• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

VŨ HOÀNG CHƯƠNG: Nho sinh ngất ngưởng thời Tây học

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • VŨ HOÀNG CHƯƠNG: Nho sinh ngất ngưởng thời Tây học

    VŨ HOÀNG CHƯƠNG: Nho sinh ngất ngưởng thời Tây học

    TP - Tuy Vũ Hoàng Chương tài năng không hề thua sút những vì sao Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính... trên bầu trời Thơ Mới, nhưng ông lại ít được nhắc tới một cách đáng ngạc nhiên.





    Có lẽ vì người ta đọc thơ ông không chỉ bằng “con mắt thơ”, mà còn bằng, và chủ yếu bằng con mắt của đạo đức, con mắt của lề thói, con mắt của đủ thứ cấm kị xã hội?
    Có lẽ bởi thế mà vào cuối đời, cay đắng tổng kết cuộc đời mình, Vũ Hoàng Chương đã phải cất một tiếng than dài: “Ta đã làm chi đời ta” (tên tập hồi ký của ông)?

    Người cũ trong thơ mới

    Trong bài khái luận “Một thời đại trong thi ca” mở đầu tập “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã tạm chia Thơ Mới 1932 - 1941 thành ba dòng: dòng chịu ảnh hưởng Pháp, dòng chịu ảnh hưởng thơ Đường và dòng “có tính cách Việt Nam rõ rệt”.
    Nhìn về đại thể, đó là cách chia tương đối hợp lý. Nhưng ở một đôi chỗ tiểu tiết, nhà phê bình tiền bối lại không khỏi khiến kẻ hậu bối viết bài này phải băn khoăn, việc xếp Vũ Hoàng Chương vào dòng Việt chẳng hạn.

    Thơ của tác giả “Thơ say” liệu có gì chung với thơ của tác giả “Mười hai bến nước” (Nguyễn Bính, cũng được Hoài Thanh xếp vào dòng Việt)? Vì lý do gì lại không thể coi Vũ Hoàng Chương như một thi nhân thuộc dòng ảnh hưởng thơ Đường, trong khi dấu ấn của Đường thi trong thơ ông quá đậm nét?
    Gạt những thắc mắc ấy sang một bên, ít nhất thì việc Hoài Thanh không xếp Vũ Hoàng Chương vào dòng thơ chịu ảnh hưởng Pháp cũng cho tôi can đảm để khẳng định cái cảm nhận ban đầu của mình: Vũ Hoàng Chương là một người cũ trong Thơ Mới.
    Vừa bước chân vào cửa, tôi đã trông thấy một gã nho sinh đang ngất ngưởng ngồi trên chiếc ghế bành đen bóng. Tôi ngỡ ngàng trước lối phục sức kỳ dị của Hắn: mình mặc áo gấm trần, đầu không khăn, chân mang guốc. Trông mặt Hắn có vẻ vừa kiêu hãnh, cao kỳ, vừa có vẻ thơ ngây, chất phác”.
    Trên tạp chí “Văn” số 150, Dương Thiệu Mục đã phác họa chân dung Vũ Hoàng Chương bằng những nét như vậy từ ký ức của lần gặp mặt đầu tiên giữa hai người.

    Hãy thử tưởng tượng xem: ở thời buổi mưa Âu gió Mỹ đầy trời, khi trang phục của người thanh niên có học sống nơi thành thị phổ biến là veston, mũ phớt, giày giôn, thì cái hình ảnh “mình mặc áo gấm trần, chân mang guốc” của Vũ Hoàng Chương há chẳng khiến người ta thấy ngỡ ngàng hay sao? Nó giống như dư ảnh của một thời xưa cũ còn lưu lại giữa đương thời vậy.

    Thật khó tin nếu chúng ta chú ý tới sự kiện là Vũ Hoàng Chương từng tốt nghiệp trường Albert Sarraut, từng theo học đại học luật Hà Nội, rồi đại học toán, nghĩa là ông là người Tây học đến chân răng kẽ tóc!
    Sự hiện diện của Vũ Hoàng Chương trong Thơ Mới cũng vậy. Không trình diện làng thơ bằng các thi phẩm mang hình thức toàn luật thi và tuyệt thi như Quách Tấn trong tập “Mùa cổ điển”, nhưng thơ của Vũ Hoàng Chương vẫn gợi lên nơi người đọc cái cảm giác xưa cũ, cái cảm giác được hít thở, được ngâm tẩm trong một bầu khí “đặc” Đông phương.

    Cảm giác ấy nảy sinh từ nguồn thi liệu được ông sử dụng. Chúng tuyệt không vướng một chút dấu vết phương Tây. Nhưng, xin được nói ngay, chúng cũng khác xa với Nguyễn Bính: thi liệu trong thơ Nguyễn Bính chủ yếu lấy từ dân gian, mang màu sắc dân gian, có tính chất bình dị; còn thi liệu trong thơ Vũ Hoàng Chương lấy từ lịch sử và văn chương bác học Trung Hoa cổ điển, chúng được nhuộm bởi một gam màu cổ kính, sang trọng.

    Nhà thơ của lạc loài, cô đơn

    Trong bài “Phương xa”, Vũ Hoàng Chương đã viết, như một tuyên ngôn về tình thế tồn tại và căn bệnh tinh thần của thế hệ mình: “Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa/ Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh/ Bể vô tận xá gì phương hướng nữa/ Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh/ Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ/ Một đôi người u uất nỗi chơ vơ/ Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị/ Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ”.

    Nếu điều đó không đúng với tất cả hoặc không đúng với số đông, chí ít, nó đúng với riêng ông. Vũ Hoàng Chương là người luôn sống với hiện tại trong cảm thức chơ vơ, lạc loài, cô đơn, bị ruồng bỏ, chia cắt.
    Ông tồn tại ở đây, lúc này, nhưng luôn tin rằng bản thể chân thực của mình là ở trong một không gian khác, trong một thời gian khác. Và ông không ngừng băng qua giới hạn giữa “ở đây, lúc này” với “ở kia, lúc khác” để tìm kiếm cái bản thể ấy và hợp nhất với nó bằng tất cả các phương tiện có thể được: bằng Thơ, bằng Mơ, bằng Dục Tình, bằng Say (say rượu, say nàng tiên Nâu - đây chính là lý do khiến cho không ít phê bình gia đạo mạo đã coi Vũ Hoàng Chương như một điển hình của kiểu thi nhân trụy lạc).

    Không khó để nhận thấy trong thơ Vũ Hoàng Chương hai loại “vương quốc” đối lập với “chốn lưu đày” (theo tên một tập truyện của nhà văn Pháp A.Camus: Vương quốc và chốn lưu đày). Loại vương quốc thứ nhất là Cõi tiên, là Thiên giới, ở đó bản thể chân thực của ông là Người tiên, việc ông có mặt tại chốn lưu đày được hình dung như chuyện tiên nhân bị biếm trích hoặc trót dại, sảy chân.

    Bài “Tối tân hôn” trong tập “Thơ say” nói rõ điều này: “Do dự mãi, đêm nay rời xứ Mộng/ Ta chiều em, bỏ cánh lại cung Trăng/ Lén bước xuống thuyền mây chờ cửa động/ Vội vàng đi, quên giã biệt cô Hằng... Hai xác thịt lẫn vào nhau mê mải/ Chút thơ ngây còn lại cũng vừa chôn/ Khi tỉnh dậy bùn nhơ nơi hạ giới/ Đã dâng lên ngập quá nửa linh hồn”.
    Bài “Động phòng hoa chúc” cũng vậy: “Lìa cõi Mộng, giong thuyền qua bến Tục/ Đoái hoài chi, băng tuyết sẽ vùi chôn/ Em khao khát dìu anh tìm hạnh phúc/ ở men nồng chăn ấm tối tân hôn... Thôi hết nhé, thỏa đi niềm rạo rực/ Từ cung trăng rơi ngã xuống trần gian/ Ta sắp uống bùn nhơ và sự thực/ Sẽ mai đây giầy xéo giấc mơ tàn”.

    Vũ Hoàng Chương, một người cũ trong Thơ Mới, và chính vì cái cũ này mà ông đã tự khẳng định mình như một giọng thơ rất riêng trong dàn đồng ca Thơ Mới.
    Trong thơ ca phương Đông, việc thi nhân tự coi mình là đấng trích tiên chí ít cũng đã thấy ở Lý Bạch (Trung Quốc) và Tản Đà (Việt Nam), nên Vũ Hoàng Chương không phải là một biệt lệ. Nhưng điều ấy liệu đã đủ để làm nên ở ông hình hài của một người cũ trong Thơ Mới?

    Có lẽ phải tìm nó chủ yếu ở loại vương quốc thứ hai: đất nước Trung Hoa trong thời gian quá khứ miên viễn, trong bảng lảng khói sương của những điển tích văn chương đã làm nên niềm tự hào cho nền văn học đóng vai trò hạt nhân của vùng văn học chữ Hán.
    Cái bản thể đích thực của Vũ Hoàng Chương, cái đích cho sự tìm kiếm không ngưng của ông nằm ở đó. Nó không phải là một nhân hình cụ thể. Phải chăng, nó chỉ là một ý niệm, ý niệm về thời quá vãng huy hoàng của một phương Đông ngủ quên khi trên bầu trời đang vần vũ những mưa Âu gió Mỹ?

    Trong thơ Vũ Hoàng Chương, không ít bài diễn tả cái trạng thái tác giả xuất hồn xuyên thời gian trở về với “thuở trước”, với “nghìn thu”, với “vạn cổ”. Và khi ấy, lịch sử và văn chương cổ điển Trung Hoa đã trở thành nguồn thi liệu vô tận để ông múc lấy, lấp đầy cái thiếu hụt chống chếnh trong tâm cảm hiện tại của mình.
    Đây là khoảng khắc khi ông viếng mộ một tình nương: “Ta chẳng biết, nhưng mà ai biết được/ Chân dừng lại hồn trôi vào thuở trước/ Tưởng chừng nghe thánh thót lệ người xưa/ Hán Minh Phi muôn dặm đất Thuyền Vu/ Tiếc cung điện Trường An còn nức nở/ Ai vụng tính để cung đàn lỡ dở/ Ai quên lời sai hẹn lúc chia tay/ Mắt mòn trông, ải Nhạn khói mây đầy” (Bạc tình).

    Và đây, khi thi nhân cuồng nộ trong nỗi hận tình như một gã trai tuổi đôi mươi, bất kể nỗi hận tình ấy đã có quãng thời gian mười năm xoa dịu: “Men khói đêm nay sầu dựng mộ/ Bia đề tháng Sáu ghi Mười hai/ Tình ta, ta tiếc! Cuồng, ta khóc/ Tố của Hoàng, nay Tố của ai?/ Tay gõ vào bia mười ngón dập/ Mười năm theo máu hận trào rơi/ Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp/ Khúc Cổ bồn ca gõ hát chơi/ Kiều Thu hề, Tố em ơi/ Ta đương đốt lửa tơi bời Mái Tây/ Hàm ca nhịp gõ khói bay/ Hồ, xừ, xang, xế bàn tay điên cuồng” (Mười hai tháng sáu- thi phẩm có thể xếp vào hạng nhất trong thất tình thi Việt Nam tự cổ chí kim).

    Và đây nữa, khi chập chờn mộng ảo trong hương nha phiến, ông đã mở lỏng khóa linh hồn để nghe thấy một “Hơi tàn Đông á”: “Đáy cốc bao la vạn vực sầu/ Ngai vàng Mông Cổ ngự đêm nâu/ Hãy nghe bão táp trong cô tịch/ Vó ngựa dân Hồi dẫm đất Âu/ Thuyền chiến nằm mơ cuộc viễn chinh/ Buồm neo rời rạc bến u minh/ Đâu đây quằn quại trong làn khói/ Lớp lớp uy nghi Vạn Lý thành”.

    Nâng nỗi chán chường lên thành nghệ thuật

    Là một thi nhân mang nặng căn cốt phương Đông, Vũ Hoàng Chương không thể không biết đến Lý Bạch, nhà thơ lớn của thi ca Trung Hoa thời Thịnh Đường.
    Ông hâm mộ Lý Bạch, đã đành, ông còn từ huyền thoại họ Lý say rượu lao xuống sông vớt trăng: “Từ thuở chàng say ôm vũ trụ/ Thu trong bầu rượu một đêm trăng/ Nhảy xuống muôn trùng sông quạnh quẽ/ Đem theo chân hứng gửi cô Hằng” mà phác lên huyền thoại của chính mình: “Ngựa ơi, hãy nghỉ chân cuồng khấu/ Cho thỏa lòng ta nỗi khát khao/ Ta chẳng mò trăng như Lý Bạch/ Nhưng tìm thi hứng mất đêm nao/ Tình hoa thuở trước xô về đọng/ ở phiến gương vàng một tối nay/ Ta lặng buông thân trời lảo đảo/ Mơ hồ sông nước choáng men say” (Chân hứng).

    Một sự tự ví, hay phải chăng nhà thơ Việt Nam đã nhận ra ở chính mình và bậc tiền bối Trung Hoa tính đồng dạng về mẫu hình nhân cách, tính trùng lặp về tần số của nhịp tim và sự gần gũi bất chấp khoảng cách thời gian?
    Tương tự như vậy, Vũ Hoàng Chương bị ám ảnh không thôi bởi các danh tác của văn chương cổ điển Trung Hoa. Chúng như một quá vãng thân thuộc đối với ông, lại như một thế giới tồn tại song song với thế giới ông đang sống và cho phép ông xuất nhập tùy ý.

    Ta có thể “đọc” thấy dấu vết của hàng loạt danh tác văn chương Trung Hoa cổ điển trong thơ Vũ Hoàng Chương. Nhưng đậm hơn cả, phải là “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị, khúc ca lãng mạn về cuộc gặp nơi Tầm Dương giang đầu giữa một ông quan bị biếm trích và một kỹ nữ ở buổi xế chiều của nghề hát xướng.

    Vũ Hoàng Chương có ít nhất ba thi phẩm tạo được mạch liên thông với “Tỳ bà hành”, đó là “Đà giang”, “Nghe hát” và “Dựng”. Nếu ở hai bài thơ sau (có lẽ được sáng tác trong hoặc ngay sau hai cuộc đi hát.
    Trong hồi ức của nhiều người cùng thời thì Vũ Hoàng Chương hay đi hát và rất sành âm luật) “ý Tầm Dương” chỉ nảy sinh với tác giả khi đào nương cất tiếng hát “Tỳ bà hành”, thì điều đó là không cần thiết ở bài “Đà giang”. “Cắm thuyền sông lạ một đêm thơ/ Trăng thượng tuần cao sáng ngập bờ/ Đâu đó Tầm Dương sầu lắng đợi/ Nghe hồn ly phụ khóc trên tơ”.
    Không mượn tới bất cứ một sự “môi giới” nào hết, sầu Tầm Dương là mối sầu khởi phát tự trong lòng thi nhân, là sự chiêm nghiệm đến đáy của một kẻ “đồng hội đồng thuyền” với những người “bên lề” thuở trước.

    Hay nói đúng hơn, sầu Tầm Dương chính là miền tâm cảm để thi nhân nhận ra mình qua bao lớp sóng thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Vì thế mà Vũ Hoàng Chương mới có thể viết: “Cánh rượu thu gần vạn dặm khơi/ Nẻo say hư thực bóng muôn đời/ Ai đem xáo trộn sầu kim cổ/ Trăng nước Đà giang mộng Liêu trai” (Đà giang).

    Tôi muốn dùng lại một nhận định của nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy để khép lại bài viết này: “Biến cái ác (hiểu theo nghĩa triết học) thành cái đẹp, Baudelaire đã tạo nên một tác phẩm có tính chất cách mạng: Những bông hoa của cái ác. Nâng nỗi chán chường lên thành nghệ thuật, đó là đóng góp, chí ít cũng ở Việt Nam, của Vũ Hoàng Chương, tính chất “suy đồi” (hiểu theo nghĩa nổi loạn) và hiện đại của thơ ông” (Mắt thơ, bài “Vũ Hoàng Chương, đào nguyên lạc lối”, trang 148. NXB Văn hóa thông tin, 2000).

    Hoài Nam
    Đã chỉnh sửa bởi Photo; 27-10-2009, 05:53 AM.

    Similar Threads
  • #31

    Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương

    Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương
    ___
    Đặng Tiến

    Gửi chị Thục Oanh

    Xuân đã đem mong nhớ trở về

    Câu thơ Nguyễn Bính, ý thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đã ... đau lòng một chữ đã. Xuân đã. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.
    Lần này, ở đây, Xuân đã đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang.
    Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.

    Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đã tự giam thơ giam đời trong mươi chữ :

    Xuân đời chưa kịp hưởng
    Mây mùa thu đã sang ?

    Nhà thơ đã tự tình như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người còn giăng tơ tâm sự

    Xuân có sang mà hoa không tươi
    ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
    Nằm say ngõ lạnh
    Buồn nghe mưa rơi
    Tuôn châu oà bật lên cười
    Ta có là ta chăng hề Ai chớ là Ngươi
    Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
    Hoạ điệu chiều nay xác rã rời

    Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là :
    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay

    Ðã có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian ; và thơ Ðường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Ðiều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn còn xương còn thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.

    Tác phẩm đầu lòng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.

    Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
    Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
    Tình Xuân ai chở đầy khoang ấy
    Hương sắc thanh bình ngập lối quê.
    Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
    Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
    Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
    Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi

    Thơ Say gồm có nhiều phần : Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹtả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Ðã Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, vì không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như mãi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đã nhuốm màu Thiền. Bài Thoát Hình gồm 7 đoạn, một vần :

    Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
    Ðã nghe dồn cả tới đài xuân
    Ðã nghe rào rạt từng cơn gió
    Về mách tin hương với cõi trần
    Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
    Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần ...
    ... Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,
    Chưa từng hoen ố vết trầm luân
    Ðêm nay xuống một bài thơ trắng
    Cầu nguyện cho đời nở ái Ân

    Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Ðạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Ðạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.
    * * *



    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ...

    là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân.
    Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955 ; mùa xuân đầu tiên xa xứ :

    Mười năm qua, đến bây giờ
    Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thưở nào ..
    (...)
    Xuân về nhớ thưở ngát chiêm bao
    Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
    Lạc lõng vàng son màu lữ thứ
    Cành mai gượng ánh mặt hoa đào
    Mười phần xuân có gầy hao
    Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa
    Mấy phen biếc đón hồng đưa
    Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền

    Ðây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng " cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này :

    Có nghĩa gì đâu một chữ " về "
    Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
    Nếu không ngược cả mười năm ấy
    Về tận kinh đô của ước thề

    Theo Chế Lan Viên, chữ" Về " là " cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa "
    Ðây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ " về ", trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về :

    Lang thang từ độ luân hồi
    U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
    Nguyện Cầu, 1950

    Còn mấy chữ " có nghĩa gì đâu ", là phỏng theo Xuân Diệu :

    Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
    Có nghĩa gì đâu một buổi chiều

    Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu : việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một tình cảm riêng tư - phần nào đó hoang tưởng - " có nghĩa gì đâu " . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến : "Mười năm thôi nhé mộng tan tành " ... ,

    " Tình mười năm còn lại mấy tờ thư "…. Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm : ‘ýớc thề’ ở đây không phải là chị ấy.



    Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung :

    Nhớ trận Ðống Ða hề thương mùa xuân tới
    Sầu xuân vời vợi
    Xuân tứ nao nao
    Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
    Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
    Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao

    Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc " hát ngao " hơn là một anh hùng ca.
    Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng

    Chín giao thừa, tám năm dư
    Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
    (...)
    Khói đâu mờ tím căn buồng
    Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
    Cố đô lửa cháy gan nào
    Sài đô son sắt như bào, như nung

    Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Ðục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt :

    Chợ Tết mai lan cúc
    Ðắm mình trong bụi đục
    Từng phiên nép mặt hoa
    Thẹn không bằng khóm trúc
    (...)
    Liên miên khói lửa này,
    Dám đâu mơ hạnh phúc
    Lần lượt tre rồi măng
    Ðã tơi bời cốt nhục

    Ðoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận :
    Thân càng xót cho thân
    Uổng gây hình ngọc đúc

    Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột :

    Miệng héo dần theo lòng khắc khoải
    Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
    E khi chiều xế, tuyết thay tơ
    Không cả chút tình thương nắng quái
    Kẻ vô-hạn-hận không là gió
    Xuân đến trà mi đời tự bỏ
    Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
    Cùng ai gửi chút hương vò võ ?

    Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân : thiều quang ngập máu đổ quyên hồng...
    Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương :

    Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
    Người thơ giữa lúc mở bầu men,
    Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
    Ðạn rót trời cao đã nổ rền

    Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài : " loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân " (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc) :

    Lăng miếu gần kề lưng chó sói
    Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
    (...)
    Ðạn réo vang vang lửa bốn bề
    Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
    Sốt dâng mạch loạn càng u uất
    Máu chảy ruồi bâu thật não nề

    Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện :
    Mong người một nước soi gương cũ
    Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
    (Huế Cảm)

    Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi :

    Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
    Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
    Ðủ thấy điềm lành hai nửa nước
    Một nhà trong ấm với ngoài êm
    (Mở Bút ghi Ðiềm)

    Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên :

    Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi
    Ðèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
    Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
    Hỏi chúa xuân rằng : ai có ngôi ?
    (Hạnh phúc nào hơn)

    Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 120 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán :

    Kỷ Dậu hồi thanh
    Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
    Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
    Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
    Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên

    Ông tự dịch :
    Tiếng vang lịch sử
    Ðất xưa gà gáy mặt trời lên
    Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
    Hoa mở cánh chào ngang dọc núi

    Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên
    Ðặng Tiến dịch ké :
    Gà thúc bình minh sông núi xưa
    Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
    Sườn non lưng núi lời hoa mở
    Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa



    Vũ Hoàng Chương sinh năm ất Mão-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn ... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc :

    Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
    Bến nằm dư biết đục hay trong
    (...)
    Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
    Ðể ngấn vàng gieo chợt rối vòng

    Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài " Xúc Ðộng Cuối Năm " thật buồn :
    Chơi xuân đất này không cỏ non
    Thơ không vàng nữa, ấn không son
    Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt
    Một nụ cười xuân cũng chẳng còn

    Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Ðông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Ðông Hồ : câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành : " xuân du thử địa vô phương thảo ", câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa :

    Mùa vàng hoa mai hoa cúc
    Mùa son hoa phượng hoa vông
    (...)
    Mùa vàng giàu thật giàu
    Mùa son sang rất sang
    (Ðông Hồ)

    " Một nụ cười xuân cũng chẳng còn ", là nhắc tên tập thơ " Cô Gái Xuân " (1935) của Ðông Hồ.
    Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc :

    Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
    Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy
    Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
    Phá vỡ vòng sao tự giải vây
    Mách cho Lã Vọng về đây
    Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi
    Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
    Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
    Thà đợi một mùa Xuân Ðích Thực
    Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn
    (Xuân Ðối Diện)

    Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời :

    Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
    Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
    Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
    Vừa uống sông xuân một bụng đầy
    (Nhâm Tý khai bút)

    Tác giả tự dịch ra Hán Văn :
    Trường chinh mộng hậu tức phong yên
    Thiên lý long câu vạn lý thuyền
    Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
    ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên

    Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài " Xuân Quạnh " :
    Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
    Ngõ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu
    Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm
    Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm
    Ðắng cay thế vị lòng vương giả
    Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm



    Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài " Ðón Xuân Mười Chín " làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973) :

    Bấm đốt từ di cư đến nay
    Ðón xuân vừa vặn hết bàn tay,
    Sang sông Ngựa đã hai lần hí
    Vạch đất Trâu thêm một luống cày
    Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
    Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
    Bút toan chạy ngược đau lòng chữ
    Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
    Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
    Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
    Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi
    Tết đến buồn không chịu vẽ mày
    Xưa rồi lửa phóng tên bay
    Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
    Bóng ai trên đá ngồi gan
    Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
    Trời xuân chẳng én đưa thoi
    Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
    Nghé kêu đầy bến vàng hoa
    (dẫn trọn bài)

    Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm :
    Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
    Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây

    Câu thơ ngụ ý : lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Ðây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi. Ngược lại, người ta bới móc những câu thơ " chống cộng " để lên án và hạ ngục Vũ Hoàng Chương khi có cơ hội.
    Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác : bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mâysay nhắc tên hai tập thơ đầu tay ; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé.
    Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu :

    Ma là Người ... kiếp khác
    Người là Trời ... đêm nay
    Nghe chừng lửa đã tắt
    Hai bờ Con-Sông này
    ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt
    Sao lòng ai vẫn chưa hay ?
    Nằm kia, người nín bặt
    Vòng luân hồi đã ngược chiều quay
    Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
    (Tin Xuân)

    Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế : đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân.
    Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Ðoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ :

    Cỏ Bồ ôm đá ngủ
    Trong tranh từ bao giờ
    Cho đến bây giờ
    Còn say trong thơ
    Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ
    Ðèn xanh nến biếc đêm giao thừa
    Nét bút gầy theo mực úa
    Bao năm rồi tiêu sơ
    Có phải xuân đang từ đáy lụa
    Một chiều sâu không ai ngờ
    Truyền tin về giấc mơ
    ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng
    Nghe lòng trời đất ươm tơ
    Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng
    Cành đơn hoa trắng tương tư
    Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư
    Mối manh gì nữa còn ai nữa
    Ðành kết vào hương Thuý vũ từ

    Tác giả giải thích : Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa : hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai . Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết " ta đành mất hết để còn nhau " (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).

    * * *
    Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Thìn, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng vì truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đã than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn :

    Vịnh tranh Gà Lợn
    Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
    Gà lợn, om sòm rối bức tranh
    Rằng vách có tai, thơ có hoạ
    Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
    Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
    Lòng lợn âm dương một tấc thành
    Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
    Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh

    Bà Vũ Hoàng Chương ghi chú : Thơ có hoạ có ba nghĩa : thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ : thơ phản nghịch là tai hoạ ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác : thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Ðặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ : " dừng có mạch, vách có tai " ; " xanh vỏ đỏ lòng ". Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : " tranh tối tranh sáng ", " mắt xanh ", " mắt quáng gà ", " gà cùng một mẹ ", " lợn âm dương ", " con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ". " Khúc tân thanh " ngụ ý " đoạn trường " . Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ.
    Chỉ mong văn giới ghi nhận : đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, " tam sao ", được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, giam ở ngục Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.

    * * *


    Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới ; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu.
    Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quý vị nào biết xin vui lòng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.
    Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là :
    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.
    Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát.
    Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.
    Ðặng Tiến
    Đã chỉnh sửa bởi Photo; 28-10-2009, 08:40 AM.

    Comment

    • #32

      Bặt khoá buồng Xuân

      Bặt khoá buồng Xuân

      Vũ Hoàng Chương

      Miệng héo dần theo lòng khắc khoải

      Năm nay rồi sắp thành năm ngoái

      E khi chiều xế, tuyết thay tơ

      Không cả chút tình thương nắng quái


      Ôi lòng hoang đảo mộng chon von
      trắng mộng , tâm tư biết có còn
      lắng tiếng chimxanh hơi gió biếc
      như bao người đẹp tuổi đào non

      Riêng vẫn đào năm ngoái nở tươi
      hoa cuồng loạn đón gió đông cười
      giai nhân đành kiếp lan u uất
      từng lá gươm sầu nét hổ ngươi

      Kẻ vô-hạn-hận không là gió
      Xuân đến trà mi đời tự bỏ

      Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang

      Cùng ai gửi chút hương vò võ ?

      Kìa : ong bướm đã náo tường Đông
      Gió cợt hoa cười khắp núi sông
      nào thấy bóng ai ...! xuân khóa kín
      thiều quang ngập máu đỗ quyên hồng


      Tương cốt bất tương kiến -Thanh thanh mạch thượng tang....




      Comment

      • #33

        Thoát Hình

        Thoát Hình

        Vũ Hoàng Chương






        Dào dạt trong cây nhựa trắng ngần,
        Đã nghe dồn cả tới đài xuân,
        Đã nghe dào dạt từng cơn gió,
        Về mách tin hương với cõi trần,

        Vườn đây, rừng đấy, cùng xao xuyến,
        Kìa phút hồn hoa sắp hiện thân,
        Nụ đã trên cành đau đón cựa,
        Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần.

        Muôn vàn tế bào đang hủy thể,
        Vâng theo Ý lớn nhịp xoay vần,
        Phá cho thành đấy, sinh là diệt,
        Đời, quả lên từ mỗi xác nhân.

        Kià mảnh da ngà đang nứt rạn,
        Cho tròn một kiếp chẳng phân vân,
        Lòng cây mấy thủa ai người biết,
        Tùng khóc từng reo đã mấy lần.

        Nhựa ứ càng cao lòng gịục dã,
        Đất trời mong mỏi nức hương lân,
        Cánh hoa đã hé phô kiều diễm,
        Nụ thoát hình trong phút nhập thần.

        Ôi, đã then sương cài lỏng lẻo,
        Buồng thơm rạo rực ý thanh tân,
        Có ai tha thiết ngoài mây nước,
        Chờ lối Đào Nguyên tự mở dần.

        Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,
        Chưa từng hoen ố vết trầm luân,
        Đêm nay xuống một bài thơ trắng,
        Cầu nguyện cho đời, nợ ái ân.

        hotvit.blogspot.com

        Tương cốt bất tương kiến -Thanh thanh mạch thượng tang....




        Comment

        Working...
        X
        Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom