• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

MẪU THƯỢNG NGÀN

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • MẪU THƯỢNG NGÀN

    Mẫu Thượng Ngàn

    - tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh







    TT - Văn hóa Việt, bản sắc văn hóa Việt là vấn đề, là câu hỏi đã được nêu ra và được hàng trăm, nếu không nói hàng nghìn nhà nghiên cứu tìm cách lý giải từ rất lâu.

    Nguyễn Xuân Khánh là nhà tiểu thuyết, anh cũng có câu trả lời của mình không phải bằng lý lẽ uyên bác mà bằng một cuốn tiểu thuyết sinh động, Mẫu Thượng Ngàn, còn dày dặn, bề thế, phong phú hơn cả cuốn Hồ Quý Ly từng gây xôn xao của anh mấy năm trước. Và có vẻ đây có thể là câu trả lời hấp dẫn hơn cả, nếu không nói là thuyết phục hơn cả.

    Quả vậy, nếu đi tìm một nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết này, thì hẳn có thể nói nhân vật chính đó là nền văn hóa Việt, cái thực tại vừa vô cùng hiện thực, vừa rất hư ảo, bền chặt, xuyên suốt mà cũng lại biến hóa khôn lường, rất riêng và rất chung, rất bản địa mà cũng lại rất nhân loại.
    Để nắm bắt được “nhân vật” vô cùng gần gũi mà vô cùng kỳ ảo đó,
    Nguyễn Xuân Khánh cũng như tất cả các nhà tiểu thuyết thật sự đẩy nó vào những hoàn cảnh cực đoan nhất: nông thôn Bắc bộ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi dân tộc phải đối mặt mất còn với thực dân phương Tây, cái phương Tây mang đến vừa vũ khí xâm lược hiện đại, vừa nền văn minh tân tiến mà xa lạ với Thiên Chúa giáo đi cùng; khi cả đạo Phật từng bám rễ suốt nghìn năm nay đã suy tàn, khi Nho giáo chỉ còn thoi thóp...
    Bỗng bừng sống dậy một tôn giáo nảy sinh và thấm sâu âm thầm có lẽ từ thuở mới hình thành của dân tộc, đạo Mẫu rất Việt, rất phương Nam, rất dồi dào, bất tận, bất tử, như Đất, như Mẹ, như người Đàn bà.

    Không phải ngẫu nhiên mà trong cuốn tiểu thuyết này đông đúc nhất, và cũng đẹp nhất, hay nhất, đậm nhất, mê nhất là những nhân vật nữ, có cảm giác như vô số vậy, từ bà Tổ Cô bí ẩn, bà Ba Váy đa tình... cho đến cô đồng Mùi, cô mõ Hoa khốn khổ, cô trinh nữ Nhụ tinh khiết. Hàng chục, hàng chục nhân vật nữ hết sức gần gũi, hiện thực, mơn mởn, sần sùi, dào dạt, trễ tràng, trữ tình, thừa mứa, khát khao cho và nhận, nhận và cho... và đến cả bà Đà của ông Đùng huyền thoại nữa..., tất cả tràn trề sinh lực, đầm đìa phồn thực...

    Và ta bỗng hiểu ra: một nhân dân tiềm chứa trong mình sức sống ẩn sâu trong một thứ tín ngưỡng tuyệt diệu như vậy thì không bao giờ có thể chết, có thể cạn. Vĩnh cữu như Đất, như Rừng, như Mẹ, như người Đàn bà.

    Bằng cuốn tiểu thuyết này, bằng khám phá này - tôi muốn nói vậy - Nguyễn Xuân Khánh một lần nữa khiến ta kinh ngạc vì bút lực còn dồi dào đến tràn trề và say đắm của anh. Tác giả đã ngót 75 tuổi. Gừng già thật cay!

    NGUYÊN NGỌC


    Đã chỉnh sửa bởi Photo; 13-12-2009, 12:38 AM.

    Similar Threads
  • #2

    MẪU THƯỢNG NGÀN


    Mẫu Thượng Ngàn - Phần I - Chương 1 : I: NGƯỜI TRỞ VỀ





    Cô Chín ngự đồng dệt gấm thêu hoa
    Thêu non, thêu nước, cô thêu ra đôi rồng chầu
    ( Văn Cô Chín )

    Đẹp lạ đẹp lùng
    Rõ ràng cô Chín trong đền Sòng cô giá lâm
    ( Văn Cô Chín )

    Người đàn ông đã đứng tuổi, mặc bộ quần áo nâu bạc phếch, vai đeo cái đẫy cũng bằng vải nâu trên có những miếng vá bằng vải đen, đang rảo bước trên con đường đá gan gà chạy dọc theo chân một dãy đồi. Những quả đồi thấp như bát úp, cây cối rậm rịt tạo thành một khu rừng tạp xanh tốt. Có những cây cao đầu phủ dây tơ hồng như đội mớ tóc giả màu vàng nuột nà; đám tơ hồng được ánh sáng chiều chiếu vàng, chúng như những cái đầu hãnh điện rung rinh để làm duyên cho khu rừng.
    Người đàn ông dáng nôn nóng, hối hả, không giấu được vẻ háo hức, sung sướng khi ngắm cánh rừng và nhất là khi ngắm cái hồ lớn xanh ngắt nằm giữa vòng vây của núi đồi. Cái hồ xanh lục, như một tấm gương trời bao la, thu hình những ngọn đồi, những cánh rừng xung quanh, in bóng cả những cánh chim trời thỉnh thoảng lại xáo xác vỗ cánh bay vút lên từ một đám lau sậy ven hồ; chúng lượn vòng, lặng im không vỗ cánh, nương theo gió mà nghiêng nghiêng đầu, chăm chăm nhìn làn nước xanh như thể muốn tự chiêm ngưỡng cái dáng thon thả và bộ lông màu trắng duyên dáng và tinh khiết thêm cái mào đỏ rực rỡ của mình. Người dân ở đây bảo đó là loài hạc quý chẳng biết có đúng hay không.

    Một cô gái chừng mười ba tuổi, váy đen, áo nâu, vấn khăn còn vụng để tóc lõa xõa trước mặt. Cô đi sau người đàn ông, vai quẩy chiếc đòn gánh ở hai đầu là hai chiếc bị rách. Cô gái kêu lên:
    - Thầy ơi? Nghỉ lát đã, con mỏi chân lắm rồi.
    Người đàn ông tóc hoa râm dừng chân lại, hiền từ nhìn con gái. Hai cha con ngồi bệt xuống vệ cỏ, mắt nhìn ra hồ.
    - Đã về đến quê rồi hả thầy? - Cô con gái hỏi.
    - Đã hai chục năm rồi, nhưng cảnh chẳng khác xưa mấy tí. Hồ này tên là hồ Huyền vì nước sâu màu đen. Tuy thế nhưng nước trong lắm. Ở phía Tây hồ có con sông, hồ thông với sông. Sang bên kia sông, ngọn núi phía đầu dòng là núi Mẫu, trên đó có đền thiêng. Ngọn núi phía dưới dòng là núi Đùng, Ở đó có nhiều chuyện lạ.

    Người cha như hồi tưởng, cố lục tìm trong trí nhớ để kể cho con gái nghe về vùng quê cha đất tổ.
    - Thế còn làng mình...
    - Nó ở gần cửa sông, đi khỏi cánh rừng này thì đến. Các cụ già có chữ gọi nó là làng Cổ Đình. Còn dân thì vẫn gọi nó là làng Kẻ Đinh.
    - Kẻ Đinh là gì hả thầy?
    - Ông nội bảo làng này, ngày xưa, toàn con cháu họ Đinh. Có người bảo họ Đinh từ Ninh Bình ra. Thấy nơi đây đất lành chim đậu, nên dừng chân lập làng, lập ấp. Lại cũng có người nói rằng họ Đinh từ phía Hòa Bình xuôi xuống, vậy là gốc Mường. Cổ Đình nằm giữa vùng đồi núi và vùng đồng bằng.
    Cô gái ngây thơ mỉm cười:
    - Vậy, gia đình ta gốc ở đất Mường.

    Người đàn ông sờ tay lên khuôn mặt, ra chiều suy nghĩ. Lúc này, mới nhìn rõ gương mặt của ông ta. Một nửa gương mặt đẹp, một nửa xấu xí. Phía đẹp là phía trái, với con mắt rất sắc; cái mũi vừa phải, thẳng và thanh tú; gò má xương xương khắc khổ; cuối cùng là một nửa đôi môi mỏng, hơi mím lại, chứng tỏ một trí lực bén nhạy và điềm tĩnh quyết đoán. Còn nửa phía phải? Nửa gương mặt ấy ai mới nhìn đều thấy sợ. Nửa gương mặt ấy là một vết sẹo to và đỏ. Vết sẹo do bị bỏng thì phải. Vết sẹo khi lành đã co kéo làm biến dạng khuôn mặt. Nó kéo khóe môi phải nhếch lên; nó làm cho mi mắt phải không khép lại được, làm cho con mắt ấy luôn luôn mở trừng trừng, thức cũng như ngủ. Hình như người đàn ông cũng ý thức được ý nghĩa của hai nửa mặt của mình nên khi nói chuyện với con, ông luôn ngồi ở chỗ để cho cô bé, khi nhìn ông, luôn chỉ thấy phần bên trái đẹp đẽ của gương mặt mình.

    Còn cô con gái, sau khi đã đỡ mệt, cô đứng lên, chạy qua bãi cỏ rộng, ra hồ nước. Cô bé như con nai tơ mới lớn. Tuy rách rưới và có vẻ lam lũ, nhưng dáng cô bé chạy thật là yểu điệu. Đôi tay vung vẩy nhẹ nhàng, đôi chân nhún nhảy kín đáo dịu dàng. Tay trái cô đặt trước bụng giữ tấm áo, thân hình cô đung đưa thật duyên dáng.

    Đến hôm nay, người cha mới chú ý đến cái dáng vẻ của cô con gái. Cô bé đã lớn bồng lên từ lúc nào mà ông chẳng hay. Cô đã thành thiếu nữ từ bao giờ mà ông không biết. ông chợt thấy bàng hoàng trong tâm khảm:
    "Trời ơi! Sao con bé, khi chạy, lại giống mẹ nó đến thế".
    Cô gái đã chạy tới mép nước. Nước xâm xấp ngọn cỏ. Nước từ gót son của cô gái long lanh bắn tóe lên. Cô gái cười với nước. Tiếng cười lanh canh giòn như pha lê.
    "Trời ơi! Cả đến tiếng cười của nó nữa! Y hệt giọng cười của mẹ".
    Cứ như thể cô Thắm, người vợ quá cố của ông đang hiện hình về ngay trước mắt ông. Cứ như thể ông nghe thấy tiếng hát trong veo của nàng đang lượn lờ trong không trung. ông bắc tay làm loa gọi với theo:
    - Con chú ý kẻo sa xuống chỗ nước sâu.

    Người đàn ông đó tên là Phác, Hai Phác, con cụ đồ Tiết. Cụ Tiết có hai người con trai: nhớn là Chất, em là Phác.

    Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, các cuộc nổi dậy chống Pháp sau thời kỳ Cần Vương vẫn mọc lên như nấm. Ngoài những cuộc khởi nghĩa danh tiếng như Đề Thám, Đốc Ngữ còn có nhiều cuộc khác cũng tự xưng là ông Đốc, ông Đề, ông Đội, v.v... Ở vùng Cổ Đình có người học trò tên là Nghĩa cũng dấy binh phá đồn phủ, nên cũng được dân tôn xưng là ông Đề Nghĩa. Nghe nói lúc còn nhỏ, Nghĩa theo cụ đồ Tiết học chữ thánh hiền. Chất và Phác thuộc lớp em út của Nghĩa. Nghĩa đã ngoài bốn mươi, còn Chất, Phác ở dưới tuổi hai mươi. Là nhà nho lúc nào cũng canh cánh cái nhục mất nước, nên cụ đồ Tiết khi thấy anh học trò lớn dấy binh, liền trao luôn hai đứa con trai của mình đi theo Đề Nghĩa. Quân lính của Đề Nghĩa chưa đến một trăm tay súng, còn lại toàn đao kiếm cả. Họ đánh trận phục kích giặc đi tuần, đột hiện tấn công đồn, dùng chiến thuật thoắt hiện thoắt biến, thường bất ngờ đánh vào những chỗ yếu của địch. Nghĩa quân hoạt động suốt một dải rộng lớn gồm Sơn Tây, Phú Thọ, Hòa Bình, rồi có lúc vào tới cả Thanh Hóa. Cũng có một vài trận thắng giòn giã như trận đánh đồn chợ Sơn, tên quan hai khố xanh tên là Ferray bị nghĩa quân vây bức phải trốn chạy bằng thuyền, rồi phó mặc cho dòng nước sông Đà hung dữ cuốn đi, may mà thoát chết. Đánh nhau suốt ba năm ròng. Lúc đầu, nghĩa quân còn khỏe, còn hăng, lại luôn thắng trận nên phấn khởi lắm. Nhưng về sau, quân Pháp rút kinh nghiệm, không dàn quân nhỏ lẻ nữa, mà co cụm lại thành đồn lớn, sức nghĩa quân không đủ mạnh để phá. Trong khi ấy, Pháp cho ba tiểu đoàn càn quét săn đuổi. Chạy liên miên, đói khát liên miên sau đó bệnh tật sinh ra. Cuối cùng, nghĩa quân phải rút vào Thanh Hóa. Lúc khởi binh, chừng hai trăm quân; lúc bị bao vây không có lương mà ăn, chỉ còn vài chục người. Ông Đề Nghĩa biết mình khó trụ vững, liền tập hợp những nghĩa sĩ cuối cùng của mình lại và nói rằng:
    “Trời đã chẳng giúp chúng ta. Đề Nghĩa này đã hết lòng tận trung với nước, nay đã sức cùng lực kiệt.
    Một lạy này, Nghĩa xin gửi tới non sông.
    Còn một lạy này, Nghĩa xin gửi tới anh em để tỏ lòng biết ơn những người bạn đã chung lưng đấu cật, sống chết có nhau, cùng trải qua những lúc nằm gai nếm mật.

    Ta thẹn vì nỗi tài hèn nên đã để anh em lâm vào bước đường cùng. Nhưng, ta chẳng muốn để anh em cùng ta đi vào chỗ diệt vong.

    Hãy nuốt nước mắt. Hãy nuốt mối hận thù vong quốc vào tận đáy lòng. Hãy đi về nơi thôn ổ, hoặc vào chốn thâm sơn cùng cốc, rồi mai danh ẩn tích, mà đợi thời vùng dậy.

    Nếu bản thân cũng sức tàn lực kiệt, không làm gì nổi nữa, thì hãy dạy con, dạy cháu, chớ bao giờ được quên nỗi quốc sỉ này...".

    Gần một trăm nghĩa sĩ đã im phăng phắc nghe những lời nói cuối cùng của Đề Nghĩa. Họ đã vâng theo lời chủ tướng, thay hình đổi dạng, chia tay nhau mỗi người mỗi ngả. Họ đã trèo đèo lội suối vào những bản rừng xa xôi chẳng ai đặt chân tới, cũng có người lẩn vào đám dân manh lệ, những kẻ lang thang đói khát mà vào thời đại loạn ấy rất nhiều. Nhờ sự kịp thời của chủ tướng nên phần đông trốn thoát.
    Còn Đề Nghĩa, ông bị sốt rét chết trong rừng sâu. Bọn tay sai cắt đầu ông, nộp cho Tây lấy thưởng.

    Trong đám tàn quân lưu vong ấy, có mặt hai anh em Chất và Phác.

    Chất bảo em:
    - Anh là con cả, cần phải quanh quẩn gần quê, để còn có thể biết tin tức cha già và báo hiếu cho cha. Còn em là con thứ, lại là người tài hoa, lại nhân tai nạn mà biến đổi khuôn mặt. Vậy, hãy trốn chạy thật xa, thay họ đổi tên, lấy vợ đẻ con, để mai sau lỡ ra anh gặp điều chẳng may, thì còn có em để tiếp nối huyết thống dòng họ Đinh nhà ta.



    Đã chỉnh sửa bởi Photo; 13-12-2009, 12:38 AM.

    Comment

    • #3

      MẪU THƯỢNG NGÀN



      Mẫu Thượng Ngàn - Chương 2 :



      Người em đi về vùng Sơn Nam, đổi tên là Trịnh Huyền. Chữ Trịnh gần âm với chữ Đinh, chữ Huyền lấy từ cái tên hồ Huyền quê nhà.
      Huyền đi theo phường gặt, lạc về một vùng chiêm trũng, đi từ làng này sang làng khác. Làm đủ mọi nghề. Lúc thì làm thợ đá nung vôi; lúc thì làm chân gánh vã thuê; có lúc làm thợ cày, thợ gặt. Mãi vẫn chẳng tìm được chốn đậu chân lâu dài.
      Một bận, anh phiêu bạt đến làng Lê Xá. Đó là một hòn đảo xanh um, nằm bơ vơ giữa cánh đồng chiêm bao la, giữa biển nước mênh mông trắng xóa.

      * *
      *
      Trịnh Huyền đến Lê Xá vào một ngày đông. Chợt anh cảm thấy nao nao trong dạ, vì ngôi làng sao vắng lặng đến thế, sao như rầu rĩ đến thế. Chó cũng chẳng buồn sủa, khi anh là người lạ đi qua ngõ. Một chú gà trống choai, dáng rất hăng vì có mấy ả mái tơ đang bới rác dưới chân cây rơm, nó nhảy phóc lên đỉnh đống rơm, vươn cổ hình như đang định khoe tiếng, song chẳng thấy có ai chú ý, cả mấy ả gà mái mỡ màng cũng lỉnh ra gốc khế ngoài vườn. Chú gà choai đã vươn cổ ra nhưng thấy mình lạc điệu quá, nên nó lại rụt cổ về dáng ngơ ngơ ngác ngác, rồi vội vàng tụt xuống đất lủi thủi chuồn ra sau bếp.
      Không khí gì mà lạ vậy? Thấy một bà lão đang bế cháu dưới gốc tre, Huyền lễ phép hỏi:
      - Chúng cháu là người lạ nơi khác đến làng ta tìm việc. Chúng cháu đều là người khỏe mạnh tử tế. Việc gì chúng cháu cũng xin làm.
      Bà cụ già một tay bế cháu, một tay xua xua:
      - Các bác đến nơi khác mà tìm việc. Làng tôi đang có chuyện buồn.
      - Dạ xin cụ cứ cho biết rõ. Chẳng hiểu có chuyện gì? May ra chúng cháu giúp được thì sao.
      Bà cụ ngồi xuống chiếc ghế con, đặt cháu vào manh chiếu, tìm miếng trầu ở túi rồi đủng đỉnh kể:
      - Chả là làng tôi chỉ có một họ: họ Lê. Tối hôm qua bà trưởng Kiên, vợ ông trưởng họ qua đời. Ông trưởng họ là người tài hoa, đánh đàn giỏi lắm. Bạn ông Kiên là ông phó Kèn, thổi kèn đám ma hay lắm. Chẳng may ông phó Kèn chết đã gần năm nay. Thế là chẳng có ai thổi kèn đưa bà Kiên ra đồng cả. Lên làng Thượng cầu cứu thì ông phó Kèn trên ấy lại đi làm ăn xa chưa về. Mà bà trưởng Kiên xưa kia lấy ông Kiên cũng chỉ vì mê tiếng đàn của ông ấy. Bà Kiên vừa hát hay vừa đẹp gái nhất làng. Chẳng lẽ người như bà ấy mà chết đi lại chết thầm không kèn không trống. Chính vì cái nhẽ đó nên ông trưởng Kiên suốt từ sáng đến giờ cứ nằm sườn sượt bên áo quan bà vợ, chẳng thiết ăn thiết uống gì nữa. Bác tính xem thế có khổ cho cả họ, cả làng chúng tôi không. Làm thì khối chân khối tay ra đấy, nhưng bảo thổi kèn thì ai ai cũng chịu.
      Mặt Trịnh Huyền tươi tỉnh hẳn lên:
      - Thưa cụ, tưởng chuyện gì chứ chuyện ấy thì cháu làm được.
      - Thế ra anh biết thổi kèn? Quý hóa quá!
      Bà cụ vội bế đứa bé lên, cầm lấy tay Huyền dắt đi:
      - Anh đi ngay với tôi đến nhà ông trưởng Kiên. Tôi là chị gái ông ấy đấy. Còn con bé này là cháu ngoại ông Kiên...
      Bà cụ gọi tướng lên từ cái ngõ tre:
      - Ông Kiên ơi? Thôi dậy đi? Có người giúp được rồi.
      Chiếc quan tài kê ở gian giữa căn nhà gỗ. Một ông già râu bạc nằm thượt ở chiếc phản kê ở gian bên cạnh, tay vắt lên trán. Một cô gái và một cậu con trai ngồi xệp xuống đất cạnh chiếc quan tài, tay ôm mặt, ti tỉ khóc:
      - Bu ơi là bu ơi!
      Bà cụ bảo:
      - Thôi, đừng khóc nữa. Có thợ thổi kèn đây rồi.
      Ông già Kiên ngồi dậy ra tiếp khách. Ông cụ mời Huyền ngồi lên phản, nhìn anh từ đầu đến chân, ra chiều còn nghi ngờ. Ông hỏi:
      - Bác là người vùng nào? Tôi nghe giọng bác không phải người Sơn Nam.
      - Dạ, cháu là người xứ Đoài, gia cảnh nghèo túng nên đi lưu lạc kiếm ăn.
      Trịnh Huyền nhìn cây đàn nguyệt treo trên vách, rồi lại nhìn vào đôi mắt còn như bán tín bán nghi của ông già. Anh thành thật nói:
      - Cháu vốn không phải là người chuyên thổi kèn, nhưng hồi nhỏ vốn tính ham chơi mọi thứ nên đã có lúc đi theo các cụ hội hiếu. Cụ trùm hội bảo cháu hơi dài nên dạy thổi kèn. Nhưng thú thực với cụ là đã lâu lắm rồi cháu không thổi... chắc thổi sẽ còn loạc choạc lắm.
      Cụ trưởng Kiên ngẫm nghĩ một lát rồi hỏi:
      - Anh còn nhớ điệu Lâm Khốc chứ?
      - Dạ cháu còn nhớ.
      - Thế Lưu Thủy, Hành Vân?
      - Dạ thưa cụ đám hiếu sao cụ lại nói đến Lưu Thủy, Hành Vân?
      - Là thế này, bà lão nhà tôi hơn tôi hai tuổi. Tôi sáu mươi chín, tức là bà ấy bảy mươi mốt. Thất thập cổ lai hy. Thế là thượng thọ rồi. Chết thế, con cháu ngoài việc thương xót tiễn đưa, còn thêm việc chúc thọ bà ấy.
      - Dạ, cụ có nói, cháu mới rõ.
      - Bây giờ, anh thử hát tôi nghe qua một đoạn Lâm Khốc. Hát bằng lời cũng được.
      Trịnh Huyền hắng giọng, rồi cất tiếng:
      Thương ôi! Hồn ở nơi nao?
      Để cho con cháu kêu gào xót thương
      Cụ trưởng Kiên gật gù, vào trong buồng lấy ra chiếc kèn.
      - Kèn này là của ông bạn cố tri của tôi: cụ phó Kèn. Anh thử thổi lên mấy tiếng xem sao.
      Trịnh Huyền mới đầu thổi còn lúng túng, ngắc ngứ, nhưng chỉ một lát sau ngón tay trên lỗ kèn của anh đã thuần thục. Cụ trưởng Kiên gật đầu tỏ vẻ bằng lòng:
      - Bây giờ thì tôi yên tâm rồi. Chắc bỏ đã lâu, thế mà phút chốc đã lấy được thần thái của tiếng kèn. Bà nó ơi! Bà ra đi tôi đứt từng khúc ruột. Ngày xưa, lúc sinh thời, đi đưa đám ma, bao giờ bà cũng thưởng hậu cho anh thợ kèn những bài khóc chị... khóc em nếu họ thổi kèn khóc thật hay. Bà bỏ tôi ra đi, bỏ con cháu ra đi, thế mà ông phó kèn, bạn cố tri của tôi đã khuất núi rồi. Tôi cứ tự hỏi mình: Ai sẽ thổi kèn để rước hồn bà lên trời. Tôi cứ thấy như mình có lỗi với bà. Nay, như có trời xui đất khiến, anh thợ kèn trẻ tuổi này sẽ thay tôi để khóc để tiễn bà. Than ôi!
      Chốc đà mấy chục năm trời
      Mà nay đã khuất bóng người ngày xưa.

      Nói xong những lời thống thiết, ông già ôm mặt khóc nức nở như một đứa trẻ thơ. Chưa bao giờ Trịnh Huyền trông thấy một người đàn ông lớn tuổi lại khóc thảm thiết đến như vậy. Nước mắt lã chã làm ướt cả chòm râu bạc lơ thơ. Cô con gái và anh con trai của ông cụ sụp quỳ xuống đất lạy chiếc áo quan. Hàng xóm láng giềng không biết đã tụ tập đến tự lúc nào đông nghìn nghịt, người nào cũng khăn trắng trên đầu. Thì ra bây giờ mới là lễ phát tang. Một ông cụ rất già đầu tóc bạc phơ dóng lên hồi phèng la - tiếng chiêng đồng rè rè của thứ chiêng đặc trưng đám ma. Tiếng của nó rè rè, khàn khàn, chẳng một chút trong trẻo lánh lót. Ba tiếng phèng la cuối cùng vừa dứt, tiếng kèn của Trịnh Huyền cất tiếp theo ngay. Nó nức nở, nó kêu than, nó vật vã cũng giống như tiếng khóc của đám con cháu họ Lê đang quỳ rạp cả xuống.

      Đám ma của người đồng chiêm sao mà thảm thiết. Người đồng cạn chết đi thân vùi sâu ba thước đất. Còn người đồng chiêm chết đi, thân đã vùi dưới đất, lại còn vùi thêm dưới nước. Trên đồng cạn, ta nhìn còn thấy lô xô những nấm mồ hoang lạnh. Còn ở đồng chiêm, nhìn ra cánh đồng mùa lũ, chỉ thấy nước trắng phẳng lì.

