Người Việt (California)
3,4,5,8/2/10
(Viết riêng cho Người Việt)
1. Ừ, em sẽ về
Em sửa soạn về Việt Nam, em gấp cái áo, em gấp cái quần; cái áo dầy cho Hà Nội, cái áo mỏng cho Sài Gòn. Chao ôi, em gấp áo lót như gấp hồn, gấp áo mặc ngoài như gấp hai cánh tay, em gấp quần như gấp hai chân. Em bỏ lọ thuốc, em bỏ lọ dầu nóng, em bỏ lọ kem thoa mặt, cái lược, cái gương soi, và cuối cùng em bỏ khúc ruột ngàn dặm của em vào va-li, em về.
Em sẽ ngồi trên máy bay hơn mười bốn tiếng; em ngủ, em đọc sách, em ăn, em thức, em đọc kinh, em lần tràng hạt, tất cả đều lơ mơ. Nhưng cái khúc ruột ngàn dặm của em nó sẽ không lơ mơ chút nào cả, nó co dần lại, ngắn dần lại, khi em sắp về đến quê nhà.
Quê nhà, hai chữ thân yêu đó, mỗi ngày hiện ra trước mặt em biết bao hình ảnh, biết bao tin tức, văn bản, xa gần, gửi tới tấp trên cái khung hình của máy điện toán. Trên máy bay, em sẽ nằm ngửa đầu ra ghế, nhắm mắt lại, em sẽ để cho những hình ảnh những dòng chữ đó mở từ từ ra như một cuộn phim trong đầu mình.
Hình những thiếu nữ Việt mới lớn, thướt tha xinh đẹp, duyên dáng, trong những chiếc áo dài đủ kiểu, từ cổ điển đến cách tân, những hình ảnh được dựng trên một sân khấu để mang đi nước ngoài, với nhãn hiệu: “Duyên Dáng Việt Nam.”
Rồi hình ảnh kế tiếp là những trẻ em thành phố, mặc đồng phục vừa tan học túa ra từ cổng trường, như đàn chim câu ra tổ; đường phố chen chúc, xe cộ ngược xuôi...
Khúc phim kế tiếp là những cảnh xử án, cảnh biểu tình, cảnh người dân kêu oan; cảnh linh mục, thượng tọa, tu sinh, tín đồ, ra trước tòa án; khúc phim cứ từ từ mở ra dài thêm, kéo ra đến hình ảnh những người nghèo khổ ở ngoại ô, xa thành phố, sống hàng ngày bên những đống rác, có trẻ em không được đi học, có người già không được trợ cấp; ở thôn quê, những túp lều như cái chòi chăn vịt, trước của lều có một người tàn tật ngồi hiu hắt, không phân biệt được họ tàn phế vì bảo vệ cho phần đất nào của quê hương mình. (Có cần phân biệt như thế không?)
Họ ngồi nhìn những cây cầu gẫy, trên con sông khô cạn. Tiếp theo, những hình ảnh, những bài viết lạ lùng kinh hoàng về một xã hội Việt Nam đổi mới như: “Vũ khỏa thân ở đám tang”; những khuôn mặt thanh niên, thiếu nữ non nớt nhưng đầy hoang đàng, phá phách, hưởng thụ trong những hộp đêm; bệnh viện cho trẻ sơ sinh chưa chết mang về nhà chôn. Chưa hết, cuốn phim còn mở ra những cảnh gái Việt mãi dâm đông đảo trên các nước Á Ðông láng giềng, gái Việt nổi tiếng vừa đẹp vừa rẻ.
Trên màn hình nhỏ của máy bay, em sẽ thấy, máy bay, bay ngang trên mặt biển Thái Bình Dương. Cái hình máy bay như một con chuồn chuồn kim, la đà trên một tấm thảm mênh mông xanh biếc. Nhìn hình, khúc ruột ngàn dặm của em sẽ bị kéo dài ra khỏi cái va-li quần áo, rồi nó cuộn lại thành một mớ rối bù, bay lơ lửng bên trên lưng con chuồn chuồn kim đó.
Mới đây nhất, email của em nhận được một trang có tên “Tỵ Nạn Việt Nam,” gửi vào, em chỉ vào đọc có hai lần, không có đủ tinh thần đọc tiếp những tin tức quá bi thảm về thuyền nhân. Mặc dù những tin tức này, cách đây hai mươi năm em có nghe, có đọc. Nhưng mở lại những trang quốc nạn bi thương đó, tinh thần em sẽ suy sụp lắm, khúc ruột em sẽ đứt ra từng đoạn ngắn, em không nối lại được.
Cái nước mình bé tí teo, người dân mình bé tí teo, sao cái bất hạnh nó to lớn thế! Nó bao phủ từng sinh vật bé tí bằng một cái chăn đen thui, rồi nó quấn lấy con người bé tí ở trong đó thật chặt bằng chính sợi ruột của nạn nhân nên không bao giờ tung ra được.
Tại sao người ta lại gọi là “buồn đứt ruột” hay “thấy vui trong bụng” nhỉ? Cái ruột nó quan trọng đến thế nào? Theo y học, nó giống như một cái đường cống của ngôi nhà thân thể. Nếu cái đường cống bị cắt ra từng đoạn, nước sẽ trào ra lênh láng, làm suy sụp cả nền nhà. Ruột đứt thì làm sao cứu vãn được thân thể.
Em đi Việt Nam hay em về Việt Nam, tức là em mang theo cả tim, gan, máu, ruột mình về. Chỉ ngày mai, khi máy bay thả bàn chân em chạm xuống mặt đất của thành phố cũ, em sẽ được đi lang thang, được nhìn ngang, nhìn dọc, nhìn lên trời, ngó xuống đất, lau giọt mồ hôi trên trán; em sẽ vừa đi vừa nghe ruột mình chuyển động. Nếu em là khúc ruột xa ngàn dặm, thì quê nhà thế nào cũng phải có những khúc ruột bị hao hụt, phải tìm đến em để gắn vào.
Sẽ có người chạy đến gần em, kêu lên: “A! khúc ruột thất lạc đây rồi!”
Em sẽ cầm bài thơ đưa ra cho người đó, nói: “Khúc ruột xa ngàn dặm đây, xin người cầm lấy.”
Em mong người đó nhận, vì thơ em viết từ ruột viết ra mà. Nhưng những câu thơ, những bài văn em viết có gắn khít khao vào đâu không? Hay ở quê nhà, trong những nơi đô hội, ruột của họ làm bằng những thứ khác, mà những câu thơ, bài văn em rứt ruột viết ra không nối vào được.
Em về, em sẽ thở bằng lồng ngực cũ trong không gian mới, em phải tự mình biết cách thích nghi với hoàn cảnh. Em cứ thở như em đã thở hơn ba mươi năm về trước, em nhìn theo cách của riêng em, em sẽ thanh lọc và em tưởng tượng.
Em biết, ngay giữa Sài Gòn đổi mới em vẫn tìm được trên con đường cũ, dấu viên gạch bể năm xưa, dù người ta có cào nó đi, thay vào đó viên gạch mới. Bàn chân cũ của em vẫn tìm ra dưới viên gạch mới đó những hạt cát thân quen.
Em về, dù cho bao nhiêu dâu bể chăng nữa, em vẫn tìm ra trên những khuôn mặt xa lạ lạnh lùng đó, một nụ cười của người trăm năm cũ, có thể của thầy giáo, của ông chú, của bà bác hay của cha, mẹ em, những người đã qua đời.
Em sẽ ngồi xuống góc đường của một con phố cổ Hà Nội, nhìn cụ già co ro vì gió mùa Ðông Bắc cuối năm, ngồi bán nước trà buổi sáng, để nghe thương yêu tràn ngập trong lòng. Khúc ruột ngàn dặm của em sẽ lên tiếng gọi: “Mẹ, cha ơi!” để em thấy mình giơ tay áo lên chặm những hạt nước mắt đang lăn trên má.
Ừ, em sẽ về, em về, để biết rằng: Chao ôi, sao mình vẫn quá đỗi Việt Nam!
2. Ðặt chân đến Sài Gòn
... Tôi đứng nhìn chiếc vòng đai 'Carousel' đang quay vòng tròn, mang hành lý ra cho hành khách của chuyến bay từ Taipei thả xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Mặc dù, tiếng Việt trên chuyến du hành bắt đầu nghe được nhiều nhất ở trạm chuyển tiếp Taipei, nhưng tại đây, mới đúng hoàn toàn bắt đầu thế giới của người Việt Nam. Hình ảnh rõ nét nhất là hành lý.
Tôi đi xa khá nhiều lần, đến những thành phố khác nhau, nhưng chưa tới một phi trường nào có hành lý thả xuống cái vòng tròn 'Carousel' giống như những hành lý thả xuống Việt Nam. Những chiếc thùng to hết cỡ giới hạn và nặng chắc cũng đến mức cuối của sức nặng cho phép, thường là thùng cạc-tông, băng keo vải mầu xám, chằng ngang, chằng dọc, tên họ Nguyễn, họ Trần, hay họ Lê, viết bằng bút nỉ đen cả bốn mặt thùng. Tôi biết trong đó là: quần áo, kẹo, bánh, phấn son, thuốc gội đầu, thuốc bổ, thuốc bệnh, sữa bột,... và tất cả tình thương của người gói, người gửi, ép vào trong thùng.
Tôi nhớ lại cảnh đi mua thêm, đi thu xếp những thứ tích trữ từ lâu, gói ghém, cân đo nặng, nhẹ, cho vào thùng. Thỉnh thoảng lại có người bạn đến gửi một gói nhỏ cho thêm vào đó. Cái thùng cứ mỗi ngày một to thêm, và phải lấy bớt ra, cân đi, cân lại, cho chính xác.
Nếu người ta có thể gói một bát mây, một ly nước mưa, hay một chén không khí của vùng trời Âu Mỹ về cho thân nhân quê nhà, chắc người ta sẽ chẳng đắn đo gì. Tôi cũng đang đứng chờ lấy ra, một trong những chiếc thùng đó.
Những chiếc thùng bị sây sát, có khi bị rách góc, méo mó đến tội nghiệp, trông giống như người lính trở về từ mặt trận, nhầu nhĩ tang thương! Tôi bỗng thấy giữa những chiếc thùng này với chiến tranh đã đi qua hình như có một gạch nối rất mơ hồ.
Sau khi khám xét, hỏi han, mang nhiều, mang ít, chiếc thùng được chở ra phía ngoài. Thân nhân đang chờ đón với bao nỗi hân hoan, được người, được của. Chiếc thùng mang về một địa chỉ nào đó, được mở tung ra, giữa những tiếng cười vui, cặp mắt sáng rỡ.
Anh được ra đi trong chương trình H.O trở về thăm nhà, anh nhìn thân nhân mở thùng quà, khác chi nhìn xuống chính thân phận mình đang được mở ra. Anh khác thùng quà ở chỗ, cái sây sát anh gói ở bên trong và cái ngọt ngào, tốt đẹp anh sơn phết bên ngoài. Anh tha hồ muốn bỏ bao nhiêu buồn tủi, hạnh phúc, tình thương vào thùng quà, không cần cân đo nặng, nhẹ. Anh gói tất cả vào bên trong, miễn sao cái thùng thân thể anh, những cái băng vải không sây sát để anh được nhìn như một tặng phẩm tương đối tươm tất là anh vui rồi.
Không biết đến bao giờ, người trở về mới hết mang theo những chiếc thùng “dâu bể” như thế nữa.
Tôi được một độc giả chưa gặp mặt bao giờ, chị đến từ email và chở tôi trên chiếc Honda của chị nguyên một ngày. Chị mang đến cho tôi một chiếc mũ an toàn còn mới tinh, chị mới mua cho khách phương xa, và một bao có hai cái khẩu trang bằng giấy mỏng (loại đeo một lần, vứt đi), chị mở ra, đội nón, đeo cái khẩu trang che miệng, che mũi cho tôi. Chị nói, đi xe ôm cho biết, cứ nhắm mắt lại. Nhưng tôi mở mắt, và tôi thỉnh thoảng la lên một tiếng, làm chị giật mình.
Trước tiên chị cho ăn phở, ngay tại đầu ngõ, chỗ nhà cháu tôi. Ðây là tiệm phở bán cho du khách và người khá giả, giá đến 37,000 đồng VN một tô nhỏ, tiệm bình dân giá 10,000 đồng đến 20,000 đồng. Tiệm phở tên “Hùng”, chủ nhân từ Oregon bên Mỹ về kinh doanh. Người giầu lại giầu thêm. Tôi chưa kịp đổi tiền, chị phải đãi tôi phần ăn sáng, hơi cao với giá chị vẫn thường trả.
Phở khá sạch sẽ và ngon, khách ra vào tấp nập. Ðĩa rau sống xanh mướt với ngò gai, húng lủi, húng quế hào sảng để giữa bàn, như vừa được hái ở vườn vào, đĩa ớt cay hai mầu cam nhạt và đỏ, thái mỏng, để bên cạnh những miếng chanh cốm, cắt đôi trông vừa nồng nàn, vừa thiết tha mời mọc! Tất cả như muốn nói đến cái khác biệt của phở Mỹ, phở Việt rất rõ rệt. Ðặc biệt tiệm phở này, từ nhân viên múc phở, nhúng bánh, đến chạy bàn, đều rất trẻ. Cô cậu nào cũng từ 18 đến 25 tuổi là cao nhất.
Sau ăn sáng, địa điểm đầu tiên tôi nhờ chị đưa đi mua sách, chị biết tiệm sách có giảm giá 30%. Loay hoay hơn một tiếng trong hiệu sách, tôi mua được hơn mười cuốn, phần đông là sách dịch từ văn bản Trung Hoa. Mua hai cuốn Căn Phòng Riêng (A room of One's Own) của Virginia Woolf do nhà văn hải ngoại Trịnh Y Thư dịch, nxb Tri Thức VN in, sẽ mang về làm quà cho hai người bạn văn: Thơ Thơ và Nguyễn Tường Thiết.
Chúng tôi ngưng xe lại ở giữa đường để uống nước dừa cho qua cơn khát. Cái xe bán nước nhỏ của chị hàng nước, dựng ở một gốc cây me già, sát lề đường. Khói xe, bụi đất cứ việc bay bám đầy chị. Chị có nón lá, khẩu trang che chở được phần nào hay phần đó. Cái bàn nhỏ, hai cái ghế nhựa nhỏ, đang có hai người đàn ông ngồi, một người uống trà, người kia uống bia. Nắng trên trời như đàn bướm trắng sà xuống đậu trên hai khuôn mặt màu bánh mật.
Chị bạn mới của tôi trả giá, chọn dừa, chê cùi dừa già, cùi dừa non mãi; còn tôi nao nức hỏi chuyện bán mua của chị hàng nước. Chị cho biết những trái dừa khách uống xong, chị bán lại cho những người làm mứt, họ lựa những quả có cùi già về cậy ra, xên đường bán cho hàng tết. Cùi dừa mua hôm nay, có thể hai ba hôm sau mới bắt đầu làm (cần thu gom đủ số dừa) nên chắc chắn dừa sẽ bị mốc và ôi. Người làm mứt sẽ ngâm thuốc tẩy cho sạch, trước khi xên đường, rồi cho mầu xanh, đỏ. Ba ngày tết bán món gì mà không được. Ai cũng cần có một chút ngọt ngào trong nhà cho ngọt quanh năm. Người Việt ở quê nhà, bao tử, ruột già chắc đã quen với độc tố và hóa chất, nên số bị ngộ độc không làm hốt hoảng số chưa bị.
Những người dân quê ở xứ dừa Bến Tre, chắc cũng buồn lòng vì những trái dừa tươi ngon của họ bị dân thành phố làm cho mang tiếng một cách oan ức. Phải chăng những cô gái Bến Tre nổi tiếng với làn da trắng như cơm dừa, cũng đang bị điêu đứng vì chính cái nhan sắc mình có hay không?
Dù không nóng khủng khiếp như Tháng Bảy, Tháng Tám, thời tiết Sài Gòn vào gần tết được cho là mát, cũng đủ làm người đến từ xứ của gió, mưa Seattle bị đổ mồ hôi nhớp nháp.
3. Buổi sáng Sài Gòn
... Sáng sớm ngày thứ hai ở Sài Gòn, Frank rủ đi bộ. Ngày hôm qua anh đã tìm đường trong thành phố một mình rồi. Áo vải mỏng dài tay, quần ngắn, giầy vải, kính râm, nón vải, chúng tôi bắt đầu hòa mình vào Sài Gòn buổi sáng.
Từ nhà người cháu, ở đường Nguyễn Trãi, Frank hướng dẫn tôi ra công viên có tên là: “Công Viên 23 tháng 9”, anh nói, ngày đó là ngày kỷ niệm “Chiến thắng Ðiện Biên Phủ”, sau hỏi lại, mới biết ngày đó là ngày “Nam Bộ Kháng Chiến” (23 tháng 9 năm 1945).
Tôi đi theo Frank, mỗi lần phải băng qua đường, tôi nắm chặt tay anh, đi băng qua đầu những chiếc xe lớn nhỏ (nhiều nhất là xe gắn máy) tôi cứ nhắm mắt đi theo, không dám nhìn, vì nếu nhìn sẽ thấy tất cả xe cộ đang cùng một lúc, tông vào mình.
Trước khi đến công viên, chúng tôi ghé nhà thờ Huyện Sĩ, viếng Chúa. Trong khuôn viên nhà thờ, núi Ðức Mẹ Lộ Ðức, tượng Thánh Giuse và tượng thánh tử đạo Gấm, đứng chung cùng với khoảng hơn mười chiếc xe hơi Nhật, Mỹ và rất nhiều xe gắn máy xếp hàng như một bãi đậu. Tôi không biết vì sân nhà thờ rộng, nên cho thuê làm chỗ đậu xe để kiếm lợi tức hay nhà thờ bắt buộc phải nhường một phần đất cho thành phố sử dụng. Tôi vào quỳ trong nhà thờ, cầu xin cùng Thiên Chúa, cho đất nước mình, một ngày một tốt đẹp hơn, cho dân mình ai cũng được no cơm, ấm áo.
Công viên khá lớn, được thành lập từ sau 1975, trên nền của nhà ga xe lửa bị phá đi, và rời về quận Ba (ga xe lửa này xây từ thế kỷ 19). Chiều dài công viên kéo suốt chiều dọc của đường Phạm Ngũ Lão, chiều ngang là khoảng cách ở giữa của hai con đường song song Lê Lai và Phạm Ngũ Lão. Công viên trải dài từ Công Trường Quách Thị Trang (chợ Bến Thành) đến chợ Thái Bình, đường Nguyễn Trãi thì ngừng. (Chắc gặp phải bài Bình Ngô Ðại Cáo của cụ Nguyễn Trãi.)
Sáng Thứ Bẩy nên công viên không đông, Frank nói, ngày hôm qua đông hơn, tuy nhiên cũng vẫn có người đến tập thể dục ở những dụng cụ được đặt chung quanh vòng ngoài của công viên. Tôi còn thấy, ở phía trong công viên, một nhóm người đang tập khiêu vũ theo âm nhạc trên một nền gạch được xây cao hơn và có mái (Tôi nhớ, mấy năm trước, khi sang Hồng Kông, tôi thấy rất nhiều công viên có chỗ dậy khiêu vũ giống thế này). Những hàng cây trong công viên, thân thẳng với những tán lá khá dầy, đang nghiêng xuống nhìn hai người lạ mới tới. Hòa trong tiếng nhạc dập dình, tiếng bước chân của chúng tôi trở nên e ngại, rụt rè.
Chúng tôi đi hết chiều dài của công viên, băng qua mấy ngã tư nữa, đến trạm xe bus ở bên hông chợ Bến Thành. Khói xe tuy không nhìn thấy, nhưng hình như bám vào tóc và quần áo rất nhanh, giơ cánh tay áo lên ngửi thấy mùi khen khét; tiếng máy xe nổ liên hồi, làm rung cả một vùng không gian. Khói xe và tiếng còi xe là hai thứ làm nên buổi sáng Sài Gòn. Frank dắt tôi lấy xe bus số 11 trở lại đường Nguyễn Trãi.
Sài Gòn bây giờ “cao ốc” mọc nhanh hơn nấm, nếu gọi những ngôi nhà bề ngang bốn thước, bề dài sáu thước, sáu, bẩy tầng lầu là ‘cao ốc’, thì chỗ nào cũng thấy một cao ốc đang xây chen vào giữa những cửa hàng đã mở. Khách sạn, thì giữa trung tâm thành phố coi như đường nào cũng có một, hai cái. Du khách da trắng không nhiều lắm (chắc không phải dịp hè) nhưng Việt kiều khá nhiều, phần đông là người lớn tuổi về ăn Tết. Cứ thấy cách họ đi đứng, ăn mặc sẽ nhận ra ngay. Một số ít, quần áo vải, giầy vải, một tay cầm chai nước khư khư, một tay ôm cái túi vải sát vào ngực, một số nhiều hơn diện quá so với những người chung quanh.
Sài Gòn với những cô gái mặc áo dài, tiếp tân trong những khách sạn, hay những nhà hàng đắt tiền; Sài Gòn với áo bà ba, nón lá của những người tất tả ngược xuôi hàng gánh, hàng bưng trên khắp mọi ngả đường; Sài Gòn với những nón sắt, khẩu trang, váy ngắn, chân dài thì ít, váy dài chân ngắn nhiều hơn; Sài Gòn với những ngôi chùa xây mãi không xong, (còn đợi đóng góp nước ngoài tiếp tục gửi về) với những nhà thờ đồ sộ được xây trong những xóm đạo ngỡ không thể nào cáng đáng nổi (cũng tiền của tín hữu nước ngoài); Sài Gòn với những cửa hàng bán sản phẩm nhập cảng, không biết bán cho ai? Vì du khách nước ngoài, những người có tiền, không ai đến Việt Nam để mua những cái ví xách tay mấy mười mấy ngàn Mỹ kim; Sài Gòn các cửa tiệm ở trung tâm thành phố, các ngôi nhà to, đẹp trên những con phố đắt tiền hoàn toàn do những người nói giọng “Hà Nội mới” làm chủ; Sài Gòn với những cụ già xác xơ, ốm yếu, chạy theo du khách bán vé số ngoài đường; với những em bé, quắt queo, đen đủi không kịp lớn theo tuổi, ngay trong giờ đáng nhẽ phải ở trường học, lại lang thang bán áo thun, bán nón vải, hoặc ăn xin.
Và cũng chỉ có Sài Gòn ra đường buổi sáng, mới gặp được người cha chở cả một gia đình trên chiếc xe gắn máy: Cậu bé lên năm, quàng chiếc cặp nhỏ ngồi trên cùng, người cha cầm tay lái, cô bé lên bẩy mặc đồng phục học sinh ngồi ép sát vào cha, và cuối cùng là người mẹ. Bà ngồi hai chân quặp hai bên hông và trong lòng bà hình như có một cái bọc nhỏ, nhìn kỹ khi xe bị chậm lại để quẹo một khúc quành, không phải cái bọc đâu, bà mẹ đang cho một em bé sơ sanh bú. Bà cho con bú trên đường ra chợ, ngay trên xe gắn máy, lạ lùng và kinh hoàng!
Sài Gòn nhìn và ngẫm nghĩ mãi, không biết tả thế nào cho đúng. Nó giống như một nồi lẩu thập cẩm, sôi bập bềnh những thực phẩm trong đó, không nhìn rõ được những gì, cho cái muỗng vào, có thể may mắn múc được miếng khả dĩ lành; nhưng không may, cũng rất dễ vớt được một miếng ăn vào trúng độc. Cái nồi lẩu đó do đầu bếp nào sửa soạn, đặt ra giữa bàn ăn? Không rõ, nhưng tất cả những người ngồi chung quanh đó đều ăn, không ăn thì đói.
Sài Gòn, những cây me già ngày xưa vẫn đứng đó, tình yêu tuổi trẻ của chúng ta vẫn đứng đó. Công viên Lê Văn Tám (tên một nhân vật được phong tặng anh hùng, bây giờ được chính người kể chuyện là Trần Huy Liệu thú nhận là chỉ bịa ra để tuyên truyền) trăm năm sau cũng không thể nào xóa được những vết tích của những nấm mộ xưa. Ai đó tưởng rằng có thể xóa nhòa tất cả, nhưng không, đám mây năm nào vẫn trôi trên bầu trời cũ. Nắng chấp choáng, hai bàn chân chập vào nhau, tôi rưng rưng bước.
4. Ðất nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Con gái tôi mới lấy chồng được một năm, cô muốn giới thiệu cho cha mẹ chồng và chồng của cô về quê mẹ mình, cô rủ bên chồng làm một chuyến du lịch Việt Nam. Không muốn để con đi một mình, tôi phải đi theo tháp tùng vì biết cô sẽ lúng túng khi giới thiệu ngôn ngữ và phong tục Việt Nam, dù cô nói tiếng Việt khá thông thạo.
Tôi dắt theo chồng, con gái, con rể và sui gia đi trên tuyến du lịch Ðồng Bằng Sông Cửu Long. Chiếc xe hơi có gắn máy lạnh, chở ba mươi lăm du khách, rời Sài Gòn đi ra ngoài thành phố, trên quốc lộ 1. Tôi ngồi phía sát bên cửa kính để nhìn ra ngoài cho rõ. Xe bắt đầu vào Bình Chánh, đi về hướng Long An. Ðường sá hai bên, chỗ nào cũng đang đập phá, rỡ đất để xây công xưởng, tư xưởng hoặc cao ốc. Bây giờ đi về miền quê không đồng nghĩa đơn thuần là thấy đồng lúa, nương khoai, bãi rau xanh ngát nữa. Ðiều trước tiên tôi thấy là những bảng hiệu: Bán Vật Liệu Xây Cất, Công Ty Sắt, Thép; Trường Kỹ Nghệ Long An; Car Dealer Lifan, Ford New Holland; Máy Cày-Máy Ủi Ðất. Cũng mừng cho đất nước mình, trông như đang hưng thịnh.
Anh hướng dẫn viên du lịch, nói tiếng Anh không thông thạo lắm, nhưng đủ để khách nước ngoài tương đối hiểu anh nói gì.
Anh nói: Long An nơi nổi tiếng về trái thơm, dưa hấu ruột vàng, và gạo nếp. Vựa lúa Long An góp một phần không nhỏ vào số gạo xuất khẩu hàng năm của cả nước.
Gạo Việt Nam xuất khẩu hàng năm trên thế giới, đứng thứ hai, chỉ sau Thái Lan.
Tuy nhiên lợi tức của một nông dân mỗi năm là 450 Mỹ kim cho một đầu người, nên trẻ em con nhà nông vẫn không được đi học, vì cha mẹ không có đủ tiền đóng học phí cho các em. Anh nói tiếp: Các em được đi học hay không vẫn trông vào quỹ từ thiện của nước ngoài. Tôi không biết anh định nói, quỹ nước ngoài là quỹ của mấy ông Tây, bà Mỹ hay của Việt kiều.
Khi vào khu vực tỉnh Long An, Bến Tre chúng tôi được chuyển sang thuyền máy. Hai chiếc thuyền máy chở ba mươi lăm người đi dọc theo sông Cửu Long bát ngát. Chúng tôi gặp rất nhiều những ngôi nhà nổi trên sông, thật ra không phải nhà, mà là vựa chứa cá.
Ðó là một cái mảng có mái, diện tích như một ngôi nhà lớn, có nước đá giữ cho cá tươi và đặc biệt mảng nào cũng có một, hai, con chó canh gác cá, không cho kẻ trộm lấy cá khi không có chủ mảng ở đó. Nước đá làm từ nước sông lấy thẳng lên, không lọc, nên chỉ dùng được trong việc giữ cá.
Sông Cửu Long cung cấp cho ngư dân hơn năm trăm loại cá khác nhau. Ngoài cung cấp cá, sông còn cung cấp cả cát, và đất sét vét từ hai bên sông. Những mảng chở cát, to đến có thể chở được 800 tấn trên một mảng, mỗi mảng được kéo theo bằng một thuyền máy phía trước. Suốt dọc sông đi, tôi thấy số mảng chở cát, và số mảng giữ cá nhiều ngang bằng nhau.
Những người cha của miền Ðồng Bằng Sông Cửu Long này suốt đời ở sông thả lưới bắt cá, tài xế chạy máy tàu hay vét đất bên bờ, trong khi những người mẹ là người vá lưới sửa tàu. Tàu máy chúng tôi đi qua thỉnh thoảng lại bắt gặp ngay sát bờ, những phụ nữ tuổi trạc 25-40 đang sửa thuyền đánh cá, một công việc làm tay rất vất vả. Tôi thấy những thân hình bé nhỏ, nón lá đội úp, có người còn bịt cái khăn rằn che ngang miệng, nên không nhìn rõ hết mặt chỉ thấy một phần mũi hay một phần cằm. Người nào cũng đen đủi vì nắng và bùn tẩm vào da thịt, quần áo; tay cầm búa, cầm rìu, tay uốn cong những nẹp sắt, các bà vá những con tàu âu yếm như vá áo cho chồng, con. Chao ôi, thân cò eo sèo mặt nước cả mưa nắng hai mùa!
Thỉnh thoảng một đám lục bình trôi qua, cụm hoa màu tím nhạt, một màu tím đẹp bình thản, chịu đựng, bền bỉ như phụ nữ trên sông nước Cửu Long này. Mùi nước, mùi sông, mùi nắng, mùi gió, mùi cá, và ngay cả những đám mây trắng trên cao đang buông xuống, tất cả đều như có thoảng hơi bùn, làm nên một mùi rất đỗi thân quen: Mùi quê hương yêu dấu!
Chúng tôi được tàu ghé vào đất liền, cho khách du lịch ăn trưa và xem làm kẹo dừa, xem gà chọi. Bến Tre là xứ dừa, ngày trước con gái Bến Tre nổi tiếng tóc mướt dầu dừa, da trắng sữa dừa. Bây giờ các cô không biết lưu lạc phương nào! Chỉ còn mấy em mới lớn đứng cắt kẹo dừa bằng dao, gói kẹo dừa bằng tay. Du khách được nếm kẹo, uống rượu cất bằng nước dừa, có pha thêm mật ong.
Sau mua bán, chúng tôi được chuyển sang xuồng máy nhỏ. Cứ bốn người một thuyền. Tôi để con gái ngồi với chồng và bố mẹ chồng một thuyền, vợ chồng tôi ngồi với hai người lạ, một thanh niên Hòa Lan đi du lịch một mình, và một phụ nữ nữa cũng đi một mình, đến từ Úc. Tôi được anh hướng dẫn cho biết, năm nay, vào tháng này, người Việt về ít hơn người nước ngoài (người Việt hải ngoại bây giờ được nhận là người nhà rồi.)
Thuyền đi qua những ngã sông rất nhỏ, chẳng khác nào xe đang đi ngoài đường, rẽ vào hẻm. Gần mươi chiếc thuyền máy nhỏ len lách giữa hai hàng cây xanh gần như giao vào nhau trên mái thuyền. Tôi biết một bên là dừa nước, loại dùng để lợp mái nhà, bên kia, tôi không biết những bụi cây lá nhỏ là loại cây gì, đi một đỗi, tôi cố nhận định mà vẫn không biết, định hỏi người lái thuyền, thì mắt chạm phải những trái màu xanh, có hình tròn và dẹp như con vụ (con quay).
À, nhớ ra rồi, những khóm này là khóm bần. Chẳng biết ai đặt tên cho cây nghe tội thế! “Bần”! Bần là nghèo, chắc những bụi cây này sẽ mãi mãi ở đây thôi.
Chúng tôi lại rời thuyền lên bộ. Ði vào vườn cây ăn trái, qua con đường làng nhỏ, hai bên thỉnh thoảng có những ngôi mộ xây nổi trên vườn nhà, tôi vừa đi vừa tò mò ngắm những bức hình, đọc năm sinh, năm tử trên những mộ bia. Những cụ già suốt đời sống ở miệt vườn, chết ở lại trên phần đất của giòng họ mình, họ đã nhìn thấy bao nhiêu du khách người Mỹ, người Việt đi qua trước mặt, hồn họ đã cảm nhận được điều gì?
Lên đây chúng tôi được cho ăn trái cây vườn. Mỗi người một đĩa nhỏ, có: một trái chuối cau, mấy lát dưa hấu nhỏ, mấy lát thơm, mấy lát sa bô chê (sapotier), và chúng tôi được mời nghe hát cổ nhạc. Ban nhạc gồm có bốn người đàn ông, tuổi giữa năm mươi, sáu mươi. Nhạc sĩ ngồi theo thứ tự: đàn Ðộc Huyền (đàn Bầu), đàn Kìm (đàn Cò), đàn Nguyệt (tròn như mặt trăng) và đàn Guita cổ (chỉ có 5 giây). Hai người hát vọng cổ là một cô tuổi dưới 30 mặc nguyên một bộ áo dài, quần dài màu hồng và một người đàn ông trung niên.
Ðiều thiếu sót là người hướng dẫn không cắt nghĩa cho du khách đó là cổ nhạc. Và nghe hát vọng cổ thì phải vỗ tay lúc người ca hạ giọng ở câu cuối. Cô gái hát một bài vọng cổ “Chia tay mười hai con phượng hoàng” rồi một bài trách người yêu bỏ ra đi tìm công danh ở chốn xa xăm, quên người con gái nơi quê nhà. Không thấy ai vỗ tay khi mình xuống sáu câu, nên đến khi người đồng ban lên hát cô phải đứng vỗ tay, làm mẫu.
Ngay từ lúc những nhạc công rộn rã mang nhạc khí ra, tôi nhìn, thấy đã lòng rưng rưng rồi. Khi họ ngồi xếp hàng trước mặt tôi, thì thật sự, núm ruột xa ngàn dặm (của tôi) quặn thắt. Tôi thấy thương cho sự lạc lõng của họ ngay trong làng, trong xóm của họ. Trong số ba mươi lăm khách du lịch bằng thuyền máy trên sông Cửu Long ngày hôm đó, chỉ có một người rưỡi là Việt Nam (tôi nguyên và con gái tôi một phần hai Việt Nam,) phần còn lại, họ là Mỹ, Ðức, Úc, Thụy Sĩ.
Ban nhạc chơi đàn thật điệu nghệ. Tiếng đàn bầu thánh thót trước tiên, làm tôi nhớ câu:
“Ðàn bầu ai gảy thì nghe
Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu.”
Tiếng đàn đó quyến rũ đến thế nào mà ông bà ta ngày trước phải thốt lên như thế! Giờ đây, đang gảy lên để cho một mình tôi thưởng thức, tôi vừa thấy mình đặc biệt vừa ngậm ngùi thương cho người nhạc sĩ. Rồi tiếp theo là tất cả tiếng đàn cùng cất lên, tôi vừa nghe vừa chậm nước mắt. Những cái tai chung quanh tôi họ nghe như thế nào nhỉ? Không lẽ “Ðàn gảy tai trâu” là trường hợp này đây?
Ðất nước tôi bây giờ từ thành thị đến thôn quê đều sống nhờ vào du khách, nên linh hồn của người nằm ở phần đất trên kia, chắc cũng đã quen với những tiếng chân của du khách phương xa, họ có rộn ràng chờ đón du khách? Cũng như những nhạc công này, chắc họ đã quá quen với những lần gảy đàn và hát vọng cổ cho toàn người ngoại quốc, không biết một chút gì về cổ nhạc Việt Nam.
Tôi ngồi đây, tự cho mình có cái may được cả ban cổ nhạc trình diễn cho một riêng mình. Tôi đã qua thời con gái, nên tôi được phép nghe đàn bầu. Tôi còn được nhỏ giọt lệ cho riêng tôi và cho những giọt đàn thon thả đó.
3,4,5,8/2/10
Cuối năm về quê
Bút ký của Trần Mộng Tú (Viết riêng cho Người Việt)
1. Ừ, em sẽ về
Em sửa soạn về Việt Nam, em gấp cái áo, em gấp cái quần; cái áo dầy cho Hà Nội, cái áo mỏng cho Sài Gòn. Chao ôi, em gấp áo lót như gấp hồn, gấp áo mặc ngoài như gấp hai cánh tay, em gấp quần như gấp hai chân. Em bỏ lọ thuốc, em bỏ lọ dầu nóng, em bỏ lọ kem thoa mặt, cái lược, cái gương soi, và cuối cùng em bỏ khúc ruột ngàn dặm của em vào va-li, em về.
Em sẽ ngồi trên máy bay hơn mười bốn tiếng; em ngủ, em đọc sách, em ăn, em thức, em đọc kinh, em lần tràng hạt, tất cả đều lơ mơ. Nhưng cái khúc ruột ngàn dặm của em nó sẽ không lơ mơ chút nào cả, nó co dần lại, ngắn dần lại, khi em sắp về đến quê nhà.
Quê nhà, hai chữ thân yêu đó, mỗi ngày hiện ra trước mặt em biết bao hình ảnh, biết bao tin tức, văn bản, xa gần, gửi tới tấp trên cái khung hình của máy điện toán. Trên máy bay, em sẽ nằm ngửa đầu ra ghế, nhắm mắt lại, em sẽ để cho những hình ảnh những dòng chữ đó mở từ từ ra như một cuộn phim trong đầu mình.
Hình những thiếu nữ Việt mới lớn, thướt tha xinh đẹp, duyên dáng, trong những chiếc áo dài đủ kiểu, từ cổ điển đến cách tân, những hình ảnh được dựng trên một sân khấu để mang đi nước ngoài, với nhãn hiệu: “Duyên Dáng Việt Nam.”
Rồi hình ảnh kế tiếp là những trẻ em thành phố, mặc đồng phục vừa tan học túa ra từ cổng trường, như đàn chim câu ra tổ; đường phố chen chúc, xe cộ ngược xuôi...
Khúc phim kế tiếp là những cảnh xử án, cảnh biểu tình, cảnh người dân kêu oan; cảnh linh mục, thượng tọa, tu sinh, tín đồ, ra trước tòa án; khúc phim cứ từ từ mở ra dài thêm, kéo ra đến hình ảnh những người nghèo khổ ở ngoại ô, xa thành phố, sống hàng ngày bên những đống rác, có trẻ em không được đi học, có người già không được trợ cấp; ở thôn quê, những túp lều như cái chòi chăn vịt, trước của lều có một người tàn tật ngồi hiu hắt, không phân biệt được họ tàn phế vì bảo vệ cho phần đất nào của quê hương mình. (Có cần phân biệt như thế không?)
Họ ngồi nhìn những cây cầu gẫy, trên con sông khô cạn. Tiếp theo, những hình ảnh, những bài viết lạ lùng kinh hoàng về một xã hội Việt Nam đổi mới như: “Vũ khỏa thân ở đám tang”; những khuôn mặt thanh niên, thiếu nữ non nớt nhưng đầy hoang đàng, phá phách, hưởng thụ trong những hộp đêm; bệnh viện cho trẻ sơ sinh chưa chết mang về nhà chôn. Chưa hết, cuốn phim còn mở ra những cảnh gái Việt mãi dâm đông đảo trên các nước Á Ðông láng giềng, gái Việt nổi tiếng vừa đẹp vừa rẻ.
Trên màn hình nhỏ của máy bay, em sẽ thấy, máy bay, bay ngang trên mặt biển Thái Bình Dương. Cái hình máy bay như một con chuồn chuồn kim, la đà trên một tấm thảm mênh mông xanh biếc. Nhìn hình, khúc ruột ngàn dặm của em sẽ bị kéo dài ra khỏi cái va-li quần áo, rồi nó cuộn lại thành một mớ rối bù, bay lơ lửng bên trên lưng con chuồn chuồn kim đó.
Mới đây nhất, email của em nhận được một trang có tên “Tỵ Nạn Việt Nam,” gửi vào, em chỉ vào đọc có hai lần, không có đủ tinh thần đọc tiếp những tin tức quá bi thảm về thuyền nhân. Mặc dù những tin tức này, cách đây hai mươi năm em có nghe, có đọc. Nhưng mở lại những trang quốc nạn bi thương đó, tinh thần em sẽ suy sụp lắm, khúc ruột em sẽ đứt ra từng đoạn ngắn, em không nối lại được.
Cái nước mình bé tí teo, người dân mình bé tí teo, sao cái bất hạnh nó to lớn thế! Nó bao phủ từng sinh vật bé tí bằng một cái chăn đen thui, rồi nó quấn lấy con người bé tí ở trong đó thật chặt bằng chính sợi ruột của nạn nhân nên không bao giờ tung ra được.
Tại sao người ta lại gọi là “buồn đứt ruột” hay “thấy vui trong bụng” nhỉ? Cái ruột nó quan trọng đến thế nào? Theo y học, nó giống như một cái đường cống của ngôi nhà thân thể. Nếu cái đường cống bị cắt ra từng đoạn, nước sẽ trào ra lênh láng, làm suy sụp cả nền nhà. Ruột đứt thì làm sao cứu vãn được thân thể.
Em đi Việt Nam hay em về Việt Nam, tức là em mang theo cả tim, gan, máu, ruột mình về. Chỉ ngày mai, khi máy bay thả bàn chân em chạm xuống mặt đất của thành phố cũ, em sẽ được đi lang thang, được nhìn ngang, nhìn dọc, nhìn lên trời, ngó xuống đất, lau giọt mồ hôi trên trán; em sẽ vừa đi vừa nghe ruột mình chuyển động. Nếu em là khúc ruột xa ngàn dặm, thì quê nhà thế nào cũng phải có những khúc ruột bị hao hụt, phải tìm đến em để gắn vào.
Sẽ có người chạy đến gần em, kêu lên: “A! khúc ruột thất lạc đây rồi!”
Em sẽ cầm bài thơ đưa ra cho người đó, nói: “Khúc ruột xa ngàn dặm đây, xin người cầm lấy.”
Em mong người đó nhận, vì thơ em viết từ ruột viết ra mà. Nhưng những câu thơ, những bài văn em viết có gắn khít khao vào đâu không? Hay ở quê nhà, trong những nơi đô hội, ruột của họ làm bằng những thứ khác, mà những câu thơ, bài văn em rứt ruột viết ra không nối vào được.
Em về, em sẽ thở bằng lồng ngực cũ trong không gian mới, em phải tự mình biết cách thích nghi với hoàn cảnh. Em cứ thở như em đã thở hơn ba mươi năm về trước, em nhìn theo cách của riêng em, em sẽ thanh lọc và em tưởng tượng.
Em biết, ngay giữa Sài Gòn đổi mới em vẫn tìm được trên con đường cũ, dấu viên gạch bể năm xưa, dù người ta có cào nó đi, thay vào đó viên gạch mới. Bàn chân cũ của em vẫn tìm ra dưới viên gạch mới đó những hạt cát thân quen.
Em về, dù cho bao nhiêu dâu bể chăng nữa, em vẫn tìm ra trên những khuôn mặt xa lạ lạnh lùng đó, một nụ cười của người trăm năm cũ, có thể của thầy giáo, của ông chú, của bà bác hay của cha, mẹ em, những người đã qua đời.
Em sẽ ngồi xuống góc đường của một con phố cổ Hà Nội, nhìn cụ già co ro vì gió mùa Ðông Bắc cuối năm, ngồi bán nước trà buổi sáng, để nghe thương yêu tràn ngập trong lòng. Khúc ruột ngàn dặm của em sẽ lên tiếng gọi: “Mẹ, cha ơi!” để em thấy mình giơ tay áo lên chặm những hạt nước mắt đang lăn trên má.
Ừ, em sẽ về, em về, để biết rằng: Chao ôi, sao mình vẫn quá đỗi Việt Nam!
2. Ðặt chân đến Sài Gòn
... Tôi đứng nhìn chiếc vòng đai 'Carousel' đang quay vòng tròn, mang hành lý ra cho hành khách của chuyến bay từ Taipei thả xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Mặc dù, tiếng Việt trên chuyến du hành bắt đầu nghe được nhiều nhất ở trạm chuyển tiếp Taipei, nhưng tại đây, mới đúng hoàn toàn bắt đầu thế giới của người Việt Nam. Hình ảnh rõ nét nhất là hành lý.
Tôi đi xa khá nhiều lần, đến những thành phố khác nhau, nhưng chưa tới một phi trường nào có hành lý thả xuống cái vòng tròn 'Carousel' giống như những hành lý thả xuống Việt Nam. Những chiếc thùng to hết cỡ giới hạn và nặng chắc cũng đến mức cuối của sức nặng cho phép, thường là thùng cạc-tông, băng keo vải mầu xám, chằng ngang, chằng dọc, tên họ Nguyễn, họ Trần, hay họ Lê, viết bằng bút nỉ đen cả bốn mặt thùng. Tôi biết trong đó là: quần áo, kẹo, bánh, phấn son, thuốc gội đầu, thuốc bổ, thuốc bệnh, sữa bột,... và tất cả tình thương của người gói, người gửi, ép vào trong thùng.
Tôi nhớ lại cảnh đi mua thêm, đi thu xếp những thứ tích trữ từ lâu, gói ghém, cân đo nặng, nhẹ, cho vào thùng. Thỉnh thoảng lại có người bạn đến gửi một gói nhỏ cho thêm vào đó. Cái thùng cứ mỗi ngày một to thêm, và phải lấy bớt ra, cân đi, cân lại, cho chính xác.
Nếu người ta có thể gói một bát mây, một ly nước mưa, hay một chén không khí của vùng trời Âu Mỹ về cho thân nhân quê nhà, chắc người ta sẽ chẳng đắn đo gì. Tôi cũng đang đứng chờ lấy ra, một trong những chiếc thùng đó.
Những chiếc thùng bị sây sát, có khi bị rách góc, méo mó đến tội nghiệp, trông giống như người lính trở về từ mặt trận, nhầu nhĩ tang thương! Tôi bỗng thấy giữa những chiếc thùng này với chiến tranh đã đi qua hình như có một gạch nối rất mơ hồ.
Sau khi khám xét, hỏi han, mang nhiều, mang ít, chiếc thùng được chở ra phía ngoài. Thân nhân đang chờ đón với bao nỗi hân hoan, được người, được của. Chiếc thùng mang về một địa chỉ nào đó, được mở tung ra, giữa những tiếng cười vui, cặp mắt sáng rỡ.
Anh được ra đi trong chương trình H.O trở về thăm nhà, anh nhìn thân nhân mở thùng quà, khác chi nhìn xuống chính thân phận mình đang được mở ra. Anh khác thùng quà ở chỗ, cái sây sát anh gói ở bên trong và cái ngọt ngào, tốt đẹp anh sơn phết bên ngoài. Anh tha hồ muốn bỏ bao nhiêu buồn tủi, hạnh phúc, tình thương vào thùng quà, không cần cân đo nặng, nhẹ. Anh gói tất cả vào bên trong, miễn sao cái thùng thân thể anh, những cái băng vải không sây sát để anh được nhìn như một tặng phẩm tương đối tươm tất là anh vui rồi.
Không biết đến bao giờ, người trở về mới hết mang theo những chiếc thùng “dâu bể” như thế nữa.
Tôi được một độc giả chưa gặp mặt bao giờ, chị đến từ email và chở tôi trên chiếc Honda của chị nguyên một ngày. Chị mang đến cho tôi một chiếc mũ an toàn còn mới tinh, chị mới mua cho khách phương xa, và một bao có hai cái khẩu trang bằng giấy mỏng (loại đeo một lần, vứt đi), chị mở ra, đội nón, đeo cái khẩu trang che miệng, che mũi cho tôi. Chị nói, đi xe ôm cho biết, cứ nhắm mắt lại. Nhưng tôi mở mắt, và tôi thỉnh thoảng la lên một tiếng, làm chị giật mình.
Trước tiên chị cho ăn phở, ngay tại đầu ngõ, chỗ nhà cháu tôi. Ðây là tiệm phở bán cho du khách và người khá giả, giá đến 37,000 đồng VN một tô nhỏ, tiệm bình dân giá 10,000 đồng đến 20,000 đồng. Tiệm phở tên “Hùng”, chủ nhân từ Oregon bên Mỹ về kinh doanh. Người giầu lại giầu thêm. Tôi chưa kịp đổi tiền, chị phải đãi tôi phần ăn sáng, hơi cao với giá chị vẫn thường trả.
Phở khá sạch sẽ và ngon, khách ra vào tấp nập. Ðĩa rau sống xanh mướt với ngò gai, húng lủi, húng quế hào sảng để giữa bàn, như vừa được hái ở vườn vào, đĩa ớt cay hai mầu cam nhạt và đỏ, thái mỏng, để bên cạnh những miếng chanh cốm, cắt đôi trông vừa nồng nàn, vừa thiết tha mời mọc! Tất cả như muốn nói đến cái khác biệt của phở Mỹ, phở Việt rất rõ rệt. Ðặc biệt tiệm phở này, từ nhân viên múc phở, nhúng bánh, đến chạy bàn, đều rất trẻ. Cô cậu nào cũng từ 18 đến 25 tuổi là cao nhất.
Sau ăn sáng, địa điểm đầu tiên tôi nhờ chị đưa đi mua sách, chị biết tiệm sách có giảm giá 30%. Loay hoay hơn một tiếng trong hiệu sách, tôi mua được hơn mười cuốn, phần đông là sách dịch từ văn bản Trung Hoa. Mua hai cuốn Căn Phòng Riêng (A room of One's Own) của Virginia Woolf do nhà văn hải ngoại Trịnh Y Thư dịch, nxb Tri Thức VN in, sẽ mang về làm quà cho hai người bạn văn: Thơ Thơ và Nguyễn Tường Thiết.
Chúng tôi ngưng xe lại ở giữa đường để uống nước dừa cho qua cơn khát. Cái xe bán nước nhỏ của chị hàng nước, dựng ở một gốc cây me già, sát lề đường. Khói xe, bụi đất cứ việc bay bám đầy chị. Chị có nón lá, khẩu trang che chở được phần nào hay phần đó. Cái bàn nhỏ, hai cái ghế nhựa nhỏ, đang có hai người đàn ông ngồi, một người uống trà, người kia uống bia. Nắng trên trời như đàn bướm trắng sà xuống đậu trên hai khuôn mặt màu bánh mật.
Chị bạn mới của tôi trả giá, chọn dừa, chê cùi dừa già, cùi dừa non mãi; còn tôi nao nức hỏi chuyện bán mua của chị hàng nước. Chị cho biết những trái dừa khách uống xong, chị bán lại cho những người làm mứt, họ lựa những quả có cùi già về cậy ra, xên đường bán cho hàng tết. Cùi dừa mua hôm nay, có thể hai ba hôm sau mới bắt đầu làm (cần thu gom đủ số dừa) nên chắc chắn dừa sẽ bị mốc và ôi. Người làm mứt sẽ ngâm thuốc tẩy cho sạch, trước khi xên đường, rồi cho mầu xanh, đỏ. Ba ngày tết bán món gì mà không được. Ai cũng cần có một chút ngọt ngào trong nhà cho ngọt quanh năm. Người Việt ở quê nhà, bao tử, ruột già chắc đã quen với độc tố và hóa chất, nên số bị ngộ độc không làm hốt hoảng số chưa bị.
Những người dân quê ở xứ dừa Bến Tre, chắc cũng buồn lòng vì những trái dừa tươi ngon của họ bị dân thành phố làm cho mang tiếng một cách oan ức. Phải chăng những cô gái Bến Tre nổi tiếng với làn da trắng như cơm dừa, cũng đang bị điêu đứng vì chính cái nhan sắc mình có hay không?
Dù không nóng khủng khiếp như Tháng Bảy, Tháng Tám, thời tiết Sài Gòn vào gần tết được cho là mát, cũng đủ làm người đến từ xứ của gió, mưa Seattle bị đổ mồ hôi nhớp nháp.
3. Buổi sáng Sài Gòn
... Sáng sớm ngày thứ hai ở Sài Gòn, Frank rủ đi bộ. Ngày hôm qua anh đã tìm đường trong thành phố một mình rồi. Áo vải mỏng dài tay, quần ngắn, giầy vải, kính râm, nón vải, chúng tôi bắt đầu hòa mình vào Sài Gòn buổi sáng.
Từ nhà người cháu, ở đường Nguyễn Trãi, Frank hướng dẫn tôi ra công viên có tên là: “Công Viên 23 tháng 9”, anh nói, ngày đó là ngày kỷ niệm “Chiến thắng Ðiện Biên Phủ”, sau hỏi lại, mới biết ngày đó là ngày “Nam Bộ Kháng Chiến” (23 tháng 9 năm 1945).
Tôi đi theo Frank, mỗi lần phải băng qua đường, tôi nắm chặt tay anh, đi băng qua đầu những chiếc xe lớn nhỏ (nhiều nhất là xe gắn máy) tôi cứ nhắm mắt đi theo, không dám nhìn, vì nếu nhìn sẽ thấy tất cả xe cộ đang cùng một lúc, tông vào mình.
Trước khi đến công viên, chúng tôi ghé nhà thờ Huyện Sĩ, viếng Chúa. Trong khuôn viên nhà thờ, núi Ðức Mẹ Lộ Ðức, tượng Thánh Giuse và tượng thánh tử đạo Gấm, đứng chung cùng với khoảng hơn mười chiếc xe hơi Nhật, Mỹ và rất nhiều xe gắn máy xếp hàng như một bãi đậu. Tôi không biết vì sân nhà thờ rộng, nên cho thuê làm chỗ đậu xe để kiếm lợi tức hay nhà thờ bắt buộc phải nhường một phần đất cho thành phố sử dụng. Tôi vào quỳ trong nhà thờ, cầu xin cùng Thiên Chúa, cho đất nước mình, một ngày một tốt đẹp hơn, cho dân mình ai cũng được no cơm, ấm áo.
Công viên khá lớn, được thành lập từ sau 1975, trên nền của nhà ga xe lửa bị phá đi, và rời về quận Ba (ga xe lửa này xây từ thế kỷ 19). Chiều dài công viên kéo suốt chiều dọc của đường Phạm Ngũ Lão, chiều ngang là khoảng cách ở giữa của hai con đường song song Lê Lai và Phạm Ngũ Lão. Công viên trải dài từ Công Trường Quách Thị Trang (chợ Bến Thành) đến chợ Thái Bình, đường Nguyễn Trãi thì ngừng. (Chắc gặp phải bài Bình Ngô Ðại Cáo của cụ Nguyễn Trãi.)
Sáng Thứ Bẩy nên công viên không đông, Frank nói, ngày hôm qua đông hơn, tuy nhiên cũng vẫn có người đến tập thể dục ở những dụng cụ được đặt chung quanh vòng ngoài của công viên. Tôi còn thấy, ở phía trong công viên, một nhóm người đang tập khiêu vũ theo âm nhạc trên một nền gạch được xây cao hơn và có mái (Tôi nhớ, mấy năm trước, khi sang Hồng Kông, tôi thấy rất nhiều công viên có chỗ dậy khiêu vũ giống thế này). Những hàng cây trong công viên, thân thẳng với những tán lá khá dầy, đang nghiêng xuống nhìn hai người lạ mới tới. Hòa trong tiếng nhạc dập dình, tiếng bước chân của chúng tôi trở nên e ngại, rụt rè.
Chúng tôi đi hết chiều dài của công viên, băng qua mấy ngã tư nữa, đến trạm xe bus ở bên hông chợ Bến Thành. Khói xe tuy không nhìn thấy, nhưng hình như bám vào tóc và quần áo rất nhanh, giơ cánh tay áo lên ngửi thấy mùi khen khét; tiếng máy xe nổ liên hồi, làm rung cả một vùng không gian. Khói xe và tiếng còi xe là hai thứ làm nên buổi sáng Sài Gòn. Frank dắt tôi lấy xe bus số 11 trở lại đường Nguyễn Trãi.
Sài Gòn bây giờ “cao ốc” mọc nhanh hơn nấm, nếu gọi những ngôi nhà bề ngang bốn thước, bề dài sáu thước, sáu, bẩy tầng lầu là ‘cao ốc’, thì chỗ nào cũng thấy một cao ốc đang xây chen vào giữa những cửa hàng đã mở. Khách sạn, thì giữa trung tâm thành phố coi như đường nào cũng có một, hai cái. Du khách da trắng không nhiều lắm (chắc không phải dịp hè) nhưng Việt kiều khá nhiều, phần đông là người lớn tuổi về ăn Tết. Cứ thấy cách họ đi đứng, ăn mặc sẽ nhận ra ngay. Một số ít, quần áo vải, giầy vải, một tay cầm chai nước khư khư, một tay ôm cái túi vải sát vào ngực, một số nhiều hơn diện quá so với những người chung quanh.
Sài Gòn với những cô gái mặc áo dài, tiếp tân trong những khách sạn, hay những nhà hàng đắt tiền; Sài Gòn với áo bà ba, nón lá của những người tất tả ngược xuôi hàng gánh, hàng bưng trên khắp mọi ngả đường; Sài Gòn với những nón sắt, khẩu trang, váy ngắn, chân dài thì ít, váy dài chân ngắn nhiều hơn; Sài Gòn với những ngôi chùa xây mãi không xong, (còn đợi đóng góp nước ngoài tiếp tục gửi về) với những nhà thờ đồ sộ được xây trong những xóm đạo ngỡ không thể nào cáng đáng nổi (cũng tiền của tín hữu nước ngoài); Sài Gòn với những cửa hàng bán sản phẩm nhập cảng, không biết bán cho ai? Vì du khách nước ngoài, những người có tiền, không ai đến Việt Nam để mua những cái ví xách tay mấy mười mấy ngàn Mỹ kim; Sài Gòn các cửa tiệm ở trung tâm thành phố, các ngôi nhà to, đẹp trên những con phố đắt tiền hoàn toàn do những người nói giọng “Hà Nội mới” làm chủ; Sài Gòn với những cụ già xác xơ, ốm yếu, chạy theo du khách bán vé số ngoài đường; với những em bé, quắt queo, đen đủi không kịp lớn theo tuổi, ngay trong giờ đáng nhẽ phải ở trường học, lại lang thang bán áo thun, bán nón vải, hoặc ăn xin.
Và cũng chỉ có Sài Gòn ra đường buổi sáng, mới gặp được người cha chở cả một gia đình trên chiếc xe gắn máy: Cậu bé lên năm, quàng chiếc cặp nhỏ ngồi trên cùng, người cha cầm tay lái, cô bé lên bẩy mặc đồng phục học sinh ngồi ép sát vào cha, và cuối cùng là người mẹ. Bà ngồi hai chân quặp hai bên hông và trong lòng bà hình như có một cái bọc nhỏ, nhìn kỹ khi xe bị chậm lại để quẹo một khúc quành, không phải cái bọc đâu, bà mẹ đang cho một em bé sơ sanh bú. Bà cho con bú trên đường ra chợ, ngay trên xe gắn máy, lạ lùng và kinh hoàng!
Sài Gòn nhìn và ngẫm nghĩ mãi, không biết tả thế nào cho đúng. Nó giống như một nồi lẩu thập cẩm, sôi bập bềnh những thực phẩm trong đó, không nhìn rõ được những gì, cho cái muỗng vào, có thể may mắn múc được miếng khả dĩ lành; nhưng không may, cũng rất dễ vớt được một miếng ăn vào trúng độc. Cái nồi lẩu đó do đầu bếp nào sửa soạn, đặt ra giữa bàn ăn? Không rõ, nhưng tất cả những người ngồi chung quanh đó đều ăn, không ăn thì đói.
Sài Gòn, những cây me già ngày xưa vẫn đứng đó, tình yêu tuổi trẻ của chúng ta vẫn đứng đó. Công viên Lê Văn Tám (tên một nhân vật được phong tặng anh hùng, bây giờ được chính người kể chuyện là Trần Huy Liệu thú nhận là chỉ bịa ra để tuyên truyền) trăm năm sau cũng không thể nào xóa được những vết tích của những nấm mộ xưa. Ai đó tưởng rằng có thể xóa nhòa tất cả, nhưng không, đám mây năm nào vẫn trôi trên bầu trời cũ. Nắng chấp choáng, hai bàn chân chập vào nhau, tôi rưng rưng bước.
4. Ðất nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Con gái tôi mới lấy chồng được một năm, cô muốn giới thiệu cho cha mẹ chồng và chồng của cô về quê mẹ mình, cô rủ bên chồng làm một chuyến du lịch Việt Nam. Không muốn để con đi một mình, tôi phải đi theo tháp tùng vì biết cô sẽ lúng túng khi giới thiệu ngôn ngữ và phong tục Việt Nam, dù cô nói tiếng Việt khá thông thạo.
Tôi dắt theo chồng, con gái, con rể và sui gia đi trên tuyến du lịch Ðồng Bằng Sông Cửu Long. Chiếc xe hơi có gắn máy lạnh, chở ba mươi lăm du khách, rời Sài Gòn đi ra ngoài thành phố, trên quốc lộ 1. Tôi ngồi phía sát bên cửa kính để nhìn ra ngoài cho rõ. Xe bắt đầu vào Bình Chánh, đi về hướng Long An. Ðường sá hai bên, chỗ nào cũng đang đập phá, rỡ đất để xây công xưởng, tư xưởng hoặc cao ốc. Bây giờ đi về miền quê không đồng nghĩa đơn thuần là thấy đồng lúa, nương khoai, bãi rau xanh ngát nữa. Ðiều trước tiên tôi thấy là những bảng hiệu: Bán Vật Liệu Xây Cất, Công Ty Sắt, Thép; Trường Kỹ Nghệ Long An; Car Dealer Lifan, Ford New Holland; Máy Cày-Máy Ủi Ðất. Cũng mừng cho đất nước mình, trông như đang hưng thịnh.
Anh hướng dẫn viên du lịch, nói tiếng Anh không thông thạo lắm, nhưng đủ để khách nước ngoài tương đối hiểu anh nói gì.
Anh nói: Long An nơi nổi tiếng về trái thơm, dưa hấu ruột vàng, và gạo nếp. Vựa lúa Long An góp một phần không nhỏ vào số gạo xuất khẩu hàng năm của cả nước.
Gạo Việt Nam xuất khẩu hàng năm trên thế giới, đứng thứ hai, chỉ sau Thái Lan.
Tuy nhiên lợi tức của một nông dân mỗi năm là 450 Mỹ kim cho một đầu người, nên trẻ em con nhà nông vẫn không được đi học, vì cha mẹ không có đủ tiền đóng học phí cho các em. Anh nói tiếp: Các em được đi học hay không vẫn trông vào quỹ từ thiện của nước ngoài. Tôi không biết anh định nói, quỹ nước ngoài là quỹ của mấy ông Tây, bà Mỹ hay của Việt kiều.
Khi vào khu vực tỉnh Long An, Bến Tre chúng tôi được chuyển sang thuyền máy. Hai chiếc thuyền máy chở ba mươi lăm người đi dọc theo sông Cửu Long bát ngát. Chúng tôi gặp rất nhiều những ngôi nhà nổi trên sông, thật ra không phải nhà, mà là vựa chứa cá.
Ðó là một cái mảng có mái, diện tích như một ngôi nhà lớn, có nước đá giữ cho cá tươi và đặc biệt mảng nào cũng có một, hai, con chó canh gác cá, không cho kẻ trộm lấy cá khi không có chủ mảng ở đó. Nước đá làm từ nước sông lấy thẳng lên, không lọc, nên chỉ dùng được trong việc giữ cá.
Sông Cửu Long cung cấp cho ngư dân hơn năm trăm loại cá khác nhau. Ngoài cung cấp cá, sông còn cung cấp cả cát, và đất sét vét từ hai bên sông. Những mảng chở cát, to đến có thể chở được 800 tấn trên một mảng, mỗi mảng được kéo theo bằng một thuyền máy phía trước. Suốt dọc sông đi, tôi thấy số mảng chở cát, và số mảng giữ cá nhiều ngang bằng nhau.
Những người cha của miền Ðồng Bằng Sông Cửu Long này suốt đời ở sông thả lưới bắt cá, tài xế chạy máy tàu hay vét đất bên bờ, trong khi những người mẹ là người vá lưới sửa tàu. Tàu máy chúng tôi đi qua thỉnh thoảng lại bắt gặp ngay sát bờ, những phụ nữ tuổi trạc 25-40 đang sửa thuyền đánh cá, một công việc làm tay rất vất vả. Tôi thấy những thân hình bé nhỏ, nón lá đội úp, có người còn bịt cái khăn rằn che ngang miệng, nên không nhìn rõ hết mặt chỉ thấy một phần mũi hay một phần cằm. Người nào cũng đen đủi vì nắng và bùn tẩm vào da thịt, quần áo; tay cầm búa, cầm rìu, tay uốn cong những nẹp sắt, các bà vá những con tàu âu yếm như vá áo cho chồng, con. Chao ôi, thân cò eo sèo mặt nước cả mưa nắng hai mùa!
Thỉnh thoảng một đám lục bình trôi qua, cụm hoa màu tím nhạt, một màu tím đẹp bình thản, chịu đựng, bền bỉ như phụ nữ trên sông nước Cửu Long này. Mùi nước, mùi sông, mùi nắng, mùi gió, mùi cá, và ngay cả những đám mây trắng trên cao đang buông xuống, tất cả đều như có thoảng hơi bùn, làm nên một mùi rất đỗi thân quen: Mùi quê hương yêu dấu!
Chúng tôi được tàu ghé vào đất liền, cho khách du lịch ăn trưa và xem làm kẹo dừa, xem gà chọi. Bến Tre là xứ dừa, ngày trước con gái Bến Tre nổi tiếng tóc mướt dầu dừa, da trắng sữa dừa. Bây giờ các cô không biết lưu lạc phương nào! Chỉ còn mấy em mới lớn đứng cắt kẹo dừa bằng dao, gói kẹo dừa bằng tay. Du khách được nếm kẹo, uống rượu cất bằng nước dừa, có pha thêm mật ong.
Sau mua bán, chúng tôi được chuyển sang xuồng máy nhỏ. Cứ bốn người một thuyền. Tôi để con gái ngồi với chồng và bố mẹ chồng một thuyền, vợ chồng tôi ngồi với hai người lạ, một thanh niên Hòa Lan đi du lịch một mình, và một phụ nữ nữa cũng đi một mình, đến từ Úc. Tôi được anh hướng dẫn cho biết, năm nay, vào tháng này, người Việt về ít hơn người nước ngoài (người Việt hải ngoại bây giờ được nhận là người nhà rồi.)
Thuyền đi qua những ngã sông rất nhỏ, chẳng khác nào xe đang đi ngoài đường, rẽ vào hẻm. Gần mươi chiếc thuyền máy nhỏ len lách giữa hai hàng cây xanh gần như giao vào nhau trên mái thuyền. Tôi biết một bên là dừa nước, loại dùng để lợp mái nhà, bên kia, tôi không biết những bụi cây lá nhỏ là loại cây gì, đi một đỗi, tôi cố nhận định mà vẫn không biết, định hỏi người lái thuyền, thì mắt chạm phải những trái màu xanh, có hình tròn và dẹp như con vụ (con quay).
À, nhớ ra rồi, những khóm này là khóm bần. Chẳng biết ai đặt tên cho cây nghe tội thế! “Bần”! Bần là nghèo, chắc những bụi cây này sẽ mãi mãi ở đây thôi.
Chúng tôi lại rời thuyền lên bộ. Ði vào vườn cây ăn trái, qua con đường làng nhỏ, hai bên thỉnh thoảng có những ngôi mộ xây nổi trên vườn nhà, tôi vừa đi vừa tò mò ngắm những bức hình, đọc năm sinh, năm tử trên những mộ bia. Những cụ già suốt đời sống ở miệt vườn, chết ở lại trên phần đất của giòng họ mình, họ đã nhìn thấy bao nhiêu du khách người Mỹ, người Việt đi qua trước mặt, hồn họ đã cảm nhận được điều gì?
Lên đây chúng tôi được cho ăn trái cây vườn. Mỗi người một đĩa nhỏ, có: một trái chuối cau, mấy lát dưa hấu nhỏ, mấy lát thơm, mấy lát sa bô chê (sapotier), và chúng tôi được mời nghe hát cổ nhạc. Ban nhạc gồm có bốn người đàn ông, tuổi giữa năm mươi, sáu mươi. Nhạc sĩ ngồi theo thứ tự: đàn Ðộc Huyền (đàn Bầu), đàn Kìm (đàn Cò), đàn Nguyệt (tròn như mặt trăng) và đàn Guita cổ (chỉ có 5 giây). Hai người hát vọng cổ là một cô tuổi dưới 30 mặc nguyên một bộ áo dài, quần dài màu hồng và một người đàn ông trung niên.
Ðiều thiếu sót là người hướng dẫn không cắt nghĩa cho du khách đó là cổ nhạc. Và nghe hát vọng cổ thì phải vỗ tay lúc người ca hạ giọng ở câu cuối. Cô gái hát một bài vọng cổ “Chia tay mười hai con phượng hoàng” rồi một bài trách người yêu bỏ ra đi tìm công danh ở chốn xa xăm, quên người con gái nơi quê nhà. Không thấy ai vỗ tay khi mình xuống sáu câu, nên đến khi người đồng ban lên hát cô phải đứng vỗ tay, làm mẫu.
Ngay từ lúc những nhạc công rộn rã mang nhạc khí ra, tôi nhìn, thấy đã lòng rưng rưng rồi. Khi họ ngồi xếp hàng trước mặt tôi, thì thật sự, núm ruột xa ngàn dặm (của tôi) quặn thắt. Tôi thấy thương cho sự lạc lõng của họ ngay trong làng, trong xóm của họ. Trong số ba mươi lăm khách du lịch bằng thuyền máy trên sông Cửu Long ngày hôm đó, chỉ có một người rưỡi là Việt Nam (tôi nguyên và con gái tôi một phần hai Việt Nam,) phần còn lại, họ là Mỹ, Ðức, Úc, Thụy Sĩ.
Ban nhạc chơi đàn thật điệu nghệ. Tiếng đàn bầu thánh thót trước tiên, làm tôi nhớ câu:
“Ðàn bầu ai gảy thì nghe
Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu.”
Tiếng đàn đó quyến rũ đến thế nào mà ông bà ta ngày trước phải thốt lên như thế! Giờ đây, đang gảy lên để cho một mình tôi thưởng thức, tôi vừa thấy mình đặc biệt vừa ngậm ngùi thương cho người nhạc sĩ. Rồi tiếp theo là tất cả tiếng đàn cùng cất lên, tôi vừa nghe vừa chậm nước mắt. Những cái tai chung quanh tôi họ nghe như thế nào nhỉ? Không lẽ “Ðàn gảy tai trâu” là trường hợp này đây?
Ðất nước tôi bây giờ từ thành thị đến thôn quê đều sống nhờ vào du khách, nên linh hồn của người nằm ở phần đất trên kia, chắc cũng đã quen với những tiếng chân của du khách phương xa, họ có rộn ràng chờ đón du khách? Cũng như những nhạc công này, chắc họ đã quá quen với những lần gảy đàn và hát vọng cổ cho toàn người ngoại quốc, không biết một chút gì về cổ nhạc Việt Nam.
Tôi ngồi đây, tự cho mình có cái may được cả ban cổ nhạc trình diễn cho một riêng mình. Tôi đã qua thời con gái, nên tôi được phép nghe đàn bầu. Tôi còn được nhỏ giọt lệ cho riêng tôi và cho những giọt đàn thon thả đó.