Rước Mẹ Đầu Năm
Hoàng Yên Lưu
Link" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Mẫu tự “m” bật ra tự nhiên từ những đôi môi hồng bập bẹ khi bé thơ gọi người ban cho chúng ta cuộc đời và nguồn hạnh phúc làm người: Mẹ !
Mẹ hiền, hiền mẫu, từ mẫu và nhiều chữ cùng nghĩa trong các nguồn ngôn ngữ khác nhau dùng chỉ đấng sinh thành không phải tình cờ mà có những âm thanh gần giống nhau. Chúng thường được cấu tạo bởi một thanh bằng và một thanh trắc hay hai thanh bằng đọc lên êm tai, trầm bổng, không mấy ai không cảm động, không mấy ai không bồi hồi nhớ lại hình ảnh đẹp nhất đầu tiên mà mỗi con người chúng ta may mắn giữ được trong ký ức, cũng như tình yêu thánh thiện đầu tiên đã nhận được như vốn liếng vào đời. Đông và Tây có thể không bao giờ gặp nhau như nhà văn Anh Rydyard Kipling từng nói, nhưng về người mẹ, về tình mẹ thì Đông Tây, không những gặp nhau mà còn hòa đồng làm một, chỉ diễn tả bằng ngôn ngữ khác nhau mà thôi.Chúng ta thử nghe Allan Edgar Poe trong bài To My Mother thì thấy rõ:
“ Beceause I feel that, in the Heavens above
The angels, whispering to one another
Can finf, among their burning terms of love
None so devotional as that of Mothers”
Ngày 14 tháng năm là ngày lễ Mẹ hiền hay lễ Hiền mẫu. Đây là một ngày trọng đtại, tưởng niệm công đức sinh thành và cũng là dịp chúng ta cảm ơn các nhà thơ, các nhạc sĩ và họa sĩ đã thay chúng ta dùng ngôn ngữ nghệ thuật, ca tụng và tưởng vọng Người Mẹ. Hình ảnh mẹ hiền sống mãi nhờ nhạc của Y Vân (Lòng Mẹ), của Phạm Duy (Tình Ca), văn thơ của Bùi Viện (Văn tế lão mẫu), Lưu Trọng Lư (Nắng Mới), và Vũ Hoàng Chương (Khóc Mẹ)…
Nhớ ơn dưỡng dục thì khi cha mẹ còn sống tuy chẳng phải học gương thầy Tử Lộ “thờ hai thân từng bữa canh lê / từng phen đội gạo đi về/ xa khơi trăm dặm nặng nề đôi vai”…nhưng ít ra cũng cần làm vui lòng các người và khi cha mẹ khuất bóng hãy tưởng niệm họ với tấm lòng mà một nhà thơ đương đại đã viết trong Rước Mẹ Đầu Năm:
Vẫn chừng đó trên mâm cơn cúng mẹ
Dĩa rau xanh, cái bánh tráng nướng vàng
Và đôi đữa còn thơm mùi tre mới
Và nước trong, trong chén ố thời gian
Con quì gối bàng hoàng không dám lạy
Pháo bên nhà hàng xóm nổ vang vang
Nén chua xót, ngượng ngùng con đốt nến
đốt hương xin mẹ gắng hiểu cho cùng
thân trôi nổi đã tròn ba mươi tuổi
chẳng còn gì để dâng mẹ hôm nay
tấm thân thể mẹ nâng niu sinh nở
cũng bán một phần lây lất qua ngày
mẹ kính yêu cho con quì bên mẹ
học một đời trong sạch bao dung
dẫu đói rách không lọc lừa gian lận
dẫu đớn đau không than oán điên khùng
mẹ hẳn biết con vẫn cười vẫn nói
vẫn cho đời sức sống tự nhiên
qua hơi thở, qua dòng thơ chân thật
dẫu nhiều khi ướt sũng lệ ưu phiền
mẹ kính yêu, cho con qùi bên mẹ
chiều cuối năm trời gió lạnh vô cùng
con sẽ gắng viết thêm bài thơ mới
thay cỗ bàn, dâng lên mẹ bao dung
mẹ kính yêu, con đã quì bên mẹ
quì trang nghiêm trong cõi trống không
gối không đụng mặt đất người đi đứng
nhưng lòng như đang bên mẹ phiêu bồng
Tác giả bài thơ trên là Luân Hoán. Luân Hoán là nhà thơ có sức sáng tạo phong phú vào bậc nhất trong mấy chục năm gần đây. Ông cũng là một nhà thơ tình cảm đặc sắc trong Văn Học Việt Nam hậu bán thế kỷ 20 bước sang tiền bán thế kỷ 21. Thơ của ông xoay quanh đề tài tình yêu, bè bạn, chiến hữu và đặc biệt là những vần thơ nói về Mẹ.
Bài Rước Mẹ Đầu Năm, trích trong tập Rượu Hồng Đã Rót xuất bản năm 1974 tại Sài Gòn, là một bài ông sáng tác vào tuổi ba mươi, nghĩa là trong các năm 1970 hay 1971 như ông đã cho biết: “thân trôi nổi đã tròn ba mươi tuổi”
Bài thơ trên ra đời vào dịp đón năm mới. Ngày Tết con cái thắp đèn hương quỳ lạy trước bàn thờ cha mẹ là hình ảnh thường thấy nhưng cảnh ngộ và tâm trạng nhà thơ đã tạo cho bức tranh những nét đặc biệt không thể lẫn với bất cứ hình ảnh nào trong cùng dịp.
Trước hết là những nét khắc họa về người mẹ của tác giả. Bà mẹ quê hiền thục, đảm đang và giản dị, cả đời chỉ biết tận tụy vì chồng con như bà Tú trong thơ Trần Tế Xương. Chính từ sự giản dị này hình tượng người mẹ trở nên trong sáng hơn, vĩ đại hơn và thấm sâu hơn vào lòng người đọc:
Vẫn chừng đó trên mâm cơn cúng mẹ
Dĩa rau xanh, cái bánh tráng nướng vàng
Và đôi đữa còn thơm mùi tre mới
Và nước trong, trong chén ố thời gian
Chân dung tinh thần, ảnh người mẹ, được vẽ một cách gián tiếp. Bữa cơm cúng chỉ có: “đĩa rau xanh”, “bánh tráng nướng vàng”. Và “chén nước trong”, xem ra thì đạm bạc nhưng qua sự đạm bạc này.
Là chân tình nồng hậu và hình ảnh hy sinh vô bờ vô bến. Chỉ bốn câu thơ mà nói lên được sự thành kính (chén nước trong, đũa thơm mùi tre mới…), lòng trung hậu của người con dù trải qua bao thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Màu xanh, màu vàng, nưóc trong và mùi tre mới, bằng ấy thứ và tấm lòng thành, có lẽ qua bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống của tác giả, đã không hề thay đổi trong dịp giỗ tết cho dù thời gian đã làm cho ố màu chén nước
Con quì gối bàng hoàng không dám lạy
Pháo bên nhà hàng xóm nổ vang vang
Nén chua xót, ngượng ngùng con đốt nến
đốt hương xin mẹ gắng hiểu cho cùng
Từ hình ảnh người mẹ thân thương, nhà thơ nói về mình. Hoàn cảnh của ông cũng có nhiều nỗi khảm kha bất bình mà ông ám chỉ bằng hai chữ “chua xót”. Luân Hoán từng là một chiến binh và trong một cuộc hành quân ở Quảng Ngãi vào đầu năm Kỹ Dậu (1969) đã mất đi một bàn chân trái. Hình ảnh “con quì gối bàng hoàng không dám lạy” đã là bi kịch ghê gớm của một chàng trai lúc đó chưa đầy ba chục cho dù tác giả chỉ dùng chữ “Chua xót” để mô tả. “Không dám lạy” vì một phần cơ thể giữ cho sự thăng bằng của thi nhân không còn nữa.”Ngượng ngùng đốt nến…đốt hương” gợi hình ảnh vụng về, lúng túng của thân xác và cả cảm giác không yên lòng vì không làm tròn nghi lễ, không được dâng mẹ cơm lành canh ngọt như lòng mong ước vào dịp bên ngoài pháo đón xuân của hàng xóm tưng bừng nổ.
Từ nỗi ngượng ngùng, nhà thơ xót cho thân phận mình, “tấm thân trôi nổi”, sống “lây lất qua ngày” của kẻ tài tử đa cùng:
thân trôi nổi đã tròn ba mươi tuổi
chẳng còn gì để dâng mẹ hôm nay
tấm thân thể mẹ nâng niu sinh nở
cũng bán một phần lây lất qua ngày
Nhưng nghĩ tới công dưỡng dục của mẹ hiền, nguồn vui và không ít tự hào của mẹ khi sinh ra thi nhân, nhà thơ tâm niệm lời mẹ dặn và theo gương đạo đức của bà (chẳng khác tâm sự của Phùng Quán khi xưa)
mẹ kính yêu cho con quì bên mẹ
học một đời trong sạch bao dung
dẫu đói rách không lọc lừa gian lận
dẫu đớn đau không than oán điên khùng
Khi khấn mẹ, nhà thơ đã nói lên những xúc động chân thực nhất của mình trong phút linh thiêng đốt nén hương lòng. Ở đây bi kịch trong lòng tác giả nổi dậy. Nhà thơ gượng làm vui với con người và vì đời làm tròn thiên chức của kiếp tằm nhả tơ , nhưng toát ra những từ ý, những vần, có thể tìm thấy sự gượng vui, nỗi khổ tâm của một kẻ tài hoa vì đời mà lụy. “Ướt sũng lệ ưu phiền” đã khắc sâu nỗi đau trong lòng kẻ đa cảm và trung hậu. Lệ không ứa ra từ khóe mắt mà từ tâm tư và nước mắt không phải chỉ thấm mà làm ướt sũng tất cả. Chữ “sũng” dùng rất đắt vì cực tả được tâm trạng bi đát của nhà thơ
mẹ hẳn biết con vẫn cười vẫn nói
vẫn cho đời sức sống tự nhiên
qua hơi thở, qua dòng thơ chân thật
dẫu nhiều khi ướt sũng lệ ưu phiền
Nhà thơ nghèo hơn thiên hạ nhưng lại giàu lòng, giàu cảm xúc và người mẹ của tác giả đã thấu hiểu con mình hơn thế gian vì chính bà đã truyền cho thi nhân hồn thơ từ khi ông còn là một cậu bé bị đòn vì nghịch ngợm như ông từng tâm sự:
Mẹ nằm đọc Lục Vân Tiên
Trăng thu vào chật mái hiên nghe cùng
Hương từ vần điệu nghĩa trung
Hương từ giọng mẹ thơm lừng đên khuya…
Và chắc hẳn bà sẽ mỉm cười nơi suối vàng vì yên tâm con mình “bất oán thiên. bất vưu nhân” sẽ vui vẻ và trung thành trên con đường nghệ thuật và dùng sản phẩm của trái tim vì đời để dâng mình mỗi dịp cúng giỗ,
mẹ kính yêu, cho con qùi bên mẹ
chiều cuối năm trời gió lạnh vô cùng
con sẽ gắng viết thêm bài thơ mới
thay cỗ bàn, dâng lên mẹ bao dung
Bốn câu kết là chân của kiến trúc toàn bài. Chúng nặng về cảm xúc và chắc chhán, khéo léo về kỹ thuật. Tác giả đã quì bên mẹ, nhưng “trong cõi trống không” và “gối không đụng mặt đất người đi đứng” mà quì với cả lòng chung thủy, vĩnh viễn vượt cả không gian và thời gian. Cảm xúc do giác quan đưa lại tỏa ra và lan rộng, cuối cùng kết tinh lại và dâng lên cao kết tụ thành một rung động vô hình mảnh liệt nhất:
mẹ kính yêu, con đã quì bên mẹ
quì trang nghiêm trong cõi trống không
gối không đụng mặt đất người đi đứng
nhưng lòng như đang bên mẹ phiêu bồng
Luân Hoán tên thực Lê Ngọc châu sinh năm 1941, và như người thân của ông tiết lộ, nhà thơ là một trong song thai khi cất tiếng chào đời và “èo uột khó nuôi” nên ân nghĩa “mang nặng đẻ đau” của bà mẹ đối với thi nhân càng nặng.Bà lại không phải là chính thất của thân sinh nhà thơ nên dù sao bà cũng thiệt thòi nhiều về mặt hạnh phúc. Người phụ nữ đức hạnh, giàu lòng hy sinh này đã mang bao nhiêu tình thương và tâm huyết gửi vào đàn con nhỏ và nuôi dạy họ nên người. Trong một bài thơ khác, bài Mẹ, nhà thơ đã kể lại những kỷ niệm ấu thơ: công lao dưỡng dục của mẹ dành cho thi nhân và nỗi thương nhớ mẹ ấp ủ mãi mãi trong lòng mình. Ây cũng là lý do giải thích được tại sao ông lấy bút hiệu là Luân Hoán, một bút hiệu lạ và hay, do tên mẹ ghép với tên cha mà thành, và đã phản ánh được tấm lòng của người con hiếu với cha mẹ.
Hoàng Yên Lưu
Hoàng Yên Lưu
Mẹ hiền, hiền mẫu, từ mẫu và nhiều chữ cùng nghĩa trong các nguồn ngôn ngữ khác nhau dùng chỉ đấng sinh thành không phải tình cờ mà có những âm thanh gần giống nhau. Chúng thường được cấu tạo bởi một thanh bằng và một thanh trắc hay hai thanh bằng đọc lên êm tai, trầm bổng, không mấy ai không cảm động, không mấy ai không bồi hồi nhớ lại hình ảnh đẹp nhất đầu tiên mà mỗi con người chúng ta may mắn giữ được trong ký ức, cũng như tình yêu thánh thiện đầu tiên đã nhận được như vốn liếng vào đời. Đông và Tây có thể không bao giờ gặp nhau như nhà văn Anh Rydyard Kipling từng nói, nhưng về người mẹ, về tình mẹ thì Đông Tây, không những gặp nhau mà còn hòa đồng làm một, chỉ diễn tả bằng ngôn ngữ khác nhau mà thôi.Chúng ta thử nghe Allan Edgar Poe trong bài To My Mother thì thấy rõ:
“ Beceause I feel that, in the Heavens above
The angels, whispering to one another
Can finf, among their burning terms of love
None so devotional as that of Mothers”
Ngày 14 tháng năm là ngày lễ Mẹ hiền hay lễ Hiền mẫu. Đây là một ngày trọng đtại, tưởng niệm công đức sinh thành và cũng là dịp chúng ta cảm ơn các nhà thơ, các nhạc sĩ và họa sĩ đã thay chúng ta dùng ngôn ngữ nghệ thuật, ca tụng và tưởng vọng Người Mẹ. Hình ảnh mẹ hiền sống mãi nhờ nhạc của Y Vân (Lòng Mẹ), của Phạm Duy (Tình Ca), văn thơ của Bùi Viện (Văn tế lão mẫu), Lưu Trọng Lư (Nắng Mới), và Vũ Hoàng Chương (Khóc Mẹ)…
Nhớ ơn dưỡng dục thì khi cha mẹ còn sống tuy chẳng phải học gương thầy Tử Lộ “thờ hai thân từng bữa canh lê / từng phen đội gạo đi về/ xa khơi trăm dặm nặng nề đôi vai”…nhưng ít ra cũng cần làm vui lòng các người và khi cha mẹ khuất bóng hãy tưởng niệm họ với tấm lòng mà một nhà thơ đương đại đã viết trong Rước Mẹ Đầu Năm:
Vẫn chừng đó trên mâm cơn cúng mẹ
Dĩa rau xanh, cái bánh tráng nướng vàng
Và đôi đữa còn thơm mùi tre mới
Và nước trong, trong chén ố thời gian
Con quì gối bàng hoàng không dám lạy
Pháo bên nhà hàng xóm nổ vang vang
Nén chua xót, ngượng ngùng con đốt nến
đốt hương xin mẹ gắng hiểu cho cùng
thân trôi nổi đã tròn ba mươi tuổi
chẳng còn gì để dâng mẹ hôm nay
tấm thân thể mẹ nâng niu sinh nở
cũng bán một phần lây lất qua ngày
mẹ kính yêu cho con quì bên mẹ
học một đời trong sạch bao dung
dẫu đói rách không lọc lừa gian lận
dẫu đớn đau không than oán điên khùng
mẹ hẳn biết con vẫn cười vẫn nói
vẫn cho đời sức sống tự nhiên
qua hơi thở, qua dòng thơ chân thật
dẫu nhiều khi ướt sũng lệ ưu phiền
mẹ kính yêu, cho con qùi bên mẹ
chiều cuối năm trời gió lạnh vô cùng
con sẽ gắng viết thêm bài thơ mới
thay cỗ bàn, dâng lên mẹ bao dung
mẹ kính yêu, con đã quì bên mẹ
quì trang nghiêm trong cõi trống không
gối không đụng mặt đất người đi đứng
nhưng lòng như đang bên mẹ phiêu bồng
Tác giả bài thơ trên là Luân Hoán. Luân Hoán là nhà thơ có sức sáng tạo phong phú vào bậc nhất trong mấy chục năm gần đây. Ông cũng là một nhà thơ tình cảm đặc sắc trong Văn Học Việt Nam hậu bán thế kỷ 20 bước sang tiền bán thế kỷ 21. Thơ của ông xoay quanh đề tài tình yêu, bè bạn, chiến hữu và đặc biệt là những vần thơ nói về Mẹ.
Bài Rước Mẹ Đầu Năm, trích trong tập Rượu Hồng Đã Rót xuất bản năm 1974 tại Sài Gòn, là một bài ông sáng tác vào tuổi ba mươi, nghĩa là trong các năm 1970 hay 1971 như ông đã cho biết: “thân trôi nổi đã tròn ba mươi tuổi”
Bài thơ trên ra đời vào dịp đón năm mới. Ngày Tết con cái thắp đèn hương quỳ lạy trước bàn thờ cha mẹ là hình ảnh thường thấy nhưng cảnh ngộ và tâm trạng nhà thơ đã tạo cho bức tranh những nét đặc biệt không thể lẫn với bất cứ hình ảnh nào trong cùng dịp.
Trước hết là những nét khắc họa về người mẹ của tác giả. Bà mẹ quê hiền thục, đảm đang và giản dị, cả đời chỉ biết tận tụy vì chồng con như bà Tú trong thơ Trần Tế Xương. Chính từ sự giản dị này hình tượng người mẹ trở nên trong sáng hơn, vĩ đại hơn và thấm sâu hơn vào lòng người đọc:
Vẫn chừng đó trên mâm cơn cúng mẹ
Dĩa rau xanh, cái bánh tráng nướng vàng
Và đôi đữa còn thơm mùi tre mới
Và nước trong, trong chén ố thời gian
Chân dung tinh thần, ảnh người mẹ, được vẽ một cách gián tiếp. Bữa cơm cúng chỉ có: “đĩa rau xanh”, “bánh tráng nướng vàng”. Và “chén nước trong”, xem ra thì đạm bạc nhưng qua sự đạm bạc này.
Là chân tình nồng hậu và hình ảnh hy sinh vô bờ vô bến. Chỉ bốn câu thơ mà nói lên được sự thành kính (chén nước trong, đũa thơm mùi tre mới…), lòng trung hậu của người con dù trải qua bao thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Màu xanh, màu vàng, nưóc trong và mùi tre mới, bằng ấy thứ và tấm lòng thành, có lẽ qua bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống của tác giả, đã không hề thay đổi trong dịp giỗ tết cho dù thời gian đã làm cho ố màu chén nước
Con quì gối bàng hoàng không dám lạy
Pháo bên nhà hàng xóm nổ vang vang
Nén chua xót, ngượng ngùng con đốt nến
đốt hương xin mẹ gắng hiểu cho cùng
Từ hình ảnh người mẹ thân thương, nhà thơ nói về mình. Hoàn cảnh của ông cũng có nhiều nỗi khảm kha bất bình mà ông ám chỉ bằng hai chữ “chua xót”. Luân Hoán từng là một chiến binh và trong một cuộc hành quân ở Quảng Ngãi vào đầu năm Kỹ Dậu (1969) đã mất đi một bàn chân trái. Hình ảnh “con quì gối bàng hoàng không dám lạy” đã là bi kịch ghê gớm của một chàng trai lúc đó chưa đầy ba chục cho dù tác giả chỉ dùng chữ “Chua xót” để mô tả. “Không dám lạy” vì một phần cơ thể giữ cho sự thăng bằng của thi nhân không còn nữa.”Ngượng ngùng đốt nến…đốt hương” gợi hình ảnh vụng về, lúng túng của thân xác và cả cảm giác không yên lòng vì không làm tròn nghi lễ, không được dâng mẹ cơm lành canh ngọt như lòng mong ước vào dịp bên ngoài pháo đón xuân của hàng xóm tưng bừng nổ.
Từ nỗi ngượng ngùng, nhà thơ xót cho thân phận mình, “tấm thân trôi nổi”, sống “lây lất qua ngày” của kẻ tài tử đa cùng:
thân trôi nổi đã tròn ba mươi tuổi
chẳng còn gì để dâng mẹ hôm nay
tấm thân thể mẹ nâng niu sinh nở
cũng bán một phần lây lất qua ngày
Nhưng nghĩ tới công dưỡng dục của mẹ hiền, nguồn vui và không ít tự hào của mẹ khi sinh ra thi nhân, nhà thơ tâm niệm lời mẹ dặn và theo gương đạo đức của bà (chẳng khác tâm sự của Phùng Quán khi xưa)
mẹ kính yêu cho con quì bên mẹ
học một đời trong sạch bao dung
dẫu đói rách không lọc lừa gian lận
dẫu đớn đau không than oán điên khùng
Khi khấn mẹ, nhà thơ đã nói lên những xúc động chân thực nhất của mình trong phút linh thiêng đốt nén hương lòng. Ở đây bi kịch trong lòng tác giả nổi dậy. Nhà thơ gượng làm vui với con người và vì đời làm tròn thiên chức của kiếp tằm nhả tơ , nhưng toát ra những từ ý, những vần, có thể tìm thấy sự gượng vui, nỗi khổ tâm của một kẻ tài hoa vì đời mà lụy. “Ướt sũng lệ ưu phiền” đã khắc sâu nỗi đau trong lòng kẻ đa cảm và trung hậu. Lệ không ứa ra từ khóe mắt mà từ tâm tư và nước mắt không phải chỉ thấm mà làm ướt sũng tất cả. Chữ “sũng” dùng rất đắt vì cực tả được tâm trạng bi đát của nhà thơ
mẹ hẳn biết con vẫn cười vẫn nói
vẫn cho đời sức sống tự nhiên
qua hơi thở, qua dòng thơ chân thật
dẫu nhiều khi ướt sũng lệ ưu phiền
Nhà thơ nghèo hơn thiên hạ nhưng lại giàu lòng, giàu cảm xúc và người mẹ của tác giả đã thấu hiểu con mình hơn thế gian vì chính bà đã truyền cho thi nhân hồn thơ từ khi ông còn là một cậu bé bị đòn vì nghịch ngợm như ông từng tâm sự:
Mẹ nằm đọc Lục Vân Tiên
Trăng thu vào chật mái hiên nghe cùng
Hương từ vần điệu nghĩa trung
Hương từ giọng mẹ thơm lừng đên khuya…
Và chắc hẳn bà sẽ mỉm cười nơi suối vàng vì yên tâm con mình “bất oán thiên. bất vưu nhân” sẽ vui vẻ và trung thành trên con đường nghệ thuật và dùng sản phẩm của trái tim vì đời để dâng mình mỗi dịp cúng giỗ,
mẹ kính yêu, cho con qùi bên mẹ
chiều cuối năm trời gió lạnh vô cùng
con sẽ gắng viết thêm bài thơ mới
thay cỗ bàn, dâng lên mẹ bao dung
Bốn câu kết là chân của kiến trúc toàn bài. Chúng nặng về cảm xúc và chắc chhán, khéo léo về kỹ thuật. Tác giả đã quì bên mẹ, nhưng “trong cõi trống không” và “gối không đụng mặt đất người đi đứng” mà quì với cả lòng chung thủy, vĩnh viễn vượt cả không gian và thời gian. Cảm xúc do giác quan đưa lại tỏa ra và lan rộng, cuối cùng kết tinh lại và dâng lên cao kết tụ thành một rung động vô hình mảnh liệt nhất:
mẹ kính yêu, con đã quì bên mẹ
quì trang nghiêm trong cõi trống không
gối không đụng mặt đất người đi đứng
nhưng lòng như đang bên mẹ phiêu bồng
Luân Hoán tên thực Lê Ngọc châu sinh năm 1941, và như người thân của ông tiết lộ, nhà thơ là một trong song thai khi cất tiếng chào đời và “èo uột khó nuôi” nên ân nghĩa “mang nặng đẻ đau” của bà mẹ đối với thi nhân càng nặng.Bà lại không phải là chính thất của thân sinh nhà thơ nên dù sao bà cũng thiệt thòi nhiều về mặt hạnh phúc. Người phụ nữ đức hạnh, giàu lòng hy sinh này đã mang bao nhiêu tình thương và tâm huyết gửi vào đàn con nhỏ và nuôi dạy họ nên người. Trong một bài thơ khác, bài Mẹ, nhà thơ đã kể lại những kỷ niệm ấu thơ: công lao dưỡng dục của mẹ dành cho thi nhân và nỗi thương nhớ mẹ ấp ủ mãi mãi trong lòng mình. Ây cũng là lý do giải thích được tại sao ông lấy bút hiệu là Luân Hoán, một bút hiệu lạ và hay, do tên mẹ ghép với tên cha mà thành, và đã phản ánh được tấm lòng của người con hiếu với cha mẹ.
Hoàng Yên Lưu