      Có ai đã nhìn thấy một đám ma trên cánh đồng chiêm vào mùa mưa tầm tã chưa? Có ai đã trông thấy một đoàn thuyền thúng chở đầy ắp những người khăn trắng như cò, nối đuôi nhau bơi đi trên cánh đồng mênh mông trắng xóa chưa? Có ai đã mục kích những con người sống ngâm da chết ngâm xương, khóc than rầu rĩ, tiễn đưa nhau đến chỗ thiên thu cách biệt chưa?
      Ông già râu tóc bạc phơ đứng trên chiếc thuyền nan bị sóng dập dềnh, lúc ông nhô lên cao lúc ông hạ xuống thấp, nhưng ông đứng vẫn rất vững, đánh phèng phèng vẫn chững chạc. Tiếng rè rè của chiếc phèng la kéo dài trên mặt sóng, tưởng như ngân nga không bao giờ dứt. Tiếng trống bùng binh hòa vào tiếng khóc được gió lan truyền đi rất xa. Khúc kèn lâm khốc của Trịnh Huyền lúc này đã hoàn toàn thuần thục. Thỉnh thoảng, Huyền ngừng kèn để tiếng khóc, tiếng trống bùng binh, tiếng phèng la hòa vào nhau than thở kiếp nhân sinh. Rồi, trong cái nền đều đều ấy, đột nhiên tiếng kèn của Huyền lại ré lên. Nó là tiếng nức nở xé lòng, nó là tiếng đứt ruột của ông già đưa tiễn một nửa đời mình, một nửa cõi lòng mình, một nửa hồn mình, trở về cõi âm dương cách biệt.

      Đã đến vùng huyệt mộ. Những người đi đào đánh dấu bằng cách cắm vào đấy một cây nứa trên đầu thắt một dải khăn xô. Huyệt mộ nằm ẩn ngầm chìm sâu dưới nước, chẳng ai nhìn thấy, nhưng những người phu huyệt thì hình như nhìn thấy nó rõ mồn một qua làn nước đỏ phù sa. Họ ra hiệu, hò hét:
      - Cho thuyền áo quan tiến lên cạnh huyệt. Đấy, thế đấy! Đầu thuyền nhích sang bên trái một tí. Được rồi!
      Cũng như ở đồng cạn, huyệt phải đào đủ sâu ba thước đất. Cái khác là người ta phải chuẩn bị sẵn những hòn đá tảng đủ nặng để dìm chiếc quan tài gỗ đỏ chót cứ chỉ chực nổi phềnh lên mặt nước. Sáu chàng trai lực lưỡng nhảy tùm xuống nước, chất đá lên áo quan, làm cho chiếc quan tài đỏ từ từ chìm vào lòng nước. Tiếng đàn bà, trẻ con khóc thét lên tru tréo: "Ối mẹ ơi!", "Ới em ơi!". Trịnh Huyền phồng mồm đỏ mặt thổi khúc tiễn biệt cho thật lâm ly. Những bà cụ già rắc vàng đỏ ra khắp chung quanh. Những thoi vàng giấy dập dềnh theo sóng rồi được gió đưa đi khắp mặt nước.
      Một đằng đá đè, một đằng những chàng trai lại đùng sức vít xuống. Mới đầu còn nhìn thấy cái bóng hồng hồng của chiếc quan tài. Sau đó nó chìm nghỉm mất tăm dưới nước.
      - Được rồi? Mấy cậu đứng lên để vít nó chìm xuống đáy.

      Mấy ông già nhưng bắp thịt còn săn cũng nhảy xuống, rồi lặn chìm dưới nước để kiểm tra cho thật kỹ lưỡng. Khi ông già đánh phèng phèng ngoi lên mặt nước và ra lệnh:
      "Tốt! Cho lấp đất!".
      Đám trai tráng được lệnh, liền lặn xuống lấy đất lấp áo quan. Những người dân quê lặn ngụp hàng tiếng mới đắp xong ngôi mộ chìm cho đủ độ cao và đẹp. Ông già đánh phèng phèng lại lặn xuống lần cuối cùng để kiểm tra cho thật yên tâm.
      Ông trưởng Kiên quỳ rạp, mặt úp xuống ván thuyền để tiễn đưa vong hồn người vợ đi vào cõi mênh mang, để hẹn hò sẽ gặp lại một cái gì đó rất siêu linh mà không biết ông có còn gặp lại hay không. Đồng thời, ông cũng kính cẩn vái tạ bốn phương, vái tạ bà con đã tiễn đưa vong linh của người đàn bà yêu quý nhất đời ông. Trống đưa tang bùng binh dồn dập. Phèng la đóng một hồi. Tiếng kèn của Trịnh Huyền lại nức nở, nức nở. Tiếng khóc của những người thân lại cất lên lần chót, tiếng khóc thảm thiết mênh mang lan trên cánh đồng nước nổi. Tiếng khóc dập dềnh tỏa đi theo những con sóng, con gió, để biến vào cõi hư vô.
      * *

      *
      Ông trưởng Kiên, sau khi chôn vợ, nằm liền mấy ngày không dậy nổi. Còn Trịnh Huyền, sau cuộc thổi kèn bất đắc dĩ ấy, thấy thương ông già đầy nghĩa tình với vợ. Trịnh Huyền, trong cuộc đời lang bạt, có học được chút ít nghề thuốc. Vả lại người con gái và người con trai của ông cụ lóng ngóng lắm, không biết cách chăm sóc người ốm, nên Trịnh Huyền đành phải ở lại ít hôm thuốc thang cho ông cụ.
      Hai người con lóng ngóng là phải vì họ còn rất trẻ. Anh con trai chừng mười ba, mười bốn. Cô con gái chừng mười tám, lại có một đứa con măng sữa. Họ chưa đủ cứng cáp để đối mặt với nỗi đau buồn to lớn. Ông trưởng Kiên là loại người cứng rắn. Nhưng bên ngoài càng cứng rắn bao nhiêu, thì bên trong người ta càng dễ yếu mềm bấy nhiêu. Loại người ấy, khi gặp nghịch cảnh to lớn, có thể sụp đổ. Và, nếu ông già, vì quá đau buồn, mà ra đi lúc này thì hai người con kia sẽ ra sao.
      Ông già Kiên hình như đọc được những ý ấy trong mắt Huyền. Ông nằm dài trên giường và cứ nắm lấy tay anh. Hình như ông cố níu lấy sự sống. Hình như ông muốn nói: "Xin anh đừng bỏ tôi, và ra đi lúc này".
      Trịnh Huyền cảm nhận được điều ông già muốn nói nhưng lại không dám nói. Có thể, tiếng kèn tang của anh đã làm cho ông trưởng Kiên hiểu được chút gì về tâm hồn anh chăng. Ở đây, không khí lúc này là tang tóc; còn anh, Trịnh Huyền, anh là sự sống. Một con người nặng tình như ông già này, nhạy cảm như ông già này, nếu để mặc ông một mình trong bầu không khí tang tóc, có thể ông sẽ buông tay, sẽ ngả về miền bóng tối. Ông già đang cần được kéo ngược trở lại về miền sống. Có lẽ sự có mặt của anh, lúc này, đối với ông, là cần thiết. Trong anh, bỗng dâng lên niềm thương cảm. Trịnh Huyền liền vỗ nhè nhẹ lên bàn tay nhăn nheo của ông già:
      - Bác cứ yên tâm, cháu sẽ ở lại. Rồi bác sẽ khỏi thôi.

      Từ hôm ấy, Trịnh Huyền tự tay đi hái lá, sắc thuốc chữa cho ông già. Cũng phải mất đến nửa tháng cụ trưởng Kiên mới hồi lại được. Cụ đã húp được bát cháo, đã ăn được lưng cơm nóng sốt. Ông đã lần ra được sân cho gà ăn, và có lúc ra vườn hái quả cà, quả ớt.
      Ông già được Trịnh Huyền săn sóc, được nhìn thấy bóng anh đi lại trong nhà; tiếp xúc mãi dần dần bón quen, ông già cứ tưởng anh như người thân. Trịnh Huyền định tạ từ ra đi, song cụ Kiên cố giữ anh lại. Hình như cụ muốn thổ lộ với anh điều gì. Hôm bốn chín ngày, cụ Kiên sai con gái làm mâm cơm cúng vợ. Rất trang trọng, cụ mặc chiếc áo the cũ, đội khăn xếp chỉnh tề, lấy cây đàn nguyệt treo trên vách xuống, đến trước bàn thờ vong bà Kiên kính cẩn nâng cây đàn lên ngang mày khấu đầu lễ. Hai người con ngồi sau lưng ông cũng làm theo. Lúc này ông già so dây và gảy lên khúc nguyệt cầm thánh thót:
      Thỉnh mời công chúa Thiên Thai
      Giáng sinh hạ giới quyền oai thượng ngàn..
      ….

      Thì ra, cụ trưởng Kiên là một nghệ nhân chầu văn. Ông nức danh khắp vùng Sơn Nam thượng, hạ. Bà trưởng Kiên cũng là một nữ nghệ nhân. ông bà lấy nhau vì tình mà cũng vì tài. Đến lúc ấy, Trình Huyền mới hiểu được, tại sao khi bà Kiên lâm chung, thiếu tiếng kèn tiễn đưa, ông lão lại chẳng nói chẳng rằng, nằm thẳng cẳng vắt tay lên trán, không chịu phát tang. Cái giống tài tình nó như thế đấy. Chữ tình với ông nặng tựa ngàn cân. Đối với ông, tiếng kèn ai oán, khúc lâm khốc bi thương của Trịnh Huyền là một ân nghĩa. Ông dắt tay chàng trai đến gần bàn thờ vợ, thắp ba nén hương, cứ như thể ông muốn giới thiệu chàng trai với bà vợ. Vẻ mặt ông thật nghiêm cẩn, cái phong độ đánh đàn của ông cũng thật chững chạc vừa thân tình, vừa kính lại vừa thương. Nào ai biết ông nghĩ gì lúc này. Ông đang tâm sự với vong linh bà, hay đang muốn nói điều gì với Trịnh Huyền, hay đó là khúc giao tình giữa những kẻ tri âm. Chắc đêm qua ông đã mơ thấy bà hiện về trong giấc mơ. Cũng có thể là ông đang hồi tưởng lại một kỷ niệm xưa nào đó khi ông bà còn trẻ, lúc ông bà vai đeo túi xách, tay cắp níp đàn. Họ rong ruổi nơi rừng xanh núi đỏ. Rồi tiếng đàn của ông, tiếng hát của bà quyện vào nhau ở những chốn cheo leo nơi chỉ có hùm beo và mây và nước.

      Canh khuya nguyệt lặn sao tàn
      Chiếc thuyền bán nguyệt khoan khoan chèo vào
      Gập ghềnh suối thác đèo cao.

      Bà nó ơi! Có còn nhớ không? Có còn nhớ tiếng hát của bà đã làm mê hồn cả bốn phương thiên hạ. Chắc cô Chín đền Sòng, cô Ba Đồng Mỏ khó tính khó chiều đến thế cũng phải hài lòng với giọng hát của bà.

      Da ngà mắt phượng long lanh
      Hà huê tươi tốt, tóc xanh rườm rà
      Nhụy hồng tuyệt điểm màu da.

      Ông già đang hát giọng cờn, một điệu hát văn trữ tình, say đắm, đắc ý nhất của ông. Bà lão của ông rất hiếm khi ngồi đồng, tuy nhiên trăm năm cũng có một lần, mà lần nào bà bắc ghế hầu thánh cũng lẫm liệt, oai phong lắm. Hôm ấy, thể nào người đến dự cũng đông nghìn nghịt. Cứ nhớ mãi, khi ông cất lên giọng hát, thì cả tòa điện thờ chợt như có thần hiện, tất cả chợt như lung linh tỏa sáng. Những ngọn nến cứ cố dướn lên để ngọn lửa to hơn, sáng hơn. Khói hương đã mờ ảo hình như càng mờ ảo thêm. Gần cũng chả nhìn rõ mặt nhau, chỉ thấy mờ mờ nhân ảnh. Không gian như say như đắm trong tiếng nhạc dồn dập, trong tiếng bập bùng, bập bùng rất có duyên của tiếng trống cơm. Bà chúa Thiên Thai mặc váy lụa bạch, áo dài lụa bạch, gấu váy, gấu áo cài hoa. Hai tay bà cầm dải lụa xanh. Dải lụa lúc như con rắn, lúc như làn khói bay lượn trong không gian huyền ảo. Đôi mắt phượng long lanh, những ngón tay bà vừa dẻo vừa mềm như những ngón tay búp măng của Phật, lúc lượn dưới cắm, lúc xòe ra như bông sen trước mặt.
      Ôi? Bà chúa Thiên Thai! Bây giờ người đi đâu, người đang ở chốn nào?
      Ông trưởng Kiên bỗng dưng ngừng tiếng đàn. Ông ngồi lặng đi trước vong linh người vợ, mãi hồi lâu mới lẩm bẩm:
      "Hôm nay, tôi đã thành tâm làm trọn ý nguyện với bà rồi đấy".
      Từ lãng đãng siêu linh, ông đã quay về cõi thực. Từ chốn mung lung huyền ảo, ông đã thức dậy giữa chốn nhân gian. Từ chỗ xuất thần mộng mị, ông đã dần dần nhìn rõ cảnh vật chung quanh. Ông kính cẩn cầm chiếc đàn lạy ba lạy rồi dựng nó lên bàn thờ vợ.
      Lúc ấy, đã xong nghi lễ, ông trưởng Kiên dắt tay Trịnh Huyền ra ngồi ở thềm nhà. ông nói:
      - Cháu hãy nghe bác nói. Lời nói tự đáy lòng. Chỉ mới gặp nhau, mà bác cảm thấy như đã quen cháu từ lâu lắm rồi, từ kiếp nảo kiếp nào chẳng biết. Mới sơ kiến, đã thấy ân tình, cứ ngỡ như gặp được người tri kỷ vong niên. Âu cũng là duyên trời. Bác biết cháu là kẻ lênh đênh, nhưng biết đâu đấy, ngôi nhà của bác sẽ lại chẳng là nơi bến đậu. Khi nghe tiếng kèn của cháu, bác đã chợt nhận ngay ra con người này sẽ là kẻ truyền nhân của ta. Bác chưa nhận ai làm học trò bao giờ, nhưng từ nay bác sẽ truyền nghề đàn cho cháu. Vậy, cháu có bằng lòng hay không?
      Không nói một lời, Trịnh Huyền cung kính bái lạy ông già Cụ trưởng Kiên vẫn tiếp lời bằng cái giọng run run. Có lẽ là những lời khó nói:
      - Nếu chẳng có gì trở ngại, thì đấy, bác chỉ có một mụn con gái. Nó giống bà lão của ta lắm. Song, hồng nhan bạc mệnh... Cái Thắm, nó đã có một đứa con. Nếu cháu chẳng chê, thì hãy nhận đứa bé làm con. Nếu được như vậy, chắc ở dưới suối vàng, bà lão nhà ta sẽ vô cùng thỏa nguyện.

      Câu chuyện tình của anh thổi kèn đám ma là như vậy đó. Ông trưởng Kiên quả có con mắt tinh đời. Ông đã chọn được rể hiền. Và hơn thế nữa, Trịnh Huyền lại còn trở thành người nghệ nhân tài hoa nhất trong nghề đàn nguyệt, trong nghề hát văn. Một khi Trịnh Huyền đã nhận ôm đàn, thì cuộc hầu bóng ngày hôm đó sẽ hoàn toàn khác hẳn. Bây giờ, có thể nói, tài đàn của Trịnh Huyền còn có phần nhỉnh hơn cả cụ trưởng Kiên tí chút. Yên tâm rồi, cụ Kiên không cầm đàn nữa, cụ chuyển sang đánh trống. Giọng hát của cô Thắm, vợ Trịnh Huyền là thứ giọng hớp hồn người nghe. Khi giọng cô cất lên, đèn nến như lung linh thêm, khăn chầu áo ngự của cô đồng cũng như được dát thêm ánh vàng, ánh bạc. Và tiếng đàn tài tử của Trịnh Huyền, thì như kẻ phụ trợ, biết cầm tay dắt giọng của vợ lên, nâng cánh cho tiếng oanh vàng có chốn nương tựa, khiến cho nó đã bay cao rồi còn bay cao thêm lên đỉnh chót vót. Tiếng đàn, tiếng hát của đôi vợ chồng Trịnh Huyền chẳng mấy chốc đã nổi tiếng khắp vùng.
      Có điều đặc biệt: đứa con của Thắm, bé Nhụ, rất quấn quýt Trịnh Huyền. Hôm hai vợ chồng làm lễ bái gia tiên, bé Nhụ hỏi: "Ai đây hở mẹ?". Người mẹ bảo: "Cha con đấy. Cha con đi làm ăn xa, bây giờ mới về với con". Đứa bé mừng rỡ: "Từ rày cha đừng đi xa nữa nhé. Con thích cha luôn ở với con". Chuyện này làm Trịnh Huyền sung sướng. Anh càng ngày càng gắn bó với hai mẹ con Thắm.

      Chỉ riêng có một điều làm Huyền không vui. Đó là, mỗi khi Thắm nhìn thấy nửa khuôn mặt bên phải, khuôn mặt có vết sẹo quái quỷ làm con mắt phải cứ mở trừng trừng, là Thắm lại rùng mình. Ngay cả khi vợ chồng ân ái với nhau, Thắm nhìn thấy cái phía quái quỷ ấy trên gương mặt Huyền, lập tức cô như người mất hồn, nhắm mắt lại, nằm trơ ra như cây gỗ. Hỏi thì cô trả lời "em sợ". Huyền phải giải thích:
      « Vết sẹo ấy là hậu quả của một trận đánh, ông Đề Nghĩa bị vây hãm trong một căn nhà cháy. Huyền phải xông vào nhà lửa cứu ông ra. Chủ tướng thoát chết, nhưng nửa mặt bên phải của Huyền thì bị hủy hoại ».
      Thắm thở dài trả lời chồng:
      - Việc làm của mình là trung nghĩa, song em vẫn không tài nào xua đi được nỗi sợ.
      Câu nói của Thắm gây một mặc cảm cho Huyền. Từ đó, anh luôn phải giữ ý. Trước mặt vợ, anh luôn phải tìm một góc đứng sao cho cô chỉ nhìn thấy nửa mặt bên trái của anh. Cả những lúc thương yêu nhau, anh cũng không bao giờ quên điều đó. Anh luôn luôn gục đầu vào vai trái của nàng, có như thế mới che được phía mặt phải gớm ghiếc, và mới để lộ ra khuôn mặt trái khả ái của mình.

      Ở cùng gia đình cụ trưởng Kiên, Huyền chẳng phàn nàn điều gì, ngoại trừ cái điểm bất tiện nho nhỏ ấy thôi.
      Khi Thắm có mang, khi cái bụng cô đã lùm lùm rõ rệt, thì cụ trưởng Kiên lâm bệnh. Ông cụ, trước lúc sang thế giới bên kia, nắm tay con rể, thều thào:
      - Thầy đã mãn nguyện rồi. Cái Thắm sắp sinh cháu, thằng Kiến đã lấy vợ. Thầy nhắm mắt xuôi tay được rồi.
      Ông cụ tưởng rằng, gia đình đã đến hồi mát mặt, chẳng còn tai họa gì nữa. Ai ngờ lúc Thắm sinh con lại gặp trường hợp đẻ khó. Cả hai mẹ con Thắm đều chết lúc chị lâm bồn. Trịnh Huyền rớt nước mắt than rằng:
      - Kiếp nhân sinh là thế này ư?
      Trịnh Huyền nghĩ bụng:
      « Có lẽ nguyên nhân là do vợ anh sinh ra vào kiếp cầm ca. Vì vậy Huyền chôn theo cây đàn cùng với vợ và thề rằng từ nay sẽ không bao giờ đàn hát nữa ».

      Buồn bã, chán nản, anh thu xếp công việc cho Kiến, em vợ, rồi dắt con gái trở về nơi quê cha đất tổ. Anh thở dài nhìn cô bé Nhụ đang hớn hở chạy ở mép nước hồ Huyền. Anh nhắm mắt nhắc lại cái ý nghĩ thầm kín, cái ý nghĩ vừa làm anh vui, lại vừa lo lắng. Anh kêu lên:
      - Ôi chao! Sao con bé lại giống mẹ nó thế. Chẳng biết... sau này đời nó ra sao.




      Đã chỉnh sửa bởi Photo; 13-12-2009, 12:37 AM.

      Comment

      • #4

        MẪU THƯỢNG NGÀN



        Mẫu Thượng Ngàn - Chương 3 :



        Trời về chiều. Cụ Nho Tiết, tóc bạc phơ như một ông tiên, đang ngồi nhâm nhi chén rượu bên thềm nhà. Trước mặt là chiếc mâm gỗ mộc, trên bày một đĩa tép kho, rồi rau, cà, tương và mấy quả ớt chỉ thiên đỏ chót. Đối diện với cụ là một cậu bé trạc mười bốn tuổi. Nó cởi trần, chỉ mặc độc một chiếc quần lửng. Làn da nâu được ánh chiều hắt vào làm bóng lên. Mỗi miếng thằng bé nhai một quả cà, ăn rất nhanh, chỉ một loáng đã xong bát cơm. Cụ Tiết cười, bảo:
        - Ông đã dạy cháu bao nhiêu lần rồi, ăn phải có nhai. Từ tốn thôi con ạ.
        Nói đoạn, cụ cầm quả ớt đỏ đưa lên miệng, cắn một chút xíu. Ông cụ để cho vị ớt cay xè hăng hăng thấm vào khắp miệng, lan tỏa tới cổ họng; lúc ấy cụ mới nâng chén rượu lên, tợp một hớp nhỏ, để cho vị nồng thơm của nó quyện vào vị ớt, làm cháy bỏng cả tâm hồn, làm tê tái cả đầu lưỡi. Lúc đó, cụ mới chấm đầu đũa vào bát tương, đưa lên miệng mút nhẹ, rồi ngồi trầm ngâm hưởng sự lan tỏa của cái mặn cái cay nồng, cái thơm thoảng đang trộn vào nhau. Khi này, trong mồm cụ, lại là sự ngây ngất dịu dàng, sự giải tỏa cái hăng nồng để đi tới sự hài hòa êm ả, bình lặng của vị giác.
        Cụ Nho Tiết vẫn thích uống rượu một mình như thế, thích hưởng thụ sự hòa trộn các mùi vị như thế. Người ta vẫn hỏi về cái ngon của nó ra sao, nhưng cụ chỉ cười không giải thích nổi, hay là cụ không muốn giải thích cho ai. Song chắc chắn đó là cái thú rất riêng của cụ, cái bí mật rất riêng mà cụ khư khư giữ lấy, mà người đời chỉ còn biết lắc đầu, và cho rằng đó chỉ là cách uống rượu gàn dở. Có những bữa cỗ thịt cá ê hề, người ta mời cụ vẫn đến ăn uống. Ai hỏi: "Có ngon không?", cụ cũng đáp rằng: "Ngon!". Có lẽ chỉ vì cụ trân trọng tấm thịnh tình, sự ân cần quý hóa của nhà chủ. Cụ không bình phẩm cái sự ăn uống, nhưng trong thâm tâm, cụ vẫn thích cách uống rượu của mình hơn. Nhà cửa của cha ông để lại cũng khá đàng hoàng. Nhà ngói cây mít hẳn hoi, nhưng thực ra từ khi ở tù về, sự ăn tiêu của cụ không được du dư cho lắm. Vả lại, cụ là người tiết kiệm, nhưng có thể sự đạm bạc đã giúp cụ tìm ra được cái hoan lạc trong những phẩm vật giản dị mà trời chỉ riêng ban cho cụ được biết.
        Tợp hớp rượu xong, cụ ngồi lắng nghe tiếng xào xạc, cót két của rặng tre, cùng với tiếng ríu rít của bầy cò đang bay về đậu trên những ngọn cây nhãn ngoài vườn, rồi cả tiếng rúc rích của đàn chim sẻ trú ngụ trên tán cây mít um tùm trước sân.
        Trời bắt đầu chạng vạng. Cu Điều đã ăn xong bữa từ lâu. Nó ra rút rơm cho lũ bò vàng ăn tối. Chỉ còn mình ông cụ vẫn ngồi bên chiếc mâm gỗ. Chợt con chó Vá bỗng sủa nhặng lên ngoài ngõ. Ông cụ Tiết cất tiếng:
        - Ơ! Cu Điều! Ra xem có ai.
        Thằng Điều dạ thật to rồi chạy ra mở cổng. Một người đàn ông và một cô gái trạc tuổi nó đứng sừng sững hỏi:
        - Cháu ơi! Đây có phải là nhà cụ Tiết.
        - Vâng ạ?
        - Cho bố con tôi xin được gặp cụ đồ.
        Thằng Điều lấm lét nhìn cái nửa khuôn mặt kỳ dị của ông khách, rồi ngập ngừng hỏi:
        - Ông là ai ạ?
        - Bố con tôi từ xa về.
        Điều còn đang lưỡng lự thì ông khách đã xăm xâm bước vào sân. Con chó Vá chồm lên sủa, ông khách phải ngồi sụp xuống vớ hòn đất. Điều cầm cái roi tre quát tháo ồn ĩ, con chó vẫn không chịu lùi. Chỉ đến lúc cụ Tiết lên tiếng:
        "Vá! Vá! Khách đấy! Vào đi!",
        lúc ấy con Vá mới chịu lủi xuống bếp.
        Trong nhập nhoạng, Trịnh Huyền bỗng nhìn thấy mớ tóc trắng như cước của ông già đang ngồi uống rượu bên thềm nhà, anh chợt thấy thương cảm và lúng túng. Bỗng như một đứa trẻ, Huyền khoanh tay trước ngực, cúi gập người xuống lễ phép run run nói:
        - Con lạy thầy ạ.
        - Hả?
        - Thưa, con lạy thầy ạ.
        - Thầy nào? Ông là ai?
        - Thưa, con là Trịnh Huyền.
        - Huyền nào?
        - À à… Huyền tức là thằng Phác ngày xưa, con của thầy.
        - Hả?
        Ông già tóc trắng chợt đứng bật dậy, run run tìm chiếc kính đeo lên mắt. ông cụ lại gần người khách lạ, đi quanh người anh, nhìn sát mặt anh, ngắm phía mặt kỳ quái bên phải, chơm chớp mắt, rồi ngắm nửa mặt trái ngẫm nghĩ. Cuối cùng, ông vạch hẳn tóc anh lên nhìn cái tai bên trái, nhìn cho thật kỹ rồi bỗng kêu lên:
        - Đúng là thằng Phác thật rồi! Đúng là con ta thật rồi. Nhưng sao mặt mũi lại thế này. Ừ... thầy hiểu, thầy hiểu... Con đã trải bao cực khổ… Nhưng sao có sẹo lớn ở mặt thế này? Phác ơi! Ngần ấy năm con lưu lạc phương trời nào? Hai chục năm rồi còn gì. Ta còn cố gắng sống đến hôm nay là vì con đó. Thầy đợi con đến bạc hết tóc...

        Người con trai quỳ sụp xuống, ôm lấy chân người cha. Anh khóc rưng rức như một đứa trẻ. Trong khi đó, đứa con trai, đứa con gái, Điều và Nhụ cứ đứng lặng, chôn chân như chết đứng. Ông già tóc trắng dần dần trở lại bình tĩnh. Ông cụ Nho Tiết còn sờ thêm một lần nữa vào cái tai bên trái bị rách của Trịnh Huyền, kết quả của trò nghịch ngợm thời trai trẻ của Phác, như để xác nhận lần chót rằng người này đúng là đứa con lưu lạc của mình, đứa con tưởng đã chết nơi đất khách nay bỗng hiển hiện bằng xương bằng thịt trước mắt ông. Cụ Nho Tiết vẫn đeo cặp kính lúc này mới quay sang nhìn cô bé. Cô lễ phép khoanh tay cúi đầu:
        - Cháu lạy ông ạ.
        - Cháu là con bố Phác?
        - Cháu là con bố Huyền.
        - Huyền à? Ông hiểu rồi. Bây giờ bố mày đã thay họ đổi tên. Nhưng nhớ lấy. Bố mày chính tên là Phác.
        - Dạ, thưa ông, con nhớ rồi ạ.

        Ông già chăm chú nhìn vào gương mặt của đứa cháu. Một khuôn mặt trái xoan, điểm một đôi mắt đen láy, to, dài, hơi xếch một chút. Đôi mắt làm ông già phải ngạc nhiên. Chúng trong veo, mới nhìn vào đã làm ta tin cậy. Nhưng sao con bé mới mười hai, mười ba tuổi, nó đã từng trải gì đâu mà đôi mắt buồn đến vậy. Cụ Nho Tiết khẽ khàng hỏi:
        - Tên cháu là gì?
        - Cháu là Nhụ.
        - Nhụ hay là Nụ? Gì Nhụ?
        - Dạ Trịnh Thị Nhụ vì bố cháu là Trịnh Huyền.
        - Dạ, thưa thầy...
        Anh Huyền định đỡ lời con, nhưng ông già chỉ cười và gạt đi. Cụ Tiết ra chiều ngẫm nghĩ. Rồi một chủ kiến bỗng nảy ra. Cụ quay ra nói với con trai:
        - Anh chẳng cần lấy lại tên họ cũ... Có lẽ trời đã xui khiến... Tìm ra lối thoát... Cả khuôn mặt bị bỏng cũng tốt... Thay tên thì thay luôn cả mặt. Con có biết không, khi các con đi theo ông Đề... rồi có tin nghĩa binh tan rã, bọn Tây sục đến nhà mình bắt thầy đi, bỏ tù năm năm. Họ bảo rằng, trước kia thầy đi theo quân cụ Đốc Ngữ, đến lượt các con cũng là những kẻ phiến loạn. Như vậy mầm loạn ở nhà này chưa dứt nên phải bắt thầy. Chú Hiếu khuyên thầy trốn đi song thầy không trốn. Bác cả Lễ thì chạy chọt cho thầy rất hao tiền tốn của nhưng cũng chỉ giữ án được năm năm, không bị tăng án, chứ không thoát được.
        - Thế còn anh con thì sao?
        - Lúc thầy chưa bị bắt, đêm nó lẻn về thăm thầy. Ta bảo nó: "Nếu mày có hiếu với thầy thì trốn vào xứ Mường lấy vợ đẻ con. Em mày chưa biết sống chết ra sao. Chỉ còn có mày độc nhất. Phải đẻ lấy đứa con trai kẻo ta tuyệt tự". Thằng Chất nghe lời thầy vào tận Mường Lò lấy vợ đẻ được thằng con trai. Nó bị sốt rét nặng. Nó bắt vợ nó mang con về lúc ta đã ra tù. Sau nó sốt rét nặng quá không qua khỏi.
        Cụ đẩy đứa cháu trai ra trước mặt Huyền:
        - Nó là thằng Điều, giọt máu cuối cùng của ta đấy.
        - Con chào chú đi. Chú ruột mày đấy.
        - Cháu lạy chú ạ.
        - Nhưng thôi chuyện này chỉ riêng nhà ta biết. Cấm lộ ra ngoài. Bởi vì lộ ra, bọn Tây vẫn săn tìm sẽ bắt chú mày tức khắc.
        - Thưa thầy, nghĩa là...
        - Nghĩa là từ nay anh vẫn là Trịnh Huyền. Đối với làng xóm và các nhà hào lý, anh không phải là Phác, không phải là con trai ta, mà là anh Huyền cháu về đằng tổ ngoại nhà ta. Anh từ Sơn Nam lên. Vì Sơn Nam lụt lội đói khát, anh lên nhờ vả ta là bác anh để kiếm miếng sống nuôi con.
        - Dạ thưa thầy...

        Ông già không để ý đến sự bối rối của người con, ông nhắc lại một lần nữa những lời đã nói, rồi dặn đi dặn lại:
        - Thầy không muốn con phải vào tù như thầy. Việc này vô cùng hệ trọng. Từ nay, anh Huyền phải gọi thầy bằng bác. Thằng Điều, con Nhụ là hai anh em họ ngoại với nhau và họ ngoại xa. Điều bí mật không được hé môi cho bất cứ ai. Thế nào, cả nhà đã rõ chưa?

        Dặn dò xong, ông cụ sai con Nhụ, thằng Điều xuống bếp thổi thêm cơm. Chỉ còn hai cha con ngồi ở đầu hè. Ông cụ lúc ấy mới tỉ tê hỏi:
        - Thế còn chuyện của anh trong ngần ấy năm ra sao? Vợ đâu mà chỉ mang con về thôi?
        - Nhà con qua đời khi sinh nở.
        - Thế còn con bé Nhụ? Nó giống mẹ nó à?
        - Vâng. Rất giống.
        - Ừ… Nó chẳng giống anh tẹo nào.
        - Dạ thưa thầy.
        - Sao?
        - Dạ... Thưa... Nó là con riêng của nhà con. Dạ nhưng con bé quấn quýt với con lắm.
        - Con bé có biết chuyện ấy không?
        - Dạ, nó có biết, nhưng vẫn rất quý con. Dạ, con coi con bé như con đẻ.
        Ông già thở dài rồi gắt khẽ:
        - Thì phải như thế mới đúng chứ. Con là con của thầy mà...
        Ông già Tiết lại thừ ra suy nghĩ. Rồi chợt ông nắm lấy tay Huyền như an ủi, lại như mừng rỡ...
        - Thầy hiểu con... Thương cho con hơn bốn mươi tuổi rồi vẫn còn lận đận... Nhưng đừng lo. Biết đâu rồi họa lại chuyển thành phúc. Vì, thầy đã nghĩ ra rồi. Điều này hay đấy. Để sau thầy sẽ nói với con.
        Trịnh Huyền ngạc nhiên vì ông cụ thay đổi tâm trạng liên tục. Hình như câu chuyện với Huyền đã gợi cho ông một ý hướng nào đó vô cùng quan trọng. Ông gật gù, rít một điếu thuốc lào rồi lẩm bẩm:
        - Đúng? Đã thay hình đổi dạng thì phải thay cho triệt để - ông quay sang Huyền nói. - Tôi nhắc lại, từ rày, trước mặt người khác, bất cứ lạ hay quen, anh phải nhất thiết gọi tôi là bác. Anh còn phải nói theo thổ âm người Sơn Nam. Anh nói được chứ?
        - Điều ấy con làm được.
        - Gặp người họ hàng, gặp người quen thuở xưa, anh cũng phải làm như chưa hề gặp mặt.
        - Dạ, có cần phải đến thế không ạ?
        - Cần! Anh hiểu chưa. Thay hình đổi dạng, anh đã nhớ chưa. Bọn Tây đồn điền ở đây cũng rất chú ý đến nhà ta. Tôi nghe người ta còn bảo bọn Tây vẫn hỏi đến tung tích anh Chất, anh Phác con tôi. Thế đấy phải tỉ mỉ kẻo lại chui đầu vào rọ. À... khi lưu lạc ở xứ người, anh có học được thứ nghề ngón gì của xứ Sơn Nam không? Cái gì thật đặc biệt chỉ có người Sơn Nam mới giỏi. Trịnh Huyền ngẫm nghĩ mãi mới trả lời:
        - Dạ... Có một nghề, nhưng từ khi nhà con qua đời, con đã chôn nó theo xuống mộ của nhà con rồi.
        - Nghề gì vậy?
        - Nghề đàn nguyệt.
        - Nguyệt à? Hát văn phải không? Thế thì bây giờ anh phải moi cây đàn lên.
        Trịnh Huyền van lơn:
        - Thưa thầy, từ khi vợ con qua đời, con đã có lời thề nguyền trước mộ, rằng từ đấy con sẽ không đụng đến đàn nguyệt nữa.
        - Sao lại như vậy?
        - Con không muốn con gái con, cháu Nhụ lại bạc mệnh giống như mẹ nó ngày xưa.
        Cụ già ngẫm nghĩ hồi lâu, mãi mới nói:
        - Nhời nguyền với người đã khuất là hệ trọng. Thầy hiểu. Nhưng còn có việc hệ trọng hơn, đó là việc sống chết của cả nhà ta. Lão Tây Julien mắt mèo, lão Tây đồn điền ở đây khét tiếng cả vùng. Mà thầy thì đã già rồi. Con trở về, thầy rất mừng. Con về, thằng Điều đã có chỗ nương tựa. Nó là giọt máu độc nhất của nhà ta. Dù có xảy ra chuyện gì, con cũng phải che chở, bảo vệ cho bằng được giọt máu ấy.
        - Thưa thầy, nếu vì chuyện ấy, thì con phải làm. Con xin vâng theo lời thầy dạy.
        - Con đánh đàn ra sao?
        - Người thầy dạy đàn chính là bố vợ con. Ông là người đánh đàn nguyệt và hát văn nức tiếng của đất Sơn Nam.
        - Thế thì tốt. Vậy, mấy ngày nữa, thầy sẽ sửa cái lễ, mua hoa quả, vàng hương, xin với vợ con cho phép con được giải lời nguyền. Đối với dân làng, ta sẽ nói thác ra rằng, con là người Sơn Nam, theo lời các cụ trong họ, lên đây làm lễ cho bà tổ cô vốn xưa kia trinh đồng ở đền Mẫu. Và con sẽ đánh đàn nguyệt trên đền Mẫu. Hay! Như thế thì liệu còn ai ở làng mình này còn có thể nghi ngờ rằng con vốn là thằng bé Phác nghịch ngợm ngày xưa.

        Đã chỉnh sửa bởi Photo; 13-12-2009, 12:37 AM.

        Comment

        • #5



          Mẫu Thượng Ngàn - Phần 2- Chương 1 : II: NHỤ VÀ ĐIỀU


          Nhụ rất tinh ý; chỉ chừng nửa tháng, cô bé đã biết hết tình hình nơi có thể gọi là gia đình thứ hai của cô. Cô không hỏi, chỉ qua những câu chuyện trao đổi của những người trong nhà rồi cô luận ra mà thôi.
          Gia đình họ Đinh là một gia đình bậc trung. Cụ Đinh Công Trung sinh ra ba người con: ông Lễ, ông Tiết, ông Hiếu. Ông Lễ làm quan huyện gì đó nhưng ở xa chẳng thấy về nhà bao giờ. Ông Tiết sinh ra ông Chất và ông Phác (tức ông Huyền bố cô). Ông cụ Tiết đi tù về ốm yếu. Còn ông thứ ba tên là Hiếu, nghe bảo bị mắc chứng điên điên khùng khùng.
          Cụ Tiết có vẻ hợp với cô bé Nhụ. Nhụ ít nói, nhưng khi đã nói thì cái giọng ríu ran làm căn nhà bừng lên tươi tắn. Từ khi có cô bé về, ngôi nhà thênh thang của ông con cụ Tiết bỗng ấm hẳn lên.
          Khu đất nhà cụ Nho Tiết, hay nói cho đúng hơn là cái trang trại nhỏ ấy thật đẹp. Nó không rộng lắm, chỉ khoảng chừng hai mẫu đất chạy dài suất từ chân lên quá lưng chừng đồi. Ngọn đồi không cao lắm, nhưng dân ở đây vẫn tiện mồm gọi là núi. Đất quay mặt ra con đường chính của làng, cây cối mọc um tùm xanh tốt nên khu vườn có dáng một khu rừng. Chục gốc trám, chục gốc mít, rất nhiều sấu, rồi cả thị, nhãn, hồng, ổi, na, bưởi... Rất nhiều loại cây, trồng theo từng vạt riêng. Khu vườn tạp nhưng có duyên, mùa nào thức nấy. Người cháu tên là Tuấn, con ông Lễ ở Hà Nội về bảo:
          - Vườn của chú thật là đẹp, thật thích mắt nhưng chẳng ra mấy tiền bạc. Chú phải chặt hết đi trồng toàn giống bưởi Đoan Hùng thì mới nhiều lợi. Tuấn thấy trong vườn có cây bưởi Đoan Hùng cho quả vừa ngọt, vừa thơm nên mới đưa ra ý kiến ấy. Cụ Tiết cười:
          - Chú có định làm giàu đâu. Chú giống ông, chỉ thích cây nên trồng như thế. Thực ra cũng khối tiền đấy. Cũng đủ nuôi chú và cháu Điều.
          - Cháu hiểu ông chú của cháu chứ. - Tuấn cười.
          - Ấy, chú cũng định trồng thêm năm gốc bưởi Đoan Hùng để tết đến, có quà ngon biếu họ hàng và chỗ thân thiết.
          Tuấn là họa sĩ. tính nết thoáng, cười giòn:
          - Đó là cháu nói về cách sinh lợi nhiều, chứ thực ra cháu rất mê cái vườn của chú. Nếu trồng toàn một thứ cây, đối với con mắt cháu, sẽ là không đẹp. Còn như vườn của chú lúc này, theo cháu, nó đẹp nhất trần gian. Kìa... chú thử nhìn bụi nhót ở góc tường hoa kia. Lá của nó um tùm tự nhiên màu xanh xanh, trắng trắng. Cái màu trắng như quét nhũ, óng ánh trong nắng. Lại lấp ló những quả màu đỏ chót... Thích thật! Thích thật...
          Nghỉ một lát, Tuấn lại tiếp tục những ý nghĩ chỉ nghiêng về cái đẹp của mình:
          - Chả là cháu chỉ muốn ướm thử xem ý của chú thế nào thôi; chứ thực ra cháu chỉ cầu mong chú cứ giữ nguyên cái vườn mãi như thế này. Giữ nguyên mãi mãi chú ạ... để cho cháu mỗi lần về thăm chú, còn được ngắm cảnh, còn được vẽ vời, bôi màu lên giấy chứ.
          Mỗi lần nghĩ đến chuyện ấy, cụ đồ Tiết lại như có chút bùi ngùi. Mỗi người yêu khu vườn này theo một cách riêng. Cháu Tuấn yêu, vì nó là họa sĩ. Còn cụ Tiết, cụ yêu nó vì những kỷ niệm. Cây mít xù xì đầu nhà kia chắc đã gần trăm tuổi. Nghe nói nó được ông nội của cụ trồng, do vậy, nó đã cỗi, ra ít quả. Thân nó to và thẳng, nhiều người dạm mua để xẻ ván. Được tiền đấy nhưng cụ không bán. Còn phần đông các cây đang ra trái hiện nay đều do cụ thân sinh đã trồng. Cụ Đinh Công Trung là một lão nông tri điền. Chính cụ là người tạo thành khu vườn xum xuê như ngày nay. Cụ gây dựng khu vườn với ước muốn nó sẽ cung cấp đầy đủ cho mọi nhu cầu của gia đình. Cụ để hẳn ra một vùng đất trồng toàn tre bương. Cụ bảo để có đủ vật liệu mà dựng nhà, sửa chữa nhà. Đấy còn là nơi gọi chim cò về làm tổ, để hàng ngày được nghe tiếng líu lo của con chích chòe, con sáo sậu, để hằng đêm được nín lặng thầm dõi theo tiếng xáo xác hoặc rủ rỉ của lũ cò trên ngọn tre cao. Có tiếng chim, vườn mới thực là vườn và nhà mới thực là nhà. Tiếng chim cứ tưởng như rất bâng quơ chẳng có ý nghĩa, nhưng thực ra nó làm cho lòng người ấm áp đáo để. Ở chỗ chân đồi nơi thấp nhất, là một vạt ruộng chừng hai sào, cụ trồng đỗ, trồng ngô, khoai. Cạnh đó là cái ao nhỏ để thả bè rau muống. Cách ao một quãng là giếng nước, thành xây bằng gạch đá ong, nước trong veo. Bên giếng làm một nhà tắm lộ thiên; chung quanh trồng những bụi mây mọc rất dày, lá mây xanh mướt lá nọ đan vào lá kia kín mít. Đó là nơi để đám đàn bà con gái thỏa thuê với nước. Ngày xưa, bà Tiết và cô Loan, cô Mùi vẫn ríu rít nói cười giòn tan sau bức rào xanh kỳ thú của tòa nhà tắm thiên nhiên độc đáo ấy. Đến bây giờ, có những buổi chiều, cụ Tiết vẫn ngồi ở thềm nhà nhìn xuống cái buồng tắm màu xanh ấy, tưởng chừng như vẫn còn nghe thấy tiếng cười pha lê ấy của cô con gái và tiếng mắng yêu con khẽ khàng mà ấm áp của bà Tiết, ông già nghĩ tiếng của vợ ông như tiếng con chim câu gù, chẳng hiểu có đúng không nhưng ông Tiết vẫn thích ví von như thế.
          Căn nhà chính năm gian nhìn xuống chân đồi, quay mặt hướng Tây. Thầy địa lý xem dương trạch bảo cụ cố ngày xưa phải làm như vậy. "Cái thế đất nó bắt phải thế mới thuận, mới hợp. Và có như vậy gia đình mới hưng thịnh". - ông thầy địa lý nói quả quyết như đinh đóng cột.
          Quả là khi làm xong, vận khí nhà cụ Tiết sáng hẳn lên, trông thấy ngay. Mấy năm sau, Đinh Công Lễ và Đinh Công Tiết đi thi. Lễ đỗ cử nhân được bổ đi tri huyện, còn Tiết đỗ nhị trường vào tam trường thì trượt. Lão Cửu Nhậm lúc đó chưa làm tiên chỉ bảo rằng nhà họ Đinh huynh đệ đồng khoa. Tiết bị trượt đã tức liền nói:
          - Xin ông đừng mỉa mai tôi. Đỗ nhị trường sao gọi là đỗ được.
          - Cũng là đỗ chứ. Đỗ nhị trường, người ta chẳng gọi là ông Nhị đó sao?
          - Nhị hay tam thì làm gì. Xin ông cứ gọi tôi là anh khóa Tiết cho nó tiện.
          Khóa Tiết, Cửu Nhậm vốn đồng môn. Nhậm vẫn bị Tiết chê dốt nên họ hay châm chọc nhau như vậy. Mấy năm sau, Tiết đi theo cụ Đốc Ngữ. Phong trào khởi nghĩa của Đốc Ngữ bị tan. Cũng may, lúc thoái trào Đốc Ngữ thì Tiết bị sốt rét về nhà dưỡng bệnh nên không bị Tây bắt. Cũng có kẻ xấu bụng tố cáo, nhưng nhờ có cử Lễ lo lót, chạy chọt nên Tiết vẫn không việc gì. Sau đợt ấy, Tiết mở lớp dạy con em trong làng nên dân gọi là ông đồ Tiết.
          Mấy năm sau, tới lúc anh em Chất, Phác đi theo quân Đề Nghĩa rồi biệt tăm biệt tích, lúc bấy giờ người Pháp mới bắt cụ Tiết, nhưng cũng chỉ phải tù mất vài năm. Ông cử Lễ ngẩng mặt lên trời mà than:
          - Hình ngục nan đào! Tử vi của chú Tiết là thế. Chỉ thoát một lần, nhưng lần thứ hai cũng không thể thoát.
          Cụ Đinh Công Trung thương con trai, ngã bệnh chết. Rồi bà Tiết thương chồng tù tội, nhớ mong hai đứa con trai bỏ làng biệt xứ, nên cũng héo hon mà qua đời.
          Khi ông Tiết hết hạn tù, ông Hiếu điên điên rồ rồ bỏ ra chùa ở, ông cử Lễ nhường hẳn ngôi nhà gia tiên để lại cho em trai. Phần nào cũng do lòng tốt của ông, song phần nào cũng do ông sợ cái hướng nhà. Nghe nói có lão đồ Mốc, thầy địa lý khét tiếng cả vùng, phán rằng mộ phần nhà họ Đinh đều tốt cả, chỉ riêng dương trạch không ổn. Khí không tụ mà lại tán, sợ rằng phú quý tài lộc không dài lâu đến đời con, đời cháu, rồi thậm chí có người sa hình ngục. Cử Lễ ngẫm nghĩ thấy lão Mốc nói nhiều điều đúng, nhất là khi nghĩ đến cái chết của ông bố và cô em dâu sau khi ông Tiết bị tù. Còn Tiết sau khi đi tù về, ông lặng lẽ nói:
          - Bác nhường cho thì em xin nhận. Em xin giữ gìn trông nom của gia tiên, sao cho nó vượng lên. Riêng em, dù ngôi nhà của cha chúng ta có dữ thế nào, em cũng không cần. Bởi vì bản thân em đã đi tù. Vợ cũng đã chết. Hai con thì lưu lạc chân trời góc biển nào cũng chẳng ai hay. Đứa con gái lớn số phận chẳng ra gì. Chỉ còn mụn con gái út, bác đã lo cho rồi. Thế cho nên em không sợ. Và biết đâu đấy... bởi vì vật cực tắc phản mà (vật đi hết đường sẽ quay trở lại).
          Cái lý lẽ của ông em trai có vẻ cùn, bất cần. Điều ấy làm ông cử Lễ áy náy. ông bảo em:
          - Hay là ta bán quách nó đi, tậu cho chú khu đất khác.
          - Không được. Của gia tiên không nên bán... Vả lại... em hiểu rồi. Bác áy náy vì sợ mang tiếng là đùn đẩy cái phần xấu, phần không may về cho thằng em hứng chịu chứ gì. Em nói thật với bác: Em không tin rằng số phận lại tiếp tục đẩy em tới chỗ tuyệt diệt.
          Ông đồ Tiết không tin vào sự tuyệt tình của số phận. Ông vật lộn với nó, và trước mắt, ông phải làm cho cái trang trại của mình được hưng thịnh lên. Mặc dù đi tù về ốm yếu, ông vẫn hàng ngày cặm cụi vun xới khu vườn, chặt tỉa những cây già cỗi sâu bệnh, trồng thêm những cây mới. Thằng cháu Điều, tuy nhỏ tuổi, nhưng hăng hái cũng chẳng kém gì ông. Hai ông cháu lần hồi sống cùng vườn cây. Nhìn thằng cháu lớn lên từng tháng, từng năm, điều ấy cũng tiếp sức cho ông rất nhiều. Bây giờ, khu vườn đã hồi sinh hoàn toàn. Nó lại càng thêm sức sống khi hai bố con Huyền và Nhụ trở về.
          Sớm nay, cụ đồ Tiết dẫn Nhụ đi thăm khu trại. Ông già rất yêu quý cô cháu gái. Bà cụ Tiết chết rồi. Cô con gái lớn, cô Mùi, tuy không chết cụ cũng coi là chết. Cô Loan, khi cụ mắc tù tội, được ông cử Lễ nuôi nấng, gả chồng cho lấy người làm nghề giáo học ở Hà Nội. Ba người đàn bà đi khỏi trang trại. Cái nhà tắm thiên nhiên xanh ngắt của cụ ở dưới chân đồi hầu như bỏ hoang, bởi vì thằng Điều không thích tắm nhà tắm, nó thích vùng vẫy bơi lội trên sông hoặc ngoài hồ Huyền. Những cây mây nơi nhà tắm bỏ hoang, được dịp tha hồ mọc bừa bãi. Cái nhà tắm xanh càng trở nên um tùm. Những ngọn mây như những con rồng vươn lên trời mà nhảy múa. Thấy có cô cháu gái, cụ Tiết lặng lẽ ra sửa sang, buộc bịu cho cái nhà tắm được gọn gàng. Nhụ trông thấy cái nhà tắm xanh, mắt sáng lên thích thú. Và ông lão lại được sung sướng, khi tiếng cười như pha lê của Nhụ lại cất lên ở đó, lúc cô dội làn nước mát lạnh lên đầu. Tiếng cười lanh canh từ cái buồng tắm thiên nhiên, từ cái vách lá mây xanh ngắt ấy vang lên, chợt làm hiện lại hình ảnh của người vợ, của những người con gái, những hình ảnh ấm áp của một gia đình mà ông cứ tưởng rằng sẽ không bao giờ gặp lại. Cô cháu gái đã lấp đầy chỗ trống tình cảm trong trái tim ông, chỗ trống mà một con người cứng rắn như ông sẽ không khi nào chịu bộc lộ, thú nhận vì lòng kiêu hãnh.
          Kìa, cô cháu gái đang đứng ở góc sân, dưới gốc cây thị thơm ngát. Cô cúi đầu, xõa tóc, rồi nắm lấy chân tóc ở sát đỉnh đầu mà quay vun vút cho nước văng đã tạo thành một đám mưa bụi mát rượi bay cả vào thềm hè.
          Tối hôm ấy có trăng. Nhụ mắc võng dưới cây thị, đưa võng kẽo kẹt mà hát rằng:
          Cô rong chơi mười tám cửa ngàn
          Ba mươi sáu động sơn trang các tòa...
          Lúc đó, ông già ngồi uống nước với Trịnh Huyền. Cụ Tiết ngẫm nghĩ rất lâu rồi bảo con trai:
          - Tôi có câu chuyện này, chả biết đã nên nói với anh chưa.
          - Dạ, xin thầy cứ nói.
          - À mà thôi, để sau hãy hay.
          - Vâng ạ, lúc nào tiện thầy nói cũng được.
          - Ừ… Mà... vì... con bé ngoan đáo để.
          - Thầy bảo ngoan thế nào ạ.
          - Thì... con cái Nhụ chứ còn ai. Con bé ngoan lắm.
          Ông già nhắc lại câu nói. Nhìn gương mặt vui vẻ của cha, Trịnh Huyền cũng thấy vui lây. Anh cũng thật không ngờ đứa con gái của anh lại làm cho cha anh hài lòng như vậy. Anh chợt thấy việc trở về làng của mình là rất đúng.
          Đứa cháu gái hầu hạ ông khéo lắm. Sáng sớm nào cũng đúng như chiếc đồng hồ, khi con chim dẻ quạt đen nhánh bắt đầu xòe đuôi vừa nhảy vừa hót ở bụi trúc vàng đầu nhà là Nhụ mang lên ấm nước để ông pha trà: Cũng như mọi nhà nho khác, ông Tiết thích uống trà buổi sớm, nhưng trước đây, cảnh nhà ly tán, hết tai họa này đến tai họa khác đổ xuống đầu, nên hầu như ông già đã quên mất cái thú vui ấy. Nó chỉ trở lại khi cha con Trịnh Huyền về nhà. Ông già không nói ra, nhưng trong bụng rất cám ơn cha con Huyền. Bởi vì, bằng những hành động nhỏ nhoi, họ đã nhắc lại cho ông niềm vui sống gần như bị đánh mất trong ông.
          Uống trà xong, cụ Nho Tiết dắt cháu gái ra khu nuôi ong. Cụ nho quý những đàn ong của mình vô cùng. Trước đây, không một ai được bén mảng đến khu nuôi ong. Hình như trước cũng có một người được phép, nhưng người ấy đi rồi. Bây giờ, tự tay cụ chăm sóc lấy. Cụ không muốn theo lối cổ truyền nuôi ong bằng đõ như người miền núi. Cậu cháu Tuấn nhờ một người bạn học canh nông dạy cụ nuôi ong theo kiểu mới bằng thùng đóng hình hộp, rồi gài cầu vào bên trong cho ong làm tổ. Hôm ấy ông cụ bảo Nhụ:
          - Xem ra cháu nuôi ong được đấy.
          - Nuôi ong khó lắm phải không ông?
          - Cũng khó mà cũng dễ.
          - Cháu sợ ong đốt lắm.
          Ông tươi cười nhìn cháu:
          - Người nuôi ong phải biết kiên nhẫn, lặng lẽ và dịu dàng. Người nóng nảy, thô lậu khó có thể nuôi ong. Ong rất ưa sự khẽ khàng, mềm mại. Đến với ong phải giống như người mẹ đến với con mình. Âu yếm, ấm áp. Ong cũng có thể cảm nhận được bàn tay nào yêu thương chúng, không muốn làm hại chúng. Ong cũng thích người có da thịt thơm tho. Sở dĩ ông không cho người khác đến nơi đây, bởi vì họ vụng về và thô thiển. Họ chưa đến đã nghĩ đến ăn mật. Hơn nữa, mùi khác lạ cũng làm ong sợ. Loài ong cũng biết đánh hơi. Có đàn ong rất sợ mùi mồ hôi dầu. Người có mùi này chỉ đứng cạnh, chưa kịp làm gì, đàn ong đã nhốn nháo như sôi lên, chỉ chực bay ra đốt kẻ địch.
          Cô bé Nhụ ngây người, nghe ông kể về ong. Cô được phép núp sau lưng cụ Tiết đi vào khu nuôi ong. Năm thùng ong được đặt dưới những gốc nhãn, chung quanh một cái lều nhỏ. Những cây nhãn cổ thụ tỏa bóng che mát cả một vùng. Dần dà Nhụ đã dám từ sau lưng đi ra đứng cạnh ông già. Những con ong bay vù vù quanh người cô bé. Ông bảo:
          - Đừng sợ, chàng đang tìm hiểu xem cháu là người thế nào. Cứ bình tĩnh, đừng hốt hoảng.
          Mấy con ong sáp lại, đậu trên má Nhụ. Ông cụ lại nói:
          - Mặc chúng? Đừng cử động mạnh. Ví dụ có con nào đốt cũng phải cắn răng mà chịu. Vả lại, loài ong ruồi không hung dữ. Chỉ khi nào thấy bị tấn công nó mới đốt lại để tự vệ…
          Đi theo cụ Tiết vài hôm, Nhụ bắt đầu quen những đàn ong. Cô học dần dần để trở thành một trợ thủ đắc lực cho ông trong nghề nuôi ong.
          Mới đầu, cụ Tiết nuôi ong để chữa bệnh. Ở tù ra, người cụ chỉ còn da bọc xương. Người ta bảo cụ mắc lao. Cụ đã uống mật ong liên tục ngày hai lần. Rồi còn dùng cả tắc kè sấy khô tán bột, lúc ăn trộn một thìa với mật ong. Ong thì nuôi. Tắc kè thì cu Điều lần mò bẫy trong rừng. Chẳng mất tiền thuốc mà sức khỏe của cụ Tiết cũng dần hồi phục.
          Lúc này, khỏe rồi, cụ đồ vẫn say mê nuôi ong; bởi vì ở đây gần rừng nhiều hoa, hơn nữa ngoài chuyện bổ dưỡng, nó còn là một nghề, một mối lợi. Trong gian buồng đầu hồi, nơi cụ ở, lúc nào cũng thấy phảng phất hương mật ong.
          Cuối xuân đầu hạ, hoa núi ê hề, trong rừng có hàng trăm thứ hoa đua nở. Những cây nhãn rừng, rồi dâu da rừng đơm hoa trắng xóa. Những cây mai vàng khắp tán lá trổ hoa vàng ối làm sáng cả những góc rừng. Ở đây có cả khu rừng sấu, hoa ngà ti li nhưng rất quyến rũ ong vì hương của nó ngon ngọt; khi ngồi dưới khu rừng sấu mát rượi, ngửi mùi hương của nó, đến con người còn bị quyến rũ. Ngoài ra, ở những vạt đất thoáng ven suối, còn có bao nhiêu loài hoa dại: những bông hoa tím không tên, những bụi mẫu đơn đỏ rực, những bông hoa vông vang to như những cánh bướm vàng rung rinh, những bông hoa loa kèn trắng nõn nà... Bướm cũng nhiều vô kể. Chúng cũng cần mẫn chẳng kém gì ong. Hết vờn trên mặt đất, lại bay vút lên cao, nơi có những giò phong lan rực rỡ. Thiên đường hoa!
          Vào mùa hoa như vậy, lũ ong thợ dậy rất sớm. Chúng rung cánh bay qua trảng cỏ trống đầy hoa dại để tới những khu rừng rậm rịt bên kia sông. Nhụ cũng dậy khi lũ gà trống gáy dồn. Cô ra chuồng gà nhặt trứng, sau đó đi một vòng quanh vườn xem có dấu vết gì của lũ cầy cáo hay không. Tiếp đó, cô đến chỗ nuôi ong.
          Mùa này mật mau đầy tổ. Lũ ong hầu như đã vào rừng hết cả, chưa kịp về. Tổ ong vắng vẻ. Chỉ thấy lưa thưa dăm chú ong thợ đậu ngoài cửa. Hai ông cháu bắt tay vào việc. Họ mở nắp thùng ong mà họ đã thăm dò từ mấy hôm trước. Các cầu ong đã đầy và bít nắp. Cụ Tiết dùng một lưỡi dao thật mỏng, sắc như dao cạo, khéo léo cắt những tầng ong nhiều mật, để lại những tảng còn đang xây dở dang, để lại cả những tầng có nhộng con. Cụ lấy được bốn tầng đầy mật, cắt chúng thành những miếng nhỏ. Sau đó, lấy một chiếc chậu sạch và khô, đặt mấy chiếc đũa dài lên miệng chậu, rồi đặt những miếng tổ ong lên đũa ngáng. Nhụ bê chậu đặt ra giữa sân, chỗ dãi nắng. Cùng lúc ấy, mặt trời đã lên cao tới đầu ngọn tre. Mấy con gà trống trong chuồng trông thấy Nhụ cứ cục cục như van xin cô cho ra. Nhụ quay lại, cười:
          - Hôm nay lấp mật. Bị nhốt hiểu không.
          Đến trưa, lúc mặt trời đứng bóng, sáp bịt miệng lỗ tổ ong chảy ra, mật theo lỗ tổ ong đã mở rơi xuống đáy chậu từng giọt. Mật trong chậu màu vàng nhạt, trong như hổ phách. Cụ Tiết bảo đó là mật thượng hạng dùng để chữa bệnh. Khi mật không chảy nữa, Nhụ mang những miếng tầng ong xếp vào nồi, đem lên bếp đun nhỏ lửa, sau đó mang ra lấy tay bóp nhẹ. Nước mật thứ hai theo kẽ ngón tay của Nhụ chảy vào liễn. Nước mật này màu nâu trông như mật mía thơm phức. Cụ Tiết bảo Nhụ đi chợ mua bánh đa quết mật nước hai này vào rồi cả nhà đến tối ngồi ở hiên vừa ăn bánh đa, vừa uống nước chè tươi, vừa ngắm trăng non. Ôi chao? Những quãng ngày này với Nhụ, với Điều, với cụ Tiết, cả với bố Huyền nữa, sao mà đẹp thế.

          Comment

          • #6




            Mẫu Thượng Ngàn - Phần 2 - Chương 2 :



            Nhụ thường xuyên bên cụ Tiết, còn Điều lại luôn bám dính theo chú Trịnh Huyền. Có ông chú, cậu cháu khoái vô cùng. Khoái vì từ nay không phải làm việc một mình. Khoái vì ông chú là người từng trải, biết nhiều chuyện, biết làm nhiều việc. Làm nghề nông cũng giỏi mà đánh đàn cũng hay. Nghe lời cụ đồ, ông Huyền đã sắm một cây đàn nguyệt, tối về ngồi ở thềm nhà nhấn nhá. Tiếng đàn mềm mại uốn lượn thật tài tình. Điều ngồi sau lưng chú nghe tiếng đàn cứ ngẫm nghĩ: "Quái lạ? Bàn tay ấy gặt lúa cứ rào rào, toáng một cái đã xong sào lúa. Tưởng rằng những ngón tay của ông phải to bè, cứng quèo, ấy thế mà lúc này mình cứ tưởng như những ngón tay ông thật là thon thả mềm mại". Điều bảo ông:
            - Chú Huyền dạy cháu đánh đàn với nhé.
            - Cháu nghe có thấy thích không đã?
            - Rất thích.
            - Rất cơ à? Thế thì được, nhưng phải dần dần.
            - Dần dần là thế nào?
            - Đầu tiên phải học hát cho thật đúng. Sau rồi nghe. Nghe và hát cho thật nhuyễn. Điệu hát thấm vào người lúc nào không hay. Lúc ấy mới học đàn thì mau lắm.
            - Vậy chú dạy cháu hát đi.
            - Không.
            - Sao lại thế
            - Cháu lạy cái Nhụ làm thầy. Nó sẽ dạy cho. Nhụ hát rất hay đấy.
            - Không! Cháu không lạy cái Nhụ làm thầy đâu.
            Ông Huyền cười to:
            - Thế thì chịu. Giọng chú là giọng thuốc lào. Làm sao dạy cháu được.
            Nhà cụ đồ chỉ có chừng mẫu ruộng. Trước kia, chỉ có mình cu Điều, sức vóc mới choai choai, lại chưa có kinh nghiệm đồng áng, nên làm không hết việc. Bây giờ có ông Huyền giỏi giang, nhà lại có bò nên công việc nhanh lắm. Cày bừa, đập đất, trồng ngô xong, còn khối ngày nông nhàn.
            Bữa ấy rỗi rãi, chú Huyền và cháu Điều sang bên kia sông đi cắt tranh về lợp lại chuồng bò. Bề ngoài, tiếng là cháu Điều hướng dẫn chú Huyền, nhưng thực ra thì ngược lại. Chú bảo:
            - Chú cháu mình chịu khó đi xa một chút. Vùng núi Đùng cỏ tranh tốt hơn. Cỏ tranh ở đó đài hơn.
            - Hóa ra chú vẫn còn nhớ nhiều thứ nhỉ.
            - Nhớ chứ. Ngày xưa chú vẫn vào cắt ở đấy...
            Điều ra chuồng bò dắt con bò loang và con sừng hươu ra khỏi chuồng. Cậu nói:
            - Có chuyện qua sông là khác ngày xưa.
            - Khác thế nào? Mà sao lấy tranh lại dắt bò đi?
            Thằng bé không trả lời. Chỉ khi ra đến bờ sông thằng bé mới nói:
            - Ngày xưa, hồi của chú, đồn điền "Mắt Mèo" mới lập, chưa có lệ nộp tiền qua sông. Từ khi lão Julien làm chủ đồn điền, ông ta đặt ra lệ ai bơi đò qua sông phải nộp tiền. Ở đây có hai bến đò. Lão Julien cho cai thầu đò. Chủ đò bắt chẹt 2 xu một chuyến. Dân làm đò tự chở, lão Julien vẫn bắt nộp 1 xu một ngày. Ai không nộp, không cho sang sông. Dân kêu quan, quan bảo đất hai bên bờ sông nhà nước đã cấp cho Tây, thuộc quyền của đồn điền. Vì vậy nhà nào có bò, qua sông bằng bò để trốn tiền đò.
            - Hóa ra là vậy!
            Hai chú cháu cởi quần áo. Chú mặc chiếc quần đùi, còn cháu cởi truồng. Một tay giơ cái nón đụng quần áo lên trời, một tay nắm đuôi bò, họ bơi theo con vật qua sông. Hai con vật hiền từ nghển cổ lên khỏi mặt nước, bơi xuôi dòng, chéo qua sông. Nước sông chảy xiết, lại thuận theo dòng nước nên họ qua sông rất dễ dàng. Được tắm nước mát, lại không mất sức, hai con bò lên đến bờ lắc đầu rũ lông rồi nhắm hòn núi Đùng tiến bước.
            Nhìn ngọn núi cao, Điều hỏi chú:
            - Sao lại núi Đùng chú nhỉ?
            - Đó là câu chuyện ông Đùng bà Đà, dân ở đây ai chả biết. Mà cháu chưa biết sao?
            - Cháu biết chứ. Nhưng bọn trẻ vẫn hay thích nhắc lại câu chuyện. - Cậu bé choai choai vừa nói vừa cười, rồi cậu thêm. - Cháu nghe nói hội Đùng vui lắm phải không? Chú đã được dự lần nào chưa?
            - Chỉ mới một lần lúc chú mới lớn. Các cụ bảo hội làng mình tốn kém lắm, nên mười năm mới có một lần. Mấy chục năm nay làng mình mất mùa luôn nên đã lâu lắm không mở hội.
            - Tốn kém đến thế nào mà lại không mở nhỉ?
            - Tiếng là một hội nhưng thành ba hội. Bên kia sông mở hội ở đình làng. Bên này sông, ở đầu dòng mở hội trên núi Mẫu; ở cuối dòng nước mở hội ở núi Đùng...
            Điều vẫn háo hức muốn biết thêm nhiều điều về ngày hội, những điều mà cậu không thể mở miệng hỏi ông nội, vì hỏi có thể bị mắng. Còn ông Huyền, ông lại tranh thủ nắm tình hình xóm làng, tình hình về những người ngày xưa.
            - Ông Cửu Nhậm lên chức tiên chỉ từ bao lâu rồi?
            - Mới được năm năm.
            - Ông quản Boong là người thế nào?
            - Ông này hay đến đánh cờ với ông. Ông chẳng tiếp, ông ta cũng cứ đến.
            - Cháu có biết bà Váy bây giờ ra sao?
            - Bà Váy nào nhỉ? Cháu chẳng thấy bà nào tên là Váy.
            - À, các cụ ngày xưa hay đặt tên xấu xí cho dễ nuôi. Còn sau này, lên ông nọ bà kia, người ta đổi tên cho đẹp cho sang cả rồi.
            - Chú có biết ông Cỏn xóm Cửa Đình không?
            - À lý Cỏn phải không?
            - Vâng, ông ấy có những ba vợ, bây giờ giàu lắm.
            - Thế hử?
            Câu chuyện bỗng làm cho ông Huyền như lạc vào quá khứ. Nhưng chẳng biết ông đang nghĩ gì. Vui hay buồn. Chỉ thấy mặt ông kín như bưng. Có con chiền chiện ở đồi sim chợt bay bổng lên trời cao. Nó bay cao tít trời xanh, tới mức chả nhìn thấy bóng nó nữa. Chỉ còn nghe thấy tiếng hót ríu ran của nó ở trên đầu. ông Huyền che mắt nhìn lên trời và cười với tiếng chim. Thấy ông chú lại vui vẻ dễ tính, Điều lại tiếp tục những câu hỏi về hội hè ngày xưa, những câu hỏi mà nó không thể đặt ra với ông nó được.
            - Chú ơi! Thế "trải ổ" là gì trong hội?
            - À cháu chú muốn biết "trải ổ" là cháu đã lớn rồi đấy.
            Điều đỏ mặt. Nhưng chú Huyền không trêu lâu. Chú chỉ hiền hòa nói rằng:
            - Đó là cái lệ làng rất đặc biệt ở Kẻ Đinh. Ai ai cũng tò mò muốn biết cái lệ đó. Nhưng chẳng có ai cần giải thích bao giờ. Khi ngày hội đến, tự dưng từng người đều biết - nhất là đám trai trẻ.
            Điều vẫn hiếu kỳ:
            - Cháu muốn biết ngay từ bây giờ.
            - Nôn nóng làm gì hở cháu. Có cái lệ làng đặc biệt như vậy thì hội làng càng thêm hấp dẫn, thú vị chứ sao.
            Hai chú cháu nói chuyện suất dọc đường thành thử đã đến núi Đùng tự lúc nào mà họ chẳng hay. Họ leo lên đến gần đỉnh mới gặp một vạt cỏ tranh rất tốt. Điều quấn thừng quanh sừng bò, rồi thả cho hai con vật tự do gặm cỏ. Cỏ tranh cao lút đầu người. Hai chú cháu không nói chuyện nữa. Họ chuyên chú cắt nên chỉ một lát đã được hai gánh cỏ tranh dài sườn sượt.
            Hai chú cháu mồ hôi đầm đìa rủ nhau lên đỉnh núi Đùng nghỉ chân. Mặt trời đã lên cao, nhưng đỉnh núi mát rượi. Ở đó gió rất rộng và đặc biệt có năm cây thị như năm cái lọng che, quanh năm tỏa bóng, làm chỗ nghỉ chân cho những người đi rừng. Họ lên tới nơi đã thấy hai người đàn bà đi lấy củi về ngồi nghỉ ở đó.
            Hai người đàn bà thấy bộ mặt quái gở nửa người nửa ma quỷ của Huyền, chắc lấy làm lạ, nên thỉnh thoảng cứ lấm lét nhìn. Thằng Điều thấy người đàn bà có chiếc ống bương đựng nước dựng ở gốc cây thị thì sáng mắt lên, nói liến thoắng:
            - Cháu chào bà Ba? Ôi may quá! Cháu quên mang nước uống. Cho cháu xin một ngụm nhé.
            Người được gọi là bà Ba là một người đàn bà có sắc đẹp lồ lộ ai trông cũng thấy ngay. Một cái đẹp của sức sống. Một cái đẹp của da thịt mỡ màng. Người đàn bà ấy trắng lắm. Có vẻ làm việc đồng áng giỏi mà da mặt vẫn trắng bóc. Con mắt đen lóng lánh. Đôi lông mày nằm ngang như hai nét mực tàu vẽ trên khuôn mặt tròn vành vạnh. Mớ tóc vấn khăn trên đầu cũng đen mượt. Ở bà ta, những chỗ nào da thịt hở ra cũng thấy ngồn ngộn ngọt ngào. Bà ta ăn vận xuềnh xoàng. Cái váy đen, cái áo nâu đã bạc lưng, cái yếm nhuộm vỏ đa màu hồng nhạt. Thấy Trịnh Huyền từ lúc mới gặp cứ nhìn chằm chằm, bà Ba ngượng ngừng cúi đầu xuống. Người đàn bà đi cùng, lại cho ta một hình ảnh trái ngược hẳn. Chị ta gày guộc, da thịt sắt lại, quần áo ra chừng lam lũ? Chị ta bảo:
            - Chị Ba này, ăn một miếng trầu, rồi chị em ta về kẻo nắng.
            Thằng Điều uống nước ừng ực. Nước từ cái ống bương chảy ra đổ cả xuống cằm, xuống cổ áo. Thỏa mãn cơn khát xong, nó càng nói liến thoắng như khướu:
            - Bà Ba lòng dạ như tiên như Phật - Biết được con khát sắp chết nên dành cho con nước uống. Nước mưa ở bể nhà bà ngon ngọt thật. Như nước cam lồ của Phật.
            Bà Ba vừa nhai trầu vừa mắng nó:
            - Mày lém vừa vừa chứ. Đưa ống nước cho ông ấy uống.
            Trịnh Huyền chỉ từ tốn uống một ngụm nước rồi trả lại cái ống bương và nhân tiện bắt chuyện với người đàn bà:
            - Thằng cháu tôi nó lém thế, nhưng nó tinh đấy, đúng là nước mưa hứng ở cây cau cho chảy vào chum nên mới ngọt và thơm.
            Người đàn bà chợt sững lại, nhìn vào mặt Trịnh Huyền. Nhưng cũng lúc ấy, Huyền nghiêng mặt đi chỉ để cho bà ta nhìn thấy nửa khuôn mặt sứt sẹo của mình. Bà ta ngập ngừng hỏi:
            - Thế ông phân biệt được nước mưa hứng ở mái và nước mưa hứng ở cây cau sao?
            - Biết chứ. Mái ngói cũ có nhiều rêu mốc, nước mưa sẽ ngai ngái. Phải để lâu ngày mới hết mùi. Còn nước mưa cây cau lại khác. Nó là mùi lá, mùi hoa. Thật đấy! Có lúc nó thơm mùi hoa cau...
            Người đàn bà nhìn kỹ vào vết sẹo hồng hồng trên má Trịnh Huyền, rồi lại nhìn thấy con mắt phía má ấy cứ mở trừng trừng không biết khép lại, bà nhắm mắt, hình như hơi rùng mình nói buồn buồn:
            - Ngày xưa, cũng có người tinh mồm biết phân biệt nước mưa như ông... Còn tôi, uống nước nào cũng thế. Chịu không phân biệt nổi... Mà này... hình như... Nhìn ông tôi cứ thấy ngờ ngợ.
            - Sao... hả bà...
            Thằng Điều rất tinh ranh, xen vào:
            - Quên! Cháu chưa trình với bà Ba. Đây là chú Huyền cháu. Họ đằng bà cụ tổ ngoại, Ở Nam lên. Dưới ấy lụt lội, mất mùa liên miên. Nhà cháu neo người nên ông cháu cho gọi chú ấy lên, vừa để giúp đỡ ông cháu, vừa để bảo ban cháu làm ăn.
            - À ra thế...
            - Còn bà Ba là bà ba của ông lý Cỏn, hôm nọ ông Lý có đến nhà mình đấy.
            Khi hai chị em bà Ba đứng dậy đi về, Trịnh Huyền không kịp xoay người, nên bà Ba đã thoáng trông thấy cái nửa mặt còn lành lặn của ông. Chỉ thoáng thôi nhưng cũng đủ cho người đàn bà nhíu mày lại. Và khi đã bước chân đi rồi, bà ta còn ngoái nhìn lại lần nữa, nhưng Trịnh Huyền đã kịp giấu khéo cái nửa mặt lành lặn ấy đi. Hai người đàn bà đã khuất sau những lùm cây ở chân núi mà ông Trịnh Huyền vẫn cứ nhìn theo con đường mòn. Cháu Điều gọi: "Chú ơi! Chú ơi!". Ông Huyền giật mình, chợt tỉnh khỏi những dòng suy nghĩ. Cậu cháu tinh quái hỏi:
            - Chú ạ, có phải bà Ba là cô Váy ngày xưa không?
            Người chú cười:
            - Cháu bảo làng Đình không có ai tên là Váy cơ mà.
            Khoảng mười lăm, mười sáu năm về trước, cô Váy là bạn thời chăn trâu cắt cỏ của Huyền, tuy anh nhiều tuổi hơn. Cô Váy mặt tròn như cái đĩa. Nhà nghèo mà da lúc nào cũng trắng muốt. Cô mũm mĩm. Tính tình hồn nhiên như trẻ thơ. Vì nhà nghèo, lại là con gái, lại bé, nên cô luôn bị đám mục đồng bắt nạt. Anh Phác (tức là Huyền sau này) lớn nhất hội đã che chở cho cô. Do vậy, lúc nào Váy cũng bám lấy anh Phác như cái đuôi, đuổi cũng vẫn theo. Mãi rồi cũng thành quen, hai người cứ bám dính lấy nhau như đôi chim cu. Mới đầu Phác ngượng, nhưng khi Váy 13 tuổi, đôi vú đã thây lẩy, thì vắng Váy Phác lại thấy nhớ. Dân làng bảo: "Cái Váy phải lòng thằng Phác từ lúc lên mười".
            Vậy nên khi lớn lên, cái đôi ấy "trải ổ" cho nhau, dân làng chẳng lấy làm lạ. Thằng Điều hỏi ông Huyền "trải ổ" là gì, ông Huyền không giảng. Bởi vì lớn lên khắc biết. Ngày hội sẽ giải nghĩa cho. Đám rước làng Đình cũng giải nghĩa cho. Rồi trăng sáng vằng vặc cũng là sự cắt nghĩa không lời.
            Mùa trăng, mùa "trải ổ" năm ấy, trong cái ổ rơm thơm phức, Phác lần đầu tiên trông thấy đôi mắt đẫm trăng vừa long lanh vừa háo hức của Váy. Cô gái mũm mĩm ấy có được ai dạy bảo gì đâu. Sao mà cô đằm thắm đến thế, sao mà cô đàn bà đến thế, sao mà cô ngọt ngào đến thế. Trăng khuya, sương khuya xóa nhoà mọi ranh giới. Trăng mùa "trải ổ" trùm tấm áo khoác hoan lạc lên trên người họ, dạy cho họ vũ điệu tình yêu. Rồ dại và cuồng điên, họ tan biến trong nhau, để đến lúc khi an bình trở lại, Huyền mới biết tai mình đã chảy máu. Thần hoan lạc hay chính cô Váy, đã cắn rách tai Huyền mà đến lúc này họ mới biết. Váy rúc rích cười, lấy thuốc lào rịt vào vành tai người yêu. Và một câu chuyện nói dối hoang đường đã xảy ra. Anh chàng Phác đã bảo bố là mình bị ngã từ trên cây táo xuống, cái gai táo rất to đã móc vào tai, làm rách vành tai. Câu chuyện hoang đường ấy vẫn được ông cụ Tiết tin cho đến tận bây giờ.
            Hồi tưởng, rồi lại tự trách mình: "Tại sao ta lại nói tới chuyện nước mưa cây cau với Váy nhỉ. Khi còn trẻ, ta đã nói chuyện ấy với cô ta rồi thì phải. Có thể câu chuyện đó làm Váy nghi ngờ. Và nếu mọi người biết thì sao? Chồng cô ta biết thì sao? Nghe nói, lý Cỏn, chồng của Váy hay ghen lại có quyền: Và theo như cha ta nói, việc giấu biệt tung tích của ta là cần thiết...".
            Cháu Điều rất tinh. Hình như nó đoán ngay được ý nghĩ của Trịnh Huyền trên gương mặt ưu tư của ông:
            - Chú đừng lo. Bà Váy không thể nhận được ra chú đâu Cháu tin là thế.
            - Bà ta, khi đi rồi, vẫn còn ngoái lại.
            - Ngoái lại không phải vì nhận ra chú, mà vì... vì khuôn mặt đáng sợ.
            - Đáng sợ ư?
            - Chú thử nghĩ xem, có khuôn mặt nào lại nửa là người, nửa là...
            - Là quỷ chứ gì.
            - Cháu nói thật, chú chớ có giận. Ai đời vết sẹo thì căng bóng, dúm dó, đo đỏ. Con mắt thì, đêm cũng như ngày, luôn mở to thao láo. Ngay cả khi con mắt kia đã nhắm lại rồi, nó vẫn cứ mở. Ai biết rằng nó đã ngủ hay đang thức. Và cái khóe miệng nữa chứ, lúc nào cũng xếch lên như cười như chế giễu. Cháu nói thật, ai trông thấy mặt của chú cũng bị khiếp đảm ngay, cũng không dám nhìn thẳng vào. Vì vậy còn tâm trí nào mà nhớ lại. Bà Ba Váy cũng vậy. Bà ấy không nhận ra đâu. Cháu cam đoan. Bà ấy sợ thì đúng hơn.
            - Bà ấy sợ ư? - Trịnh Huyền nhắc lại câu nói của cháu, và ông đứng dậy, bên phía mặt hiền hòa của ông, ta thấy một thoáng buồn.
            Đã chỉnh sửa bởi Photo; 13-12-2009, 12:44 AM.

            Comment

            • #7



              Mẫu Thượng Ngàn -Phần 2 - Chương 3



              Trước kia, một mình Điều phải chăn năm con bò, hai con bò vàng, một con bò loang, một con bò đen và một chú bê con. Hai con vàng và con loang là ba con cái. Con đen là con đực. Lũ bò rất hiền, chăn chúng thật nhàn. Chỉ riêng con đực, chăn nó quá mệt. Chú bò đen này hăng lắm. Hai chiếc sừng của nó nhọn hoắt, đâm thẳng ra phía trước như hai con dao găm. Nó vạm vỡ, cao lớn, to gấp rưỡi những con bò thường. Khi đuổi theo những con khác, Bò Đen hùng dũng phi nước đại, đầu lao ra phía trước. Ba con bò cái, một con tên là Sừng Hươu, con thứ hai có tên Bò Loang, con thứ ba Điều gọi nó là Sừng Khoằm. Con bê là con của Sừng Hươu và Bò Đen, nhưng nó giống mẹ, lông toàn màu vàng. Bò Đen tuy đã có ba vợ, song vẫn chưa thỏa mãn. Nó vẫn còn dư sức để đi trăng hoa ngoài đàn. Hình như các cô bò cái trong làng đều thích nó. Cứ thoáng thấy cái bóng cao lớn của nó từ xa, các cô đã cất cao giọng chào mời. Thế là Bò Đen bỗng lồng lên, phi theo tiếng gọi. Giữ nó mệt như thế đấy, vì vậy lúc nào cu Điều cũng phải để mắt tới nó.
              Còn bây giờ, đi chăn bò đã có thêm cái Nhụ, đi chăn đã có đôi, Điều chợt thấy như người cất được gánh nặng, chợt thấy nhẹ bỗng hẳn. Cái Nhụ thật chu đáo. Gặp hôm trời nóng nực, trước khi đi, bao giờ, Nhụ cũng ra bể, múc gần đầy chiếc ấm da lươn nước mưa.
              Cái bể nước mưa của cụ Tiết cũng khá đặc biệt. Trịnh Huyền giỏi phân biệt được nước mưa cây cau với nước mưa mái ngói, điều ấy nhờ cụ đồ Tiết truyền dạy. Cụ Tiết nghiện trà và pha trà bao giờ cũng bằng thứ nước mưa ở bể nhà cụ. Cái bể nước mưa không to. Nước ở đó chỉ dùng để pha trà. Chung quanh bốn góc bể, trồng bốn cây cau mập mạp, thứ cau liên phòng ra hoa tứ thời. Bốn cây cau, tàu loe giữa trời, như bốn cái phễu ngửa lên hứng nước trời; thứ nước tinh khiết từ rừng, từ suối bốc lên, rồi rơi xuống bốn cái tán lá xanh tươi đó, rồi theo cuống phễu tức là bốn thân cây chảy xuống đến ngang tầm miệng bể, thì gập bốn tàu cau buộc ngang thân cây ngăn lại, rót nước vào bể. Bốn cây cau đó luôn được cụ Tiết kiểm soát. Hễ động có con chim sẻ nào tha rác định làm tổ ở những bẹ cau, lập tức cu Điều phải như con mèo trèo lên ngay, để phá tổ, không cho phép chim đẻ con tại đó. Bởi vì, nước từ tổ chim sẻ chảy xuống bể, thì nước bể coi như tạp, ô uế, không thể pha trà được nữa.
              Cu Điều thấy ông bảo nước mưa ở cái bể rất ngon, rất quý. Nó chỉ nghe thế thôi chứ không biết ngon là thế nào. Tuy nhiên, hễ ông sai lên phá tổ chim sẻ, cu Điều thi hành ngay tắp lự, rất tích cực để bảo vệ sự tinh khiết của nước. Chỉ đến khi hàng ngày Nhụ lấy cái ấm da lươn múc nước ở bể, rồi hái dăm bông hoa nhài vứt vào, Điều mới hiểu cái quý báu của nước mưa ấy là thế nào. Cái ấm luôn được buộc vào cổ con bò loang. Con bò này rất khéo, nó bước đi khoan thai, nhịp nhàng. Cái ấm đung đưa, lắc lư, nhưng nước chẳng sánh ra bao giờ. Có lần, Điều treo cái ấm vào cổ con Sừng Hươu hay con Sừng Khoằm song Nhụ không nghe. Nhụ bảo hai con bò ấy cũng rất khéo léo chẳng kém gì Bò Loang, tuy nhiên Sừng Hươu còn đang trong thời kỳ cho con bú, còn Sừng Khoằm lại đang có mang; vì vậy không nên làm chúng mệt. Từ nhỏ, Điều chỉ được sống với ông nội, chưa hề được bàn tay phụ nữ chăm sóc bao giờ, cho nên nó lớn lên như cỏ hoang, rất vô tâm. Lần đầu tiên nó được biết thế nào là sự tỉ mỉ, chu đáo, ân cần của một người đàn bà. Đến trưa, khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, Điều chợt thấy khát quá, quen như mọi khi, nó phăm phăm chạy ra chỗ ruộng sâu, định vốc nước ruộng lên uống. Nhụ liền ngăn nó lại, đem ấm nước mưa ra cho uống. Cũng là lần đầu tiên, Điều được uống thứ nước mưa ướp hoa nhài. Nó tu ừng ực làn nước mát, ngọt lịm, thơm tho. Uống xong một lúc lâu còn cảm thấy mùi hoa thơm vẫn đọng lại trong cổ họng và phảng phất nơi ngực, trên tấm áo nâu cứng quèo mà khi uống nó làm vương ra.
              Đàn bò lúc này đã nằm im dưới gốc cây chói lói đang đâm hoa đỏ rực. Điều nằm thẳng cẳng trên đám cỏ, úp chiếc nón mê lên mặt. Nó nằm dưới bóng một cây sim già lá rậm rịt. Nhụ vừa đi tát vũng về, bắt được một xâu cá rô. Nó nhóm lửa nướng cá. Mới đầu lá rừng, củi sim bén lửa, tạo thành một mùi thơm đặc biệt lan tỏa trong gió, vừa ngai ngái vừa thơm thoảng. Tiếp theo là mùi cá nướng, thơm sực nức ngào ngạt. Nhụ vừa làm vừa hát. Lại là khúc hát đầu tiên Điều được nghe. Nó khác hẳn những khúc hát ở vùng này mà chú bé đã được nghe. Khúc hát tươi tắn, réo rắt, vừa nhún nhảy vừa lượn lờ.
              A……..
              Cô Chín ngự đồng dệt gấm thêu hoa
              Long ly quy phượng cô thêu ra đôi rồng chầu.
              A……..
              Cô thêu đỏ lặn ác tà
              Thêu non, thêu nước, cô thêu hoa, thêu người.
              Giọng hát của Nhụ lảnh lót, ríu rít như tiếng con họa mi của ông nội mỗi khi ông mở tấm vải che lồng rồi vẫy tay ra hiệu cho nó cất tiếng. Điều hất cái nón che mặt, nhổm dậy bên gốc sim già. Nó nhớ lại cái chiều hôm chú Huyền và Nhụ trở về nhà. Lúc ấy, ông nói chuyện riêng với chú. Điều đi rút rơm đun ở đống rơm chất sau lưng nhà nên đã bất chợt nghe hết chuyện của hai người. Nó biết Nhụ không phải con ruột của chú. Và cũng không hiểu tại sao nó lại thấy vui vui trong dạ. Khi trở lại bếp, dưới ánh lửa rơm lúc bùng mạnh lúc yếu, nó nhìn trộm đôi má ửng lên vì ánh lửa của cô em gái hờ mà lúc nãy nó chưa kịp nhận rõ mặt. Cũng là lần đầu tiên nó chú ý quan sát một cô con gái, tự dưng nó bỗng cảm thấy đôi tai mình cũng nóng ran.
              Nhụ còn đương ngân nga chưa hát xong câu hát, chợt thấy gáy mình nóng ran. Nó quay đầu lại, thấy Điều đã đứng ở phía sau.
              - Em hát bài gì mà hay thế? Anh chưa nghe thấy bao giờ.
              - À bài "Dệt gấm thêu hoa", văn cô Chín.
              - Cô Chín nào?
              - Cô Chín Đền Sòng mà anh không biết ư?
              - Anh không biết.
              - Anh có thích không?
              - Thích.
              - Em dạy cho mà hát.
              Điều lúng túng, rồi lắc đầu:
              - Không, anh chẳng... học đâu.
              Nhụ mở to đôi mắt:
              - Sao lại không? Anh thích học đàn cơ mà. Phải học hát trước, rồi học đàn sau...
              - Thôi. Anh chẳng học nữa.
              - Vì sao?
              - Vì… vì… học hát thì phải lạy em làm thầy.
              Nhụ cười rũ rượi:
              - Ai bảo anh thế?
              - Chú bảo.
              Nhụ vẫn cười rồi nói:
              - Thế em không bắt anh lạy làm thầy, anh có chịu học không?
              - Thế thì chịu.
              - Anh có biết không? Ngày xưa, mẹ em cũng phải dạy bố em học hát trước đấy.
              - Mẹ em có dạy em không?
              - Không. Mẹ chẳng dạy. Mẹ bảo: Con đừng học hát. Đừng bao giờ học hát như mẹ. Em hỏi sao lại thế. Mẹ chẳng nói và mẹ cũng chẳng bao giờ nhắc lại chuyện ấy. Và em cũng chẳng học, nhưng không hiểu sao em vẫn cứ biết hát. Có lần em hát nghêu ngao ngoài vườn, ông ngoại và mẹ ngồi ở đầu hè nghe em hát cứ thừ người ra. Ông ngoại bảo: Con bé có cái giọng lạ quá. Còn mẹ thì thở dài.
              - Sao em hát hay mà mẹ em lại thở dài nhỉ. Em kể nữa đi.
              - Kể gì?
              - Thì những chuyện như vừa rồi. Anh thích nghe lắm.
              Nhụ cười... Kể gì nhỉ? Thực ra, những chuyện ngày xưa, người kể cũng thấy thú vị, người nghe, dù là những chuyện chẳng đâu vào đâu, cũng thấy lạ lùng, hay hay. Đôi mắt to và dài của Nhụ trở nên long lanh. Hàng mi chớp chớp như để gọi những hồi ức trở về. Những ký ức, tuy chưa lâu, mà đã trở nên xa lắc xa lơ trong tâm tưởng cô gái. Mẹ ơi... Cái người đàn bà dáng vóc gầy guộc mà sao giọng lại âm vang và long lanh đến như vậy. Chưa bao giờ Nhụ thấy người đàn bà nào hát hay như mẹ. Cái con người yểu điệu cớ sao gương mặt tại buồn buồn và trìu mến đến lạ lùng như vậy. Gương mặt ấy sao giống như quê em, một biển nước mênh mông trắng xóa, thỉnh thoảng lại trồi lên một làng nổi xanh rì. Quê em, nó bơ vơ như những cánh chim bay vật vờ vào chiều mây xám, nó hệt như con cò trắng so vai, lủi thủi lò dò... Điều bảo:
              - Hình như quê em cũng giống như ở đây, tuy rằng nó có khác. Để bao giờ mùa đông, anh dẫn em vào rừng cỏ lam. Nó cũng mênh mông và trắng xóa. Nó cũng rập rờn như biển nước.
              Nói chuyện phiếm mãi để cho đám củi sim tắt lúc nào chẳng hay. Nhụ lấy cành cây kéo đám sim khô vào giữa đống tro. Gió nhẹ thổi bùng lên vài ngọn lửa nhỏ, nó cháy lem lém, sau đó lửa lại tắt lịm, chỉ còn để lại những làn khói trắng đặc quánh lúc thơm thơm, lúc hăng hăng. Khói cay xè làm Nhụ chảy nước mắt, nhưng cô bé lại cười:
              - Mẹ em hát bài Văn cô Chín hay hơn em nhiều lắm. Nhất là khi mẹ hát, còn thầy đánh đàn. Mẹ bảo thầy em đánh đàn gần bằng được như ông. Còn ông thì bảo thầy đánh đàn chưa lâu nhưng tài hoa hơn. Em hỏi tài hoa là gì? Ông bảo tài hoa là thế nào thì chịu không giảng được. Mẹ bảo tài hoa giống như người lên đồng. Khi thầy đánh đàn bài Văn cô Chín, cô hiện hồn về nhập vào tay thầy, thầy đánh đàn hay cô Chín đánh đàn ai mà biết được, nhưng chắc chắn tiếng đàn sẽ rất tài hoa.
              Điều lại hỏi:
              - Cô Chín là ai?
              - Mẹ em bảo cô Chín là người hầu của Mẫu.
              - Mẫu ư? - Điều thì thầm hỏi.
              Nhụ kính cẩn:
              - Thầy em nói: Ở nước mình, chỗ nào cũng có Mẫu. Thế núi Mẫu làng mình ở chỗ nào hở anh?
              Chú bé giơ tay, chỉ ra xa xa:
              - Kia kìa? Hòn núi cao cao, phía tay phải bên kia sông. Muốn đến núi Mẫu phải ra hồ Huyền, rồi từ hồ Huyền bơi ra sông Son, ngược dòng sông Son chừng nửa cây số là đến bến Mẫu. Đền Mẫu ở trên đỉnh núi.
              - Mẹ em bảo đền Sòng cũng ở trên núi. Trên là núi, dưới là suối, chung quanh là rừng.
              - Em đã bao giờ đến đấy chưa?
              - Xa lắm! Ở mãi tỉnh Thanh. Trẩy hội, phải đi mấy ngày ròng rã. Em đi sao được.
              - Vậy thì, hôm nào anh sẽ chèo đò đưa em lên đền Mẫu quê anh.
              Mùi cá nướng bốc lên thơm lừng. Mải chuyện, nên cá đã cháy. Chẳng sao, cá cháy càng thêm chín, thêm ngọt, thêm thơm. Hai cô cậu rút xâu cá rô từ trong đống lửa ra. Chúng cạo vẩy, rồi thổi phù phù, đưa lên miệng. Than đen dính đầy môi, đầy mép. Có cả những vết nhọ trên má trên cầm. Trông hai đứa như hai con quỷ nhai than. Chao ôi? Sao mà thơm mà ngọt. Rồi chúng nhìn nhau cười khúc khích. Ăn xong, Điều đưa hai tay lên đầu, sau gáy làm gối; nó vừa nhìn những đám mây trôi vừa nghe Nhụ kể những câu chuyện hoang đường song thú vị:
              - Cô Chín là người hầu thân cận của Mẫu. Ở đền Sòng có một cây sung cổ thụ; gốc nó to người ôm không xuể. Bóng mát của nó tỏa rộng. Trên các cành, trên thân cây, quanh năm lúc lỉu những quả sung to bằng nắm tay; quả xanh mướt, quả đỏ chót, cả những quả chín đen màu mận chín. Sung chín, tỏa mùi thơm lừng gọi từng đàn chim bay về. Lúc nào, trên cây cũng nghe thấy tiếng chim rúc rích, líu lo. Lũ chào mào đỏ đít, lũ sáo đen mỏ ngà, lũ sáo đá loang lổ, lũ vành khuyên vàng ươm. Cạnh cây sung là cây doi, lá to như lá đa, quanh năm xanh um rậm rịt, đó là nơi lý tưởng cho lũ chim làm tổ.
              Đức Mẫu Thượng Ngàn ngự chín tầng mây.
              Cô Chín mắc võng ngự rày cây sung.
              - Vậy là cô Chín cũng làm tổ trên cây sung.
              - Làm nhà chứ ai gọi làm tổ. Cô Chín là thánh là tiên, chứ đâu phải là chim. Nhưng cũng có lúc cô hóa thành con vàng anh, con bách thanh chúa của loài chim. Cô chẳng mọc cánh mà vẫn biết bay:
              Khi vui, cô Chín ngự chiếc xe rồng.
              Khi buồn, phách trúc, đàn thông, cung tì bà.
              Dập dìu yên múa, oanh ca
              Thoắt thôi cô lại ngự về tòa sơn lâm.
              Cô rong chơi mười tám cửa ngàn
              Ba mươi sáu động sơn trang các tòa.
              Cô Chín hát hay, đàn ngọt. Cô lại biết cả thêu thùa. Kể đến đây, Nhụ cất lên tiếng hát, hát cái bài lúc nãy đã làm mê mẩn tâm hồn chú bé:
              A... ới a
              Dệt gấm thêu hoa...
              Tiếng hát như ru người ta vào giấc ngủ. Điều lim dim đôi mắt, mường tượng ra cảnh một cô tiên áo đỏ, đang ngồi vắt vẻo trên chiếc võng xanh; hai đầu võng mắc vào cành sung. Cô đánh võng bổng lên cao tít trời xanh. Vừa đưa võng cô vừa cất tiếng hát. Trên đầu cô, lũ chim lượn thành vòng tròn. Dưới khe suối sâu thẳm, bầy cá chép vàng cũng chụm đầu, nghển cổ, hướng về tiếng hát rồi lại tỏa ra để múa để bơi...
              Điều còn đang mơ màng, đột nhiên tiếng hát của Nhụ bỗng tắt lặng. Rất đột ngột như có chuyện gì lạ sắp xảy đến. Điều vội vàng nhổm dậy.
              Từ xa, có hai con ngựa đang phi tới. Đi trước là một người Tây, đội mũ trắng, mặc quần áo trắng. Theo sau là một người Việt, mặc quần áo vàng. Hai đứa trẻ đứng dậy. Nhụ nép sau lưng Điều. Đến gần hai đứa mục đồng, hai con ngựa dừng lại. Điều lễ phép nói:
              - Chào quan lớn.
              Người Tây không xuống ngựa, giơ chiếc roi da hỏi:
              - Hai em chăn bò cho đồn điền hả?
              - Thưa vâng.
              - Sao lại buộc bò ở gốc cây?
              - Dạ, trưa nắng, phải cho bò nghỉ..
              Người kia là anh lính khố xanh. Hắn xuống ngựa, đến gốc cây chói lói ngắm lũ bò. Người Tây hỏi anh lính:
              - Thế nào? Láu?
              - Dạ, lũ bò đều béo, lông mượt.
              - Quan lớn khen hai đứa chăn bò tốt... Người Tây cất tiếng ồ ồ bằng cái giọng lơ lớ khó nghe và nhát gừng.
              Từ nãy Nhụ vẫn sợ hãi núp sau lưng Điều. Đây là lần đầu tiên cô đứng gần, hầu như đối mặt với một ông Tây. Cũng là lần đầu tiên cô biết thế nào là người da trắng, mắt xanh, mũi rõ, tóc vàng. Người Tây vẫn ngồi trên lưng ngựa, cất tiếng hỏi:
              - Cô bé... này... ở đâu? Ta chưa thấy... bao giờ.
              Điều cầm tay Nhụ nói rất bình tĩnh:
              - Dạ, nó là em con, vừa mới ở quê lên.
              - Ra đây... Ra đây... Ta xem...
              Nhụ líu ríu, bước chậm chạp đến trước mặt người Tây. Hai tay cô bé khoanh trước ngực, đầu cúi gằm.
              - Đừng... có sợ... Ngẩng... cái đầu lên... cho ta xem.
              Người Tây ngắm nghía Nhụ rất kỹ lưỡng rồi mỉm cười:
              - Tốt lắm... Tốt lắm... Trông... Ngoan lắm.
              Rồi ông ta gật gù cái đầu, móc tay vào túi lấy ra một đồng xu đưa cho cô bé:
              - Tốt lắm... Chăn bò... Tốt lắm... Quan cho...
              Nhụ không chìa tay. Người lính bảo:
              - Quan lớn thưởng cho đấy. Cầm đi.
              Điều đứng bên cạnh lặng lẽ, mắt gườm gườm.
              Hai con ngựa lại sóng đôi đi khỏi gốc cây chói lói.
              Người Tây, tên là Julien Messmer nói với người lính hầu cận:
              - Ông Láu có biết không... Ở bên Pháp người ta nói Đông Dương là bó hoa... đẹp nhất... trong các thuộc địa... của nước Pháp.
              - Bẩm quan đúng như thế ạ.
              - Và cô bé... Tương lai... cũng sẽ là... một bông hoa... rất đẹp... Tôi nói... có đúng không?
              - Bẩm, quan lớn có con mắt rất tinh ạ. Rất đúng ạ.
              Hai người vừa đi vừa cười. Người Tây lại nói:
              - Cô bé ấy... mười ba... hay mười bốn... tuổi. Người An Nam các ông... gọi là... Tuổi gì nhỉ...
              - Dạ, người dân An Nam chúng tôi gọi là tuổi "chum chúm núm cau” ạ.
              - Cái gì?
              - Chum chúm núm cau.
              Người hầu cận vừa nói vừa chỉ tay vào ngực.
              Đến lúc đó, người Tây chắc vỡ lẽ; ông ta cười to nhắc lại:
              - Chum... chúm... Núm... cau... Ô la la? Người An Nam các ông nói hay thật. Hay thật? Mà này... còn thằng bé...
              - Thưa quan sao ạ?
              - Tôi thấy... mặt nó... cau cau... Tôi... không... ưa nó.
              Khi người Tây đi xa, Điều đúng đã cau mày với Nhụ:
              - Sao em lại cầm tiền của nó làm gì?
              - Em có muốn cầm đâu. Nó bắt em phải lấy chứ.
              - Không thèm. Đưa đây cho tôi.
              Nhụ đưa đồng xu cho Điều. Cậu bé nhìn đồng xu ngắm nghía rồi cậu quăng nó đi thật xa. Đồng xu bay lên trời rồi rơi lẫn vào đám lau sậy ở chân đồi. Nhụ im lặng, cô bé cứ thấy như mình có lỗi. Cô liếc nhìn Điều. Cậu bé cũng không hiểu tại sao mình nổi cơn tức giận với người Tây đến thế. Cậu tức giận gì? Phải chăng vì con người quyền uy ấy đã nhìn quá chăm chú vào cô bé Nhụ?
              Đã chỉnh sửa bởi Photo; 13-12-2009, 01:09 AM.

              Comment

              • #8



                Mẫu Thượng Ngàn - Phần 3 -Chương 1

                Người Pháp đi xâm chiếm thuộc địa, việc đầu tiên họ làm là chiếm đất đai, khai thác đồn điền. Họ chú ý ngay đến nông nghiệp, bởi vì đầu tư nông nghiệp cần ít vốn, lại sử dụng được nhân công tại chỗ vốn đông đúc và rẻ mạt. Vả lại, nhân công thuộc địa chỉ làm nghề nông, họ quen đất đai, quen khổ sở, lại không cần phải đào tạo tay nghề nhiều khi trồng thứ cây mới. Bóc lột nhân công, bóc lột đất đai là phương thức thu lợi nhanh nhất cho chính quốc. Chính vì lẽ đó nên đã hình thành đồn điền Messmer trên vùng đất Cổ Đình.
                Làng Cổ Đình, cuối thế kỷ mười chín là vùng đất trải qua nhiều cuộc nhiễu loạn. Hồi cuối thời Tự Đức thì giặc cờ đen, cờ vàng quấy nhiễu. Lúc Tây chiếm Bắc Kỳ, thì liên miên hết phong trào Văn Thân lại đến cuộc khởi nghĩa Đốc Ngữ. Làng nằm giữa vùng xung đột. Ở đây có ao hồ đầm lầy, có rừng rậm, có núi non hiểm trở, dễ cho quân khởi nghĩa ẩn náu. Nhiều lúc nó đã là căn cứ của nghĩa quân. Quân của ta thoắt hiện, thoắt biến, trong chốc lát có thể lẫn vào rừng già, núi non.
                Quân khởi nghĩa rút, tiếp sau đó là địa bàn hoạt động của quân Pháp và lính khố đỏ khố xanh. Chúng đuổi theo nhưng rồi đến lượt chúng lại cũng rút đi.
                Cuối cùng, lũ giặc cướp xuất hiện. Kẻ cướp là đám nông dân đói khát lưu vong, đám du thủ du thực, đám tuổi trẻ táo tợn nổi loạn. Họ chẳng có phương hướng gì hết. Họ bảo nhau: "Trai thời loạn. Lúc này là thời của kẻ mạnh, kẻ ngổ ngáo". Ban đêm, họ tụ tập nhau lại thành từng toán, tay dao tay gậy, đất đuốc rừng rực, xông vào các xóm làng giết người, cướp của. Ban ngày là cảnh lũ lính khố xanh khố đỏ trắng trợn hãm hiếp đàn bà con gái. Ban đêm là cảnh đuốc rực trời, và tiếng trống ngũ liên tiếng phèng la vang dội, cùng những tiếng khóc lóc kêu cứu từ những mái tranh nghèo.
                Sợ hãi vì sự giành giật; kiệt quệ vì sự tàn phá cướp bóc, người Cổ Đình đành bỏ đất, đi tha phương cầu thực. Đất bỏ hoang. Hàng ngàn mẫu ruộng biến thành những cánh đồng cho cỏ mọc, đó là nơi trú ngụ của lũ chuột, lũ rắn rết, cầy cáo. Hàng ngàn quả đồi bát úp màu mỡ biến thành những đồi mua, đồi sim, hoặc những cánh rừng tạp không giá trị, chỉ toàn những bụi cây lúp xúp; bên cạnh đó, là những đồi lau bạt ngàn, trắng xóa lúc đông về.
                Người Pháp chia những xứ thuộc địa trong đế chế của họ ra làm hai loại: Thứ nhất là những vùng đất để di dân như Algérie, Tân Calédonie; thứ hai là những xứ để khai thác, làm giàu cho chính quốc, ví dụ Maroc và Đông Dương. Vậy nên, nếu dân chúng bỏ ra đi thì tốt quá, đất đai của dân bỗng dưng biến thành đất hoang. Và căn cứ vào bộ luật thuộc địa, đất hoang có thể cấp không cho bất cứ người Pháp nào đến thuộc địa còn đất để khai thác, để lập đồn điền.
                Đồn điền Messmer do ba anh em nhà Messmer: Philippe, Pierre, Julien tạo dựng ở vùng Cổ Đình cũng có nguồn gốc như vậy.
                Người anh cả Philippe Messmer là thiếu úy quân đội, sau gần hai mươi năm chiến trận ở Đông Dương. Năm 1895 ông được giải ngũ. Lúc đó ông trạc 37 tuổi.
                Ông đại tá già chỉ huy, con người đầy từng trải gọi Philippe lên và hỏi:
                - Anh có sợ hãi cái xứ sở nóng nực khủng khiếp này không?
                - Thưa đại tá, tôi đã quen với nó.
                - Tốt! Vậy, anh muốn trở về Pháp, hay ở lại xứ Bắc Kỳ này?
                - Tôi ở đâu cũng được, miễn là có cơ hội làm giàu.
                - Rất tốt! Vậy thì đây là một cơ hội làm giàu. Nhà nước thuộc địa sẽ cấp cho anh đất, sẽ cho anh vay vốn. Anh có thích công việc nhà nông không?
                - Tôi rất thích. - Anh ta giơ cánh tay bắp thịt cuồn cuộn lên để khoe. - Tôi tin rằng mình tôi có thể làm thừa sức 5 héc ta đất.
                Ông đại tá già bỗng cười to, lắc đầu:
                - Ôi! Sao mà cạn nghĩ thế. Sao lại chỉ có 5 héc ta. Nhà nước sẽ cấp cho anh 100 héc ta, nếu anh đủ tài, 1000 héc ta cũng được. Anh sẽ là một điền chủ, một nhà quý tộc.
                Ngừng một lát để suy nghĩ, sau đó viên đại tá tiếp tục nói, càng nói càng hùng hồn:
                - Anh phải nhớ, người Pháp sang cái xứ An Nam này không phải chỉ để kiếm một mảnh đất con con rồi tự tay trồng trọt. Người Pháp sang đây cất để chỉ huy, để khai sáng cho một xứ sở tối tăm. Việc của anh là việc sai khiến người bản xứ. Anh phải ghi nhớ: anh là ông chủ, là một nhà chinh phục, là một nhà thực dân về đất đai

                Comment

                • #9




                  Mẫu Thượng Ngàn - Phần 3 -Chương 2 :



                  Philippe Messmer là con người ưa phiêu lưu mạo hiểm. Ông sinh đúng vào cái thời mà các nước châu Âu đua nhau đi chiếm thuộc địa. Trở thành một conquistador (nhà chinh phục), đi chế ngự những dân tộc dã man, đi khai hóa văn minh cho những con người sống trong tăm tối, vác cây thánh giá lên vai, đem ánh sáng của Chúa đến cho những con người tà giáo, đó là ước vọng của Philippe. Khi còn là một thiếu niên, đọc trên báo thấy thiếu úy Francis Garmer chỉ có một nhúm năm mươi quân lính, phối hợp cùng đoàn thủy thủ vong mạng quốc tế của Đồ Phổ Nghĩa, nói tóm lại, chỉ chừng 200 người mà đã chinh phục được Bắc Kỳ, chiếm thành Kẻ Chợ (Hà Nội), Philippe thấy kính phục Francis Garmer vô cùng. Đối với cậu bé Philippe lúc ấy, ông ta là người anh hùng.
                  Do vậy, khi đủ mười tám tuổi, cậu tình nguyện gia nhập quân ngũ. Cậu được học một lớp hạ sĩ quan, rồi được điều ngay sang Đông Dương. Sang đến nơi, cậu lại được chuyển ra xứ Bắc Kỳ. Thật phỉ chí! Thật hạnh phúc! Chàng thanh niên đầy nhiệt huyết đêm ngày chỉ mơ thấy những chiến công.
                  Philippe được đóng quân ngay tại Kẻ Chợ, một thành phố cổ, xưa kia là kinh đô của một cái nước mà những nhà nghiên cứu gọi là nước Đằng Ngoài.
                  Tại Hà Nội, Philippe đóng quân ở khu Nhượng địa. Sau lần người Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất, sau khi Francis Garnier bị quân Cờ Đen chặt đầu, hiệp ước Philastre được ký. Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ, nhưng trong hiệp ước ấy, có điều khoản phía Việt Nam phải dành hai khu Nhượng địa cho Pháp, một ở Hải Phòng và một ở Hà Nội. Triều đình cố thương thuyết để Pháp không có mặt tại Hà Nội, song phía Pháp cứ nhất quyết đòi bằng được. Sau nhiều lần đàm phán, sau nhiều sức ép và mưu mẹo, cuối cùng triều đình Huế phải chấp nhận để cho Pháp một khu đất có diện tích 185.085m2 ở phía nam thành phố.

                  Đó là khu đất theo dọc bờ sông, chạy dài suốt từ Nhà Hát Lớn đến bệnh viện Hữu Nghị ngày nay. Thời xưa, người Hà Nội gọi đó là Đồn Nam hay Đồn Thủy vì đó là nơi đóng quân phòng giữ phía nam thành phố. Lúc đó vùng Nhà Hát Lớn và trường đại học vẫn là vùng đầm lầy.
                  Được mảnh đất chiến lược này, người Pháp rất hài lòng, vì từ Đồn Thủy có con đường nối liền qua phố Hàng Khảm, đến Cửa Nam, vào trong thành (nay là đường Tràng Tiền - Tràng Thi). Vả lại, ở địa điểm này còn có cái lợi là sát ngay sông, dễ tiếp tế và chuyển quân; từ Sài Gòn, qua Hải Phòng, rồi ngược sông Hồng là tới ngay vị trí Đồn Thủy. Lúc đó là năm 1875.
                  Nhà chính khách Pháp Jules Ferry nói:
                  "Nước Pháp cần phải ủng hộ một đế chế thuộc địa, cần phải hiện diện ở khắp mọi nơi, ở những nơi mà những quyền lợi lớn của thế giới xung đột với nhau. Đường lối thuộc địa là con đẻ của đường lối công nghiệp, là chiếc van an toàn của một cỗ máy khổng lồ mà nhịp điệu sản xuất có thể trở nên đáng sợ".

                  Người Pháp đã có ý đồ, nên tháng 4 năm 1882, thống đốc Nam Kỳ cử thiếu tá Henri Rivière ra Hà Nội. Trước khi Henri lên đường, thống đốc Le Myre de Viler nói với ông:
                  - Trái cây đã chín; đã đến lúc ta phải hái. Nếu ta không làm điều đó, hoặc những kẻ khác sẽ hái lượm thay ta, hoặc là cái xứ Bắc Kỳ chín mõm ấy sẽ rơi vào cảnh tan rã. Hãy chiếm lấy tất cả những gì ta có thể giữ được. Hãy thiết lập vị trí của chúng ta một cách mạnh mẽ. Hãy tránh sự bất ngờ và hãy chờ đợi thời cơ.
                  Tại sao ngài thống đốc súy phủ Nam Kỳ lại chọn Henri Rivière ra Bắc Kỳ? Bởi vì ngài không muốn lặp lại cách giải quyết hấp tấp vội vã như mười năm về trước khi Francis Garnier ra Bắc Kỳ đánh chiếm thành Hà Nội. Francis Garnier dù sao cũng mang tính chất võ biền, phiêu lưu chủ nghĩa, ham đánh thắng mà quên mất chính trị. Còn Henri Rivière, ông là một đại úy thủy quân mới được phong thiếu tá, đã 55 tuổi, vừa là nhà sử học, nhà tiểu thuyết, lại còn là nhà thơ. Ông ta giao du với giới trí thức tinh hoa của nước Pháp như Gustave Flaubert, Alexandre Dumas - con... Một sĩ quan như thế ắt hẳn sẽ vừa là nhà quân sự, vừa là nhà chính trị tinh tế.
                  Philippe Messmer rất sung sướng khi anh ở đội lính danh dự đón chào thiếu tá Rivière đến nhậm chức cùng với hai trăm binh sĩ tại khu Nhượng địa Đồn Thủy. Thiếu tá trông thấy gương mặt thông minh lanh lợi của chàng hạ sĩ Philippe, ông rất ưng. Ông hỏi:
                  - Anh đến xứ Bắc Kỳ bao lâu rồi?
                  - Dạ thưa thiếu tá, tôi phục vụ ở khu Nhượng địa mới được một năm.
                  - Như vậy, ở cái xứ sở kỳ lạ này, anh đã là ma cũ rồi.
                  Thiếu tá liền chọn Philippe vào tiểu đội cận vệ luôn ở bên cạnh mình. Philippe vô cùng sung sướng khi ngài thiếu tá và ngài lãnh sự Kergaradec ngồi bàn luận, anh được đứng sau lưng hầu cận.
                  Ngay sau hôm đến nhậm chức, thiếu tá cùng ngài lãnh sự đến phố hội Truyền giáo để chào đức Giám mục Puginier ngay. Phố hội Truyền giáo nằm xế Trường Thi (tức phố Nhà Chung bây giờ), Philippe cũng được cưỡi ngựa đi bảo vệ ngài lãnh sự Kergaradec và thiếu tá. Ngôi nhà thờ của hội Truyền giáo trông như một cái chùa An Nam. Cũng những cột kèo đầy dãy bên trong. Cũng những hình chạm trổ khéo léo tinh vi trên cột kèo. Chỉ khác là ở đầu hồi nhà có cây thập tự và bên trong ban thờ có tượng Đức chúa. Giám mục tiếp khách trong căn nhà riêng ba gian lợp lá, giống như những căn nhà xinh xắn của một gia đình khá giả người bản xứ.
                  Ngài chỉ huy Henri Rivière gửi lời thăm hỏi biết ơn của thống đốc Le Myre de Viler tới đức giám mục và giáo dân Bắc Kỳ vì những tin tức quý báu mà hội Truyền giáo đã cung cấp để soái phủ có những căn cứ gửi báo cáo về Paris xin ý kiến chỉ đạo. Sau đó, thiếu tá trao tận tay đức giám mục lá thư của thống đốc. Xem thư xong, cha Puginier một con người với dáng vẻ phúc hậu hiền từ, ngước đôi mắt rất sắc của mình nói với Henri Rivière:
                  - Thưa ngài thiếu tá, súy phủ Nam Kỳ cũng cùng ý kiến với chúng tôi. Xứ Bắc Kỳ vốn là nơi cội nguồn của dân An Nam, của nền văn hóa xứ này. Ở đây không như Nam Kỳ. Đảng Văn Thân rất mạnh. Người dân cũng rất trọng vua quan của họ. Lẽ dĩ nhiên, ta phải đánh chiếm lấy. Nhưng như tôi đã nhiều lần trình bày, gửi về nước và tới súy phủ; Hình thức cai trị ở đây nên khác hẳn: Cái đó tôi gọi là chế độ bảo hộ. Điều ấy có ý nghĩa ta phải dùng sức mạnh chiếm lấy xứ này. Sau đó, ta phải trao lại cho quan của họ để họ tự cai trị. Tiếng là họ cai trị, nhưng thực chất vẫn nằm trong tay ta. Như vậy phản ứng của dân họ sẽ dịu hơn.
                  Ngài thiếu tá rất lễ phép:
                  - Thưa giám mục, những điều này chúng tôi cũng đã được thống đốc dặn dò kỹ lưỡng. Tuy nhiên, điều chúng tôi đang cần biết là tình hình hiện nay của phía An Nam.
                  - Theo nguồn tin đáng tin cậy của tôi, từ trong thành Hà Nội mật báo, thì hiện nay tổng đốc Hoàng Diệu đang cấp tốc chuẩn bị súng thần công. Quân sĩ đang chuẩn bị súng ống giáo mác. Dân chúng trong khu phố buôn bán, nhiều người đã cho đàn bà con trẻ về quê. Những tin tức từ Sơn Tây, Nam Định, Bắc Ninh đều nới những nơi ấy cũng đang chuẩn bị nghênh chiến khi nghe tin thiếu tá mang tàu chiến, súng đại bác và mấy trăm quân về khu Nhượng địa.
                  Thiếu tá Henri cười:
                  - Có lẽ mấy hôm nữa tôi phải vào tận trong thành Hà Nội để thăm viếng ngài tổng đốc, làm cho họ yên lòng. Vả lại, tôi cũng muốn tận mắt xem cái thành của xứ An Nam xem nó ra sao.

                  ***
                  Về thành Hà Nội thì từ mười năm về trước lúc Francis Garnier chiếm, người ta đã mô tả tỉ mỉ, thậm chí đã vẽ tỉ mỉ. Henri Rivière đã có trong tay tấm bản đồ đó. Người ta bảo thành đó xây theo kiểu Vauban, kiểu Tây, do những kỹ sư Tây phò tá vua Gia Long vẽ kiến trúc. Nhưng lần giở lịch sử, thấy lúc vua Gia Long chiếm Thăng Long thì các kỹ sư Tây đã chết hoặc bỏ đi hết, làm gì còn Tây kỹ sư mà vẽ. Vì vậy người ta đồ rằng thành Hà Nội là một kiểu thành nửa Tây nửa ta, do các vị quan An Nam dựa vào thành cũ, tham khảo kiểu thành Vauban, rồi lại dựa vào phong thủy mà tạo nên.
                  Ngay ngày hôm sau, thiếu tá Henri Rivière tổ chức cuộc đi viếng thăm có tính chất ngoại giao tới dinh ngài Tổng đốc Hoàng Diệu, viên quan cai trị cao nhất của Hà Nội. Khác với cuộc viếng thăm đầu tiên của Francis Garnier, mười năm về trước, ông ta đã thị uy ngay bằng cách đưa cả đại bác cùng theo. Lần này, Henri Rivière hoà nhã hơn, nhưng không kém phần cứng rắn. Thiếu tá muốn cho dân Kẻ Chợ biết sự oai vệ, sự hùng mạnh của nước Pháp. Đoàn người ăn mặc quần áo thật choáng lộn. Thiếu tá cưỡi trên con ngựa hồng cao lớn dẫn đầu. Vai đeo lon, đầu đội mũ sĩ quan, bên lưng đeo gươm dài. Tiếp sau là bốn con ngựa của đoàn tùy tùng. Rồi đến đội trống, một trống cái, bốn trống con. Sau cùng là một trung đội bộ binh vai bồng súng.
                  Đoàn quân diễu trên con đường đất nối từ khu Nhượng địa tới cổng thành Đông Nam. Từ khu Nhượng địa Đồn Thủy đi ra, đầu tiên Philippe bắt gặp một chiếc cổng tên là cổng Tràng Tiền. Đó là một tòa kiến trúc cổng lớn trên có lan can; chiếc cổng nằm giữa hai trụ cao trên có hai con sư tử đá. Chiếc cổng phương Đông này đơn giản nhưng đẹp và oai nghiêm. Từ đấy đến cổng Nam thành Hà Nội gọi là phố Hàng Khảm vì phố toàn những cửa hàng của thợ thủ công làm đồ khảm, một thứ đồ mỹ nghệ rất tinh xảo.

                  Qua chiếc cổng trứ danh đó, phía trái là Tràng Tiền, một khu đất nằm giữa đầm lầy, nơi đúc tiền của nhà vua, muốn đi vào phải qua một chiếc cầu. Tiếp đến, phía bên phải là Hồ Gươm. Những căn nhà gạch quay mặt ra phố quay lưng ra hồ; đó là những cửa hàng khảm nổi tiếng. Cạnh đấy là khu phố Truyền giáo với cây thập tự nhô lên trên trời từ ngôi nhà thờ nhỏ bé bằng gỗ. Xế đối diện với khu Truyền giáo là Tràng Thi trứ danh, nơi quân Pháp đã ở mấy năm trước khi đến khu Đồn Thủy.

                  Con đường phố Hàng Khảm là đường đất, rộng chừng năm, sáu mét. Đoàn quân của thiếu tá hùng dũng đi đều bước theo nhịp của những chiếc trống. Tiếng trống rung nhịp nhàng oai nghiêm. Đó là một cảnh chưa từng xảy ra ở xứ Bắc Kỳ. Chắc chắn nó gây ấn tượng rất mạnh và nếu như ở một thời hòa bình, nó đã kéo ra đường nhiều đám đông, nhiều đàn bà, con trẻ háo hức đi xem như đi xem hội. Nhưng ở các phường, nhân dân đều đã nghe lệnh của quan tổng đốc rằng quân Pháp đã mang tàu chiến kẻ quân từ súy phủ Nam Kỳ ra, chắc chắn họ có âm mưu và nhân dân phải đề phòng. Do đó, đường phố Hàng Khảm vắng tanh. Những cửa hàng khảm ven hồ Hoàn Kiếm đều đóng cửa im ỉm. Chỉ còn vài hàng ăn, hàng tạp hóa của người Tầu là vẫn mở cửa. Philippe nghĩ bụng chắc đằng sau những cánh cửa đóng kín kia, người dân vẫn nghé mắt nhìn qua khe. Thì nhìn đi! Nhìn mà thấy rõ sự hùng cường của nước Pháp nổi tiếng hoàn cầu. Thì nhìn đi! Nhìn để mà khiếp sợ mà quy phục một nền văn minh vĩ đại. Chúng ta chẳng nhiều đâu. Chỉ vài trăm quân, nhưng cũng đủ để chinh phục cái xứ sở lạc hậu này. Philippe cưỡi ngựa đi sau người chỉ huy mà anh kính phục; ông ta là một sĩ quan văn võ song toàn. Ông Henri Rivière nghiêm trang ngẩng cao đầu trên lưng con ngựa hồng, ông không khiêm nhường, càng không hãnh diện đến mức lố lăng. Không như những thuộc cấp, những người chỉ nhìn sự vật một cách đơn giản, ông biết rằng ở xứ Bắc Kỳ này còn có những người văn thân mà đức cha Puginier gọi là đảng Văn Thân - Gọi là đảng tức là họ đông, họ có mặt ở khắp nơi, họ có những lý thuyết, những tư tưởng lâu đời.

                  Đoàn quân đã đứng trước cửa Đông Nam mà nhân dân Hà Nội vẫn gọi tắt là Cửa Nam. Đó là cái cổng lớn hình vòm, bên trên tòa cổng cao xây một nhà lầu canh xinh đẹp. Chạy dài trước mặt cổng thành và dọc theo tường thành là một con đường rồi đến một con hào rộng chừng 20m, đó là một con sông nhỏ để ngăn sự tấn công. Dẫn vào Cửa Nam là chiếc cầu gạch xây vắt qua hào, hai bên có lan can trông rất duyên dáng. Thiếu tá cho binh lính dừng trước cổng thành. Viên sĩ quan trợ lý và cha phiên dịch tên là Colombert đến trao danh thiếp và thông báo ngài thiếu tá Henri Rivière có nhã ý đến chào thăm hỏi ngài tổng đốc Hoàng Diệu.
                  Sau khi ngựa chạy vào dinh tổng đốc, có quan án sát Tôn Thất Bá ra tận cùng đón khách. Chiếc kiệu đỏ của quan án sát dẫn đoàn người ngựa của thiếu tá gồm bốn người vào dinh tổng đốc nằm ở phía đông thành. Henri Rivière với con mắt nhà quân sự chú ý quan sát những điểm bố phòng của đối phương. Thành Hà Nội là khu đất hình vuông rất rộng nằm giữa bốn bức tường lũy cao. Ở trong đó, có đủ ao hồ, vườn cây, lối đi, vườn hoa và những tòa nhà mái cong kiểu đông phương nằm trên những nền cao. Một con đường lớn dẫn họ tới một tòa nhà xung quanh nhiều cây cối. Trên cái sân rộng lát gạch phía trước nhà, có hai hàng lính gươm giáo tề chỉnh đứng hai bên cửa chính đón khách. Không biết vô tình hay hữu ý, có hai con voi cao lớn đứng dưới gốc cây muỗm cạnh sân, chân cứ dậm thình thịch, rồi tung vòi lên mà hí dài.
                  Quan tổng đốc ra đứng trên thềm đón khách. Ông thiếu tá và hai người lính Tây (trong đó có Philippe) đứng nghiêm chào theo kiểu nhà binh. Cha Colombert làm phiên dịch thì chắp tay cúi đầu chào theo kiểu An Nam. Quan tổng đốc Hoàng Diệu cũng lễ phép chào khách rồi mời vào ngồi trên ghế tràng kỷ. Khách một bên, chủ một bên. Henri Rivière và cha phiên dịch ngồi cạnh nhau. Sau lưng họ là hai vệ sĩ, một là Philippe, người kia là một sĩ quan tham mưu. Phía tràng kỷ đối diện chỉ có một mình tổng đốc Hoàng Diệu. Sau lưng ông là hai võ sĩ An Nam to lớn vạm vỡ, ngoại khổ so với tầm vóc người Nam vốn nhỏ bé; nhưng so với người Tây vốn có tầm vóc cao to hơn, thì hai võ sĩ này cũng vẫn ăn đứt. Họ đứng khoanh tay trước ngực, mắt chằm chằm nhìn vào khách. Cứ có cảm giác họ có thể vặn gãy cổ ngay đối phương. Bây giờ, Rivière đã có thể khẳng định được những cảm nhận tiêu cực của mình. Ông hiểu, hai con voi dưới gốc cây muỗm ngoài kia, và hai người lính thị vệ khổng lồ kia là những ý ngầm được bộc lộ rõ ràng.
                  Quan tổng đốc và ngài thiếu tá trao đổi với nhau những câu khách sáo và lịch sự. Henri nói:
                  - Chúng tôi tới Bắc Kỳ hoàn toàn với thiện chí. Chỉ vì những tàu buôn của chúng tôi có giấy phép của nhà vua mà cũng không có hiệu lực. Ông Courtin và Villeroi được giấy thông hành lên Vân Nam nhưng đến Lào Cai thì giấy phép cũng không giá trị.
                  - Thưa ngài việc ấy chúng tôi đã được biết. Cản trở là do số giặc khách, tàn quân Thái Bình Thiên Quốc từ bên Tầu tràn sang.
                  - Đó chính là điều chúng tôi muốn thương thảo cùng các ngài. Nên chăng ta dùng binh lực mà dẹp chúng cho yên. Người Pháp chúng tôi muốn giúp triều đình.
                  - Thưa ngài, việc dẹp loạn là việc nội trị của chúng tôi. Việc quý quốc muốn trợ giúp, chúng tôi phải xin ý kiến của triều đình trước đã.
                  Thiếu tá Henri Rivière trang trọng và nghiêm nghị. Một thái độ rất lịch sự:
                  - Tuy nhiên chúng tôi thấy rằng, từ khi chúng tôi đặt chân lên Hà Nội, chúng tôi chỉ thấy quá nhiều sự thù nghịch. Dân chúng nhiều người đã rời khỏi Kẻ Chợ. Có nhiều đạo quân xuất hiện quanh Hà Nội. Chúng tôi trân trọng nhắc lại với ngài tổng đốc: Chúng tôi, người Pháp, tới xứ Bắc Kỳ này hoàn toàn thiện chí. Tôi cũng mong nhận được sự thiện chí ở các ngài. Nghĩa là tôi muốn các ngài hãy rút binh sĩ về vị trí cũ.
                  - Tôi nghĩ rằng ngài chỉ huy quá nghi ngờ. Việc điều động binh lính từ chỗ này sang chỗ khác là quá bình thường trong việc quân. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin ghi nhận ý muốn tìm thiện chí ở các ngài.

                  ***

                  Thiếu tá Henri Rivière suy nghĩ rất lung. Ông lãnh sự Kergaradec truyền đạt ý kiến của súy phủ Nam Kỳ. Người ta muốn chiếm thành Hà Nội nhưng lại muốn tránh nổ súng. Chung quy là tại ở chính quốc người ta vẫn chưa dứt khoát có nên chiếm Bắc Kỳ hay không. Đức giám mục Puginier cho rằng tình hình đã chín mùi lắm rồi. Giặc khách từ bên Tầu tràn sang. Giặc cướp nổi lên tứ tung. Người nông dân điêu linh, nhất là những người nông dân theo đạo Thiên chúa. Còn quan lại và triều đình Huế thì tỏ ra bất lực, không tài nào làm chủ được tình thế. Ông càng khó chịu khi các quan An Nam và dân chúng công khai tỏ ra chống đối người Pháp. Ông cưỡi ngựa đến phố Truyền giáo mà suốt dọc đường chẳng thấy một bóng người. Dưới con mắt một nhà quân sự lão luyện, khi vào thành gặp ngài tổng đốc, nhìn những khẩu pháo cổ lỗ của họ chỉ đáng đưa vào nhà bảo tàng, nhìn những khẩu súng hỏa mai và giáo mác của những binh lính An Nam, ông hiểu rằng việc đánh chiếm thành Hà Nội chẳng có gì là khó khăn. Tuy nhiên, ông cũng hiểu rằng đánh cái thành này thì dễ, nhưng bình định, rồi chiếm toàn bộ xứ Bắc Kỳ lại chẳng phải sự dễ dàng.
                  Trong khu Đồn Thủy, binh lính Pháp nóng lòng muốn được chiến đấu lập công. Ngài thiếu tá rất thận trọng trước khi ra quyết định. Ngài làm việc, nắm chắc tình hình, qua các cuộc nói chuyện với các cha xứ, giáo dân từ Nam Định, Bắc Ninh và Sơn Tây đến. Ngài lại trao đổi kỹ với đức giám mục Pugimer và lãnh sự Kergaradec. Cuối cùng, Henri Rivière ra tay quyết liệt.

                  Ngày 25 tháng tư, nghĩa là khoảng một tháng sau khi đến Hà Nội, thiếu tá sai một sĩ quan cùng Philippe đến trao cho tổng đốc Hoàng Diệu một bức thư. Đó là tối hậu thư trong đô yêu cầu bốn điểm:

                  1- Nước Nam phải nhận cho nước Pháp bảo hộ.
                  2- Phải nhường thành phố Hà Nội cho nước Pháp.
                  3- Đặt thương chính ở Bắc Kỳ.
                  4- Sửa lại việc thương chính ở các tỉnh và giao quyền cho người Pháp cai quản.

                  Và việc trước mắt yêu cầu tổng đốc Hoàng Diệu phải lập tức giải binh. Các quan võ của An Nam phải ra khu Nhượng địa Đồn Thủy đợi lệnh. Hạn của tối hậu thư là đến 8 giờ ngày 25 tháng tư năm 1882.
                  Lẽ dĩ nhiên, bức tối hậu thư đòi hỏi quân Nam đầu hàng một cách nhục nhã như thế, ngài tổng đốc Hoàng Diệu đời nào chịu.

                  Hết hạn tối hậu thư, sáng hôm ấy đúng tám giờ sáng, quân Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội lần thứ hai. Quân Nam đánh trả không hiệu quả. Tổng đốc sai án sát Tôn Thất Bá trèo thang ra điều đình. Tôn Thất Bá ra khỏi thành nên bỏ trốn. Quân Pháp với vũ khí tối tân, đánh đến mười một giờ trưa đã hạ được thành. Tổng đốc Hoàng Diệu đau buồn vì không giữ được thành đã treo cổ lên cây tuẫn tiết. Đánh xong, Henri Rivière liền trao lại quyền cho quan lại nước Nam nhưng vẫn để một đại đội lính Pháp đóng ở trong thành. Nghỉ ngơi xong, thiếu tá quay trở về khu Nhượng địa Đồn Thủy.

                  Ngày 2 tháng năm, Henri Rivière viết thư cho Alexandre Dumas - con, tác giả Trà hoa nữ:
                  “Tôi đã chiếm thành phố hơi muộn, nhưng chẳng phải lỗi tại tôi. Đó là tại ngài tổng đốc trấn thủ tòa thành này đã tăng cường phòng thủ một cách quá ư công khai để chống lại chúng tôi, nên tình hình như vậy không thể kéo dài... Khi tôi vào phía trong tòa thành, tôi hơi mệt tí chút, và tôi phải nằm dài trên chiếc chiếu trong nhà một vị quan. Người ta quạt cho tôi, dội nước mát lên đầu tôi. Điều đó làm tôi hồi lại sức nhanh chóng, đến nỗi tôi có thể ăn gần hết sạch một con gà luộc. Đó là bữa ăn sáng mừng chiến thắng. Tôi đã dùng bữa ăn này trong dinh quan tổng trấn, nơi mà ba tuần trước đây, họ đã đón tiếp tôi lần đầu. Tôi gặp lại nơi này với một chút thích thú và một chút giận hờn. Tôi còn nhớ lúc đó sau lưng tôi có hai chàng lực sĩ cao lớn người Nam như có nhiệm vụ, nếu cần, thì bóp cổ tôi. Còn nhớ cả hai con voi trận như có ý định giày xéo hoặc xua đuổi hai người lính cận vệ của tôi bằng cái vòi... ".

                  ***
                  Sau cuộc chiến lại đến lượt các nhà ngoại giao, chính trị, dùng âm mưu, thủ đoạn, ngôn từ lao vào thương thuyết. Pháp cử ông Rheinart từ Paris sang. Họ nói rằng đánh thành Hà Nội không phải chủ ý của nước Pháp. Họ đề nghị triều đình Huế cử quan chức ra mà cai trị dân. Triều đình cử ông Trần Đình Túc làm chánh khâm sai, Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai ra đàm phán với Henri Rivière.
                  Nói chung đó là thời gian hưu chiến, bề mặt đàm phán nhưng sau lưng hai bên đều chuẩn bị. Phía Pháp đưa ra những yêu cầu mà bên Nam không thể chấp nhận được; ví dụ nước Nam phải nhận sự bảo hộ của nước Pháp, phải nhượng hẳn Hà Nội cho Pháp… Ông Túc và ông Độ bảo rằng các ông không quyết được, phải xin ý kiến của triều đình.
                  Tuy vậy, thời gian ngừng chiến ấy kéo dài khoảng một năm cũng là thời gian khá thư nhàn cho thiếu tá và quân Pháp.
                  Lúc đó, ở Hà Nội chỉ có hai chiếc xe ngựa rất sang trọng và đẹp đẽ. Một chiếc bằng gỗ, kiểu Ấn Độ dành cho đức giám mục Puginier dùng. Chiếc thứ hai là chiếc bốn bánh, kiểu Victoria. Chiếc Victoria có hai chỗ ngồi đằng sau, thấp, khá thoải mái, và một chỗ ngồi cao đằng trước dành cho xà ích. Chiếc xe mui trần được súy phủ Nam Kỳ gửi ra hai con ngựa lông trắng làm ngựa kéo. Trông chiếc xe đi trên đường Hàng Khảm đến thẳng Cửa Nam, vượt qua cầu gạch, rồi vào thành đến đỗ trước dinh tổng đốc, người dân đi đường và binh lính ai ai cũng phải dán mắt vào, bởi vì chiếc xe lịch sự quá, duyên dáng quá, quý phái quá. Nó không chói lọi vàng son như kiệu phương Đông, nhưng nó thật uyển chuyển, lộng lẫy một cách kín đáo, đường nét hoàn hảo một cách tuyệt mĩ. Nó cho người của cái xứ man rợ này biết thế nào là sự sang trọng tinh tế của người phương Tây. Cả Philippe, người xà ích thô thiển ngồi trên ghế cao, với cái roi ngựa thật dài, cũng cảm thấy kiêu hãnh vì ông chủ mình và cả vì chiếc xe nữa. "Đấy! Ngài Henri Rivière tuyệt vời, ông chủ của tôi đấy! Đừng tưởng ngài chỉ võ biền. Không! Ngàn lần không! Ngài còn là con người cực kỳ tinh tế".

                  Không chỉ riêng chàng hạ sĩ quan Philippe sùng bái người chỉ huy của mình; thực ra tất cả hơn bốn trăm người lính ở khu Nhượng địa đều coi thiếu tá như một vị thần. Võ thì quyết đoán, quả cảm, mưu lược. Mà văn cũng đâu phải xoàng. Trong thời gian ấy, Henri Rivière viết một tập truyện ngắn có tên là Édith và đang viết dở một cuốn tiểu thuyết tên là Đồi bại (Perversité). Hai cuốn sách được viết trong một ngôi nhà xinh xắn quét vôi trắng toát, chung quanh có hàng hiên rộng, trong một khu vườn với hoa trúc đào nở hồng, hoa cau trắng thơm ngát và hoa xương rồng vàng ươm.
                  Có thể nói, lúc ấy, Henri Rivière là một nghệ sĩ nhiều hơn một binh sĩ. Ông viết thư về Paris:
                  "Ở đây, mối bận tâm lớn của tôi không phải là người An Nam hay người Tầu như người ta vẫn nghĩ. Thực ra, thi thoảng tôi có nghĩ tới họ khi cần phải nghĩ, và chỉ có thế thôi.
                  Hôm nay, tôi đọc nhà văn Renan, cuốn sách viết về những kỷ niệm thời thơ ấu và thời thanh niên của ông".

                  Cứ tưởng người chỉ huy của Philippe như một con mèo lười đang lim dim phơi nắng. Thực ra, lim dim thế thôi nhưng tai vẫn rất thính. Henri Rivière vẫn tinh tường theo dõi những hoạt động của phía triều đình Huế. Ông biết rằng vua Tự Đức đang sai người sang cầu cứu bên Tầu. Ông cũng biết quân Cờ Đen đã về đầu hàng tướng Hoàng Kế Viêm. Ông cũng chẳng lạ gì quan tổng đốc Bắc Ninh đang rục rịch kéo quân về phía Hà Nội.
                  Song tất cả những chuyện đó chỉ dồn dập xảy ra vào đầu 1883; còn năm 1882, khi người Pháp mới chiếm xong thành Hà Nội thì khu Nhượng địa đang hớn hở sống trong không khí chiến thắng. Nhiều sĩ quan vui vẻ thử sống theo kiểu phương Đông. Có người thuê phu võng để di chuyển bằng võng như các ông quan An Nam. Lương sĩ quan Pháp từ 200 đến 300 phờ răng, và thuê người hầu chỉ bốn quan (phờ răng) một tháng, nên có người thuê tới ba, bốn người hầu An Nam. Ra đường, một người cầm ô che, một người cầm quạt lông phe phẩy suốt dọc đường, thậm chí còn thêm một người xách nước mang thuốc lá (các ông quan An Nam thì dùng người này vào việc ôm tráp trầu thuốc). Binh lính, sĩ quan Pháp rất nôn nóng muốn ra quân đánh chiếm ngay toàn bộ xứ Bắc Kỳ, bởi vì họ thấy đánh dễ quá. Họ biết mười năm về trước có khi đánh một tòa thành to đồ sộ mà Francis Garnier chỉ dùng tới ba người lính Pháp, Pháp đi đến đâu là quan quân chạy bán sống bán chết. Tuy nhiên, súy phủ Nam Kỳ thì tỉnh táo hơn. Thống đốc Le Myre de Viler viết thư ra:
                  "Tôi biết rằng nhiều người ở Hà Nội tỏ ra sốt ruột. Người ta cho rằng uy thế của người Pháp bị tiêu tan vì chúng ta không tiến lên, không mỗi ngày chiếm một thành, không luôn thắng trận. Đó chỉ là ý kiến của những người trẻ tuổi quá hăng say chiến đấu... chúng ta phải hành động cực kỳ thận trọng...".

                  Cuối cùng đến đầu năm 1883, Henri Rivière đã phải thoát ra khỏi cái vỏ kín bất động. Ông được tin một công ty Anh - Trung Hoa muốn nhòm ngó khai thác mỏ than Hòn Gai. Ông liền cử ngay một đội quân ra chiếm Hòn Gai vào ngày 16 tháng ba. Tiếp ngay sau đó, ông đem quân đi chiếm thành Nam Định.
                  Và đến lúc này, những sự kiện đã liên tiếp diễn ra hàng ngày, hàng giờ; binh lính Pháp đã hết sốt ruột.
                  Từ đầu thời vua Tự Đức, loạn Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa bị tan. Dư đảng Thái Bình do Ngô Côn cầm đầu tràn sang nước ta. Ngô Côn bị Ông Ích Khiêm tiêu diệt. Các tướng của Ngô Côn là Lưu Vĩnh Phúc, Hoàng Sùng Anh, Bàn Văn Nhị chia làm ba toán giặc: Cờ Đen, Cờ Vàng, Cờ Trắng, đã cướp bóc, tàn phá xứ Bắc Kỳ. Quan quân phải vất vả mới dẹp xong giặc Cờ Vàng, giặc cờ Trắng. Riêng giặc Cờ Đen do Lưu Vĩnh Phúc cầm đầu xin hàng triều đình. Giặc Cờ Đen dưới quyền điều khiển của tướng Hoàng Kế Viêm đóng ở Sơn Tây. Hoàng Kế Viêm cho quân Cờ Đen làm đạo quân tiên phong tiến về bao vây Hà Nội.
                  Quả thực, chỉ đến tháng năm năm 1883 Philippe mới thật hiểu thế nào là đời lính, thế nào là chiến tranh, thế nào là người chinh phục.

                  Đó là những ngày quân Cờ Đen vây Hà Nội. Những người lính Pháp muốn lập chiến công, muốn làm anh hùng bây giờ đã có cơ hội thực sự. Quân Cờ Đen là lính thiện chiến, là giặc thực sự. Họ đã chặt đầu Francis Garnier hồi mười năm về trước. Họ đã mổ bụng những người lính bị bắt. Họ đã cắt tai cắt mũi kẻ thù trước khi giết. Như vậy, đánh nhau không còn là cái thú trò chơi phương Đông nằm võng người khiêng, rồi đi khệnh khạng trên phố với lũ người hầu che ô, che quạt nữa. Bây giờ phải quần quật cả ngày lẫn đêm. Ngày thì đi phát quang chung quanh khu Nhượng địa, rồi chặt gỗ chôn bổ sung những cây cọc nhọn chung quanh, đắp đất tăng cường những ụ súng bảo vệ. Còn ban đêm thì đánh nhau thực sự. Quân Cờ Đen reo à à suốt đêm, bắn súng suốt đêm quanh khu Nhượng địa. Họ không sợ Pháp, ban đêm, quân Cờ Đen kiểm soát toàn thành phố.
                  Khu phố buôn bán của người An Nam vắng teo. Nhà nào cũng mang hết gia đình về quê. Các cổng phố đóng chặt. Chỉ còn lại người ở mấy phố khách, vì họ là người Tầu nên không bị quân Cờ Đen cướp phá.
                  Khổ nhất là khu phố Truyền giáo, trước cửa Tràng Thi. Người theo đạo Thiên chúa đến tụ cư tại đó khá đông. Có thể nói đó là một làng Thiên chúa giáo toàn tòng. Chỉ có khác là làng chung quanh không có lũy tre, mà chỉ có một hàng rào cọc tre vót nhọn khá kiên cố bao bọc. Đức giám mục Puginier, vốn ở tại nhà thờ Kẻ Sở, nhưng từ khi ông Francis
                  Garnier đánh thành phố Hà Nội lần thứ nhất năm 1873, ngài thấy Hà Nội là nơi trung tâm chính trị của Bắc Kỳ; lãnh sự Pháp ở đây, quân đội Pháp ở đây và cả đại diện triều đình Huế cũng ở đây nên sự luôn có mặt của ngài tại nơi này là cần thiết, bởi vì nhiệm vụ của ngài không phải là của một cha xứ bình thường mà là của một giám mục.
                  Ở khu phố Truyền giáo có một nhà thờ nhỏ bằng gỗ lim, theo kiểu chùa An Nam, là nơi hành lễ. Lúc đại úy công binh Du Pommier xây dựng nhà trong khu Nhượng địa, hội Truyền giáo cũng nhờ ông xây giúp một căn nhà gạch hai tầng làm nơi ở và làm việc cho các cha bề trên.
                  Trong tháng năm năm 1888 ấy, quân Cờ Đen tấn công khu Truyền giáo mấy lần. Cha Landais, người rất có công với khu phố Truyền giáo đã dự đoán trước tình hình. Ông yêu cầu thiếu tá Henri Riviêre cấp súng. Ông phân phát súng cho 150 thanh niên công giáo khỏe mạnh. Đêm 12 tháng năm quân Cờ Đen tấn công. Cha Landais chờ cho quân địch tới gần mới nổ súng. Bị chống cự bất ngờ, quân Cờ Đen thua, rút lui.
                  Hôm sau thiếu tá Henri phải cho mấy chục người lính sang bảo vệ khu Truyền giáo. Chàng hạ sĩ quan Philippe cũng trong số người đó. Đêm ngày 16 tháng năm, một trận huyết chiến xảy ra. Quân Cờ Đen rất đông xông vào cướp phá nhà dân, đất nhà thờ gỗ, bao vây ngôi nhà gạch bắn nhau đến sáng mới rút lui.

                  Hôm sau, tất cả mọi người ở khu Truyền giáo phải đi lánh nạn hết.

                  ***
                  Thành phố Hà Nội xơ xác tiêu điều. Ra đường không một bóng người. Ban ngày quân Pháp làm chủ tình thế. Tuy nhiên, từ khu Đồn Thủy ra ngoài, vẫn phải đi nhiều người, ít nhất một tiểu đội. Ban đêm quân Cờ Đen làm chủ. Họ tiến sát khu Nhượng địa, nổ súng vào những trạm gác, gào thét đe dọa, thỉnh thoảng lại đốt một căn nhà gần đấy để ánh lửa hắt qua cả hàng rào cọc gỗ khu Đồn Thủy. Henri Rivière ra lệnh phát quang, triệt hạ, làm thành bình địa phía ngoài hàng rào. Trong vòng ba trăm mét phải đốt sạch, phá sạch. Người chạy loạn vào khu Nhượng địa khá đông. Những người buôn bán nước ngoài, các cha xứ, thầy giảng chủng sinh và nhiều dân công giáo có quan hệ mật thiết với người Pháp. Những làng chung quanh Hà Nội không bóng người, vì vậy sự cung cấp lương thực không có nguồn. Viên sĩ quan hậu cần phải trình thiếu tá phương án phát thức ăn theo khẩu phần.

                  Không thể để tình hình kéo dài. Phải đánh nống ra, đuổi quân Cờ Đen quay trở về sào huyệt, tức Sơn Tây. Thiếu tá triệu tập họp các sĩ quan. Có người bảo: "Nên thận trọng. Nên rút kinh nghiệm của Francis Garnier, mười năm về trước". Thiếu tá Henri Rivière phân tích:
                  - Mười năm về trước Francis Garnier ra Cầu Giấy chỉ có trong tay hơn chục người. Thua là phải. Còn lần này chúng ta sẽ đánh đuổi quân Cờ Đen bằng một lực lượng hùng hậu: 500 quân.
                  Sáng ngày 19 tháng năm, năm 1883, đoàn quân Pháp rời khỏi khu Nhượng địa Đồn Thủy. Một đội hình dài dằng dặc, trung đội nọ tiếp trung đội kia hành quân trên con đường phố Hàng Khảm đi về phía Cửa Nam.
                  Thiếu tá chỉ huy, quân phục chỉnh tề, lưng đeo súng ngắn lại ngồi trên chiếc xe Victoria trứ danh có hai con ngựa trắng kéo. Quân sĩ "hua ra" hoan hô chủ tướng.
                  Viên đội Philippe Messmer vẫn làm xà ích. Anh đeo khẩu súng trường chéo đằng sau lưng, tay cầm chiếc roi dài. Anh vút roi ra lệnh. Đôi ngựa bắt đầu cất bước.
                  Trời còn sớm nhưng đã sáng rõ mặt người. Chẳng thấy một bóng người đón đường. Mãi đến khoảng hồ Hoàn Kiếm mới thấy mấy con chó hoang từ vườn chùa Ông Thương chạy ra sủa ăng ẳng. Con chó sủa dai quá. Một viên sĩ quan nổ phát súng ngắn làm chúng hoảng sợ cúp đuôi chạy mất tích miệng vẫn ăng ẳng khiếp hãi. Đến Cửa Nam đoàn quân đi chếch theo con đường tới Cầu Giấy. Khoảng 6 giờ sáng đến nơi.

                  Đây là con đường đất nối từ chiếc Cầu Gạch bắc qua một con sông nhỏ dẫn tới tỉnh Sơn Tây. Quân thám báo cho biết trước quân Cờ Đen có mặt ở khu vực này. Tuy nhiên, tất cả vẫn giống như quãng đường lúc mới xuất phát, nghĩa là tất cả đều vắng lặng chẳng nhìn thấy một ai. Đội quân mở đường vào lùng sục những căn nhà ven đường song chẳng thấy gì. Đoàn quân cứ tiến thẳng qua cầu ở đoạn đường đất này hai bên đường là những xóm lèo tèo. Khoảng chín giờ mới đụng độ một toán địch nhỏ. Chúng bắn vài phát súng rồi rút chạy vào một xóm. Một trung đội Pháp vội truy kích. Đến chỗ khác, lại lẹt đẹt vài phát súng. Lại có người đuổi theo. Chừng hơn một tiếng đồng hồ sau, lần này súng lại nổ chặn ở phía sau lưng. Rồi súng nổ vang ở khắp phía. Không biết quân Cờ Đen nấp ở đâu, bỗng xuất hiện hết toán này đến toán khác, lúc đầu nổ súng, còn về sau toàn đánh giáp lá cà.

                  Thiếu tá Henri Rivière đánh nửa ngày chiếm thành Hà Nội, lại đánh nửa ngày khác chiếm thành Nam Định. Đó là những trận vây thành, ông có thể dùng súng đại bác, có thể phát huy uy lực của vũ khí tối tân hơn hẳn đối phương. Còn ở trận này, người cầm mã tấu đánh với người cầm súng cắm lưỡi lê. Một trận cọ xát mặt đối mặt, giết nhau theo kiểu trung cổ, vũ khí tối tân hết tác dụng, ai khỏe hơn là thắng, ai đông hơn là thắng. Đó là trận phục kích không thấy sách giáo khoa trong trường sĩ quan Tây phương.

                  Viên đội Philippe và Henri Rivière nhảy khỏi chiếc xe Victoria trứ danh. Philippe Messmer cắm lưỡi lê vào nòng súng bảo vệ chỉ huy trưởng. Một tiểu đội Pháp cũng đứng chung quanh sẵn sàng chiến đấu. Một lính cờ đen cầm mã tấu hét lên xông tới. Thiếu tá Henri bắn gục, mười người lính cờ đen, rồi đông nghịt những lính cờ đen xông tới. Có tiếng hét:
                  - Thằng chỉ huy đấy. Giết nó đi.
                  Tiếp sau đó là xoang xoảng gươm giáo mã tấu, là tay cụt, máu tóe, hò hét. Henri Rivière hết đạn. Cả tiểu đội lính bảo vệ bị chết hết. Cả anh đội Philippe cũng bị chém xả vai nằm chồng lên những cái xác khác. Quân Cờ Đen còn bận trói Henri Rivière bắt giải đi nên không thèm để ý xem đối phương ra sao. May mắn, một người lính Pháp, sau trận đánh, phát hiện ra Philippe Messmer còn sống nên đưa anh ta về khu Nhượng địa.
                  Chín giờ tối, những lính Pháp còn sống sót mới trở về hết. Gần 100 quân bị chết, bị thương. Thiếu tá Henri Rivière, đại uý Jacquin, trung uý Brisis bị quân Cờ Đen bắt, chắc là đã chết. Đại uý Berthe de Villers bị thương về đến nhà thì chết.

                  ***
                  Philippe Messmer phải nằm bệnh viện mất gần một tháng. Sau trận chiến Cầu Giấy, quân Cờ Đen làm chủ Hà Nội cả đêm lẫn ngày. Quân Pháp lui cả về cố thủ trong khu Nhượng địa. Hàng rào gỗ chắc chắn vây kín các mặt, trên sông Hồng lại có tầu chiến trang bị đại bác nên quân Cờ Đen tuy dám đi lại ban ngày trong thành phố nhưng cũng không dám tấn công khu Đồn Thủy. Thế là giữa đại đội đóng trong thành và đội quân trong khu Nhượng địa bị đứt liên lạc, tách làm hai. Tại Đồn Thủy, người ta chia thức ăn theo khẩu phần.
                  Nghe tin Henri Rivière bị sa vào tay quân Cờ Đen, súy phủ Nam Kỳ vội cấp tốc gửi quân ra Bắc. Ở Pháp, tại quốc hội, phe chủ chiến muốn đánh Bắc Kỳ đã thắng. Người ta đưa tướng tá binh lính sang. Bây giờ, trên con đường Hàng Khảm nối từ Đồn Thủy đến thành Hà Nội, có thêm hai đồn binh: đồn Tràng Tiền và đồn Tràng Thi. Các cha cố, dân công giáo lại trở về khu phố Truyền giáo. Quân đội Pháp mở những cuộc hành quân đánh đuổi quân Cờ Đen.
                  Philippe đã hoàn toàn khỏe mạnh trở lại. Người ta giao cho anh nhiệm vụ ra khu Cầu Giấy tìm thi hài của thiếu tá. Philippe cầm chiếc hộp khảm trong đó đựng tập truyện ngắn Édith lên. Chiếc hộp khảm trai rất đẹp. Người thợ khảm ở bờ Hồ Gươm là người thợ tài năng nhất phố. Thiếu tá chỉ thích ông ta khảm cho một cảnh vật đậm đặc chất An Nam để làm kỷ niệm. Thì đây, một khóm trúc, một dòng sông, một con thuyền... vẫn còn đây, nhưng người chủ thì đã ở cõi nào. Henri Rivière rất thích chiếc hộp khảm này. Lúc mua nó về, ông cứ ngắm nghía không chán, rồi gật gù: "Người An Nam lạc hậu đến thế mà lại có một tâm hồn tinh tế đến thế...". Philippe còn nhớ, có lúc ông nói với anh: "Xứ sở này tăm tối quá. Ta phải đem ánh sáng đến cho họ". Ở con người này vừa có cái cảm xúc tế nhị của một nghệ sĩ, lại vừa có sự cao ngạo của một con người đi chinh phục. Philippe hơi rùng mình khi thầm nhắc tới từ chinh phục. Anh lại chợt liên tưởng tới Francis Garnier. Mười năm về trước, ông này cũng bị quân Cờ Đen giết. Họ chặt đầu ông ta. Lúc tìm được xác thì không thấy đầu. Cái đầu mất biến. Một con chó hoang nào đã tha mất rồi chăng, hay một người dân nào đó thương tình đã vùi lấp hộ chăng. Thành thử lúc chôn ông ta, không có đầu. Ông ta biến thành thứ ma không đầu. Chắc chắn Henri Rivière cũng vậy. Trăm phần trăm là ông ta đã bị chặt đầu. Luật lệ phương Đông đối với kẻ tử thù là như vậy. Thiếu tá ơi! Bây giờ thân xác người ở đâu? Linh hồn người ở đâu? Bây giờ đầu của người đang ở chỗ nào? Người phương Đông coi trọng cái đầu hơn là cái mình. Họ cho rằng người chết mất mình là khổ, nhưng mất đầu còn khổ hơn, bởi vì tinh hoa của con người, tất cả nằm ở cái đầu, trí khôn cũng ở đấy mà hồn vía cũng ở đấy. Philippe không mê tín như người phương Đông nhưng cũng nghĩ, thà mất cái mình hơn là mất cái đầu.

                  Philippe suy nghĩ rất nhiều, nên đầu tiên anh tìm đến gặp giám mục Puginier. Đức cha đang ở nơi dựng lại nhà thờ. Cha đang có dự định làm một ngôi nhà thờ thật to, nhưng để có nơi hành lễ ngay, phải dựng tạm một ngôi nhà thờ lợp lá. Thấy Philippe, cha bảo:
                  - Cầu chúa ban phước lành cho người chỉ huy anh hùng của con. Chắc lúc này, thiếu tá đang ở trên xứ thiên đàng, bên cạnh Chúa.
                  Philippe trình bày nhiệm vụ của mình. Đức giám mục hiền từ nói:
                  - Con tìm ta là đúng. Một mình con không tìm thấy đâu. Mà cho dù có hàng trăm quân lính cũng khó tìm ra. Bởi vì chúng ta là người nước ngoài. Để ta cho một người bản xứ đến giúp con.

                  Người công giáo đến giúp Philippe trạc gần bốn mươi tuổi, dáng người rắn chắc, mặt mũi sáng sủa. Chẳng thấy ông ta cười bao giờ, nét mặt hiền từ nhưng khắc khổ, trầm tư. Ông ta nói được tiếng Pháp nhưng không sõi lắm. Người ta bảo ông là người tâm phúc của tòa giám mục. Tên ông là Cam. Ông Cam nói khẽ khàng bằng một giọng nói chắc nịch sau một hồi lâu suy nghĩ:
                  - Ông đội ạ. Ông cứ ở nhà. Để tôi đi một mình.
                  - Ông Cam ơi! Thiếu tá mất tích như vậy đã hơn hai tháng. Lòng tôi chẳng yên chút nào khi chưa tìm được người.
                  Hình như ông khó nói, nhưng cuối cùng ông cũng nói ra được.
                  - Sự thực bây giờ là đi tìm xác. Ông đội là người Pháp. Mà ông biết đấy, người dân quê tôi bây giờ trông thấy người da trắng, lập tức họ trốn chạy, hoặc im lặng chẳng nói gì cả.
                  Trong giọng nói của ông Cam, Philippe thấy buồn buồn, nhưng anh phải công nhận ông ta nói phải. Ngoài ông Cam tự nguyện nhận giúp ra, Philippe còn thuê mấy người dân quê khác đi tìm. Anh trả công họ thật cao, lại còn hứa nếu tìm được sẽ trọng thưởng.

                  Một tháng trôi qua vẫn chẳng thấy tăm hơi gì. Một buổi chiều, anh thấy một người nông dân cởi trần đóng khố đến tìm. Anh ta gánh hai cái rổ, phủ rơm. Lại gần mới nhận ra đó là ông Cam. Ông ta bảo tìm thấy đầu thiếu tá rồi. Ông Cam bỏ rơm ra. Cái đầu lâu da đã bợt bạt biến hình, mắt bị chuột khoét, tai bị chuột gặm, nhưng Philippe vẫn nhận ra chủ. Có lẽ cái để Philippe nhận ra là mớ tóc. Mớ tóc vàng, dài xõa đến vai, mớ tóc nghệ sĩ độc nhất mà chỉ mình thiếu tá có trong khu Đồn Thủy. Ông Cam cẩn thận đã lượm về mớ tóc ấy. Philippe muốn ông Cam kể tỉ mỉ tình hình cho nghe, song ông ta không muốn nói, chỉ lặng lẽ nhặt mấy con đỉa từ lỗ tai cái đầu lâu chui ra. Mùi hôi thối xông lên nồng nặc.

                  Ông bác sĩ của khu Nhượng địa phải pha dung dịch phoóc môn đem ngâm cái đầu lâu trong khi chưa làm lễ an táng được.
                  Ông Cam chẳng nói gì nhưng những ngày đi tìm của ông thật khốn khổ. Ông Cam giả làm người đi đào hang bắt chuột. Ông đóng khố, vác cái thuổng trên vai, lưng buộc mấy cái đó, tay cầm mồi rơm phe phẩy. Những cánh đồng chung quanh khu Cầu Giấy đã trở thành những cánh đồng hoang, vì dân bỏ đi hết. Ruộng đất đã trở thành những khu rừng lau sậy. Phải nói đi tìm một cái đầu lâu trong bao la rừng lau sậy thật chẳng khác đi tìm kim đáy bể. Đất đai đã trở thành nơi trú ngụ của lũ cầy cáo. Người dân quê trong lúc loạn lạc đói khát đi bắt chuột để sống qua ngày không phải chuyện hiếm. Một tháng trời lần mò không hiệu quả cũng làm ông nản. Một lần, ông gặp một ông bạn cùng cảnh: Hỏi ông ta bắt có được nhiều chuột không. Ông ta không nói, chỉ gật đầu một tay bịt mũi, còn tay kia chỉ trỏ vào một khu ruộng rậm rịt. Khi ông ta đi khỏi. Cam mới vào khu lau sậy um tùm đó. Khi ông đến, một bầy chuột chạy túa ra. Ông là người đi đạo nhưng cũng khấn:
                  - Ông Rivière ơi! Ông sống khôn chết thiêng thì đưa lối chỉ đường cho tôi tìm ra ông nhé!
                  Và thế là ông đã tìm ra đầu thiếu tá. Nhưng còn thân thì sao? Có tìm không? Hay là chỉ chôn cái đầu. Giám mục bảo:
                  - Thiếu tá là người anh hùng. Ta nên cố gắng tìm cho thi thể được toàn vẹn.

                  Cũng lại phải nhờ ông Cam mới tìm ra nốt thân thể thiếu tá. Ông ta nghĩ: "Kẻ tử thù thường hay bị vứt xác trôi sông, để đầu một nơi, thân một nẻo, để cho kẻ ấy không thể tái sinh trở lại dương thế làm điều ác nghiệt". Do những suy nghĩ ấy, ông vác dậm đi theo dòng sông gần đấy, ông thấy một đàn quạ đậu đen ngòm trên một cây gạo. Ông mừng rỡ, bởi vì lũ quạ là những con chim đánh hơi mùi xác chết giỏi nhất. Xác Henri cụt đầu dập dềnh trong một bụi cỏ lác ven sông.
                  Tháng 10 năm 1883, giám mục Puginier làm lễ cầu siêu cho thiếu tá Henri Rivière tại ngôi nhà thờ lợp lá, trên khu phố Truyền giáo.
                  Đã chỉnh sửa bởi Photo; 13-12-2009, 12:55 AM.

                  Comment

                  • #10



                    Mẫu Thượng Ngàn - Phần 3 - Chương 3 :



                    Cuộc nói chuyện quan trọng với ông đại tá của Philippe Messmer có tính chất quyết định vận mệnh cuộc đời anh. Ông đại tá già nói:
                    - Phải suy nghĩ thật kỹ, vì tập đồn điền tức là xác định ở xứ sở Bắc Kỳ này lâu dài. Các quan chức, các nhà chính trị, nhà kinh doanh... đến một thời gian rồi lại đi. Chỉ riêng nhà thuộc địa đất đai (colon), những ông chủ đồn điền sẽ ở lại.
                    Philippe gật gù, nhưng anh không nghĩ ngợi lâu, bởi vì anh ưa sự mới mẻ, sự mạo hiểm. Anh thích kiểu người phóng khoáng quyết đoán như thiếu tá Henri Rivière. Anh nói:
                    - Chí tôi đã quyết. Tôi sẽ làm bằng được.
                    Viên đại tá cũng là con người nhiệt tình, cuồng tín với niềm vinh quang của tổ quốc, ông càng nói càng hùng hồn.
                    - Anh là con người mà nước Pháp tin cậy. Anh là người đã tham gia từ ngày đầu tiên trong công cuộc chinh phục. Anh đã chiến đấu từ thời khu Nhượng địa, rồi đánh nhau ở Lạng Sơn, rồi cả trong chiến dịch dẹp quân Đốc Ngữ. Thực ra, làm chủ đồn điền anh có lợi, mà nhà nước bảo hộ cũng có lợi. Anh phải có ý thức cao rằng người Pháp chúng ta làm chủ xứ sở này, tức là làm chủ về mặt kinh tế, chính trị và cả quân sự nữa. Khi nhà nước cho anh vùng đất ở đây, điều đó có nghĩa là nước Pháp đã cử anh làm đại diện quyền lực của nước Pháp tại đây
                    - Thưa đại tá, tôi hiểu.
                    - Phải học. Bây giờ phải biết làm chính trị và kinh tế. Muốn thế, phải có tay chân, có nhiều con mắt, có nhiều đồng minh.
                    Trong thời gian ở với thiếu tá Henri Rivière, anh hiểu muốn trụ lại ở xứ sở này, điều trước tiên phải dựa vào nhà thờ, điều thứ hai phải dựa vào những người bản xứ. Chỉ riêng việc đi tìm xác thiếu tá Henri Rivière, Philippe cũng hiểu vai trò người bản xứ giúp việc quan trọng thế nào. Đúng là mình rất cần một người thân tín bản xứ. Nghĩ đến đây, Philippe đã nhẩm điểm lại những gương mặt bản xứ mà ông quen biết. Philippe đã có chủ kiến.
                    Tuy nhiên, việc đầu tiên ông làm không phải việc đi tìm con người ông đã nhắm tới, mà là việc đến thăm cha xứ Cổ Đình cũng có một nhà thờ nhỏ. Đó là một xóm nhỏ nằm tách riêng trông ra hồ Huyền. Cái xóm chỉ chừng ba chục nóc nhà nghèo nàn nhưng ăn ở trật tự ngăn nắp lắm. Giữa xóm có một con đường to, rồi từ đó tỏa ra hai bên những ngõ nhỏ như hình xương cá. Con đường giữa xóm dẫn tới ngôi nhà thờ bằng gỗ lợp tranh, vách trát đất. Ngôi nhà thờ cao hơn mọi nhà chung quanh. Mặt là hồi nhà, trên đầu hồi có cây thánh giá bằng gỗ cao to để từ xa mọi người đã nhìn thấy.
                    Nhà ở của linh mục nằm phía sau nhà thờ. Một ngôi nhà ba gian xinh xắn quét vôi trắng, đằng trước có một giàn nho. Linh mục Colombert từ trong nhà bước ra đón khách. Đó là một ông già nhỏ bé râu tóc bạc phơ. Ông giang rộng hai cánh tay hớn hở:
                    - Xin chào cố nhân! Được tin ông lập đồn điền ở đây, tôi vui mừng quá. Biết rằng người đồng hương thế nào cũng tới chơi.
                    Philippe ngạc nhiên vì sao ông già lại gọi mình là cố nhân. Ông cứ nhìn mãi ông già người Pháp nhỏ bé ấy, cuối cùng mới nhớ ra được đó là người phiên dịch cho thiếu tá Henri hôm họ vào thành Hà Nội đến thăm dinh quan tổng đốc. Philippe cũng hân hoan không kém.
                    - Mừng quá! Mừng quá? Ông là người giúp việc cho đức giám mục nhà thờ Kẻ Sở. Tôi chưa nhận ra vì ông để râu, và tóc bạc quá.
                    Ông già vẫn tươi cười:
                    - Tôi mới 54 tuổi nhưng do khí huyết nên tóc bạc nhanh quá!
                    Rồi ông già nói nhỏ vào tai Philippe:
                    - Thế ông có biết một giáo sĩ da trắng đến Đông Dương sống trung bình được bao nhiêu năm ở xứ này không?
                    - Làm sao tôi biết được.
                    - Chỉ có 5 năm thôi nhé. Họ không chịu đựng nổi sốt rét, kiết lỵ, dịch tả... Thế mà tôi sang xứ Bắc Kỳ đã 25 năm lại đã được 54 tuổi. Thật là điều đáng mừng.
                    Ông già rót hai cốc rượu vang. Họ chạm cốc, uống cạn một hơi rồi cười vang. Sự yêu đời, vui tính của ông linh mục làm những lo lắng lúc đầu của Philippe bỗng tan biến. Khi nghe Philippe trình bày mong muốn của mình, linh mục Colombert gật đầu:
                    - Ý định của ông tìm những người bản xứ để giúp việc là đúng. Và định tìm người bản xứ có đạo chứng tỏ ông có nhãn quan sâu sắc rộng rãi, bởi vì tổ quốc của chúng ta có bình định được xứ này hay không là phải nhờ vào mức độ công giáo hóa xứ này đến đâu. Một người công giáo sẽ không phản bội chúng ta. Tôi giới thiệu ông với ban điều hành giáo xứ. Cụ thể sẽ gặp ông chánh trưởng, một người bản xứ ngoan đạo. Phải nói không nhờ ông ta thì tôi không còn sống đến hôm nay.
                    Nhà ông chánh trưởng là ngôi nhà ngói cổ, mà người ở xứ này gọi là nhà bức bàn. Ngõ, sân, nhà, vườn tược đều sạch như li như lau. Tưởng người xa lạ, hóa ra cũng vẫn là người quen. Đó là ông trưởng Cam, con người đi tìm xác thiếu tá Rivière lúc hơn mười năm về trước. Cha xứ cười vang:
                    - Không nói trước, là để dành cho ông niềm vui thích bất ngờ khi gặp người quen cũ.
                    Ông trưởng Cam bây giờ đã bước vào tuổi già tóc đã bạc, gương mặt ông vẫn như xưa, thoạt nhìn Philippe đã nhận ra ngay. Chỉ có một điều hoàn toàn khác: Đó là trước kia không bao giờ thấy ông ta cười, còn bây giờ ông rạng rỡ, tươi tỉnh, môi ông luôn nở một nụ cười nồng hậu. Đôi mắt của ông long lanh, cả đôi mắt ấy cũng biết cười.
                    Chủ khách vào ngồi trên bộ tràng kỷ. Ông trưởng Cam kể vắn tắt tình hình của mình:
                    - Tôi theo hầu đức giám mục đã ngoài ba mươi năm cho tới lúc người qua đời cách đây hai năm. Sau khi ông rời khỏi Hà Nội, đức giám mục dành bao nhiêu công sức cho việc xây Nhà Thờ Lớn. Trước khi nhắm mắt người còn nắm tay tôi và bảo: "Sau khi ta chết, ông hãy về giúp cha Colombert. Được làm việc đạo cho đến hơi thở cuối cùng là niềm hạnh phúc to lớn nhất. Cầu Chúa ban phước cho mọi người".
                    Câu chuyện về đức giám mục Puginier làm không khí cuộc nói chuyện chợt như lắng lại. Cũng may, lúc đó bà chủ nhà chợt xuất hiện. Bà trưởng Cam từ nhà ngang bước lên pha nước mời mọi người. Philippe chợt ngạc nhiên đến sững sờ khi thấy người phụ nữ đó. Một thiếu phụ xinh đẹp mà ông ít gặp. Bà ta mặc chiếc váy đen và chiếc áo nâu, tất cả đều là lụa. Bà để tóc trần quấn quanh đầu. Đôi mắt to và dài. Đôi môi mỏng không tô điểm mà vẫn đỏ đắn. Cái mũi dọc dừa xinh xinh, khác hẳn những chiếc mũi to thô mà ông vẫn thấy ở những người đồng hương của bà. Chiếc yếm lụa bạch, chiếc thắt lưng hoa lý, những thứ trang điểm rất bản địa, mà ông thường không thích, sao ở người đàn bà này lại thích hợp đến thế. Nó làm tôn cái vóc dáng thắt đáy lưng ong, cái vóc dáng rất chuẩn của người đàn bà mà từ đông sang tây đều ưa thích. Bà ta lại đi dép nữa chứ, cái thứ dép bằng gỗ sơn mài cong cong kỳ lạ. Trông bà ta như một bức tranh tố nữ tô màu, một thứ màu sắc đạm bạc, nền nã nhưng vẫn nổi bật. Rõ ràng bà ta không phải một thứ người chân lấm tay bùn, những người nông dân nghèo khổ mà anh vẫn gặp. Philippe nghĩ: Bà ta có lẽ là con gái quý tộc. Vẻ quý phái phương đông mà lần đầu tiên anh bắt gặp.
                    Cử chỉ của bà ta khác. Bà đưa những ngón tay dài thuôn cong cong, đặt từng chiếc chén đến trước mặt từng người với vẻ mặt tươi tắn nhưng đoan trang. Xong việc bà cúi đầu rồi lặng lẽ bước ra ngoài. Vị linh mục giải thích cho Philippe hiểu:
                    - Ở xứ này, người phụ nữ không ngồi tiếp khách. Bưng nước ra chào là cử chỉ tôn trọng khách.
                    Nhìn người đàn bà đẹp cao quý như Đức Mẹ rồi lại nhớ tới ông Cam ngày xưa đóng khố tay cầm cái thuổng, tay cầm cái mồi rơm lặn lội đi tìm xác ông thiếu tá Henri Rivière, chợt Philippe nghĩ chắc người đàn bà này phải có một lịch sử đặc biệt chi đây. Ông Cam cất tiếng nói đã cắt dòng suy nghĩ của philippe:
                    - Đức cha nói ông muốn tìm người giúp việc bảo đảm thân tín.
                    - Vâng.
                    - Thật không tiện khi phải giới thiệu người họ hàng thân thuộc của mình, nhưng tôi nghĩ cái đức tính thật thà chung thủy là cần nhất, nên mạnh dạn xin giới thiệu cháu tôi với ông.
                    Cha Colombert gật gù liên tục, mắt sáng lên:
                    - Ông Trưởng định giới thiệu anh Liến phải không? Được như vậy còn gì bằng. Cậu ấy linh lợi tháo vát. Chính tôi đã dạy học cho Liến biết chữ quốc ngữ. Cũng nói chuyện đơn giản bằng tiếng Pháp được. Đức giám mục lúc còn sinh thời có ý định đưa Liến vào trường dòng để đào tạo lâu dài, nhưng lại thương cả dòng họ chỉ còn mình anh ta, nên lại thôi.
                    - Vâng, cháu Liến năm nay hai nhăm tuổi. Ông có thể hoàn toàn tin cậy ở nó. Nó là con độc nhất của người anh trai tôi. Bố nó đã mất rồi. Tôi có bổn phận gây dựng cho nó.

                    ***

                    Philippe không ngờ mọi sự lại diễn biến thuận lợi đến thế. Thực ra, ông đã quen Liến từ mấy năm về trước, lúc anh còn là anh binh nhì trong đội quân mà người Pháp tuyển để đi dẹp quân khởi nghĩa được người Pháp gọi là giặc Đốc Ngữ. Quân Đốc Ngữ rất táo bạo. Họ đã huy động tới 500 nghĩa quân đánh úp đồn Chợ Bờ. Trận ấy Pháp thua to, nhiều sĩ quan Pháp bị chết. Khố xanh, khố đỏ chạy hết. Đang đêm, thiếu úy Philippe bị thương, may nhờ anh lính khố đỏ tên là Liến dìu xuống bờ sông, rồi chèo thuyền cứu thoát. Thật cũng may, dòng sông Đà thác dữ, nước xiết, nếu không có Liến thì không biết tính mạng Philippe ra sao.
                    Sau trận ấy, Liến được thăng chức lên cai. Cai tức là hạ sĩ, một chức rất nhỏ nhoi trong quân Pháp, nhưng đó là vinh dự với một người lính khố đỏ. Lúc đó Liến còn ở quê gốc, một xã ven biển Nam Định, anh đã xin nghỉ phép về quê để làm khao, tức làm lễ mừng được thăng chức. Philippe đã về tận quê Liến dự. Buổi tối hôm ấy, Liến mời cả cô đầu về giúp vui. Một người đàn bà răng đen, khá xinh, gõ hai chiếc dùi lên một thanh tre bóng nhoáng, miệng hát chậm rãi ngâm nga ư ư... a a... Giọng hát lạ tai phức tạp, Philippe không hiểu hết, nhưng cũng khen là có tình ý. Rồi một người đàn ông gẩy một chiếc đàn vuông, âm thanh trầm và đục. Một ông trung niên ngồi vắt vẻo chân chữ ngũ thỉnh thoảng lại gõ tom tom.
                    Philippe không ngờ những kỷ niệm ấy lại tạo bao nhiêu thuận lợi cho cuộc đời làm ông chủ của mình ở xứ thuộc địa này. Khi Liến biết Philippe còn là chỗ thân quen với chú Cam của mình từ xưa thì mối thân tình giữa hai người càng thêm keo sơn.
                    Liến chỉ mới hai nhăm tuổi nhưng anh đã là một nhà nông giỏi. Liến bỏ ra hẳn một tuần, cưỡi ngựa đi cùng Philippe khắp vùng Cổ Đình. Họ đi thăm những khu ruộng nước, những vùng đồi mà philippe chiếm hữu ở hai bên bờ sông Son.
                    Sau khi đã xem xét, tính toán kỹ lưỡng, Liến bảo:
                    - Như vậy, ông có khoảng một trăm mẫu ruộng nước, và hơn một nghìn mẫu vừa ruộng cao, vừa đồi. Việc đầu tiên, ta khai thác ruộng nước. Trước hết hãy thúc người phá hoang ruộng nước. Phá hoang xong, đem tất cả ruộng nước cho dân Cổ Đình cấy rẽ.
                    - Cấy rẽ là thế nào?
                    - Tức là đem ruộng cho dân thuê. Hoa lợi chia đôi, họ một nửa, ta một nửa.
                    - Ai quản lý việc này?
                    - Ta không quản lý. Thuê lý dịch làng Cổ Đình làm. Như vậy họ có lợi, sẽ gắn bó với đồn điền, còn ta thì rảnh. Ta nới tay một chút, bọn lý dịch sẽ hết lòng với quan Tây. Họ sẽ làm tai mắt cho ta.
                    Liến tỏ ra là người quản lý giỏi giang. Anh còn cho nuôi bò rẽ, cho thầu hai bến đò thuộc khu vực đồn điền, và khai thác gỗ. Nói tóm lại, cái gì làm được ra tiền anh làm tất.
                    Ý kiến của Liến thật hay. Như vậy, Philippe vừa là một ông chủ đồn điền hiện đại, lại vừa là một nhà quý tộc. Ông ta vừa khai thác ruộng như một ông địa chủ An Nam, vừa như một ông tư bản phương tây. Nhà nước thuộc địa cho không ông mấy trăm héc ta đất, ông lại đem đất ấy cho nông dân bản xứ cấy thuê. Chưa cần làm gì mới mẻ, ông đã tự nhiên có vài chục tấn thóc và tiền hàng năm.
                    Philippe về Pháp bán hết gia sản cha ông để lại, rồi vay thêm tiền làm vốn để khai thác lớn.
                    Liến về tận Nam Định mộ phu đồn điền. Có mấy chục người theo anh lên Cổ Đình. Trong số người đó, Liến chú ý tuyển năm gia đình trẻ người đạo gốc. Thế là một xóm đồn điền hình thành, ở đó năm gia đình công giáo họp thành một họ đạo nhỏ. Liến còn ước mong từ năm nhà dần dần sẽ trở thành một xóm đạo đông đúc. Philippe tán thành tất cả những sáng kiến của Liến. Ông biết Liến đang tìm những người nòng cốt thân tín cho đồn điền.
                    Bây giờ, đi vào giai đoạn thứ hai, giai đoạn trồng chè, trồng cà phê, giai đoạn chính thức để vùng đất này trở thành một đồn điền thịnh vượng. Philippe cũng đã thấy một số đồn điền thất bại. Ông hiểu rằng chỉ có cách quản lý đúng, kỹ thuật cao và phải đổ mồ hôi, rồi tiết kiệm ông mới mong thành công.
                    Đã chỉnh sửa bởi Photo; 13-12-2009, 01:06 AM.

                    Comment

                    Working...
                    X
                    Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom