• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Những câu chuyện gia đình

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Những câu chuyện gia đình

    Những câu chuyện gia đình

    1- Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà

    [ame="http://www.youtube.com/watch?v=OUAMQXxwSXE&translated=1"]YouTube- Roi Day ANh Se Dua Em Ve Nha - Duy Quang[/ame]



    - Tự coi mình là người bỏ xứ ra đi, tìm ngày về như tìm lại nguồn cội sau đằng đẵng mấy mươi năm chiêm nghiệm thân phận, nhạc sĩ Phạm Duy viết những câu hát da diết: Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà/ Nhà của đôi ta xinh xinh nhỏ bé/ Có vườn rau xanh ngát ngoại ô/ Có mùa mưa hay nắng mộng mơ/ Cây me già trong ngõ/ Hoa lá đổ về khuya/ Mùi hương lối xóm bay đi tràn trề… Đó là bài hát ông viết tặng vợ trước khi bà mất có một tháng, và cũng là tiếng lòng của ông, của bao người con xa xứ đau đáu ngày về với quê cha đất mẹ, Việt Nam.



    Nhạc sĩ Phạm Duy. Ảnh Trần Tiến Dũng

    Đó cũng là câu chuyện cuối cùng của ông với người vợ, ca sĩ Thái Hằng chị ruột của nhạc sĩ Phạm Đình Chương và ca sĩ Thái Thanh. Sống với một nhạc sĩ nổi tiếng… nhiều thứ như ông, bà không chỉ có tình yêu mà còn là cả một sự hy sinh cao cả. Cưới nhau từ năm 1949, sau đó bà sinh cho ông tám người con: năm trai ba gái, sống cùng ông đúng 50 năm và mất trước ông đến nay đã đúng 11 năm rồi (bà mất năm 1999). Trước khi qua đời, bà nói đùa với con: “Chuyện tình của bố mày mẹ biết hết nhưng mẹ không nói vì mẹ biết đó là những cảm xúc không thể thiếu được của người nghệ sĩ”.

    Sống bên người vợ cam chịu và bao dung, nhạc sĩ Phạm Duy hiểu được đó là giá trị vĩnh hằng của một người phụ nữ mà ông đã chọn làm vợ mình mà không phải ai cũng có được. Chính vì vậy, ông chưa bao giờ rời bỏ bà, cho dù chỉ là trong tâm tưởng. “Từ lúc bé, tôi đã thấy bố tôi là người lãng mạn nhưng lúc nào cũng ở bên vợ con”, ca sĩ Duy Quang, con trai cả của nhạc sĩ Phạm Duy kể.

    Một trong những điều mà đôi vợ chồng nhạc sĩ – ca sĩ này có thể chia sẻ được với nhau chính là tác phẩm. Và có lẽ, vì điều này mà nhạc sĩ Phạm Duy gắn bó với vợ mình, ngoài tình yêu thương còn là tri âm, tri kỷ. Tất cả những tác phẩm của ông, người đầu tiên được nghe và có thẩm thấu nhanh nhất chính là bà. Ngay từ những ngày đầu yêu bà, ông đã viết ra những bài tình ca bất hủ: Cành hoa trắng, Cây đàn bỏ quên, Chú Cuội. Khi ở Sài Gòn, những thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, không ai không biết những cặp đôi nhạc sĩ – ca sĩ nổi tiếng như Phạm Duy – Thái Hằng; Trịnh Công Sơn – Khánh Ly hay đôi tình nhân – tình ca Lê Uyên Phương…



    Gia đình nhạc sĩ Phạm Duy – ca sĩ Thái Hằng. Ảnh tư liệu gia đình

    Mãi đến khi bà sinh người con thứ năm, cô con gái Thái Hiền, lúc đó, bà Thái Hằng mới tự nguyện ở nhà, nghỉ hát để chăm con. Mặc dù lúc đó bà đang ở đỉnh cao danh vọng. Mãi hai năm sau bà nghỉ, cái tên Thái Thanh, cũng là em gái ruột mới thay thế vị trí của bà, trở thành ca sĩ được công chúng yêu thích và trân trọng nhất.

    Những ngày tháng yêu đương lãng mạn cũng qua đi. Những tháng sống trong trại tỵ nạn ở Mỹ, bà nghe theo lời ông, hát trở lại, và đôi vợ chồng Phạm Duy – Thái Hằng lại “tái xuất giang hồ”, trở thành một hiện tượng âm nhạc của bang California mà ông viết trong hồi ký: “Thời cuộc đã khiến gia đình tôi phải rời Việt Nam đi sống ở Hoa Kỳ trong 30 năm, trước hết bay từ Sài Gòn tới trại tạm trú Eglin và tạm sống với gia đình người bảo trợ ở Fort Walton Beach, Florida rồi rời đi định cư ở Midway City, California. Gia đình chúng tôi không làm nghề gì khác ngoài nghề ca diễn. Tôi vẫn không gia nhập bất cứ một tổ chức chính trị nào và tiếp tục viết nhạc và đi lưu diễn như trước. Tôi có cơ hội đi hát ở hầu hết các tiểu bang trên đất Hoa Kỳ như Texas 11 lần, Illinois 13 lần, New York 10 lần, Hoa Thịnh Đốn, Louisiana, Pennsylvania 6 lần. Tới Maine, Florida, Virginia, Massachusett, Maryland rồi tới những tiểu bang miền trung nước Mỹ từ Kansas tới Missouri, từ Wisconsin tới Georgia và những tiểu bang miền tây như Oregon, Washington…”



    Gia đình nhạc sĩ Phạm Duy – ca sĩ Thái Hằng. Ảnh tư liệu gia đình

    “Ở với nhau bao nhiêu năm nhưng chưa bao giờ tôi thấy bố mẹ tôi to tiếng. Mẹ tôi luôn là người yên lặng khi thấy bố có hơi gắt lên”, ca sĩ Duy Quang nhớ lại. Với anh, mẹ Thái Hằng là hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam thuỷ chung, nhẫn nhục, hy sinh. “Mẹ tôi thương tôi nhất, tôi nghĩ vậy vì trong nhà tôi là đứa con duy nhất được ngủ chung với mẹ đến năm 12 tuổi. Những ngày bên mẹ, bà dạy cho tôi đủ thứ. Từ đối nhân xử thế cho đến sự khiêm cung. Khi tôi trưởng thành, sau khi tặng mẹ món quà từ tiền lương đi hát tháng đầu tiên, mẹ dặn: “Con đã lớn, mẹ không ở bên con thường xuyên nữa, nhưng mẹ chỉ cần con nhớ muốn cho xã hội trân trọng mình, thì phải biết sống ngay thẳng, dù nghèo mấy cũng không bao giờ được xin xỏ ai bất cứ điều gì”.

    Tháng 2 năm 1999, bà phát bệnh ung thư phổi và mất sau đó tám tháng. Hơn 200 ngày chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, không ngày nào ông rời bà. Những ngày tháng cuối cùng bà oằn lên vì đau đớn, trái tim của ông tan vỡ, nước mắt cứ tự rơi, con cái thay nhau nắm lấy bàn tay nhỏ xíu chỉ con da bọc xương, lạnh ngắt. “Tôi chứng kiến căn bệnh cướp dần sự sống từng ngày của mẹ tôi, những ngày cuối mẹ đau lắm, mẹ thều thào: “Có ai đó bóp cổ mẹ, con ơi!”… vậy mà thật là kỳ diệu, đêm cuối mẹ mất, mẹ ra đi trong giấc ngủ an lành”, anh Quang kể, giọng run lên vì xúc động.

    Ngồi bên di ảnh của bà, ông và các con hát: “Rồi đây anh sẽ, đưa em về nhà…” Và theo dự tính, năm nay ông và các con sẽ đưa bà về Việt Nam, xây nấm mộ mới bên cạnh một căn huyệt nhỏ, tạm chờ ông. Dù sao thì đôi nghệ sĩ ấy rồi sẽ cũng đoàn tụ về quê nhà, dẫu trong hình hài nguyên vẹn hay chỉ là hương linh.
    Ngân Hà
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 09-02-2010, 11:23 PM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    2 -Người đàn bà ngoài song cửa

    Nhà thơ Hữu Loan có hai bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa simHoa lúa, cả hai bài đều dành tặng cho hai người đàn bà của đời ông. Người vợ đầu tiên, mất năm 16 tuổi, khi ông còn mải mê chinh chiến với tuổi trẻ tươi hồng. Cái chết của bà oan uổng, xót xa, thê thảm: chết đuối. Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương, đó là nỗi đau đớn không thể nào xoá, và cô dâu ấy có lẽ cũng “khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan” Đó cũng là lý do để ông viết câu cuối cùng “khóc vợ Đỗ Thị Ninh” như một sự đánh dấu “đây là người con gái của tôi và những lời này tôi chỉ dành cho nàng”. Ông đâu có ngờ những ngày tháng sau đó và cả cho đến giờ, tất cả những ai đọc bài thơ ấy đều rơi lệ. Người ta có thể không biết mình chết ra sao nhưng người ta biết rõ nỗi đau đớn khi người nắm giữ trái tim ta lìa đời.



    Nhà thơ Hữu Loan và vợ – bà Phạm Thị Nhu năm 2009

    Năm năm sau ông mới trở về quê hương, vẫn trong màu áo lính. Và sau đó ông gặp người con gái thứ hai, một thôn nữ quê mùa, chất phác nhưng lại yêu văn thơ, mê Kiều. Cô gái hàng ngày lấp ló ngoài khung cửa nghe ông giảng Kiều, ngâm Kiều ấy chính là bà Phạm Thị Nhu, người trở thành bạn đời ông cho đến nay.

    “Bà ấy ít nói, hay làm. Biết vợ khổ nhưng tôi cũng đâu có cách nào. Sống phải giữ lấy nhân cách, phải giữ được lòng tự trọng, tôi không bao giờ thoả hiệp với cái ác xấu và cũng không bao giờ bán rẻ lương tâm. Nếu tôi làm điều đó, chắc gì bà ấy còn ở với tôi đến giờ cho dù có thể tôi đã làm ông này bà nọ, hay được hưởng vinh hoa phú quý”, nhà thơ nói, giọng vẫn vang vang, đôi mắt sáng như rọi chiếu vào những tăm tối để đẩy lùi bóng đêm thăm thẳm những khổ nhục mà họ đã trải qua. “Bà ấy tuy chỉ là một người chân quê, nhưng sự nhẫn nhục, đức hy sinh thì ít ai sánh bằng. Khổ thế mà bà vẫn nuôi được mười đứa con cho tôi với đủ nghề buôn thúng bán bưng. Ai hỏi tôi sao sinh nhiều con thế, tôi bảo: “Sinh nhiều để chúng nó về phe mình chứ!”, ông vừa nói vừa cười.

    – Vậy sao ông lại viết cho bà thế này: Em gái quê si tình/ Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn...? – Vì lấy tôi là bà ấy khổ ngay. Vừa sinh con, vừa chăm chồng lại vừa chịu đựng những ngày chồng tù đày, oan khuất. Có ai khổ như bà ấy đâu? Đến khi tôi 90, bà ấy cũng gần 80 tuổi, con cái đã lấy chồng lấy vợ hết, mới bớt khổ thì còn sức đâu mà yêu đương nữa? Nói đến đây, ông lại cười, liếc mắt nhìn vợ. Nụ cười của ông không trọn vẹn như tình yêu của bà chưa bao giờ được trọn vẹn. Vậy mà bà vẫn cùng ông mấy mươi năm cuộc đời, không chút oán thán.

    “Các con của chúng tôi nếu không khổ quá, chắc cũng có đứa làm được thơ hay như ông ấy”, bà nói. Mười người con trai con gái của ông đều được học, nếu không đến trường thì ở nhà ông dạy. Tuy nhiên cũng vì quá nghèo, có thời gian một số người con phải ở nhà phụ cha mẹ, vì thế đúng là không ai có được môi trường giáo dục tốt như ông ngày xưa.

    Trong số những người con ấy, hiện có ba anh chị tương đối khá giả, sống ở Hà Nội, mỗi tháng vẫn gửi tiền về cho cha mẹ, các anh chị còn lại thì sống quanh đấy, cắt cử nhau mỗi tuần một gia đình ở cùng cha mẹ để lo cho cha già yếu không đi lại được. Người mẹ bị ngã gãy chân từ năm 2008, giờ đi lại được rồi nhưng không còn hoạt bát như trước. “Cách đây ba năm tôi vẫn còn bán bánh cuốn, bánh cuốn nhà tôi nổi tiếng vùng này, ai đến mà hỏi bánh cuốn nhà bà Tú Loan ai cũng biết. Loan là tên chồng tôi, tú là ông ấy đỗ tú tài, dân ở đây gọi ông ấy là ông Tú Loan. Có người đi hỏi con trai, đặt cho gia đình sui gia mười ký bánh cuốn để làm quen, sau này ông sui ấy sang tận làng Vân Hoàn tìm tôi để cảm ơn vì ăn bánh ngon quá, rồi đặt tiếp”. Bà lại quay sang nói chuyện các con, “Con dâu tôi bây giờ cũng thảo lắm, có gì ngon lại đem sang cho mẹ, nhưng mà nói thật vẫn không đảm đang như chúng tôi ngày xưa. Nhà cửa chúng nó có lúc tôi sang thăm, thấy bừa bộn lắm, phải xắn tay lên dọn. Nhắc mà chúng nó vẫn thế, có khi như thế mà khiến cho chồng nó mệt mỏi giảm sức lực lao động nên nhà cứ nghèo mãi, không khá lên được”.

    Bà suy luận tưởng đơn giản, nghe hài hước nhưng thực ra đúng là những gì bà đã trải qua, cùng chia sẻ với người chồng thơ với cuộc đời đầy những biến động bi kịch, khiến người ta nghĩ bà đã sống bằng mấy cuộc đời gộp lại, lao động bằng mấy người gộp lại và sức chịu đựng cũng bằng mấy người gộp lại mới có thể cùng ông đi suốt cuộc đời.

    bài và ảnh Hồ Trần
    ***

    Màu Tím Hoa Sim

    Hữu Loan

    Nàng có ba người anh đi bộ đội
    Những em nàng có em chưa biết nói
    Khi tóc nàng xanh xanh
    Tôi người vệ quốc quân xa gia đình
    Yêu nàng như tình yêu em gái
    Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới
    Tôi mặc đồ quân nhân đi giày đinh
    bết bùn đất hành quân
    Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo
    Tôi ở đơn vị về, cưới nhau xong là đi
    Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại
    Lấy đời chiến chinh mấy người đi trở lại
    Nhỡ khi mình không về
    thì thương người vợ bé bỏng chiều quê
    Nhưng không chết người trai khói lửa
    mà chết người gái nhỏ hậu phương

    Tôi về không gặp nàng.
    Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
    Chiếc bình hoa ngày cưới
    thành chiếc bình hương tàn lạnh vây quanh.
    Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi
    Em ơi giây phút cuối không được nghe nhau nói.
    Không được trông nhau một lần.
    Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím.
    Áo nàng màu tím hoa sim
    Ngày xưa đèn khuya bóng nhỏ.
    Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa!…
    Một chiều rừng mưa ba người anh
    từ chiến trường Đông Bắc
    biết tin em gái mất
    trước tin em lấy chồng.
    Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
    Đứa em nhỏ lớn lên ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
    Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí.

    Chiều hành quân qua những đồi hoa sim những đồi hoa sim
    Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.
    Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt
    Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa.
    “Áo anh sứt chỉ đường tà
    Vợ anh mất sớm
    Mẹ già chưa khâu …”
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 09-02-2010, 11:36 PM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      3 - Đâu chỉ có tình yêu

      Link


      Nhà văn Trang Thế Hy cùng vợ, con và cháu. Ảnh: tư liệu gia đình

      1 - Đạo diễn Trần Mỹ Hà có làm một phim tài liệu về nhà văn Trang Thế Hy. Phim đã chiếu trên tạp chí văn nghệ đài truyền hình TP.HCM. Đàng sau dáng gầy gò liêu xiêu của ông với bạn bè, chữ nghĩa, người không hạp với ống kính, cả chụp ảnh lẫn quay phim là hình bóng của người đàn bà từ thuở xuân xanh cho đến lúc mãn phần, chưa một bữa ăn nào tự gắp cho mình miếng ngon, chưa có một bộ quần áo lụa là. Bà ở phía xa, dù nhìn từ khung màn ảnh nhỏ, ngâm mình dưới con mương khi nước rong, dùng hai thanh cây đẩy hàng trăm trái dừa từ cuối vườn vào, vớt lên sân chuẩn bị bán. Từng đó dừa mỗi tháng, bà có được vài trăm ngàn đồng, lúc được giá, nhiều lắm là hơn triệu đồng cộng với số tiền lương hưu quá thấp của ông để lo bữa ăn cho ba người, trong đó, người cần bữa ăn tinh tế, đủ dinh dưỡng, hạp khẩu vị nhất là ông. Áo quần ướt sũng, suốt cuộc đời bà đã làm lụng như một người trụ cột trong gia đình. Mảnh vườn nhỏ, ngôi nhà nhỏ, nơi nhà văn Trang Thế Hy có để “đi chỗ khác chơi” từ cuối những năm tám mươi thế kỷ trước chủ yếu do bà tạo dựng. Hai đứa con trai vì chiến tranh đã mất khi còn quá nhỏ trên tay bà. Hai đứa con còn lại trưởng thành cũng một tay bà. Gian khổ có thừa của mấy mươi năm mà sống chết chỉ cách nhau một lằn ranh mong manh đủ làm điểm tựa, đủ tạo dựng cho một cuộc sống vợ chồng không bắt đầu từ tình yêu đôi lứa có một chất kết dính lạ kỳ để lướt qua những giông bão của thời gian và sự khắc nghiệt của đời sống thường nhật. “Đó là gì vậy?”, tôi hỏi. “Không thể diễn đạt bằng ngôn từ”, ông nói. Có thể lắm, như trong vần thơ ông dịch của thi hào Ấn Độ, R. Tagore, đoạn thứ XIV trong tập thơ Giỏ trái cây (bản tiếng Pháp của nữ dịch giả Pháp Hélène du Pasquier dịch từ tiếng Anh, nhà xuất bản Nouvelle revue francaise – Paris – 1921). “Em đã hứa với tôi rằng tất cả những gì tôi có được trên thế gian này phải đến từ tay em”.

      Ông đặt tựa cho đoạn thơ trên: Niềm tin và lời hứa. Những câu thơ đó, có phải ông dành riêng cho bà? Tôi tự hỏi và đoán chắc thế. Cho nên ánh sáng của em chiếu rọi đến tôi xuyên qua màn nước mắt của chính tôi/ Tôi do dự, sợ lạc mất em, sợ không đến kịp tại một khúc quanh nào đó, nơi em chờ tôi để dắt tôi đi.

      2 - Cách đây gần sáu năm, một buổi chiều thật buồn, vườn dừa nhỏ lặng im. Ngôi nhà nhỏ lặng im. Con rạch nhỏ ven đường vào nhà ông nước cũng lặng im như ngừng trôi. Không biết có phải chiều tím mà người ta thường gọi là tả những chiều buồn như thế này. Chúng tôi ghé nhà ông, thăm ông và thắp cho bà nén nhang. Con người mong manh liêu xiêu đó lặng im, sự im lặng trở thành sâu thẳm như dấu chân của nỗi đau – một câu thơ Tagore do ông dịch trong tác phẩm kể trên. Gương mặt khổ hạnh của ông như thêm nhiều nếp gấp, đôi mắt sâu hoắm, xa thẳm. Đoạn ông nói với chúng tôi: “Người ta nói giữa đường gãy gánh là bi kịch, là đớn đau, nhưng cuối đường đứt gánh mới thực sự là bi kịch khó có thể vượt qua. Không biết tao có thoát khỏi nỗi cô đơn này không”. Tôi bỗng nhớ, lâu lắm rồi, một lần tôi hỏi, thế nào là tình yêu? Ông đọc một câu thơ thay cho câu trả lời, khi đó tôi chưa hiểu trọn vẹn: Khi đã mất em rồi tôi mới nhìn rõ dung nhan, hình hài của em… Tình yêu đến sau, cái chất kết dính kia của ông với bà là vậy, là sự vĩnh cửu của thời gian.

      3 - Một chiều cuối đông năm nay, khi những cơn gió bấc xao động khu vườn dừa yên tĩnh kia, tôi có dịp ngồi với ông, đối diện một mình ông. Lần đầu tiên sau mấy mươi năm biết ông, tôi mới dám mở lời hỏi về bà. Trời se lạnh nhưng cái phòng khách mới xây nhỏ của ông ấm áp. Trên bàn thờ ở phòng bên, chân nhang trong chiếc lư nhỏ đã đầy, người – đàn – bà – của – ông trong chiếc áo bà ba màu xám bạc với đôi mắt to, thật buồn. Ông kể, khi bà đi xa tròn tháng, ông mới bước vào giường ngủ của ông bà. Ông hy vọng chiếc gối ôm có thể giúp ông nhẹ nhàng hơn trong giấc ngủ. Nhưng nửa đêm trở mình, chiếc gối ôm vô tri không bù đắp được sự thiếu vắng hơi ấm của bà. Ông ngồi dậy, bước ra, một mình trên chiếc võng. Ông sợ đêm dài. Một năm sau, nghĩ thời gian đủ làm vơi bớt nỗi cô đơn, ông lại vào chiếc giường quen thuộc. Nhưng ông đã lầm. Sự trống vắng tiếp tục xua ông, hành hạ ông cho đến tận bây giờ và có thể là mãi mãi. Ông không dám nhìn bất cứ vật dụng nào có dính dáng đến bà lúc sinh thời. Thật là vô lý khi ông la mắng, bắt người con gái dẹp chiếc đòn gánh nhỏ mà bà vẫn nặng nhọc trên vai treo trước cửa bước ra nhà bếp. La con xong ông cảm thấy hối hận, bởi đâu chỉ có chiếc đòn gánh ấy là kỷ vật, tất cả xung quanh khu vườn yên tĩnh này đều có dấu vết, hình bóng của bà. Bà thân thuộc với từng cây dừa, cây ổi, cây bưởi oằn trái trước sân nhà, bà nhổ từng ngọn cỏ cho vườn rau lên xanh đến tận ngày cuối, khi bà bất lực trước cuộc sống. Cũng có đôi lúc ông định trốn khỏi nơi này, xa lánh sự mất mát không bù đắp được, nhưng rồi định mệnh đã cột chặt, để một mình ông đối diện và lê bước qua nỗi buồn. Một nỗi buồn khắc khoải như thơ ông:


      Nhà văn Trang Thế Hy. Ảnh: Nguyễn Hồ

      Trên đoạn cuối của đường đời, khi những kỷ niệm tuổi thơ đã thụt lùi rất xa về phía bên kia đường biên của cõi nhớ, ông già gần đất xa trời vẫn còn gặp hoài trong mộng mị những cái vú cau lượm trong khay đựng trầu của bà nội ngày xưa. (Về một món đồ chơi của tuổi thơ nghèo – 1990).

      4 - Những dòng ghi chép thiếu thứ tự về hai con người có vẻ như của hai thế giới riêng biệt. Ông không có đời sống nào khác ngoài sống với văn chương và nhân thế. Tình yêu, sự say đắm ông đã dành trọn cho văn chương. Nhiều lúc dối lòng – tôi nghĩ vậy – ông cho mình là người tình chung thuỷ nhưng hờ hững của nó. Còn bà, một phụ nữ cam chịu và bao dung. Bà chưa bao giờ mở lời trách ông, cả những giây phút xao lòng ngoài chồng vợ, những điều vô lý, những cái nghèo triền miên của người chọn văn chương làm nghiệp dĩ. Văn chương chữ nghĩa dường như xa lạ với bà. Chưa một lần ngồi chung bàn với những bạn văn bạn thơ của ông, nhưng bà đã cùng ông, tận tuỵ bên ông. Bà luôn ở một góc khuất hoặc xa mờ sau hình ảnh của ông.

      Ông kể, người ta thường quan niệm bản lĩnh đàn ông là phải biết sống với một người vợ thuỷ chung và một người tình. Bản lĩnh đó của ông kém cỏi, ông không thể thu xếp ổn thoả, không giấu bà được điều gì. Ông tôn trọng nguyên tắc chỉ có một của bà. Tôi hỏi, có khi nào bà phiền lòng vì ông? Ông nói, chưa bao giờ. Ông tin, dù bị hôn mê sâu sau cơn đột quỵ nhưng bà mãn nguyện vì biết được giây phút cuối của đời mình, bà có ông bên cạnh. Còn ông, có lẽ đó là điều đau đớn nhất phải chứng kiến.
      Cuộc chia ly nào cũng để lại trong lòng một vết cắt sâu thẳm, rỉ máu. Ông dằn vặt vì chưa kịp và không bao giờ còn cơ hội nói lời xin lỗi với bà, dù chỉ một lần thôi về sự vô lý của ông.

      Tôi hiểu nỗi dằn vặt của ông, một người biết rõ hơn ai hết giá trị gia đình sau những thăng trầm, gian khổ, sau những biến cố mà nếu chỉ có tình yêu thì không thể vượt qua được. Với ông bà Trang Thế Hy, tình yêu không đến trước. Nó tồn tại vững bền cùng năm tháng ngoài toan tính của mỗi người.
      Minh Nguyễn
      Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 09-02-2010, 11:39 PM.
      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      • #4

        Chỉ cần như thế




        Thiên đường là có thật


        1 - Mười tám tuổi tôi sống một mình, đấy là một phòng trọ ven kênh Nhiêu Lộc. Đấy là căn phòng tám mét vuông sàn gỗ, vách gỗ tạp ngay trên dòng kênh với lối vào trên những chiếc cầu ván gỗ ngoằn ngoèo, xiêu vẹo. Đấy là chỗ sống và đi học, quanh năm mùi bùn hôi hám nhưng nhiều đứa bạn thường ghé năn nỉ: “Tao giận ông bà già, tao đi bụi cho ông bả biết mặt, mày cho tao ở luôn đây nhá. Tao khoái được tự do như mày, ở nhà ổng bả la hoài tao chịu hết nổi, ở đây ổng bả khỏi tìm ra...” Tôi cười ra điều kiện: “Chỉ nuôi mày một tuần, sau đó thì biến đi dùm, tao nghèo sặc máu mũi, tiền học hàng tháng còn có khi không có, không nuôi nổi mày quá một tuần đâu đấy! Nhưng thường chưa cần đến một tuần, gạo hết, những thằng bạn nhịn đói không xong lại thu xếp quần áo: Thôi tao phải về đây, tao không chịu đói như mày được… Thế là lại đâu vào đấy, tôi tiếp tục “tự do” một mình như cũ. Đưa bạn ra đầu hẻm ngõ của cái xóm ổ chuột trên dòng kênh đen, tôi vỗ vai nghiêm chỉnh nói: “Về đi! Mày có một mái gia đình, có bố mẹ bên cạnh lo cho ăn học, tao có ai đâu, thèm như mày có được đâu. Thôi về đi…”

        Ngày tết, khi dãy phòng trọ nghèo nàn vắng vẻ bởi dẫu gì cũng có người có quê để về. Đêm giao thừa tôi kéo chiếc thùng gỗ thường kê làm bàn học, bây giờ làm ghế, nhìn qua mặt kênh đen phía những ngôi nhà có ánh đèn ấm áp. Giao thừa có ai ngủ bao giờ. Mùi hương khói đêm ba mươi ấm áp vô cùng.

        Tôi vẫn chỉ một mình, tôi không về bởi mẹ tôi cũng đang nương nhờ nhà cửa những người họ hàng xa, về chỉ thương mẹ tủi thân hay chính mình tủi thân không rõ nữa. Nhiều cái tết đi qua như tuổi trẻ tôi đang đi qua. Hình như tôi không có tuổi mười tám… gia đình – chỉ những ai không có nó mới da diết thèm khát nó.

        Nửa năm sau ngày hoà bình tôi đi tìm và đưa mẹ cùng hai đứa em về căn phòng ấy. Bây giờ nó không còn là căn phòng trọ nữa. Nó đã thực sự thành một mái gia đình dù cũng vẫn như cũ, vẫn chỉ tám mét vuông…

        2 - Cô gái ấy xinh đẹp nhưng cái nhìn ban đầu của tôi không chút gì rung động. Gã làm thơ mơ mộng học, đọc sách triết, nghe nhạc Trịnh Công Sơn, xem tranh trừu tượng đã có sẵn trong đầu mình một nàng vai nhỏ tóc dài, gương mặt khói sương mảnh mai vóc hạc. Cô gái này không như thế, cô quá cụ thể dù gương mặt cô ngộ nghĩnh. Quen biết, đến thăm nhà biết cô có một bà mẹ già bệnh tật vì tham gia kháng chiến bị tù đày nhiều năm. Cô làm công nhân thợ nhà in nuôi mẹ, cái công việc lẽ ra không dành cho cô con gái út, nhưng thời hậu chiến ngổn ngang, ai cũng như ai, ai cũng nghèo bằng nhau, gia đình nào cũng vất vả như nhau. Những bữa cơm đầy bông cỏ, những bữa độn khoai sắn. Ngôi nhà nhỏ ấy vẫn còn gặp tiếng cười.

        Tôi đã xấp xỉ 30 tuổi, cô gái ấy kém tôi ba tuổi. Mẹ có lần hỏi sao chưa lấy vợ? Tôi cười: “Khi nào mẹ mất…” Mẹ lại cười buồn: “Tao mất thì cưới vợ cho mẹ thấy làm gì chứ?” Rồi một tối khi đến thăm, tôi bắt gặp cô ngồi sụt sùi trong bóng tối trước sân nhà. Hỏi mãi mới nghe câu chuyện kể: “Em tệ quá! Lo đi làm suốt ngày không chăm sóc má, chiều nay chải tóc cho má thấy đầu má toàn chấy rận... em tệ lắm!” Cô nức nở không thôi, tôi ôm lấy vai cô.

        Trong khoảnh khắc, tôi biết lòng hiếu thảo ấy có thật hơn mọi thứ hư ảo của tranh, của nhạc của một chân dung trong tưởng tượng. Trước khi đi đến một quyết định quan trọng cho đời mình, tôi đưa cô về nhà, xóm nước đen và căn nhà tám mét vuông nơi gia đình tôi đang sống. Tôi thật lòng không muốn nói dối và nếu cô lắc đầu từ chối tôi sẽ lại thôi không nghĩ gì thêm nữa cho cuộc đời mình. Nhưng cô gái đã gật đầu. Cái gật đầu rất nhẹ nhàng nhưng quyết liệt như một lời không đổi. Tình yêu của tôi khởi đầu không bằng nhạc, không bằng tranh, không hoa hồng ánh nến, không quán xá trữ tình. Nó khởi đầu chính từ lòng hiếu thảo của người con gái ấy. Cô chính là vợ tôi.

        3 - Có khi nào ta tự hỏi thiên đường có thật không?

        Tuổi hai mươi tôi cũng từng hỏi như thế? Hỏi và mơ mộng. Mơ mộng và tưởng tượng. Tuổi trẻ không mơ mộng ta khó sống qua những ngày cơ cực, qua những biến động hay khốc liệt của cuộc đời. Nghị lực không thôi chưa đủ. Nghị lực giúp ta đến mục đích nhưng mơ mộng cộng thêm sẽ giúp ta vớt được những vì sao rơi xuống tận đáy bùn của dòng kênh đen hôi hám…

        Bây giờ, tôi biết rõ dù chỉ là quan niệm sống của riêng mình: Nếu có một gia đình nơi để tìm về những khi mỏi mệt, nơi có đủ lòng bao dung, chia sẻ, tha thứ và yêu thương, ta đã có một thiên đường.


        ĐỖ


        %%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%



        Nov 8, '09 10:38 AM
        for everyone




        sòng phẳng: mượn nợ anh trịnh công
        tặng vợ ngày đi lấy chồng

        hai mươi (lăm) năm
        xin trả nợ người
        trả nợ một nàng đã lấy phải tôi
        hai mươi (lăm) năm vơi cạn lại đầy
        tưởng là đầy tiền
        té ra đầy chai…
        hai mươi (lăm) năm khất nợ lần này
        nợ thuở quá nghèo (vẫn) không lấy thằng tây
        hai mươi (lăm) năm vướng phải thằng này
        chẳng biết ngày nào em mới gặp may
        hai mươi (lăm) năm tiên nữ bị đày
        đời nàng như diều đứt hết cả dây…
        hai mươi (lăm) năm xin trả nợ dài
        trả nợ bờ kè,trả nợ cái chai
        hai (mươi) lăm năm thức trắng mặt mày
        mở cửa chồng về tê hết cả tay…
        hai mươi (lăm) năm xin nợ dài dài
        trả nợ một lần toi hết đời Mai…

        11.11.1984 - 11.11.2009
        Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 10-02-2010, 07:09 PM.
        ----------------------------

        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

        Comment

        Working...
        X
        Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom