá vàng rụng xuống, lá xanh trồi lên, bông hoa lá bắt đầu chớm nở, sau một mùa oi bức nóng nực của cái nắng mùa hè. Thời tiết thay đổi, lòng người cũng đổi thay để chuẩn bị lễ Vu Lan, đó là mùa báo ân cha mẹ, lễ VU LAN đã truyền lại từ ngàn xưa mà Đức Mục Kiền Liên là tiêu biểu, gương mẫu, suốt cả nghìn đời mà Đức Phật đã để lại cho hàng Phật Tử để lấy đó làm gương noi theo. Nhưng bây giờ ngày lễ Vu Lan không còn là một đặc thù riêng của người Phật Tử, mà là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người, không phân biệt tôn giáo, đảng phái hay bất cứ một tổ chức nào, từ các thánh hiền đến người thường dân, đã là con người ai cũng có cha, mẹ sinh ra, chính cha, mẹ đã san sẻ một phần máu, thịt để tạo nên hình hài của mỗi người con. Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được. Do đó; báo hiếu cha mẹ chính là nghĩa vụ cao quý, thiêng liêng nhất, mà không nghĩa vụ nào bằng.
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao, vằng vặc như sông dài, rực rỡ như mặt trời, tỏ rõ như ánh trăng rằm. Lúc thiếu thời tôi đã đươc học thuộc lòng các câu ca dao, truyền bá trong dân gian như sau:
“Ơn cha cao như núi thái sơn
Đức mẹ hiền sâu rộng bể khơi
Dù cho dâng cả một đời
Cũng không trả được ơn trời sinh ra”.
Còn có những câu ru con của các bà mẹ dậy con từ thuở còn thơ như:
“Ru hời, ru hỡi, ru hơi
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Núi cao, biển rộng mênh mông
Làm con trước phải đền công sinh thành”.
Hay là:
“Đố ai đếm được lá rừng
Đố ai đếm được mấy tầng trời cao
Đố ai đếm được những vì sao
Đố ai đếm được công lao mẹ hiền”
Sau đây người viết bài này xin ghi lại một đoạn truyền khẩu trong thế kỷ thứ 10 - 13 về tình thương con qua Phạm Công Cúc Hoa, với tác phẩm sâu xa và truyền cảm nhất. Tác phẩm đưa ra cảnh tình mẫu tử, cảnh mẹ ghẻ, con chồng, cảnh hối cải của kẻ ác độc đúng là:
Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng.
Theo học giả Đào Duy Anh và Đặng Thái Mai (tư liệu Văn Học Bình Dân 1976) thì truyện này dựa theo một truyền thuyết Ấn Độ thời Raja Varman đệ tam. Nàng Cúc Hoa bị bạo bệnh, lâm chung để lại 2 đứa con thơ dại: Một trai tên là Tấn Lực, còn một gái tên là Nghi Xuân. Trong khi Phạm Công được Vua Lý (?) đưa đi trấn nhiệm ở vùng thượng du (sách chép lại tại Cao Bằng) để đánh dẹp loài thảo khấu, cường độ thường quấy phá, trong khi đó người vợ kế (là Tào Thị) ở nhà, thì lại hành hạ hai đứa con chồng quá tàn nhẫn. Hai trẻ không chịu nổi, đành bỏ nhà ra đi. Nhưng đi đâu? Chúng còn quá nhỏ dại. Nghi Xuân, Tấn Lực quá bé thơ, sau 10 ngày lang thang, đói khổ thì tìm ra ngôi mộ của mẹ mình ngày trước. Tâm sự của đôi trẻ thật đáng thương tâm:
“Đoái nhìn thấy mả Cúc Hoa
Ngậm ngùi nhớ mẹ - châu sa ròng ròng”.
Hai anh em chỉ còn biết ngồi khóc ròng, hết canh một, thì bỗng nhiên, có sự kiện xẩy ra:
“Cúc Hoa phách quế, hồn ma,
Lòng thương con dại ái hoài xót xa
Bên mồ: Nàng hiện hồn ra,
Ôm con, than thở, xót xa tấm lòng.
Bấy lâu, mẹ những nhớ trông,
Con ơi! Có biết mẹ trong mả này!”
Hai anh em Nghi Xuân - Tấn Lực bèn kể tất cả đầu đuôi câu truyện cho mẹ nghe. Từ khi mẹ chết, Phạm Công lấy Tào Thị. Rồi thái độ khắc nghiệt, ác độc cuả người dì ghẻ…”. Ăn thì bữa đói bữa không. Suốt ngày hành hạ ra nông nỗi này !”
Cúc Hoa đau xót vô cùng:
“Cúc Hoa nghe nói, lệ sa!
Nhìn đôi con dại, nghĩ mà đớn đau...
Bồng con cho bú hồi lâu,
Càng thương con trẻ - càng sầu tình xưa.”
Chẳng bao lâu, mẹ con bịn rịn, thì thời gian cũng đã trôi qua. Trời cũng vừa lúc sáng - Cúc Hoa đành phải giã từ:
“Giả con, ở lại bình an,
Mẹ về âm cảnh đôi đàng cách xa”.
Tấn Lực - Nghi Xuân bấy lâu nay xa cha, thiếu tình mẹ, nay lại được gặp (dù chỉ là hồn mẹ hiện về) vuốt ve âu yếm, thì không muốn xa cách nữa:
“Nghi Xuân ôm mẹ khóc òa,
Mẹ ơi, sao nỡ, chối mà bỏ đi!”
Thời gian đã hết. Cúc Hoa không thể nào lưu lại nàng đành giỗ con:
“Hai con quay mặt trở ra
Cho mẹ bắt chí, rồi mà chia ly!
Hai con vâng lệnh một khi,
Cúc Hoa vội vã, biến thì mất tung”.
Hai con Nghi Xuân - Tấn Lực thì vậy.
Đến cả Phạm Công chồng nàng cũng được báo mộng:
“Chàng ơi! sao bỏ lời thề,
Hai con thơ dại, lất lê dọc đường
Suốt ngày hành khất thảm thương
Ai gây nên nỗi đoạn trường thế kia?
Phạm Công đã hiểu mọi sự: Chính Tào Thị đã đầy đọa, hành hạ hai đứa con mình:
“Trẻ thơ, có tội tình chi.
Cớ sao ăn ở bất nghì thế kia.
Thì thôi cắt nghĩa xướng tuỳ,
Nếu không cải tính, còn gì gia phong !
Tào Thị phải cho người đi tìm hai đứa con chồng trở về, thay đổi cách cư xử, nếu muốn xum họp với Phạm Công. Thật ra, tất cả các tác phẩm tình cảm trên thế giới, không có một tác phẩm nào diễn tả tình cảm của người mẹ đối với con sâu sắc và tràn đầy tình thương như vậy. Vu Lan mùa Báo Hiếu, đây là cơ hội để cho các con cháu, mỗi năm một lần báo hiếu mẹ cha, người Mỹ họ có ngày Father’s day, Mother’s day, còn Việt Nam mình có cả một mùa Vu Lan để báo ân Ông Bà, Cha Mẹ, mà còn là dịp để thực hiện các công đức khác bằng cách xin lễ cầu siêu ở các chùa cho các vị tiền nhân quá vãng được siêu sinh, tịnh độ, vĩnh viễn thoát khỏi cảnh trầm luân, và những người còn sống được thượng thừa công đức, Tam bảo gia ân, thân tâm khang thái, gia đình thịnh vượng, được sống trong cảnh yên vui hạnh phúc. Ngoài ra, cũng trong mùa báo hiếu, mọi người phải phát tâm cúng dường. Về công đức cúng dường Đức Phật đã dậy khá rõ ràng trong kinh Vu Lan. Tôi xin dẫn giải một vài đoạn để quý độc giả cùng suy ngẫm và noi theo: “Đức Phật đã huấn thị cho Vua Ba Tư Nặc, khi vua bạch với Ngài - Bạch Thế Tôn từ nay con cấm người ngoại đạo vào lãnh thổ của con, con xin cúng dường chư tăng tất cả những thứ cần dùng Phật dậy: “Đại Vương đừng nói như vậy, cho các sinh vật khác còn được phước huống chi là cho người ngoại đạo, hãy cho đúng lúc, cho với tâm thanh tịnh, cho một cách giải thoát chứ không cần được phước báo hay trả ơn, cho để được niết bàn chứ không cầu sinh cõi trời, cho rồi đem cái công đức ấy hồi hướng cho tất cả mọi loài, mọi người chứ không cầu riêng cho mình”.
Đức Phật còn dậy cho Sư Tử Trưởng Giả về phước báo của hạnh bố thí bình đẳng, khi ông đến bạch với Ngài: “Bạch Thế Tôn con nghe Thế Tôn dạy hãy bố thí bình đẳng, do đó khi bố thí con không có lòng lựa chọn phải trái, cao thấp, con cúng dường và bố thí cho tất cả, hễ ai giữ được giới thì phước báu vô cùng, ai phạm giới thì tự chịu tai họa, con chỉ nghĩ ai cũng phải ăn mới sống”. Đức Phật: “Đó là cái nguyện rộng rãi, cái tâm bố thí của Bồ Tát Trưởng Giả đã theo đúng đường lối của hạnh Bồ Tát, hãy bố thí bình đẳng thì phước đức vô tận”.
Theo quan niệm của người Việt Nam bình dân cho là:
Tu đâu không bằng tu nhà.
Thờ Cha kính Mẹ mới là chân Tu...
Trong dân gian cũng đã truyền tụng tình mẫu tử như sau:
Mẹ cho con tất cả
Hết quãng đời tuổi xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời xanh.
Trên đây tôi dẫn giải mấy đoạn của Đức Phật truyền dậy cho các hàng Phật Tử liên quan đến ngày lễ Vu Lan và một vài quan niệm theo dân gian Việt Nam. Vậy chúng ta là hàng Phật tử phải lấy đó làm kim chi nam cho bản ngã đã có trong tâm đạo, để thực thi cho cuộc đời cuả mình.
Đây cũng là một dịp để cho mọi người con có dịp đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của Mẹ Cha và cũng có cơ hội biểu lộ tinh thần hiếu thảo.
Mọi người chúng ta dốc lòng làm tròn bổn phận của người con hiếu hạnh.
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can
Con xin hồi hướng công đức lên
Thân Mẫu sinh thành.
Thân Mẫu sinh thành.
Ngày cha mẹ lìa xa cõi thếLink" align="right" border="0" alt="" style="padding:7px;" />
Tất lòng con tựa thể nát tan!
Mẹ ơi! Cha hỡi! không tàn?
Thương Cha, nhớ mẹ tim vàng héo khô!!!
Thời gian đi nhanh quá, thấm thoát đến nay đã gần 10 năm lưu vong nơi xứ lạ quê người, cách xa quê nhà cả nửa vòng trái đất, thế là cuộc đời tôi phải nhận nơi đây làm quê hương thứ hai và có lẽ cũng là nơi gửi nắm xương tàn ở một đất nước mà hàng triệu người hiện đang muốn đến lập nghiệp. Mặc dầu nước Mỹ là một nước hiện tại có đầy đủ về vật chất, văn minh và dân chủ nhất thế giới, nhưng đối với tôi và có lẽ hầu hết những người Việt Nam đã sinh ra và trưởng thành nơi quê nhà đều cảm thấy buồn về phong tục, tập quán của nhân dân Hoa Kỳ, nó trái ngược hẳn với dân tộc Á Châu nói chung và truyền thống của dân tộc Việt Nam nói riêng.
Đường lối giáo dục của Chính Quyền Hoa Kỳ chỉ nhắm vào Trí Dục và Thể Dục mà coi nhẹ phần Đức Dục, ngược lại tập quán của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa, các cụ tiền nhân đã để lại một nền văn hóa hết sức phong phú nhất là Đức Dục, phải được đặt lên trên hết. Nền giáo dục của Nho giáo, Lão giáo, Khổng giáo và Phật giáo luôn luôn lấy Đức Dục làm đầu rồi mới đến Trí Dục và Thể Dục. Do đó, mọi người trong lúc thiếu thời mới cắp sách đến trường đã được học thuộc lòng câu đầu tiên là: “Tiên học lễ, hậu học văn” hay với những lời khuyên dậy của Ông Bà, Cha Mẹ để lại là: “Có Học mà không có Hạnh hoặc có Tài mà không có Đức con người đó sống cũng vô dụng đối với gia đình và xã hội”. Những người con gái được giáo dục từ trong gia đình là “Cái nết đánh chết cái đẹp”, phải lấy Tiết Hạnh làm đầu, có nhan sắc đẹp lộng lẫy nhưng cái tính nết lãng mạn, hỗn xược, ăn nói không nhu mì, nhã nhặn, hiền hậu và ý tứ thì người đó cũng là những kẻ bị mọi người khinh bỉ và ghép cho một danh từ là “Con nhà vô giáo dục” Cha Mẹ cũng hổ thẹn với bạn bè, họ hàng và làng xóm.
Theo tôi, con người đúng nghĩa là một sinh vật siêu Việt, có một lý trí cao cả mà Trời Phật đã ban cho và đã được giáo dục qua các trào lưu văn hóa của một dân tộc, có truyền thống hiếu hạnh từ lâu đời, không thể quan niệm như chủ thuyết “Duy vật biện chứng pháp” của Kác-Mác và Lenin mà cho là vì một chút hoan lạc nào đó mà sinh con, hay thủy tổ của con người là loài vượn… Đó là một luận điệu phi nhân tính, đó không thể có trong quan niệm của người Phật Tử chân chính, hay bất cứ người nào đã có lý trí phán xét đều không thể chấp nhận được.
Đức Phật đã dậy cho ta rằng “Hiếu Tâm tức là Phật Tâm, Hiếu Đạo vô phi Phật Đạo” “Tâm hiếu là tâm Phật, đạo hiếu là đạo Phật” vì vậy mà đạo Phật xác định “cùng cực điều thiện, không có gì hơn hiếu”. Trong nền giáo dục Việt Nam từ bao thế hệ trước đây cũng đã đề cao chữ hiếu, mà ta khi còn thiếu thời, cắp sách đến trường ta đã được học thuộc lòng bài học:
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Thế thì một người có chút lương tri, làm sao lại không biết công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Mỗi người chúng ta chỉ có một cha, một mẹ sinh ra. Trong kinh nhà Phật cũng đã truyền lại rằng: Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta lang thang trong nẻo luân hồi, bỏ thân này, nhận thân khác, sinh đi sinh lại bao lần, sữa mẹ mà ta đã uống còn nhiều hơn nước của biển đại dương. Điều này nhắc nhở cho ta thấy công ơn cha mẹ to biết chừng nào. Trong kinh Mục Liên Sám Pháp, Đức Phật đã nói. Trong con người ta có mười hai bệnh, bệnh căn sâu nặng không được thấy Phật. A Nan hỏi Phật: Đó là bệnh gì ? Đức Phật trả lời: “Không kính cha mẹ, đó là một bệnh; ngu si tạo ác; đó là hai bệnh, gian xảo điêu ngoa; đó là ba bệnh, lời nói hại người, đó là bốn bệnh; hay tìm lỗi người, đó là bệnh thứ năm; giết hại chúng sanh, căn bệnh thứ sáu; không biết hổ thẹn, đó là bẩy bệnh; ham mê sắc dục, đó là bệnh thứ tám; kiêu ngạo khinh người, đó là chín bệnh; phạm tội không hối, là bệnh thứ mười; khen mình chê người, là bệnh thứ mười một; không biết lợi hại, là bệnh thứ mười hai”. Chúng ta nên tâm niệm lời Đức Phật nêu trên, để lấy đó làm kim chỉ nam cho mình, tự tu sửa hàng ngày hầu loại trừ được những căn bệnh như lời Phật dậy. Ta sẽ trở thành người tốt.
Mỗi năm cứ gần đến ngày trăng tròn tháng 7 âm lịch và cũng là cuối mùa hạ, bắt đầu sang thu, lá vàng rụng xuống, lá xanh trồi lên, bông hoa lá bắt đầu chớm nở, sau một mùa oi bức nóng nực của cái nắng mùa hè. Thời tiết thay đổi, lòng người cũng đổi thay để chuẩn bị lễ Vu Lan, đó là mùa báo ân cha mẹ, lễ VU LAN đã truyền lại từ ngàn xưa mà Đức Mục Kiền Liên là tiêu biểu, gương mẫu, suốt cả nghìn đời mà Đức Phật đã để lại cho hàng Phật Tử để lấy đó làm gương noi theo. Nhưng bây giờ ngày lễ Vu Lan không còn là một đặc thù riêng của người Phật Tử, mà là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người, không phân biệt tôn giáo, đảng phái hay bất cứ một tổ chức nào, từ các thánh hiền đến người thường dân, đã là con người ai cũng có cha, mẹ sinh ra, chính cha, mẹ đã san sẻ một phần máu, thịt để tạo nên hình hài của mỗi người con. Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được. Do đó; báo hiếu cha mẹ chính là nghĩa vụ cao quý, thiêng liêng nhất, mà không nghĩa vụ nào bằng.
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao, vằng vặc như sông dài, rực rỡ như mặt trời, tỏ rõ như ánh trăng rằm. Lúc thiếu thời tôi đã đươc học thuộc lòng các câu ca dao, truyền bá trong dân gian như sau:
“Ơn cha cao như núi thái sơn
Đức mẹ hiền sâu rộng bể khơi
Dù cho dâng cả một đời
Cũng không trả được ơn trời sinh ra”.
Còn có những câu ru con của các bà mẹ dậy con từ thuở còn thơ như:
“Ru hời, ru hỡi, ru hơi
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Núi cao, biển rộng mênh mông
Làm con trước phải đền công sinh thành”.
Hay là:
“Đố ai đếm được lá rừng
Đố ai đếm được mấy tầng trời cao
Đố ai đếm được những vì sao
Đố ai đếm được công lao mẹ hiền”
Sau đây người viết bài này xin ghi lại một đoạn truyền khẩu trong thế kỷ thứ 10 - 13 về tình thương con qua Phạm Công Cúc Hoa, với tác phẩm sâu xa và truyền cảm nhất. Tác phẩm đưa ra cảnh tình mẫu tử, cảnh mẹ ghẻ, con chồng, cảnh hối cải của kẻ ác độc đúng là:
Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng.
Theo học giả Đào Duy Anh và Đặng Thái Mai (tư liệu Văn Học Bình Dân 1976) thì truyện này dựa theo một truyền thuyết Ấn Độ thời Raja Varman đệ tam. Nàng Cúc Hoa bị bạo bệnh, lâm chung để lại 2 đứa con thơ dại: Một trai tên là Tấn Lực, còn một gái tên là Nghi Xuân. Trong khi Phạm Công được Vua Lý (?) đưa đi trấn nhiệm ở vùng thượng du (sách chép lại tại Cao Bằng) để đánh dẹp loài thảo khấu, cường độ thường quấy phá, trong khi đó người vợ kế (là Tào Thị) ở nhà, thì lại hành hạ hai đứa con chồng quá tàn nhẫn. Hai trẻ không chịu nổi, đành bỏ nhà ra đi. Nhưng đi đâu? Chúng còn quá nhỏ dại. Nghi Xuân, Tấn Lực quá bé thơ, sau 10 ngày lang thang, đói khổ thì tìm ra ngôi mộ của mẹ mình ngày trước. Tâm sự của đôi trẻ thật đáng thương tâm:
“Đoái nhìn thấy mả Cúc Hoa
Ngậm ngùi nhớ mẹ - châu sa ròng ròng”.
Hai anh em chỉ còn biết ngồi khóc ròng, hết canh một, thì bỗng nhiên, có sự kiện xẩy ra:
“Cúc Hoa phách quế, hồn ma,
Lòng thương con dại ái hoài xót xa
Bên mồ: Nàng hiện hồn ra,
Ôm con, than thở, xót xa tấm lòng.
Bấy lâu, mẹ những nhớ trông,
Con ơi! Có biết mẹ trong mả này!”
Hai anh em Nghi Xuân - Tấn Lực bèn kể tất cả đầu đuôi câu truyện cho mẹ nghe. Từ khi mẹ chết, Phạm Công lấy Tào Thị. Rồi thái độ khắc nghiệt, ác độc cuả người dì ghẻ…”. Ăn thì bữa đói bữa không. Suốt ngày hành hạ ra nông nỗi này !”
Cúc Hoa đau xót vô cùng:
“Cúc Hoa nghe nói, lệ sa!
Nhìn đôi con dại, nghĩ mà đớn đau...
Bồng con cho bú hồi lâu,
Càng thương con trẻ - càng sầu tình xưa.”
Chẳng bao lâu, mẹ con bịn rịn, thì thời gian cũng đã trôi qua. Trời cũng vừa lúc sáng - Cúc Hoa đành phải giã từ:
“Giả con, ở lại bình an,
Mẹ về âm cảnh đôi đàng cách xa”.
Tấn Lực - Nghi Xuân bấy lâu nay xa cha, thiếu tình mẹ, nay lại được gặp (dù chỉ là hồn mẹ hiện về) vuốt ve âu yếm, thì không muốn xa cách nữa:
“Nghi Xuân ôm mẹ khóc òa,
Mẹ ơi, sao nỡ, chối mà bỏ đi!”
Thời gian đã hết. Cúc Hoa không thể nào lưu lại nàng đành giỗ con:
“Hai con quay mặt trở ra
Cho mẹ bắt chí, rồi mà chia ly!
Hai con vâng lệnh một khi,
Cúc Hoa vội vã, biến thì mất tung”.
Hai con Nghi Xuân - Tấn Lực thì vậy.
Đến cả Phạm Công chồng nàng cũng được báo mộng:
“Chàng ơi! sao bỏ lời thề,
Hai con thơ dại, lất lê dọc đường
Suốt ngày hành khất thảm thương
Ai gây nên nỗi đoạn trường thế kia?
Phạm Công đã hiểu mọi sự: Chính Tào Thị đã đầy đọa, hành hạ hai đứa con mình:
“Trẻ thơ, có tội tình chi.
Cớ sao ăn ở bất nghì thế kia.
Thì thôi cắt nghĩa xướng tuỳ,
Nếu không cải tính, còn gì gia phong !
Tào Thị phải cho người đi tìm hai đứa con chồng trở về, thay đổi cách cư xử, nếu muốn xum họp với Phạm Công. Thật ra, tất cả các tác phẩm tình cảm trên thế giới, không có một tác phẩm nào diễn tả tình cảm của người mẹ đối với con sâu sắc và tràn đầy tình thương như vậy. Vu Lan mùa Báo Hiếu, đây là cơ hội để cho các con cháu, mỗi năm một lần báo hiếu mẹ cha, người Mỹ họ có ngày Father’s day, Mother’s day, còn Việt Nam mình có cả một mùa Vu Lan để báo ân Ông Bà, Cha Mẹ, mà còn là dịp để thực hiện các công đức khác bằng cách xin lễ cầu siêu ở các chùa cho các vị tiền nhân quá vãng được siêu sinh, tịnh độ, vĩnh viễn thoát khỏi cảnh trầm luân, và những người còn sống được thượng thừa công đức, Tam bảo gia ân, thân tâm khang thái, gia đình thịnh vượng, được sống trong cảnh yên vui hạnh phúc. Ngoài ra, cũng trong mùa báo hiếu, mọi người phải phát tâm cúng dường. Về công đức cúng dường Đức Phật đã dậy khá rõ ràng trong kinh Vu Lan. Tôi xin dẫn giải một vài đoạn để quý độc giả cùng suy ngẫm và noi theo: “Đức Phật đã huấn thị cho Vua Ba Tư Nặc, khi vua bạch với Ngài - Bạch Thế Tôn từ nay con cấm người ngoại đạo vào lãnh thổ của con, con xin cúng dường chư tăng tất cả những thứ cần dùng Phật dậy: “Đại Vương đừng nói như vậy, cho các sinh vật khác còn được phước huống chi là cho người ngoại đạo, hãy cho đúng lúc, cho với tâm thanh tịnh, cho một cách giải thoát chứ không cần được phước báo hay trả ơn, cho để được niết bàn chứ không cầu sinh cõi trời, cho rồi đem cái công đức ấy hồi hướng cho tất cả mọi loài, mọi người chứ không cầu riêng cho mình”.
Đức Phật còn dậy cho Sư Tử Trưởng Giả về phước báo của hạnh bố thí bình đẳng, khi ông đến bạch với Ngài: “Bạch Thế Tôn con nghe Thế Tôn dạy hãy bố thí bình đẳng, do đó khi bố thí con không có lòng lựa chọn phải trái, cao thấp, con cúng dường và bố thí cho tất cả, hễ ai giữ được giới thì phước báu vô cùng, ai phạm giới thì tự chịu tai họa, con chỉ nghĩ ai cũng phải ăn mới sống”. Đức Phật: “Đó là cái nguyện rộng rãi, cái tâm bố thí của Bồ Tát Trưởng Giả đã theo đúng đường lối của hạnh Bồ Tát, hãy bố thí bình đẳng thì phước đức vô tận”.
Theo quan niệm của người Việt Nam bình dân cho là:
Tu đâu không bằng tu nhà.
Thờ Cha kính Mẹ mới là chân Tu...
Trong dân gian cũng đã truyền tụng tình mẫu tử như sau:
Mẹ cho con tất cả
Hết quãng đời tuổi xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời xanh.
Trên đây tôi dẫn giải mấy đoạn của Đức Phật truyền dậy cho các hàng Phật Tử liên quan đến ngày lễ Vu Lan và một vài quan niệm theo dân gian Việt Nam. Vậy chúng ta là hàng Phật tử phải lấy đó làm kim chi nam cho bản ngã đã có trong tâm đạo, để thực thi cho cuộc đời cuả mình.
Đây cũng là một dịp để cho mọi người con có dịp đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của Mẹ Cha và cũng có cơ hội biểu lộ tinh thần hiếu thảo.
Mọi người chúng ta dốc lòng làm tròn bổn phận của người con hiếu hạnh.
Comment