• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Phạm Công Thiện - Khi thi ca thành tôn giáo

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Phạm Công Thiện - Khi thi ca thành tôn giáo

    Phạm Công Thiện - Khi thi ca thành tôn giáo
    Nguyễn Mạnh Trinh

    Phạm Công Thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế. Triết gia? 404 Not Found" align="right" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời?

    Vào những năm thập niên 60 ở Sài gòn, Phạm Công Thiện xuất hiện như một hiện tượng. Sách vở của ông đã được đón đọc nồng nhiệt và trong giới sinh viên học sinh đọc sách của ông là một thời thượng. Họ thích nói về “Ý thức mới trong văn nghệ... triết học”. Họ tán thưởng “Ngày sinh của rắn”. Có người thú nhận thích đọc ông dù chẳng hiểu bao nhiêu. Và trong cái gọi là “họ” ấy có tôi. Một cậu sinh viên mê sách vở và tràn ứ mơ mộng lãng mạn.

    Lúc đó, tôi đã nghĩ Phạm Công Thiện là một người viết phê bình như viết tùy bút và viết tùy bút như viết bằng thơ. Tóm lại, với tôi, ông là một thi sĩ dù ông làm thơ không nhiều lắm.

    Ðọc lại những bài viết về những nhà thơ của ông, tôi thấy điều đó tới bây giờ vẫn còn chính xác. Ông viết về thơ với cả tâm hồn mình và với những thi sĩ, ông cũng đồng cảm trong cái chia sẽ không cùng của những sợi đàn rung cộng hưởng vì chung tần số.

    Tôi đọc thử một đoạn viết về Cung Trầm Tưởng để dẫn tới thơ tình yêu của Appollinaire. Những trang sách cũ đã ố vàng của “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học”.

    “...Tôi ngạc nhiên. Tim tôi máy động. Cung Trầm Tưởng là ai mà làm thơ tài hoa vậy. Tôi mơ màng. Tôi hình dung những chiếc lá rơi. Tôi nhìn thấy dòng sông Seine lững lờ trôi chảy. Kia là tả ngạn River Gaucheà Kia là đường phố Aumont- Thieville và L' Avenue des Ternesà Kia là những quán cà phê và những kẻ tứ chiếng giang hồ... Kia là cầu Mirabeauà Kia là Mùa Thu mưa rơi kia là Pont Neuf. Oi Oparis. Souvenir. Souvenir. Remember to remember.

    Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire. Ừ, chỉ có Appollinaire mới có những dòng thơ bất tuyệt để làm sống lại Paris. Nói đến Paris là nói đến Kỷ Niệm, là nói đến Nghệ sĩ, là nói đến tình yêu và tuổi trẻ. Paris là thành phố của những kẻ tứ chiếng giang hồ, của những clochards, của những femmes de joie, của những Henry Miller, những Hemingway, những Gertrude Stein, những Picasso, những Appollinaire.

    “Mùa Thu nơi đâu
    Người em mắt nâu
    Tóc vàng sợi nhỏ
    Mong em chín giỏ trái sầu”.
    Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire:
    “'J'ai cueilli ce brin de bruyère
    L'Automne est morte souviens t'en
    Nous ne nons verrons plus sur terre
    Ordeur du temps brin de bruyère
    Et souviens-toique fe attends...”

    Cũng vào Mùa Thu, Cung Trầm Tưởng ngóng chờ người yêu “kiên khổ phút giờ” và “chín đỏ trái sầu” ngóng chờ mong đợi như Appollinaire đã ngóng chờ mong đợi giữa hương thời gian và mùi lá cỏ

    Ordeur du temps brin de bruyère
    Et souviens-toi que je attends

    Trời đã tối hẳn rồi. Tôi bước vào giường nằm ngủ, mắt nhắm lại, những dòng thơ của Hàn, của Cung, của Appollinaire chan hòa thướt tha đưa tôi vào giấc ngủ triền miên...

    Viết về thơ, theo như Phạm Công Thiện không phải là phê bình xếp loại mà phải là ca tung khen ngợi thơ. Ông khẳng định “Nói đến Thơ không khác gì nói đến Thượng Ðế. Phê bình Thơ là làm việc phạm thánh là blasphème.”
    Những thi sĩ không phải là loài người họ là những Thiên Thần, những thánh hoặc những quỉ ma. Nếu ta không chấp nhận họ được thì ta phải im lặng; còn nếu chấp nhận họ thì ta phải ca tụng cho hết lời. Ta không được quyền có thái độ của học giả hoặc giáo sư hoặc nhà phê bình. Phải giết hết những nhà phê bình để cho Keats sống, để cho Chatterton đừng chết lúc mới 18 tuổi xanh.

    Anh không thể cảm thơ của người ta thì anh hãy im lặng; còn nếu cảm được thì anh hãy thiết tha ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những nhà phê bình thơ mà chỉ nên có những kẻ ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người; không có ai làm thầy ai cả. Phê bình văn nghệ ư? Buồn lắm... Thi sĩ ca tụng thi sĩ? Ðúng quá rồi. Và trong cái bí nhiệm như của một tôn giáo, thi ca đã làm cho chúng ta luôn luôn mơ mộng và suy tư.
    Như khi nhìn những con sông cạn cợt của quận Cam.

    Không hiểu sao mỗi lần lái xe đi ngang qua những con sông cạn ở thành phố Westminster hay Santa Ana tôi lại thấy bồi hồi. Có một liên tưởng nào từ lòng sông tráng xi măng ở giữa chơ vơ một dòng nước chảy nhỏ nhoi cạn cợt. Cái cảm giác của thiên nhiên bị khuất phục ấy của một dòng nước mùa nắng nhắc tôi tới nguồn nước ào ào sục sôi sau những cơn mưa. Một thi sĩ đã viết:

    “Ừ, ta bây giờ như sông cạn
    Nước vũng làm sao thành biển khơi
    Chí lớn dưng không thành chuyện vãn
    Mỉm cười còn mất chuyện muôn đời”

    Có hay không, cái tượng hình của Dịch Kinh, hà trung vô thủy? Sông mà không có nước, có phải là sông không? Hay chỉ là gợi ý tới những đi mà không đến. Một câu thơ của Seamus Heaney, thi sĩ giải Nobel Văn Chương năm 1995 trong thi tập The Haw Lantern, chỉ có hai câu:

    “The riverbed, dried up, half full of leaves
    Us, listening to a river in the trees
    (Lòng sông, cạn khô, một nửa phủ đầy những chiếc lá
    Cho chúng ta, đang lắng nghe một dòng sông chảy trong cây)

    Thi sĩ Phạm Công Thiện đã viết như sau về hình ảnh sông cạn rất thơ mộng này mà chúng ta nhiều khi ít quan tâm khi ngang qua trong nhịp đời hối hả mỗi ngày:

    “...Tiếng nói của thơ là dòng nước tuôn chảy bất tận, dù lòng sông có cạn khô chăng nữa thì hồn sông vẫn chảy mãi trên cao Sông đang chảy trên cây và trong cây lá, và sự lắng nghe ở đây đã nhập lưu (sơ ư văn trung/nhập lưu vong sở), không phải chúng ta lắng nghe dòng sông mà chính dòng sông đã chảy vào trong thi nhân, lòng sông khô cạn ở dưới đã nhập vào con sông chảy trên cây; lòng sông khô cạn nửa đầy những chiếc lá thả hồn rào rạt với sông lá trên cao (Hồ Dzếnh: “có một nghìn cây rũ rượi buồn/Một nghìn sông rét vạn hoàng hôn.” Vũ Hoàng Chương: “Ðáy sông bừng dựng Lầu Thơ? Giấc mơ Hồ Ðiệp chẳng mơ cũng thành”...) Tại sao phải làm thơ? Tại sao phải lắng nghe một lần như chưa từng biết nghe trọn đời? Tại sao phải nhìn thấy được một lần duy nhất như chưa từng biết thấy bao giờ? Thi nhân đã một lần nhìn thấy; còn chúng ta thì hãy lắng nghe một dòng sông chảy bất tận trong rặng cây rào rạt chiều hôm nay.

    Phạm Công Thiện khi viết về kỷ niệm với nhà văn Võ Hồng, trong tập thơ Ngày Sinh Của Rắn có hai câu thơ, tả cảnh mà tả tình, đẹp một cách đơn giản như phong vị của những câu Hai-Ku:

    “Mưa chiều Thứ Bảy tôi về muộn
    Cây khế đồi cao trổ hết bông”

    Và, hình như từ hai câu thơ này, Võ Hồng đã viết truyện ngắn “Hoa khế lưng đồi” như một cách thế đáp tạ người tri kỷ.

    Trong một lá thư gửi cho tác giả “Hoài Cố Nhân”, thiền sư thi sĩ họ Phạm viết:

    “...Anh V.H. ạ, anh có cần gì phải thuyết giảng philo? Tất cả những trang văn anh, những trang văn rất từ tốn khiêm nhượng kia đều tiềm tàng những tư tưởng triết học rất sống. Nó cao hơn philo nữa, bởi nó là sagesse của quả tim.

    Và một Triệu trang giấy Triết Học cũng không đáng giá bằng một tiếng đập của con tim. Anh có nghe rõ chưa? Tôi muốn hét to lên như vậy.
    Anh có nghe tim con người đập trong những trang ‘Xuất hành năm mới’, trong ‘Trận đòn hòa giải?’ ‘Xuất hành năm mới’ còn cảm động muôn vạn lần hơn những chuyện mà người ta cho rằng buồn nhất! Những đứa nhỏ Hằng, Hào, và Thủy trong ‘Xuất hành năm mới’ và ‘Trận đòn hòa giải’ là những hình ảnh đau thương nhất trên đời, là những hình ảnh tượng trưng cho tất cả những đứa trẻ ở trần gian này”.

    Phạm Công Thiện tâm sự như thế, dù trong ngôn ngữ của ông có một chút gì hơi phấn khích nhưng cũng khá thành thật.

    Phạm Công Thiện là một khuôn dáng văn chương rất có ảnh hưởng với những lớp sinh viên học sinh ở miền Nam của thập niên 70, 80. Thời gian ấy, những cuốn sách như “Ý Thức Mới trong Văn Nghệ và Triết Học”, “Hố Thẳm của Tư Tưởng”, “Ngày Sanh của Rắn”, là những cuốn sách cầm tay của giới trẻ. Từ tác phẩm của ông, mở ra nhiều những cánh cửa. Trước hết, ông là một người sáng tạo nhiều suy tư về cái Mới, về những ngả đường có thể khá lạ lùng đến khi kỳ dị nhưng hấp dẫn. Văn học sẽ phải có những thay đổi, nhất là trong hoàn cảnh một đất nước chiến tranh như Việt Nam. Ngay cả khi làm thơ, thi sĩ như người của hành tinh lạ lạc đến, với ngôn từ khá lạ lùng như đoạn VI của tập “Ngày Sanh của Rắn”.

    “Tôi chấp chới
    Ðắng giọng
    Giữa tháng ngày mơ mộng
    Nốt ruồi của hương
    Hay nốt ruồi của rigvéda
    Tôi mửa máu đen
    Trên nửa đêm paris
    Tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
    Tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
    Cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ
    Mặt trời có thai!
    Mặt trời có thai!
    Sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt”.

    Nếu bảo giải thích từng câu từng chữ thì có lẽ chính cả tác giả cũng lúng túng. Thơ là những hình ảnh rải rác, thoạt tưởng không liên quan với nhau nhưng trong trình tự cảm nhận lại có một ý nghĩa nào len vào bất chợt những liên tưởng. Có người cho rằng những từ ngữ như thủ dâm thương đế, giao cấu mặt trời, mặt trời có thai... tạo ra cảm giác tức thì với hình tượng có hơi dung tục ấy. Ðó là một cảm nhận. Nhưng, ngay ở thời điểm bây giờ, đọc lại câu thơ, chúng ta vẫn có thể bắt gặp được nét khai phá một cách rõ ràng. Thơ là một cái gì, khác thường lắm, có lúc rất gần cận cuộc sống mà có lúc lại xa nghìn trùng.

    Tôi nhớ có lần nhà thơ Phạm Công Thiện nói chuyện với tôi về kinh nghiệm đọc thơ của ông. Lúc ấy, đêm đã khuya và ông có ngôn ngữ của một Lưu Linh đang trong cơn đồng thiếp. Ông đọc thơ Pháp, thơ Anh, thơ La tinh, thơ Việt Nam tiền chiến và hiện đại. Ðọc xong rồi bình, hình như văn chương đã lôi ông vào một cơn mộng.

    Nói về kinh nghiệm để có thể tiếp cận với thơ ông đọc một bài thơ thật nhiều lần và sau mỗi lần đọc như thế đều tìm ra những cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy bắt nguồn từ giây phút rất thiêng liêng để con người bắt gặp được những sáng ngời lộng lẫy. Sự kiện ấy James Joyce đã gọi là “a sudden spiritual manifestation” (biểu hiện tâm linh bất ngờ) hay “epiphany” (sự linh hiện). Tương tự, như Xuân Diệu: “phất phơ hồn của bông hường/trong hơi phiêu bạc còn vương máu hồng/nghe chừng gió thoáng qua song...” đó, chính là hồn của thơ, của những giây phút linh hiện mà chỉ có những người tài tử cảm nhận được.

    Ở Phạm công Thiện, cái chất thơ đã thành nét đặc thù tinh tế cho văn chương ông. Viết khảo luận, ông mang cái kiến thức rộng lớn tích tụ từ sách vở cùng với hồn thơ để thành những bước đi lãng mạn vượt qua những khô khan câu thúc. Là một triết gia, cái nhận thức để thành những trang giấy cũng có chút thi ca bồng bềnh vào để thành một triết gia thi sĩ. Cái chất lãng tử trong văn chương là một nét thấy rõ. Phạm Công Thiện viết:

    “...Tất cả đời sống văn xuôi tẻ nhạt, những công thức, những danh vọng, những khuôn mòn lối cũ, những địa vị xã hội, những mẫu mực khuôn xếp đã thụt lùi ra đằng sau, chỉ còn lại nước chảy của dòng sông và mây chiều của đại dương: mây ở trên cao trôi dưới dòng nước rong rêu của khe biển nho. Thi nhân từ bỏ tất cả lại đằng sau lưng và bước tới trước băng qua cây cầu gỗ mong manh”.

    Viết về thơ Seamus Heaney, nhưng trong dòng chữ có cảm khái riêng của một người mà thi ca đã thành máu xương da thịt cho đời sống. Viết những cuốn sách triết học giữa hồn thơ lai láng, cũng giống như viết những trang tùy bút mà chữ nghĩa đã thành những trân trọng nâng niu nhất. Cầm cây bút trong trạng thái tuy phong trần từng trải nhưng vẫn còn sót nét ngây thơ của một người tin tưởng vào những điều nghĩ rằng cần phải tìm kiếm được bằng suy tưởng. Với đời thường, ông sống như lạc lõng bất kể. Nhưng với văn chương, ông là người tinh tế và có can đảm rũ bỏ tất cả để đi lại những bước khởi đầu.

    Nhà thơ Nguyên Sa đã có bài thơ vẽ lại chân dung của một nhà thơ tiêu biểu cho một phong cách sống đặc biệt của một người cũng đặc biệt trong một thời kỳ văn học mà sự khao khát những phương trời mới những vóc dáng mới đã thành động lực mạnh mẽ cho sáng tạo. Bài thơ “Nói chuyện phải quấy với Phạm Công Thiện”:

    “Người vào tịnh thất sống ba năm
    Cất tiếng không lời để nói năng
    Buổi sáng thinh không chiều tới chậm
    Tiền kiếp chen vô cạnh chỗ nằm
    Ta muốn cùng người một tối nay
    Ðầu sông uống rượu cuối sông say
    Người từ trên núi ta từ biển
    Từ giấc mơ nào đã tới đây
    Dưới bóng tường im, giữa nhạc không
    Ðời như phía trước bỗng mông lung
    Thơ như hữu thể mà vô thể
    Có cũng xong mà không cũng xong
    Sáng dậy ta nhìn tục lụy ta
    Những đi không tới đến không ngờ
    Xóa luôn thì dứt những tâm thức
    Kinh Pháp Hoa nào dậy cách xa?
    Trong chín ngàn âm có hải triều
    Còn thêm một kiếp nữa phiêu lưu
    Này người bỏ sóng sang thuyền tĩnh
    Nhớ đứng chờ ta ở cõi siêu”

    Nhưng không phải tất cả thơ ông chỉ chuyên chở ý tưởng. Mà, còn chuyên chở cảm giác nữa. Thơ để mang tới những giây phút linh hiện, để người đọc thơ và làm thơ một giây phút tình cờ nào đó gặp nhau trong giao thoa cảm xúc. Có một bài thơ trong tập thơ mỏng về số trang nhưng dầy về ý tưởng, Ngày sanh của rắn, VIII, có những hình ảnh nối liền nhau để thành một chuỗi sinh động liên tưởng luôn biến dịch. Gió, như một cuộc hành trình đi qua đồi tây, đồi đông, đi qua những chặng thời gian tưởng ngắn như một sát na nhưng dài vô tận. Thế mà, trong cái lãng đãng tâm thức ấy, ngôn ngữ nhẹ nhàng như một hồi tưởng để níu kéo cảm nhận của người đọc trong một cảnh giới mơ hồ:

    “Mười năm qua gió thổi đồi tây
    Tôi long đong theo bóng chim gầy
    Một sớm em về ru giấc ngủ
    Bông trời bay trắng cả rừng cây
    Gió thổi đồi tây hay đồi đông
    Hiu hắt quê hương bến cỏ bồng
    Trong mơ em vẫn còn bên cửa
    Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
    Gió thổi đồi thu qua đồi thông
    Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
    Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
    Một sớm bông hồng nở cửa đông”

    Với suy nghĩ của tôi, Phạm Công Thiện là một thi sĩ nghệ sĩ. Không phải là cung cách một phù thủy chữ nghĩa hoa tay bùa chú vào hư vô để thành một văn phong khúc mắc khó hiểu. Mà, là một người ôm tất cả những rộng khắp vào lòng và đi vòng quanh để tìm chân lý. Cái tâm thức vốn tịch lặng của một người thâm cứu Phật Giáo pha trộn vào ý thức muốn nổi loạn phá bỏ cung cách cũ khiến văn chương trở thành một hành trình của một người luôn xông tới đằng trước và không dừng lại. Trong đời sống, phong cách du tử, làm những điều mình thích khiến ông thành một người luôn thấy đêm ngày là hoang vu...

    Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm”, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:

    Sinh ngày 1 Tháng Sáu 1941 tại Mỹ Tho. Trong gia đình, Thiện là người anh cả. “Người anh không giúp ích gì được cho gia đình nhìn thấy mọi người cha mẹ em út đang lâm vào cảnh sa sút túng bấn. Mà mình thì lận đận lao đao chẳng giúp ích được gì.”

    Ðó cũng là một lý do, khiến có lúc Thiện bỏ đi tu ngoài Nha Trang. Thiện đã có lần cùng chúng tôi đem bán từng va ly “Anh Ngữ Tinh Âm” của anh soạn để lấy tiền ăn bánh mì trong những lúc đói rách nhất. Mặc dầu lúc đó báo Phổ thông và Dân ta của Nguyễn Vy bán chạy, lương của Thiện trên mười lăm ngàn (bằng khoảng 150 ngàn đồng bây giờ mỗi tháng) tiền lãnh ra, thiện đem uống rượu say rồi gọi tất cả đám trẻ nít đánh giày lại, các bọn bán báo nghèo đói phân phát tất cả cho chúng trong một khắc đã hết sạch. Qua ngày hôm sau, kiếm lại vài chục uống cà phê là sự thường.

    Có người cho ông là thần đồng, soạn “Anh Ngữ Tinh Âm” lúc 16 tuổi. Có người cho ông là một triết gia, tư tưởng gia luôn luôn vật vã với suy tư. Có người cho ông có hiểu biết rộng thông hiểu nhiều ngoại ngữ. Có người cho ông là một người đọc sách chuyên cần với óc thông minh và nhớ lâu không quên. Cũng như có người gọi ông là lãng tử, là một người thích gì làm nấy và luôn miệt mài trên con đường độc hành tìm kiếm những điều bất khả trong cuộc sống.

    Với tôi, ông là một thi sĩ và là người viết về thi ca mà tôi yêu thích. Dù, ông “đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất” để tìm “ý thức mới trong văn nghệ và triết học” qua “hố thẳm của tư tưởng” để “im lặng hố thẳm” và, cứ thế hành trình.
    Sống trên đời

    Similar Threads
  • #2

    Ngày Sinh Của Rắn


    Phạm Công Thiện


    I
    tôi đi đông chìm
    trời âm u thung lũng khô
    nhiều mây chim bay không nỗi


    tôi đi
    dưới kia sụp đổ
    núi cấm nổ tôi ra
    cửu long ca từ tây tạng


    tôi về
    tôi hiện
    đèn tắt trời gió tắt trăng
    chim lạ
    kêu tiếng người
    hố thẳm ra đời
    tôi bay trên biển






    II
    tôi nằm cho rã chiếu cạp điều
    nước chảy lên vùng phố tịch liêu
    tôi nhớ một lần cây quế mọc
    tôi đứng gọi hương trọn buổi chiều






    III
    mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
    cây khế đồi cao trổ hết bông






    IV
    trời mưa nữu ước cây mọc
    nhớ hương trời mưa ngày tháng
    nhớ hương đường hoang mái vắng
    nữu ước chỉ còn hương trong giấc ngủ
    tim anh tràn máu
    con chim đã bay về rừng đạn
    anh không còn làm tu sĩ
    anh chỉ còn hương trong giấc ngủ
    anh chỉ còn máu để đổ vào tim hương
    đổ vào tám tách cà phê đen


    anh uống mỗi đêm

    tại greenwich village
    tại làng thi sĩ
    tại đường khói bay
    tại hương trong giấc ngủ
    tại chiều ba mươi tết ở việt nam
    bây giờ anh xa hương đến

    mấy đại dương xanh

    mấy phương trời cỏ mọc
    mấy phương trời hương khóc
    hương còn ca hát
    hương còn phơi áo giữa phố buồn
    hương còn cười
    mười năm rồi cây quế

    vẫn mọc trên đời anh

    trên mắt anh
    môi anh
    trên bước chân buồn phố mẹ ngày xưa
    trên bước chân chiều phố lạ hôm nay
    mưa làm tóc anh thơm
    mùi cây quế
    giữa hồ
    mọc giữa hồ quế hương
    tóc anh mọc dài
    che chở hương
    lúc mưa rơi
    lúc đông lạnh
    lúc chim chiều đi mất
    mưa trên phố đêm
    trên quán cà phê ý đại lợi
    trên chiến tranh
    của quê hương
    của quế hương
    còn anh





    V
    rạng đông tôi xin thề


    thức dậy ba giờ sáng

    đợi kinh đào chảy ngược
    cửa nhỏ đóng kín
    những chiếc cầu tuổi dại
    mười sáu năm tôi thức trong đời
    mười sáu con kinh đào

    không bao giờ chảy ngược

    đứng ngang cầu pont-neuf
    nhìn sông seine tôi thấy cửu long
    paris đuổi mất mây mộng hoang đường
    đập vỡ cơn điên trên triền đá sương
    tôi trốn giặc đời
    tắm trong hồn hương
    trái đu đủ
    trong khu vườn xưa
    con rắn nhỏ





    VI
    tôi chấp chới
    đắng giọng
    giữa tháng ngày mơ mộng
    nốt ruồi của hương
    hay nốt ruồi của rigvéda
    tôi mửa máu đen
    trên nửa đêm paris
    tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
    tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
    cho quế hương nằm ở


    nhà thương điên của trí nhớ

    mặt trời có thai !
    mặt trời có thai !
    sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt





    VII
    tôi nuốt nọc đen giữa


    đường guillaume apollinaire

    từ xóm saint-germainđes-prés
    mọc lên giáo đường hang động
    cà phê biến hồn đầu thai
    hoá thành một triệu con ma đen
    nhảy múa trên núi lửa đầu tôi
    tôi mặc đồ xanh
    và mang đồng hồ da đen
    tôi chứa chấp sáu ngọn lửa điên
    trong sáu diêm quẹt còn rớt lại
    tôi gọi hương và tôi chết giấc
    tôi chạy lên trời làm rắn thâu đêm
    máu đổ mưa đen
    ồ cây mồng tơi
    của thời trẻ dại
    tôi gọi thầm
    rắn cuộn tròn
    tương lai





    VIII
    mười năm qua gió thổi đồi tây
    tôi long đong theo bóng chim gầy
    một sớm em về ru giấc ngủ
    bông trời bay trắng cả rừng cây
    gió thổi đồi tây hay đồi đông
    hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
    trong mơ em vẫn còn bên cửa
    tôi đứng trên đồi mây trổ bông
    gió thổi đồi thu qua đồi thông
    mưa hạ ly hương nước ngược dòng
    tôi đau trong tiếng gà xơ xác
    một sớm bông hồng nở cửa đông






    IX
    rắn trườn vỡ trứng chim rừng
    tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
    khuya buồn tủi nhục môi em
    mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ
    tiếng ru chín đỏ điện thờ
    hoang vu tôi đứng đợi chờ chim kêu
    tay còn ôm giữ tình yêu
    tôi về phố động những chiều hư vô
    đời đi trên những nấm mồ
    đau tim em hát cơ hồ khăn tang
    phố chiều tôi bước lang thang
    nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh
    nửa đêm khói đốt đời anh
    yêu em câm lặng khô cành thu đông
    lời ca ru cạn dòng sông
    trọn đời chạy trốn mống vòng cầu điên
    bỏ mình nước chảy đồi tiên
    theo con chim dại lạc miền thiên hương
    về đâu thương những con đường
    lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa






    X
    mùa xuân bay thành khói
    tôi ca hát một mình
    suốt đời không biết nói
    nước chảy tràn con kinh
    quá khứ bay lên trời
    biến thành cánh chim non
    tôi quì hôn lá mới
    đau khổ trắng linh hồn
    hư không đổ ra khơi
    kỷ niệm trôi qua cầu
    bãi chiều chưa người tới
    tình nhỏ quên từ lâu
    xuân bay trắng núi đồi
    tôi nằm ngủ mơ chim
    bỗng hét lên trong tối
    ngồi thức dậy bảy đêm
    trời cuối năm gác trọ
    đèn tắt suốt đêm dài
    con chim mười năm nhỏ
    bay về đậu nơi đây
    hơi thở giết thời gian
    bướm nằm chết thang lầu
    tiếng chim ru ngày tháng
    máu chảy về sông sâu
    suốt đời không biết nói
    tôi ngồi thức một mình
    đốt thuốc lên nhìn khói
    đêm rạng niềm hư linh






    XI
    tôi lái ô tô buýt


    giữa thành phố new york

    mỗi ngày tôi lái ô tô buýt

    đi trên những con đường không

    người những con đường chim chết
    những con đường của mỗi ngày
    từ riverside drive đến broadway

    đến đại lộ thứ năm đến

    washington square
    công trường nghệ sĩ tóc bay hương hát
    từ greenwich village tôi đi về chinatown
    mười lăm xu mỗi chuyến
    xa hay gần hay mau hay chậm
    tôi vẫn lái cuộc đời tôi trên những

    con đường quen thuộc

    không mây
    mùa lá hay mùa kèn nửa đêm
    dong buồm thổi đến honolulu lặng gió
    xa việt nam đà lạt và cà phê tùng cuối năm
    tôi cúi đầu trong hầm cà phê figaro nữu ước
    chuyến ô tô buýt của đời tôi vẫn chạy hoài
    trên những con đường mỹ châu trống rỗng
    chuyến xe không về harlem đói lửa
    vì mỹ châu trống rỗng

    trên chuyến ô tô buýt chiều nay tóc bay

    hương khóc
    tôi vẫn lái chuyến xe này đi về đêm tối
    đêm tối nữu ước là đêm tối nhà xác
    tôi đốt đèn cầy để nhìn xác tôi giữa

    nhà mồ mỹ châu lạnh lẽo mưa đen

    đêm qua tôi thấy máu đổ trong hầm xe điện irt
    giữa con đường 42nd hay times square
    tôi thấy việt nam ngang tàng cho mặt trời

    vẫn mọc trên rắn lửa

    trên mái ô tô buýt chiều thu





    XII
    buổi chiều mưa đụng tim
    mưa đụng máu
    đèn đường đổ xuống nước xanh
    xin hét lên rừng u minh đầu đông
    tử hình trong ngục
    nhốt vào trong ngục
    suốt đời trong ngục
    khói vóc lửa núi
    nhóm nước đầu thu
    xin đừng nói
    lá chuối
    lá me non
    xanh nhà thương
    ngồi trong thành phố
    hoa trắng không còn
    con chó đứng nhìn xe lửa mỗi ngày
    chùm hoa trắng rụng một hai bông rất nhỏ
    bông trắng quá nhỏ
    buổi chiều ích kỷ
    con đường quá dài
    những cây trắc bá chùi đầu lên nghĩa địa
    một người họa sĩ thất tình
    nhân loại đều thất tình
    nói đi thật nhiều
    khoai tây
    lang thang ngược vòng những vũ trụ
    anh nói gì
    tôi không nghe
    xuống phố và lên phố
    chạy hun hút qua hai nghĩa địa
    cây trắc bá
    chôn vùi con chó nhà ga



    -- Phạm Công Thiện
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 10-03-2010, 10:43 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      Phạm Công Thiện



      Ðời gọi ông là thần đồng, là triết gia, là phù thủy văn chương hay gì gì đi nữa thì tôi vẫn thích đọc ông như một thi sĩ, và nhìn ông như một nghệ sĩ, vác một trời tư tưởng mênh mông, ôm một bầu tâm thức tịch lặng, nói những gì muốn nói, làm những gì muốn làm, và rồi... chẳng bao giờ nhìn lại cái gì đã nói, đã làm; chẳng bao giờ đứng lại. Ông sống trên đời như một du tử hết sức giàu có, và hết sức trắng tay, lang thang mãi... cho hết những đêm hoang vu trên mặt đất.(*)

      Hình như trong số mấy chục tác phẩm đã xuất bản, ông chỉ cho ra đời mỗi một tập thơ duy nhất là Ngày Sinh Của Rắn. Ðó là nói theo đúng cách phân loại bài bản của học đường; chứ nhìn ở khía cạnh rung cảm nghệ thuật thuần túy, ngay cả những tập văn xuôi nặng triết lý của ông vẫn mang cả một trời thơ dị thường.
      Dù sao, cũng chỉ nên đọc thơ ở đây mà thôi:

      Mười năm qua gió thổi đồi tây
      Tôi long đong theo bóng chim gầy
      Một sớm em về ru giấc ngủ
      Bông trời bay trắng cả rừng cây
      Gió thổi đồi tây hay đồi đông
      Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
      Trong mơ em vẫn còn bên cửa
      Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
      Gió thổi đồi thu qua đồi thông
      Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
      Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
      Một sớm bông hồng nở cửa đông.
      (Ngày Sinh Của Rắn, VIII)

      Những tập sách dày cộm triết lý của ông, có lúc ta đọc say mê quên ăn quên ngủ, mà có lúc cũng muốn bể đầu. Thơ ông cũng đầy mùi triết lý, nhưng cái triết lý đã được kết tinh, cô đặc lại thành những hình ảnh.

      Rắn trườn vỡ trứng chim rừng
      Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
      Khuya buồn tủi nhục môi em
      Mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ
      Tiếng ru chín đỏ điện thờ
      Hoang vu tôi đứng đợi chờ chim kêu
      Tay còn ôm giữ tình yêu
      Tôi về phố động những chiều hư vô
      Ðời đi trên những nấm mồ
      Ðau tim em hát cơ hồ khăn tang
      Phố chiều tôi bước lang thang
      Nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh
      Nửa đêm khói đốt đời anh
      Yêu em câm lặng khô cành thu đông
      Lời ca ru cạn dòng sông
      Trọn đời chạy trốn mống vồng cầu điên
      Bỏ mình nước chảy đồi tiên
      Theo con chim dại lạc miền thiên hương
      Về đâu thương những con đường
      Lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa.
      (Ngày Sinh Của Rắn, IX)

      Vì vậy, khi đọc, ta không cần phải suy tư, triết lý gì nữa. Ta chỉ đọc thơ mà thôi. Và cõi thơ ấy, thật trong sáng; đôi khi thơ dại...

      Tôi nằm cho rã chiếu cạp điều
      Nước chảy lên vùng phố tịch liêu
      Tôi nhớ một lần cây quế mọc
      Tôi đứng gọi hương trọn buổi chiều.
      (Ngày Sinh Của Rắn, II)

      Ðôi khi đơn giản mà đẹp lạ lùng. Ðẹp một cách bất ngờ. Ðẹp hết ý...

      Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
      Cây khế đồi cao trổ hết bông.
      (Ngày Sinh Của Rắn, III)

      Một bài khác, càng giản dị hơn, lời lẽ đơn sơ đến mộc mạc, đơn sơ đến trẻ thơ, chẳng khác gì đi ngược về quá khứ mà làm một bài thơ bằng lời lẽ của tuổi thơ ấu vậy.

      Tết Xưa
      Lơ lửng bông mồng gà
      Chiều ba mươi tết ta
      Tôi ôm gà tre nhỏ
      Chạy trốn tuổi thơ qua.

      Ðến như bài sau này thì hết lời bàn. Cả một đời trăn trở, vật mình với triết lý, ông vẫn cứ như vậy... vẫn bên này nhìn bên kia, đồi này ngóng đồi nọ; vẫn mây trắng bay, vẫn gọi nhau nhỏ nhẹ nỗi nhớ, vẫn sông sâu và ngày tháng đợi chờ ... và vẫn một đêm, một tháng, một năm, một đời, trôi lang thang...

      Thiên Sương
      Mộng ở đầu cây mơ lá cây
      Dòng sông ngừng chảy đợi mây bay
      Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấy
      Chim hải hồ bay trắng tháng ngày

      Tình nhỏ quên rồi em ở đâu
      Mây bỏ trời đi tìm sông sâu
      Em về lồng lộng như sương trắng
      Hồn chết trôi về Thương Hải Châu.

      __________
      * Tựa đề một tác phẩm của ông: Ði Cho Hết Một Ðêm Hoang Vu Trên Mặt Ðất.
      Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 10-03-2010, 10:47 AM.
      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      • #4

        Phạm Công Thiện ,Con chim lạ lạc miền hoang lương

        Lê Ngọc Trác

        Vào thập kỷ 60 – 70 của thế kỷ 20, Phạm Công Thiện là một hiện tượng dị thường trong hoạt động văn học nghệ thuật và triết học ở miền Nam nước Việt. Nhiều người, trong đó có nhà thơ Nguyễn Vỹ đã công nhận Phạm Công Thiện là thần đồng. Sinh ngày 1 tháng 6 năm 1941 tại Mỹ Tho, 15 tuổi đầu, Phạm Công Thiện đã thông thạo nhiều ngoại ngữ: Pháp, Anh, Nhật, Hoa, Tây Ban Nha, tiếng Latinh và cả tiếng Phạn. Từ năm 13 đến năm 16 tuổi, Phạm Công Thiện đã có những bài viết về văn học, triết học đăng trên tạp chí Bách Khoa – một tờ báo lớn có uy tín trong giới trí thức ở miền Nam. Ngoài hai mươi tuổi đã viết trên 20 cuốn sách về ngôn ngữ học, văn học, triết học. Phạm Công Thiện còn soạn sách Anh ngữ Tinh âm. Tính đến năm 2000, Phạm Công Thiện đã viết và xuất bản ở trong nước và nước ngoài 30 tác phẩm. Giới trẻ ở miền Nam say mê tác phẩm của Phạm Công Thiện và xem ông như thần tượng của mình. Các tác phẩm của Phạm Công Thiện như: Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1965), Im lặng phố thẳm (1967), Hố thẳm của tư tưởng (1967), Ý thức bùng vỡ (1970), Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc (1996)... Có sức cuốn hút người đọc một cách kỳ lạ. Phần đông thanh niên miền Nam xem những tác phẩm của Phạm Công Thiện là sách gối đầu giường của mình.

        Phạm Công Thiện là một thiên tài. Về học hành, ông không tốt nghiệp một trường đại học nào. Thậm chí, mảnh bằng tú tài cũng không có. Nhưng, với tài năng và tác phẩm của mình, Phạm Công Thiện được mời dạy ở một số trường đại học trong và nước ngoài. Từ năm 1966 đến 1970, Phạm Công Thiện giảng dạy và làm khoa trưởng khoa Văn học và Nhân văn của đại học Vạn Hạnh (Sài Gòn). Phạm Công Thiện là một trong những người sáng lập và điều hành tạp chí "Tư tưởng" của đại học Vạn Hạnh. Năm 1970, làm giáo sư triết học phương Tây của trường đại học Toulouse (Pháp). Năm 1983, làm giáo sư Phật giáo viện College of Buddhist Students ở Hoa Kỳ. Từ đó đến nay Phạm Công Thiện lúc thì sống ở Hoa Kỳ, lúc thì sống ở Úc, tiếp tục viết sách. Phần lớn tác phẩm của ông là nghiên cứu về Phật giáo.

        Cuộc đời Phạm Công Thiện có những dị thường hơn người. Từ một tín đồ Thiên Chúa giáo, đến năm 1964, ông trở thành thầy chùa với pháp danh Nguyên Tánh. Năm 1970, sống tại Pháp, Phạm Công Thiện cởi bỏ áo cà sa, lấy vợ- một người theo đạo Cơ Đốc.

        Trong tác phẩm của mình, Phạm Công Thiện đã phủ nhận và lên án các triết gia và các học thuyết từ thời cổ đại đến hiện đại. Có lúc, Phạm Công Thiện còn nặng lời phủ nhận cả Đức Phật Thích Ca và Đức Chúa Giêsu. Cuộc sống Phạm Công Thiện đầy những mâu thuẫn. Phải chăng cuộc đời của thiên tài Phạm Công Thiện gặp nhiều bi kịch: Bi kịch chiến tranh của đất nước, bi kịch của gia đình, bi kịch của bản thân. Từ đó, bùng vỡ ý thức phản kháng thể hiện trên tác phẩm của mình. Nhiều người gọi Phạm Công Thiện là triết gia. Nhưng Phạm Công Thiện chưa bao giờ nhận mình là một triết gia cả. Phạm Công Thiện thường tự nhận mình là nhà thơ. Năm 1966, tập thơ "Ngày sinh của rắn" của Phạm Công Thiện phát hành đầu tiên tại Pháp. Đến năm 1967 được tái bản và phát hành tại Việt Nam. Năm 1988 được tái bản lần nữa và phát hành tại Hoa Kỳ. Đến năm 2000, Phạm Công Thiện cho ra đời tập thơ thứ hai với tựa đề "Trên tất cả đỉnh cao là im lặng" tại Hoa Kỳ, đến năm 2009 được tái bản và phát hành rộng rãi tại Việt Nam.

        Phạm Công Thiện quan niệm: "Thơ ca bí nhiệm như một tôn giáo. Thơ ca làm cho chúng ta luôn mơ mộng và suy tư". Trong thơ, Phạm Công Thiện không còn vẻ phản kháng, ngông nghênh như trong các tác phẩm biên luận, phê bình, triết học hay tùy bút. Thơ Phạm Công Thiện mới lạ, mỗi bài là một nét riêng, chuyên chở ý tưởng, cảm xúc, tràn ngập những cung bậc tình cảm đầy tha thiết, đưa người đọc vào những khám phá mới, bắt gặp những sắc màu mông mênh hư ảo.

        .................................................. ...........


        Năm 1980, Phạm Công Thiện cho ra đời bài thơ "Trường giang Mỹ Tho" với lời thơ mới mẻ, ý thơ sâu sắc. Bài thơ gần với hơi thở của một trường ca. Đây là bài thơ đẹp của Phạm Công Thiện. Nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã xếp bài thơ "Trường giang Mỹ Tho" vào những bài thơ hay nhất của nền thi ca Việt Nam hiện đại:

        "...Thôi nôi con trường giang mọi rợ
        tôi mọi mãi mỗi trường an
        con diều hâu chạy bắt con chim
        con chim lòn qua kẽ núi
        lọt ra gió Hải Nam thổi hiu hắt về Trường Sơn
        nước Trường Giang mẹ ru chim ngủ
        con lớn khôn rồi bỏ mẹ bay xa
        Cha con già Trường Sơn con ơi
        trường giang đi chảy mãi nửa đời
        trường sơn già ngồi đứng hứng mưa
        mưa đi từ dưới chân đỏ bồ câu thượng thủy Tây Hồ
        con lớn khôn rồi quên đất quên sông
        con sông nào Cửu Long chảy từ thượng tứ
        Mỹ Tho buồn thây chết trôi sông
        Súng nổ bên cầu quay
        Mẹ bồng con đóng cửa
        Lính Tây dương đang say rượu giao thừa
        Bông cúc vàng đầy sân ướt máu
        Ba con già con trẻ đi xa
        Súng nổ trên mái lầu
        Nhà cháy bên hông
        Mấy dì con chơi tứ sắc
        Con còn nhỏ quá con ơi
        ..."
        (Trích bài thơ "Trường giang Mỹ Tho")

        Viết về tình yêu, Phạm Công Thiện viết với một tâm hồn chân thật, đầy cảm xúc, âm điệu nhẹ nhàng gợi cho chúng ta một nỗi niềm cô đơn, xa vắng:

        "cô đơn về trắng sương rừng
        anh nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
        khuya buồn tủi nhục môi em
        mưa run lặng lẽ trên thềm bơ vơ
        tiếng em vàng xuống đôi bờ
        hoang vu anh đứng đợi chờ chim kêu
        tay gầy ôm chặt tình yêu
        anh về phố gục những chiều hư vô
        đời đi trên những nấm mồ
        đau thương em hát cơ hồ khăn tang
        phố chiều tôi bước lang thang
        như con sông nhỏ mơ màng biển xanh
        nửa đêm khói đốt đời anh
        yêu em câm lặng như cành thu đông
        đời em như một dòng sông
        đôi bờ anh đứng giữa lòng hoa niên
        mưa chiều nước chảy triền miên
        một con chim dại lạc miền hoang lương
        về đâu thương những con đường
        lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa"
        (Bài thơ "Ca sĩ")

        Qua thơ, Phạm Công Thiện như "một con chim lạ lạc miền hoang lương". Con chim kỳ lạ ấy từ biển lớn đã bay qua những cánh đồng mênh mông bát ngát của miền châu thổ Cửu Long giang, bay qua những đỉnh núi cao lộng gió giữa trời, hát lên những khúc ca kinh động cả đất trời ngân vọng mãi đến ngàn sau ./.

        ----------------------------

        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

        Comment

        • #5

          Ôi chao ơi , ngày xanh ơi cứ nhớ mãi khôn nguôi...

          Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấy
          Chim hải hồ bay trắng tháng ngày...

          Ngày xưa , thủa còn bé vô tình mua ổ bánh mì thịt xá xíu cuối phố... Tờ giấy gói ổ bánh là một trang trong " Ý Thức Mới " của cuồng sĩ Phạm Công Thiện.

          Một trang sách với những tư duy mới lạ , thơm cùng mùi thịt xá xíu.... Thằng nhỏ tui tức tốc chạy về nhà đem nguyên mấy cuốn tập vỡ chạy lại tiệm bánh mì để xin đổi lấy cuốn sách đó

          Từ đó những tác phẩm của PCT được thằng bé mới lớn ôm ấp từ trên gác sép , trên giường ngủ , trong nhà cầu tiêu.... Để rồi mơ mộng bay lên , bay lên ngỡ mình là một triết gia lang thang cùng những chữ với nghĩa

          Sang Mỹ gặp bác Thiện ở chùa Diệu Pháp tại LA thì thần tượng một thời của Mít bị xụp đổ hoàn toàn

          Ngày xưa có thằng bé thích ăn bánh mì xá xíu
          Đã chỉnh sửa bởi M Mít Đặc; 11-03-2010, 10:05 AM.
          Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.

          Comment

          • #6

            ..::~Trích dẫn nguyên văn bởi M Mít Đặc View Post
            Ôi chao ơi , ngày xanh ơi cứ nhớ mãi khôn nguôi...

            Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấy
            Chim hải hồ bay trắng tháng ngày...

            Ngày xưa , thủa còn bé vô tình mua ổ bánh mì thịt xá xíu cuối phố... Tờ giấy gói ổ bánh là một trang trong " Ý Thức Mới " của cuồng sĩ Phạm Công Thiện.

            Một trang sách với những tư duy mới lạ , thơm cùng mùi thịt xá xíu.... Thằng nhỏ tui tức tốc chạy về nhà đem nguyên mấy cuốn tập vỡ chạy lại tiệm bánh mì để xin đổi lấy cuốn sách đó

            Từ đó những tác phẩm của PCT được thằng bé mới lớn ôm ấp từ trên gác sép , trên giường ngủ , trong nhà cầu tiêu.... Để rồi mơ mộng bay lên , bay lên ngỡ mình là một triết gia lang thang cùng những chữ với nghĩa

            Sang Mỹ gặp bác Thiện ở chùa Diệu Pháp tại LA thì thần tượng một thời của Mít bị xụp đổ hoàn toàn

            Ngày xưa có thằng bé thích ăn bánh mì xá xíu

            ...Ngày xưa - ở xứ Việt -có thằng bé thích ăn bánh mì xá xíu...

            ...ngày nay - ở xứ Cờ Huê - có anh chàng nhai đỡ lòng ...fast food...

            ..::~Trích dẫn nguyên văn bởi M Mít Đặc View Post
            Mấy bửa nay mẹ gọi về nhà ăn bánh tét chiên và dưa món còn xót lại của mấy tết qua

            Ăn xong còn được ăn mứt gừng uống trà sen Huế...

            Xuân trong tôi , vẫn xanh trong một đêm mơ... Là... lá... la


            ...trải qua bao "thương hải biến vi tang điền " ...

            ô hô ! ô hô ! ! !



            ...chiêm bao mãi nhưng lòng không dám nhớ...

            ai... sẽ về thương lại một dòng sông

            có sóng vỗ quanh đôi bờ tuổi nhỏ...


            Error - 404
            Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 11-03-2010, 11:17 PM.
            ----------------------------

            Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

            Comment

            • #7

              thơ phạm công thiện

              Phạm Công Thiện đã ra đi...
              Đi


              Đã đi thì đã đi rồi
              Thượng phương trùng điệp thấy gì nữa đâu
              Hạ phương ngày tháng bể dâu
              Sắt son tình cũ phượng cầu túy hương
              Có còn gì nữa mà thương
              Buổi trưa nằm ngủ thấy nường năm xưa.


              Đã đi rồi đã đi chưa
              Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa trời
              Đã đi mất hẳn đi rồi
              Hạ phương tịch mịch trùng khơi phong kiều
              Chuyển hình trên đỉnh cô liêu
              Lửa bay thành ngọn hồng điều mật ngôn
              Đại Huyền biến ngưỡng triêu tôn
              Tiền thân Tây Tạng nhập hồn chiêm bao
              Án nga nga nẵng bạch nào
              Một luồng sáng rực chiếu vào trái tim


              Năm nàng thiên nữ tôn nghiêm
              Trùng quan ngũ sắc ứng điềm tán không
              Án Đa La tịch mịch hồng
              Mười phương xuất hiện những đồng sinh thiên
              Bát Nhã là gái thiên tiên
              Khoan thai cởi áo mây hiền trên cao
              Gió lùa thơm tóc tơ đào
              Thập bát Không Định tiêu dao tiếng đàn
              Trời mưa chim ngủ trên ngàn
              Sắt son tình cũ nước tràn sang sông


              Đã đi rồi có đi không
              Thượng phương trùng điệp cỏ hồng thúy hương
              Đi đâu mà lại lên đường
              Hạ phương còn gặp cô nường năm xưa
              Đã đi rồi đã đi chưa
              Sắt son triều ngưỡng tình xưa hiện về
              Phượng cầu ngũ lĩnh sơn khê
              Một bông hồng nở bốn bề lặng im
              Năm nàng tiên đậu vào tim
              Âm nhập dương khởi lim dim xuất thần


              Nhập định tam muội tần thân
              Trở về động cũ như lần gặp xưa
              Đã đi rồi đã đi chưa
              Đền thiêng triệu ngưỡng người xưa kiếp nào
              Tình bay lên nóng trăng sao
              Gió lùa thơm tóc cô nào năm xưa
              Đã đi rồi đã đi chưa
              Thương phương lụa trắng đong đưa giữa trời
              Đã đi mất hẳn đi rồi
              Hạ phương tịch mịch bỏ đời biệt tăm.


              Phạm Công Thiện 1/6/1941 - 8/3/2011
              Đã chỉnh sửa bởi M Mít Đặc; 16-03-2011, 08:34 PM.
              Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.

              Comment

              • #8

                Xem lại câu này

                "...Et souviens-toique fe attends...”

                Theo tôi nên viết là:
                "...Et souviens-toi que j ' attends..."
                Đã chỉnh sửa bởi Nguyễn Lương Tuấn; 13-04-2011, 02:12 AM.

                Comment

                Working...
                X
                Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom