• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Xuân tình trong Đường Thi

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Xuân tình trong Đường Thi

    Xuân tình trong Đường Thi



    biên khảo - Tác giả: Trần Hữu Thục








                  • Trường hu giải la đái
                    Khiếp kiến thượng không sàng
                    (Hàn Ốc)


    Nhà Đường vốn là đỉnh cao trong thi ca Trung Quốc. Phong cách rất đa dạng, trường phái thì nhiều, nội dung đề tài rất rộng rãi so với bất cứ thời kỳ nào trước đó. Thi nhân mặc tình chọn lựa phong cách, trường phái, đề tài để sáng tác. Đề tài đủ loại: Ứng chế, Tống biệt, Cung oán, Biên tái, Điền viên, Sơn thủy, Hành lữ, Ký tặng, Hoài cổ, Vịnh vật. Thậm chí, ta còn thấy nhiều bài có khuynh hướng hiện thực xã hội, mô tả cuộc sống khổ cực của nhân dân cũng như châm biếm cảnh quan trường hắc ám, phè phỡn. Số thơ hiện còn lưu giữ rất nhiều: 48.000 bài của hơn 2.300 thi sĩ (1).

    Điều đáng nói là với một số lượng thơ và thi nhân như thế, thơ Đường lại hầu như rất nghèo nàn về thể loại thơ mô tả cụ thể mối quan hệ trai gái, mô tả cái thú vị trong cuộc sống lứa đôi. Hay nói như kiểu chúng ta hôm nay, Đường Thi rất nghèo nàn về thơ tình. Hẳn nhiên, cũng có một số thơ khai thác đề tài tình ái như Cung oán, Biên muộn, Khuê từ…Cũng có thể gọi là thơ tình đấy, nhưng ngôn ngữ thì dè dặt, kín đáo, hình ảnh thì sơ sài và thường đi chệch qua những đề tài khác. Trong số lượng thơ dồi dào của một số thi hào, thi bá thời đó như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, ta hầu như khó có thể tìm thấy một bài thơ tình đúng nghĩa. Ngay cả một đầu đề mang dáng vẻ thơ tình cũng ít oi, huống hồ gì mô tả một cách cụ thể , trắng trợn hơn quan hệ lứa đôi. Một vài bài của Trương Bí, Triệu Hổ có đề cập đến tình ái thì cũng một cách chung chung, đơn sơ, trừu tượng, phác vài nét sơ sơ về nỗi nhớ nhung, mến mộ – thường thì có tính cách tượng trưng hơn là đi sâu vào tình cảm thực sự. Thêm vào đó, còn có một số bài gọi là “tặng nội” (tặng vợ) thì lại chỉ nói lên cái nghĩa phu thê, ca ngợi công lao “thờ chồng nuôi con” của người vợ, hơn là tình vợ chồng.

    Ta thử đọc một bài thơ có tựa đề rất là “thơ tình” sau đây: “Oán tình” của Lý Bạch:

    Mỹ nhân quyển châu liêm
    Thâm tọa tần nga mi
    Đản kiến lệ ngân thấp
    Bất tri tâm hận thùy

    Tản Đà dịch:

    Người xinh cuốn bức rèm châu
    Ngồi im thăm thẳm nhăn chau đôi mày
    Chỉ hay giọt lệ vơi đầy
    Đố ai biết được lòng này giận ai.


    Kể ra thì trong cái không khí thi ca đầy cả phong, hoa tuyết nguyệt rồi những hoàng hạc lâu, thuyết khách, phong kiều dạ bạc…, thì làm một bài thơ thuần tả tình như thế cũng đã là can đảm. Bài thơ nói lên nỗi giận hờn của một người con gái đối với tình nhân. Và chỉ thế thôi. Hình ảnh duy nhất, đầy tính cách tượng trưng là giọt lệ. Ngoài ra, không có gì khác.

    Một bài khác của Vương Xương Linh có tựa đề Khuê oán:

    Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
    Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
    Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
    Hối giao phu tế mịch phong hầu

    Tản Đà dịch:

    Trẻ trung nàng biết đâu sầu
    Buồng xuân trang điểm lên lầu ngắm gương
    Nhác trông vẻ liễu bên đường
    “Phong hầu” nghĩ dại xui chàng kiếm chi

    Tuởng là nàng nhớ chàng, hóa ra nàng giận mình. Rốt cuộc, bài thơ chỉ nói đến sự tiếc rẻ thời xuân sắc của con người trước thời gian qua mau.
    Cũng nàng nhớ chàng, nhưng Lý Bạch đi xa hơn, tình hơn, cụ thể hơn:

    Đương quân hoài quy nhật
    Thị thiếp đoạn truờng thì
    Xuân phong bất tương thức
    Hà sự nhập la vi

    Tản Đà dịch:

    Lòng em đau đớn muôn phần
    Phải chăng là lúc phu quân nhớ nhà
    Gió xuân quen biết chi mà
    Cớ chi lọt bức màn là tới ai?

    Chàng và nàng trong hai bài thơ trên đây là hai vợ chồng. Còn chàng và nàng là trai gái, ta thấy trong “Thái liên khúc” (khúc hát hái sen), cũng của Lý Bạch, đề cập đến một cô gái hái sen và một chàng trai qua đường. Hai câu cuối như sau:

    Tử lưu tê nhập lạc hoa khứ
    Kiến thử trù trì không đoạn trường

    (Ngựa kêu lần bước hoa rơi
    Đoái trông ai đó, ngậm ngùi tiếc thương)

    Thế cũng đã tình lắm, đã “thoát” lắm rồi!


    Sao mà sợ thơ tình lắm thế!?
    Dễ hiểu thôi. Thi nhân, dù có mộng mơ, có khinh thế ngạo vật, thì cũng là nho gia. Mà đối với nho gia thì tình ái không nên đưa vào văn chương, chữ nghĩa. Đó là vùng đất cấm. Nếu có ai làm một bài thơ tình, thì người ta xem đó là một thứ ti tiện, không thèm lưu ý đến. Một vị minh chủ trên thi đàn đời nhà Thanh nhận xét: “Bậc vương giả bàn đến phong tục dân gian, nghiên cứu chuyện được mất, chứ chẳng nên nói đến tình ái”. Tư tưởng này ảnh hưởng mạnh mẽ đến thi nhân của Sơ Đường, Thịnh Đường, Trung Đường. Đến thời Vãn Đường, ảnh hưởng này giảm bớt. Những thi nhân nỗi tiếng của giai đoạn này đều có làm thơ tình như Lý Thương Ẩn, Ôn Đình Quân, Vi Trang. “Tình yêu quán triệt trong tất cả các bài thơ vô đề và một số bài thơ khác của Lý Thương Ẩn. Ông chủ yếu là một nhà thơ trữ tình” (2). Trong thơ của họ, ta đã thấy khuynh hướng thiên về tình yêu nam nữ, hoa cỏ khuê phòng, nhưng thi phong đa phần theo lối “tiểu nhã”, nội dung chủ yếu cũng dựa theo thi giáo của nho gia, nghĩa là dè dặt, kín đáo, tượng trưng.

    Đặc biệt, chỉ có một thi nhân vượt hẳn khỏi vòng kiềm tỏa của khuôn sáo cũ, mở một lối đi cho riêng mình, với một cách làm thơ mới lạ, táo bạo. Đó là Hàn Ốc (hay Hàn Ác) (3). Ông sống cùng thời với các thi nhân trứ danh thời Vãn Đường như Lý Thương Ẩn, Ôn Đình Quân…Trừ những nhà nghiên cứu ra, những người hâm mộ thơ Đường chẳng mấy ai biết đến ông. Trong tập “Đường Thi Tam Bách Thủ” (300 bài thơ Đường nỗi tiếng), ông được xếp vào những khuôn mặt lớn của thời Vãn Đường. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến ông như một thi nhân của tình yêu, hay nói đúng hơn, một thi nhân của tình dục.

    Hàn Ốc sinh vào khoảng năm 844 và mất vào khoảng năm 933. Ông tự là Trí Nghiêu, hoặc Trí Quang, tiểu tự Đông Lang, người quê ở Kinh Triệu, Vạn Niên, nay thuộc ngoại ô thị trấn Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Lúc mới lên mười, có lần giữa chỗ khách khứa đông đúc, ông làm ngay một bài thơ tiễn khách, khiến mọi người có mặt đều kinh hãi. Do đó mà về sau, Lý Thương Ẩn tặng ông một bài thơ, trong đó có hai câu:

    Thập tuế tài thi tẩu mã thành
    Sồ phụng thanh ư lão phụng thanh


    (Mười tuổi làm thơ nhanh hơn ngựa
    Chim phụng non rành rõi hơn chim phụng già)


    Ông viết Hàn Lâm Tập (một cuốn) và Hương Liễm Tập (ba cuốn). Về sau Toàn Đường Thi hợp hai tập thành bốn cuốn. Do ở chỗ trong Hương Liễm Tập của ông, đa phần mô tả chuyện trai gái nhớ nhung, tương tư, thậm chí mô tả chuyện ái ân, lại thêm cảnh phấn son lụa là trong chốn phòng the, nên đời sau gọi thi tập của ông là Hương Liễm Thể hay Diễm Thể.

    Trước hết, đối tượng làm thơ của ông là người phụ nữ. Thi ca Trung Quốc từ Hàn Ốc trở về trước chẳng bao giờ tả chính diện người phụ nữ. Trong “Mạch thượng tang”, Tần La Phu chỉ tả phần bên và cũng là hư tả, không cho ta cảm nhận được hết vẻ đẹp mỹ miều, sống động của người đẹp. Bài “Thạc nhân” trong thiên Vệ Phong của Kinh Thi tập trung mô tả diện mạo và da dẻ bên ngoài, có đi xa hơn thì tả đôi tay và cổ. Hàn Ốc mô tả cụ thể hơn:

    Uyển bạch bì hồng ngọc manh nha
    Điệu cầm trừu tuyến lộ tiêm tà
    Bối nhân tế nhiên thùy yên tấn
    Hướng kính khinh quân sấn kiểm hà.

    (Tay trắng, da hồng như búp măng
    Sửa đàn, gảy dây để lộ ngón tay thon nhọn
    Quay người lấy tay xoắn tóc rủ xuống cổ
    Trước kính, trang điểm mặt diễm kiều)

    Ông đã nhìn từ nhiều phía khác nhau để tả phần da thịt nõn nà, mềm mại. Tả cái cổ, ông viết:

    Tấn thừa hương cảnh vân già ngẫu
    (Tóc buông xuống cổ tụ lại như mây che cái ngó sen)

    Tả bộ ngực, ông viết:

    Phấn trứ lan hung tuyết áp mai
    (Phấn thoa lên ngực như tuyết áp trên hoa mai)

    Trong bài “Vịnh dục” (vịnh cảnh tắm), ông mô tả cụ thể khung cảnh và tâm lý của người phụ nữ trong cung cấm:

    Tái chỉnh ngư tê long thúy trâm
    Giải y tiên giác băng sâm sâm
    Giáo di lan chúc tần tu ảnh
    Tự thí hương thang cánh phạỉ thâm
    Sơ tựa tẩy hoa nan ức án
    Chung ưu ốc tuyết bất thắng nhâm
    Khởi tri thị nữ liêm huy ngoại
    Thừa thủ quân vương kỷ bính kim.


    (Sửa soạn bới tóc lại cho đàng hoàng
    Mới cởi áo cảm thấy hơi lạnh
    Dặn bưng đèn đi vì thẹn
    Tự thử xem nước tắm vừa chưa
    Lúc đầu kỳ cọ nhẹ nhàng
    Sau tắm gội thỏa thích
    Chẳng biết người hầu đứng ngoài kia
    Có chịu khó nài nĩ vua vào ngủ không.)

    Có thuyết cho rằng ông tả cảnh Dương Quý Phi đang tắm. Điều đáng lưu ý là, thông qua việc miêu tả thân thể, và các sinh hoạt thường ngày, ông nêu bật được những nét tâm lý đặc thù của người phụ nữ trong một hoàn cảnh đặc thù. Xem thêm bài “Trú tẩm” (ngủ ngày) sau đây:

    Phác phấn canh thiêm hương thể hoạt
    Giải y duy kiến hạ thường hồng
    Phiền khâm sạ xúc băng hồ lãnh
    Quyện chẫm từ y bảo kế tông.


    (Đánh phấn thêm cho thân thể thơm mát
    Cởi áo mới thấy quần màu hồng ở dưới
    Chạm phải chiếc mền, thấy lạnh như băng
    Mệt mỏi tựa búi tóc vào gối)

    Ta dễ dàng nhận thấy nhân tố tạo thành hành vi, thái độ của người đàn bà ở đây là do tình cảnh cô đơn, buồn bã trong chốn cung cấm. Và rõ ràng hơn nữa là do tình cảnh đau khổ và ức chế về tình dục. Hàn Ốc chẳng đề cập đến nỗi buồn, đến giọt lệ. Ông chỉ mô tả cử chỉ, thái độ. Torng phòng riêng, người đàn bà tắm rửa, trang điểm và… đợi chờ. Nhưng chờ hoài, chờ mãi…chẳng thấy ai. Chỉ có lạnh và cô đơn.

    Nhiều bài thơ của Hàn Ốc phản ảnh tình ảnh nhớ nhung, sầu não, sự vắng lặng, khổ đau và nhất là sự ức chế tình ảm (cũng như tình dục) triền miên của người đàn bà. Các bài như Ngũ canh (Năm canh), Khuê tình, Áp hoa lạc (Ép hoa rụng), Trù trướng (Buồn bã), Kế tông (Bới tóc), Ý tự (Mối sầu) đều tả hoạt động tâm lý của phụ nữ. Tuy Lý Bạch, Vương Xương Linh, Lưu Phương Bình, Trương Trọng Tố, Trần Đào đều có một ít bài về khuê tình, khuê tư, khuê oán đề cập đến tâm trạng đau khổ, phiền muộn, nhưng về tính cụ thể, táo bạo thì không bằng Hàn Ốc. Như bài Xuân khuê:

    Nhân uân trướng lý hương
    Bạc bạc thụy thời trang
    Trường hu giải la đái
    Khiếp kiến thượng không sàng


    (Trong màn hương thoảng thoảng dễ chịu
    Ăn mặc sơ sài để ngủ
    Cởi thắt lưng quần, than dài một tiếng
    Vì thấy cái giường không mà kinh hãi)

    Một câu như “Trường hu giải la đái” thì thi ca khuê tình thời Sơ Đường, Thịnh Đường, Trung Đường chẳng hề thấy có. Chỉ đến Vãn Đường, đặc biệt là ở Hàn Ốc, ta mới thấy. Phải nói, đó là một sự phát huy thi ca khuê tình đời Đường đến một mức độ táo bạo không ngờ. Người trước chỉ “hư tả”, người sau “thực tả”. Người trước “súc thủ” (co tay), người sau “phóng thủ”(phóng tay). Phải thừa nhận thi ca trước Hàn Ốc cũng có đề cập đến sự ức chế, sầu khổ, nhưng phản ảnh tính manh động, khao khát thì hầu như không có. Ở Hàn Ốc, những bài thơ như thế rất nhiều:

    - Bách Thiệt não triêu miên
    Xuân tâm động cơ bàn
    (Chim Bách thiệt phá giấc ngủ sáng
    Khiến động lòng xuân)


    - Kiều nhiên ý thái bất thắng tu
    Nguyện ký lang biên vĩnh tương trứ
    (Ý nũng nịu vô cùng xấu hổ
    Muốn kề vai chàng mãi mãi không thôi)


    Đến đây, tính cách của Hàn Ốc trong Hương Liễm Thể hiện ra rất rõ: tình trai gái ở đây chứa đầy chất tính dục. Nó không chỉ là nhớ nhung, mơ mộng, sầu thương…vơ vẩn mà chứa đựng một đòi hỏi, khát khao mãnh liệt hướng về người khác phái. Có phải đây là những phụ nữ bệnh hoạn không? Có thể. Lý do thật dễ hiểu:do những quy định quá khắc nghiệt của lễ giáo nho gia, số phận của người phụ nữ dưới thời phong kiến rất đỗi tội nghiệp. Họ không được quyền yêu và bị cư xử như những người nô lệ cho vua chúa, và những người giàu sang quyền quý. Nói rộng hơn, họ được đàn ông xử dụng như những dụng cụ. Thê rồi thiếp. Thiếp một, thiếp hai, thiếp ba…Đàn ông có quyền thay thê đổi thiếp, sang nhượng đàn bà như những vật đổi chác, mua bán. Đã thế, nhu cầu sinh lý bình thường cũng không có điều kiện thỏa mãn. Họ bị giam cầm trong chờ đợi và chờ đợi, không được than van, đòi hỏi. Tình trạng sinh lý và tâm lý bị ức chế đến mức tột cùng. Bài “Ngẫu kiến bối diện, thị tịch kiêm mộng” (Vô tình thấy phía sau mà đêm về mộng tưởng) là một bài tiêu biểu về trạng thái bị ức chế đó:

    Tô ngưng bối giáp ngọc tha kiên
    Khinh bạc hồng tiêu phúc bạch liên
    Thử dạ phân minh lại nhập mộng
    Đương thì trù trướng bất thành miên
    Nhãn ba hướng ngã vô đoan diễm
    Tâm hoả nhân quân đặc địa nhiên
    Mạc đạo nhập sinh nan tế hội
    Tần lâu loan phụng hữu thần tiên

    (Lưng mịn màng trắng trẻo, vai tựa ngọc
    Lụa hồng mỏng mảnh che thân trắng như sen
    Đêm nay rõ ràng người đẹp nhập mộng
    Còn bây giờ buồn bã không ngủ được
    Sóng mắt nhìn đẹp vô cùng
    Khiến cho lòng ai phải thèm khát
    Chẳng biết có cách gì gần gũi
    Để được ân ái cùng nhau)


    “Nhãn ba hướng ngã vô đoan diễm." Sóng mắt của người đàn bà (hẳn là phải quá cô đơn trong phòng the) gặp người đàn ông là liếc mắt đưa tình, đôi mắt rực sáng những khát khao khiến dục vọng trong lòng nỗi lên như thiêu như đốt, khiến đêm về mơ mộng không ngủ được.

    Do ảnh hưởng của quan niệm về thi giáo phong kiến chính thống, cho nên chỉ trừ một số dân ca dùng thứ ngôn ngữ bình dân để diễn tả sự khoan khoái, sung sướng trong quan hệ tình ái nam nữ, còn thì chẳng ai dám cầm bút làm thơ về chuyện ái ân. Hàn Ốc, bất chấp thi giáo, dám trái lễ nghĩa phong kiến, làm thơ mô tả một cách trần trụi quan hệ nam nữ như bài “Ngũ canh” sau đây:

    Vãng niên tằng ước Úc Kim sàng
    Bán dạ tiềm thân nhập động phòng
    Hoài lý bất tri kim điền lạc
    Ám trung duy giác tú hài hương
    Thử thời dục biệt hồn câu đoạn
    Tự hậu, tương phùng nhãn cánh cuồng
    Quang cảnh toàn tiêu trù trướng tại
    Nhất sinh doanh đắc thị thê lương

    (Năm xưa từng hẹn trên giường Úc Kim
    Nữa đêm lén đến động phòng
    Trong lúc ôm nhau chẳng biết trâm rơi đâu mất
    Ở trong bóng tối chỉ cảm thấy mùi đôi hài thêu
    Lúc đó, muốn rời nhau nhưng hồn rã rời
    Từ đấy hễ gặp nhau là nhìn nhau điên cuồng
    Cảnh ấy giờ đấy chẳng còn nữa
    Chỉ còn nỗi buồn suốt đời)

    Một bài thơ Đường như thế, được viết cách đây cả trên nghìn năm, thì quả là hết nói nỗi! Hình ảnh mà bài thơ mô tả vừa cụ thể, táo bạo nhưng không kém phần thi vị. Bạn có thâm cảm được hết cái ý vị của cái cảnh “bất tri kim điền lạc” và “duy giác tú hài hương” không ? Ái ân vụng trộm vừa có cái gì khôi hài lại vừa tội nghiệp. Phải sống qua mới có thể có những hình ảnh sống động như thế. Nó vừa thực vừa thơ.
    Viết đến đây, tôi chợt có ý nghĩ chép thử ra đây một đoạn thơ thuộc loại mới nhất, hiện đại nhất mà tôi tình cờ đọc được của một nữ thi sĩ Việt Nam:

    Năm mười bảy tuổi
    Trong đêm đen
    Lần đầu tiên
    Khám phá ra thân thể kỳ lạ của người đàn ông
    Sau nụ cười; giọt nước mắt dâng hiến
    Là khoảng cách
    Hun hút dài
    Thăm thẳm dài
    Chập chùng dài

    Ơi! Em lạc mất em (4)

    Tôi không định so sánh hai bài thơ, vì không cần thiết. Đây chỉ là một sự liên tưởng ngộ nghĩnh (tôi nghĩ thế). Đằng nào cũng là thơ. Đằng nào cũng là con người.

    Trở lại với Hàn Ốc.

    Hương Liễm Thể của ông – như chúng ta vừa đọc qua một số bài tiêu biểu – với những lời thơ đầy màu sắc, hình ảnh dồi dào, đầy chất đường thi nhưng vì đa phần mô tả đồ trang sức của phụ nữ, có khi tả đến những đồ vật bẩn thỉu khác nữa, nội dung thì toàn chuyện tình ái nam nữ, nên văn nhân đời sau thường khinh thị, dè bĩu, phần nhiều cho là dâm từ. Phương Hồi nhà Nguyên lên án là “hối dâm chi ngôn” (bày cho người ta làm điều dâm loạn). Trầm Đức Tiềm nhà Thanh nghiêm khắc phê bình Hương Liễm Thể là “khứ nhân phong viễn” (chỉ khiến cho con người bỏ đi những tập quán tốt đẹp).

    Nhưng những nhà nghiên cứu Đường thi hiện đại đánh giá Hàn Ốc từ một nhãn quan khác. Tôn Cầm An nêu lên mấy nhận xét như sau:

    - Thi ca đời Đường , tuy có vượt qua được ngôn ngữ cung đình, nhưng diễn tả tình ái nam nữ thì quá hiếm hoi. Nếu không có Hương Liễm Thể bổ khuyết vào thì quả là một điều vô cùng thiếu sót.

    - Quan hệ tình ái nam nữ là chuyện thông thường, một nhu cầu phổ biến trong sinh hoạt con người, nên được diễn tả rất nhiều trong dân ca. Còn thi nhân thì chẳng ai dám viết. Chỉ có Hàn Ốc cam đảm chọn lựa đề tài này thì quả là điều đáng trân trọng.

    - Quan niệm thi giáo phong kiến do Khổng Tử đề xuất được văn nhân thi sĩ mọi thời xem như một tín điều, một tiêu chuẩn để định giá một bài thơ. Hợp thì cho là cao, không hợp thì cho là thấp. Chuyện quan hệ nam nữ hoàn toàn bị cấm chỉ. Ngay cả những đại thi nhân như Lý Bạch, Đỗ Phủ cũng chẳng dám sai phạm. Do đó mà các sáng tác của Hàn Ốc mang tính cách đả phá sự trói buộc, câu thúc tinh thần thi nhân và chứa đựng khuynh hướng chống phong kiến.

    Từ Vãn Đường, Ngũ Đại trở về sau, từ ngữ thường thiên về tả tình ái nam nữ, hoa cỏ khuê phòng. Để diễn tả cho được hết các hình ảnh, ý tứ trong sinh hoạt tình yêu, tính dục, họ không có cách nào khác hơn là phải sáng tạo thêm từ, thêm ý – và do đó, góp phần đẩy mạnh sự phát triển về từ. Thơ của Lý Thương Ẩn, Ôn Đình Quân, Vi Trang cố nhiên đóng một vai trò rất lớn trong việc phát triển đó. Còn Hàn Ốc, với Hương Liễm Thể – do đi sâu vào chi tiết, táo bạo trong cách diễn đạt – về thân phận so với Ôn Lý là nhỏ, nhưng sự đóng góp có phần trực tiếp hơn.

    Hàn Ốc rõ ràng là một khuôn mặt độc đáo của Đường Thi. Sỡ dĩ ông không được đề cập nhiều chỉ vì ông đi ngược lại hẳn và vượt qua không những chỉ thời đại mình mà còn cả những thời đại về sau. Trên văn đàn chính thống, người ta không đề cập đến, có lẽ vì sợ mất tác phong đứng đắn của nhà nho, nhưng thực tế Hương Liễm Thể cũng được cẩn trọng lưu giữ và âm thầm truyền tụng. Điều đó cho thấy thơ Hàn Ốc đâu có thiếu chất đường thi. Cái tài hoa ở chỗ ông đã vận dụng từ ngữ một cách tài tình để đột phá vào một lãnh vực được xem như là khó đưa vào văn chương, nhất là thi ca. Phải vừa nói được hết ý, lại phải vừa không tầm thường, dung tục. Ta cứ tưởng tượng sự ức chế vừa về tình yêu vừa về tình dục của người phụ nữ trong cung cấm được Hàn Ốc diễn tả bằng hình ảnh của một tiếng kêu, một cử chỉ và một cái nhìn:

    Trường hu giải la đái
    Khiếp kiến thượng không sàng.

    Hết chỗ chê! Tất nhiên, theo tôi nghĩ.



    Trần Hữu Thục
    (1994)


    ____________________________

    * Ghi chú: Tài liệu về Hàn Ốc được lấy từ bài viết của Tôn Cầm An, đăng ở “Minh Báo Nguyệt San” Hồng Kông, bản Hán văn, số tháng 8-1991. Phần dịch nghĩa tiếng Việt các bài thơ chữ Hán có sự giúp đỡ của hai người bạn học cũ là anh Vĩnh Cao (con cụ Bửu Kế) và anh Nguyễn Phố , giáo sư trường Nguyễn Huệ, Thành Nội, Huế. Hai anh hiện ở Huế ,Việt Nam.
    (1) Nam Trân,Thơ Đường, Tiểu luận, Văn Học số 90, tháng 10-1993
    (2) Nam Trân, sđd, tr. 12
    (3) Hàn Ốc hay Hàn Ác. Để tránh chữ “ác”, nghe không thuận tai trong tiếng Việt, ta nói trại ra “ốc”
    (4) Lê Thị Thấm Vân, Bài học vỡ lòng, thơ, Hợp Lưu 13 tháng 10-1993, tr. 154


    (damau.org)
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 31-01-2010, 08:54 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
Working...
X
Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom