Từ đây người biết quê người
Thứ ba, 16/02/2010 | 08:07GMT+7
Năm 1956, tôi học tiểu học ở Hội An, một thằng bạn khoe mẹ nó nấu mì Quảng với thịt gà ngon ghê. Tôi nói: “Má tao nấu mì Quảng ngon hơn vì có thêm miếng chả lụa”. Nó nói: “Má mi dân Bắc kỳ mần răng nấu mì Quảng ngon được”.
Tôi về nhà hỏi ba: “Sao bạn con nói mình là dân Bắc kỳ hả ba?”. Ba tôi giải thích: “Ba má sinh ở Nam Định nên nguyên quán của con ở Nam Định, miền Bắc. Còn Hội An miền Trung là trú quán”. Tôi hỏi: “Sao ba không dẫn con về thăm “nguyên quán”?”. Ba tôi nói: “Khi nào đất nước thống nhất, ba sẽ dẫn con về thăm cố hương, gặp ông bà nội”. Và tôi chờ đợi...

Năm 1972, tôi dạy học ở Phan Rí, giảng bài thơ Tĩnh dạ tư của Lý Bạch: Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương. (Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương). Thú thật, tôi vẫn chưa cảm được mấy từ “nhớ cố hương”. Bởi Nam Định chưa có kỷ niệm gì đối với tôi. Tôi chỉ thấy nhớ những nơi trú quán: Hội An nơi tôi đã sống tuổi thơ êm đềm. Đà Nẵng với mối tình đầu thời trung học. Sài Gòn với những bữa nhậu cùng bạn bè văn nghệ. Tôi tìm hiểu cố hương Nam Định qua sách báo và cảm phục nhà thơ Tú Xương với giọng thơ trào phúng:
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mắt thời thao láo mặt thời xanh...
Mắt thời thao láo mặt thời xanh...
Một nhà thơ đã dám đem mình ra bỡn cợt thì có bỡn cợt thiên hạ cũng không ai trách được. Noi gương nhà thơ, khi viết văn, tôi cũng đem mình ra bỡn cợt đầu tiên. Tôi tự nhủ khi nào về Nam Định, phải đến thắp hương mộ nhà thơ Tú Xương dù cho :
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai...
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai...
Năm 1975, đất nước thống nhất, chú tôi vào thăm gia đình tôi ở Sài Gòn. Ba má tôi hỏi thăm chú đủ thứ chuyện ở cố hương. Tôi chỉ biết im lặng lắng nghe vì không biết hỏi thăm điều gì. Chú cho biết ngôi nhà ông nội tôi bán thuốc bắc ở phố Năng Tĩnh đã bị bom Mỹ san bằng. Cả phố đi sơ tán về mới xây dựng lại nhà cửa trên nền cũ. Khi đó, tôi lẩm nhẩm mấy câu thơ:
Cố hương đã thay đổi
Mất cả dấu nhà xưa
Khi về thăm chốn mới
Tình cũ mang theo thừa ?
Mất cả dấu nhà xưa
Khi về thăm chốn mới
Tình cũ mang theo thừa ?
Mãi đến Tết năm 1980, tôi mới có dịp về thăm cố hương. Bà nội tôi đã ôm chầm lấy tôi, đứa cháu đích tôn lần đầu tiên bà gặp mặt và cả hai cùng khóc. Chú tôi dẫn tôi đi thắp hương mộ ông bà cố, ông nội ở cánh đồng sũng nước. Rồi chú dẫn tôi đi chúc Tết họ hàng. Mọi người kể chuyện ngày xưa bố mẹ tôi cưới nhau và cười vang. Chú còn dẫn tôi đi cầu tài lộc ở Đền Trần, thắp hương trước mộ nhà thơ Tú Xương theo ước nguyện của tôi.
Con chú tôi dẫn tôi đi ăn phở gốc Nam Định, tôi thấy phở ở đây có hương vị khác hẳn phở Sài Gòn. (Sau này ra Hà Nội, tôi cũng thấy mấy quán phở lấy thương hiệu Phở Nam Định). Rồi ăn bánh đa cá rô, những con cá rô đồng đã lóc xương, rán lên, rắc trên bát canh bánh đa nấu với cải cúc, thật ngon miệng.
Nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, quê Nam Định, đã làm hai câu thơ trở thành ca dao:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Hai câu thơ có tính khái quát cao về quê hương miền Bắc nhưng chưa nói được món ngon của Nam Định, nên tôi xin phép cụ thêm hai món đặc sản:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ phở Nam Định, bánh đa rô đồng.
Nhớ phở Nam Định, bánh đa rô đồng.
Sau này, tôi còn nhiều dịp về thăm Nam Định nhưng cái Tết đầu tiên ở cố hương khiến tôi nhớ mãi. Nhờ cái Tết đó tôi mới hiểu ca từ trong ca khúc Mùa Xuân đầu tiên của nhạc sĩ Văn Cao thật sâu sắc:
Từ đây người biết quê người,
từ đây người biết thương người...
từ đây người biết thương người...
ĐOÀN THẠCH BIỀN