• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Đón Tết Việt Nam, thắp nến cho Tây Tạng

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Đón Tết Việt Nam, thắp nến cho Tây Tạng

    Đón Tết Việt Nam, thắp nến cho Tây Tạng

    Hoàng Ngọc Tuấn


    Gửi Tashi Sonam.

    Đêm giao thừa, trong lúc đang nhận, đọc và gửi điện thư chúc Tết đến bạn bè gần xa, tôi thấy giữa hàng chục điện thư tiếng Việt có một điện thư tiếng Anh của Tashi Sonam, một người bạn Tây Tạng ở Sydney. Tôi giở ra đọc. Xin tạm dịch nội dung bức điện thư như sau:

    Hoàng Ngọc-Tuấn thân mến,

    Hoan hỷ báo tin cho anh biết rằng năm nay người Tây Tạng khắp nơi trên thế giới đã quyết định mừng đón lễ Losar. Đây là lễ lớn đầu năm, giống như lễ mừng Năm Mới của người Việt Nam. Năm ngoái, đa số người Tây Tạng đã quyết định không mừng đón lễ Losar vì suốt năm 2008 đất nước và nhân dân Tây Tạng đã trải qua bao nhiêu tang tóc dưới bàn tay sắt của Trung Quốc xâm lược. Thay vì mừng đón lễ Losar, đầu năm 2009 chúng tôi đã giữ im lặng và cầu nguyện.

    Năm nay, một số người Tây Tạng đã nêu lên ý tưởng rằng lễ Losar là một lễ quan trọng trong truyền thống văn hoá Tây Tạng, vì thế nhân dân Tây Tạng nên mừng đón lễ Losar để khẳng định sự hiện hữu mạnh mẽ của con người và văn hoá Tây Tạng, bất chấp sự đàn áp và tàn phá của Trung Quốc xâm lược.

    Ý tưởng tích cực này được nhiều người Tây Tạng trên khắp thế giới hưởng ứng và đồng tình. Tôi hoan hỷ báo tin này để chia sẻ với anh và tất cả bạn bè, những người đã ủng hộ cho cuộc đấu tranh của chúng tôi suốt nhiều năm qua.

    Tôi kèm theo đây một thông báo của Tenzin Dorjee (trưởng nhiệm của tổ chức Students for a Free Tibet [Sinh viên đấu tranh cho một nước Tây Tạng Tự do]), và Lhadon Tethong (trưởng nhiệm của Tibet Action Institute [Học viện Hành động Tây Tạng]), và một bài thơ mới của thi sĩ Bhuchung D. Sonam.

    Thân mời anh cùng gia đình và bè bạn đến tham dự lễ mừng Losar tại trung tâm Karma Samten Choeling, 45 Veron Street, Wentworthville, NSW 2145, lúc 10 giờ sáng ngày 14 tháng Hai 2010. Ở đó chúng ta sẽ cầu nguyện cùng Bạch Y Bồ Tát Tara, và chúng ta sẽ dâng tặng ánh sáng cho nhau.

    Chiều ngày 20 tháng Hai, 2010, từ 5 giờ 30, chúng ta cũng sẽ có một cuộc liên hoan Losar do ba cộng đồng Tây Tạng Sherpa, Yolmo và Tamang hợp tác tổ chức tại Herbet Greedy Hall, 79 Petersham Street, Marrickville, NSW 2204. Đây có lẽ là lần đầu tiên cả ba cộng đồng chung vui lễ Losar và nhất định sẽ là một sự kiện đầy ý nghĩa.

    Chúng ta hãy cùng đến với nhau để chia sẻ niềm vui chung và góp sức cho nhau.

    Với metta,

    Tashi Sonam

    *

    Trong tiếng Tây Tạng, “metta” là sự tốt lành, bao gồm cả tình thương và niềm hy vọng.
    Tết năm 2007, vì cảm hứng từ bài thơ “Lời cầu chúc đầu năm cho thanh niên Tây Tạng lưu vong” của Palden Gyal, do Tashi Sonam gửi tặng, tôi đã viết bài “Tashi Deleg! Lời chúc tụng đầu năm, một bài viết đầy lạc quan. Nhưng từ năm 2008 đến nay, quá nhiều biến cố tang tóc đã xảy ra cho người Tây Tạng. Thỉnh thoảng, gặp Tashi Sonam, tôi vẫn thấy trên khuôn mặt anh một nụ cười hiền hoà, nhưng tôi cảm nhận sau nụ cười ấy là một nỗi buồn to lớn.
    Đêm giao thừa năm nay, nhận được bức điện thư đầy lạc quan của Tashi Sonam, tôi vui vô cùng. Gần suốt đêm giao thừa, tôi thức, uống cà-phê và mở CD để lắng nghe nhiều bản nhạc sáo tuyệt vời của Tenzing Tsewang, người bạn nhạc sĩ Tây Tạng tài hoa. Trong khi nghe nhạc, tôi đã dịch bản thông báo của Tenzin Dorjee và Lhadon Tethong cùng bài thơ mới của thi sĩ Bhuchung D. Sonam dưới đây:

    Losar 2010: Vì tôi là người Tây Tạng

    Mến chào các thân hữu và ủng hộ viên của Tây Tạng,

    Người Tây Tạng sẽ mừng lễ Losar — Tết của Tây Tạng — vào ngày 14 tháng Hai, 2010. Trong âm lịch của Tây Tạng, ngày này đánh dấu sự khởi đầu của Năm Canh Dần 2137, một thời điểm cho sự thay đổi, hy vọng, và cách tân. Vào ngày này, chúng ta xiển dương lịch sử của chúng ta, tôn giáo của chúng ta, và tương lai của chúng ta — bởi vì lịch sử của chúng ta thì vĩ đại, văn hoá của chúng ta thì đẹp đẽ, tôn giáo của chúng ta thì uyên thâm, và — mặc dù chúng ta đang chịu đựng thống khổ — tương lai của chúng ta vẫn sáng ngời.

    Từ năm 2008, sau cuộc nổi dậy của người Tây Tạng ở cả ba miền đất lịch sử của Tây Tạng, chúng ta đã chứng kiến càng ngày càng nhiều đồng bào nam nữ của chúng ta bị giam cầm, tra tấn và sát hại dưới sự cai trị của Trung Quốc. Vì thế, năm ngoái, người Tây Tạng đã nhất tâm với nhau trên toàn thế giới và quyết định không đón mừng lễ Losar.

    Năm nay, nhiều người Tây Tạng sửa soạn đón mừng lễ Losar chỉ vì lý do duy nhất: chúng ta là người Tây Tạng. Chúng ta sẽ nói tiếng Tây Tạng, mặc y phục Tây Tạng, và thực hiện các phong tục Tây Tạng, để làm tăng sức mạnh cho căn tính của chúng ta và thần trí của chúng ta. Qua sự thực hiện này chúng ta sẽ tìm thấy sự dũng cảm và những cơ hội mới để tiếp tục đấu tranh. Mừng lễ Losar với gia đình và bè bạn, người Tây Tạng sẽ đón nhận niềm hân hoan, cũng nhiều như niềm thống khổ, mà niềm hân hoan ấy là một phần không thể tách rời trong tổng thể của phong trào giành lại tự do.

    Trong suốt những năm xâm chiếm đất nước chúng ta, có một điều hiển nhiên: kẻ đàn áp cảm thấy ghen tức với thần trí của người Tây Tạng, một thần trí mà bạo lực không thể nào nghiền nát. Năm nay người Tây Tạng trên toàn thế giới sẽ bồi dưỡng cho thần trí này qua sự đón mừng lễ Losar.

    Trong khi thực hiện nghi thức văn hoá cổ truyền quan trọng này, người Tây Tạng và các ủng hộ viên hãy thắp đèn dầu và bạch lạp trên bàn thờ và trên những thành cửa sổ vào ngày 14 tháng Hai để vinh danh lòng dũng cảm của nhân dân Tây Tạng ở đất nước Tây Tạng đang tiếp tục phản kháng sự xâm chiếm bất hợp pháp của chính phủ Trung Quốc trên quê hương mình.

    Tây Tạng sẽ được tự do.

    Với niềm hy vọng.
    Tenzin Dorjee và Lhadon Tethong

    Và đây là bài thơ mới của thi sĩ Tây Tạng Bhuchung D. Sonam:

    Losar

    Chúng ta nên ăn mừng lễ Losar
    Một vài người nói...
    Để mở ra một trang sử mới
    Hãy làm người Tây Tạng
    Mặc y phục Tây Tạng
    Ăn uống Tây Tạng
    Nói tiếng Tây Tạng
    Để ngẩng cao đầu
    Bước trên một con đường mới, ý thức về quá khứ.

    Chúng ta không nên ăn mừng lễ Losar
    Những người khác nói...
    Để biểu lộ lòng tôn kính đối với những người đã chết và những người bị giam cầm
    Hãy làm người Tây Tạng
    Tụng chú mani
    Cầu nguyện cho tất cả
    Lần tràng hạt
    Hãy nhớ rằng
    Các anh các chị của chúng ta đang chịu nhục hình.

    Ăn mừng hay không ăn mừng
    Yếu tính là ở sự khác nhau về ý nghĩa.

    Lễ Losar là một cách tốt đẹp
    Để biểu lộ chính chúng ta như một dân tộc
    Vì đó là ngày lễ của Tây Tạng
    Không chỉ để vui chơi...
    Nhưng để khẳng định -
    Tôi là một người Tây Tạng
    Tôi yêu Tây Tạng.
    Tôi sống dưới ách xâm lược
    Nhưng tôi không chịu đầu hàng.
    Tôi có một nền văn hoá
    Gọi là Tây Tạng
    Tôi có tên
    Gọi là Tây Tạng
    Tôi có một tương lai
    Gọi là Tây Tạng

    Tôi là một người Tây Tạng
    Tôi cần một trang sử mới.

    *

    Sáng sớm Mồng Một Tết (ngày 14 tháng Hai, 2010) tôi gọi điện thoại để chúc mừng Tashi Sonam. Tôi nói: “Tashi Deleg! Tashi Deleg! Tashi Deleg!” Và Tashi Sonam reo lên: “Chuc mung nam moi!” Rồi chúng tôi cười vui. Tôi nói tôi không thể đến trung tâm Karma Samten Choeling vào sáng nay vì tôi đã có kế hoạch đưa cả gia đình đi lễ chùa, nhưng tôi sẽ đến dự cuộc liên hoan Losar tại Marrickville chiều ngày 20 tháng Hai. Tôi nói với Tashi Sonam: “Tôi đã thắp nến trên bàn thờ Phật vì đó cũng là phong tục của một Phật tử Việt Nam trong ngày đầu năm, nhưng đêm nay tôi sẽ thắp nến trên thành cửa sổ để góp ánh sáng với người Tây Tạng.” Tashi Sonam rất vui mừng khi nghe điều ấy.

    *

    Đêm nay, đêm Mồng Một Tết, tôi đã thắp nến trên những thành cửa sổ của nhà tôi. Ánh sáng lung linh từ những ngọn bạch lạp toả ra khu vườn, xuyên qua màn mưa lấp lánh. Tôi đứng ngắm ánh nến rất lâu, tưởng tượng đến những ngọn núi tuyết ở Tây Tạng, và tôi hình dung những giọt máu đỏ thắm rơi lên tuyết trắng.
    Tôi thầm đọc “Om mani padme hum... Om mani padme hum... Om mani padme hum...” và tôi thấy nước mắt tôi ứa ra, nhưng trong lòng tôi có một niềm hy vọng.




    Thắp nến trên bàn thờ Phật
    (bức tượng Thích Ca là tác phẩm của cố điêu khắc gia Lê Thành Nhơn)



    Những ngọn nến trên thành cửa sổ đêm Mồng Một Tết


    Đêm Mồng Một Tết Canh Dần, 2010.



    ----------------
    Bấm vào đây để đọc tất cả những tác phẩm của Hoàng Ngọc Tuấn đã đăng trên Tiền Vệ ( tặng MMĐ đấy ! )
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 25-02-2010, 12:00 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    Now or Never: Free Tibet


    [ame="http://www.youtube.com/watch?v=UG20Bnc2fWs&feature=related"]YouTube- Now or Never: Free Tibet[/ame]


    Còn cần một lời bình luận nào?
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      Tashi Deleg! Lời chúc tụng đầu năm


      Cảm ơn Tashi Sonam và Tenzing Tsewang

      1.

      Sáng cuối năm, thức giấc bên bờ biển White Sand, tôi nghe tiếng sóng vỗ nhè nhẹ vào bãi cát. Mặt trời chưa lên. Ngôi sao Mai còn nhấp nháy yếu ớt trong không gian xanh thẳm. Tôi nằm im nhìn lên bầu trời, lắng nghe tiếng sóng biển và tưởng tượng từng giọt nước vỡ trên cát. Đến khi tiếng sóng như đã hoà vào tôi làm một, tôi chợt nghe tiếng sáo trúc vẳng đến từ một nơi nào đó. Có lẽ từ ký ức tôi. Tiếng sáo của Tenzing Tsewang. "Ừ, hôm nay chúng ta không có bài kệ nào!" ("Yes, We Have No Mantras Today"), một khúc nhạc lạ thường mà Tenzing đã ứng tác khi đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi theo dòng sông Hawkesbury. Hôm ấy, Peter Clarke đã thu âm được khúc nhạc này. Trong đó, ta có thể nghe cả những tiếng chim từ rừng cây hai bên bờ sông và tiếng phi cơ xa xa trên bầu trời. Tiếng sáo của Tenzing dội vào những sườn đồi, vách đá, mặt sông, tạo nên một đồng vọng huyền bí. Cảm ơn Tenzing. Sáng sớm cuối năm bên bờ biển êm ả, tôi nằm im, nhắm mắt lại, để mình trôi vào âm quyển đó. Một bài thơ vô ngôn của thiên nhiên.

      2.

      Tôi gặp Tenzing Tsewang lần đầu tại Belvoir Street Theatre vào năm 1996, trong một cuộc hoà nhạc do Australian Institute of Eastern Music tổ chức. Hôm đó, anh thổi sáo Tây Tạng, và tôi chơi những bản dân ca Việt Nam trên cây đàn guitar. Đêm ấy còn có Ashok Roy chơi nhạc Ấn Độ trên đàn sitar, Satsuki Odamura chơi nhạc Nhật Bản trên cây đàn koto, Sabahattin Akdagcik chơi nhạc Thổ Nhĩ Kỳ trên cây đàn baglama... Nhưng dòng nhạc Tây Tạng đã để lại trong tôi những ấn tượng sâu xa nhất. Tenzing thổi những bài sáo cổ truyền mang âm hưởng Mật Tông huyền bí. Tiếng sáo của anh đem người nghe vào một thế giới khác, trên những đỉnh núi cao tuyết phủ, nơi con người và thiên nhiên là một. Thế giới ấy giờ đây tuyết đã vấy máu...

      3.

      Sau cuộc hoà nhạc, tôi đến chào Tenzing và những người bạn của anh. Chúng tôi ra ngồi uống bia trước thềm rạp hát. Một thanh niên Tây Tạng trong nhóm ấy hỏi tôi: "Có phải anh là một trong những thuyền nhân (boat people) từ Việt Nam không?" Tôi nói "phải." Anh xưng tên là Tashi Sonam, và anh nói "chúng ta đồng hội đồng thuyền (we share the same boat), dù người Việt Nam đã vượt biển và người Tây Tạng đã vượt núi." Rồi anh cho tôi biết có một nhà thơ Tây Tạng tên là Norbu Zangpo đã viết một bài thơ cho thuyền nhân Việt Nam. Tôi hỏi: "Tashi còn nhớ bài thơ ấy không?" Anh nói: "Tôi không nhớ rõ, nhưng tôi sẽ gửi cho anh."

      4.

      Vài hôm sau, tôi nhận được một bức thư của Tashi, trong đó anh chép lại bài thơ "To Boat People" của Norbu Zangpo. Anh cho biết rằng hầu hết những nhà thơ Tây Tạng lưu vong hôm nay đều viết bằng tiếng Anh vì đó là thứ tiếng giúp họ gửi các thông điệp đến với mọi người trên thế giới. Đây là nguyên văn của bài thơ:


      To Boat People

      Oh, you brave people
      I greet you in exile!
      You like me become
      An orphan of this world.

      And like me, you will never ever
      Know what lies ahead now.
      But you must be patient
      While we remain exiled.

      Now that the worst is over
      You must learn once again
      To smile at the rising sun:
      And to start all over, again.

      Tôi xin tạm dịch:

      Cho các thuyền nhân

      Hỡi các bạn, những con người dũng cảm
      Tôi chào mừng các bạn vào cuộc lưu vong!
      Cũng như tôi, các bạn trở thành
      Trẻ mồ côi của thế giới này.

      Và cũng như tôi, các bạn sẽ không bao giờ
      Biết điều gì đang chờ phía trước.
      Nhưng các bạn còn phải kiên nhẫn
      Ngày nào chúng ta còn ở chốn lưu đày.

      Giờ đây những điều kinh khủng nhất đã qua
      Các bạn phải học lại một lần nữa
      Để biết mỉm cười trong ánh bình minh:
      Và một lần nữa, khởi sự lại từ đầu.

      5.

      Từ đó, Tashi Sonam và tôi thỉnh thoảng trao đổi thư từ với nhau. Qua anh, tôi được biết một số điều thú vị về thi ca Tây Tạng.
      Ngày xưa, thi ca Tây Tạng không tách rời khỏi tôn giáo, mà tôn giáo và đời sống ở Tây Tạng là một. Thi ca được xem như là một thứ "khoa học" sử dụng chữ để truyền đạt sự kiến ngộ. Tashi nói "ở Tây Tạng, thơ hiện diện khắp mọi nơi — mỗi giọt sương là một bài thơ, và mỗi chiếc lá, mỗi bông hoa là một pho sử thi — vì người Tây Tạng chiêm nghiệm về từng sự vật và tri ân từng sự vật trong đời sống hàng ngày." Sự chiêm nghiệm và tri ân ấy chính là thơ. Người ta có thể chiêm nghiệm và tri ân bằng cách đọc lên một bài mantra, hoặc im lặng thốt lên từ tư tưởng một tiếng OM vô ngôn.
      Thơ thế tục là một hiện tượng mới trong đời sống của người Tây Tạng. Dường như thơ thế tục chỉ xuất hiện từ thế hệ lưu vong thứ nhất, để đáp ứng nhu cầu truyền đạt kinh nghiệm sống tha hương và trao đổi tư tưởng. Trong hơn nửa thế kỷ qua, chỉ có vài tuyển tập thơ Tây Tạng đương đại, rất mỏng, và trong những cuốn ấy, hầu như những đề tài chính là tâm trạng lưu vong, niềm hoài hương, và giấc mơ được trở về cố quốc — miền đất Phật.

      6.

      Tashi gửi cho tôi rất nhiều bài thơ của nhiều thi sĩ Tây Tạng lưu vong, nhưng tôi không tìm thấy một dấu hiệu rõ rệt nào của ảnh hưởng thi pháp Âu-Tây đương đại. Có lẽ truyền thống thi ca tôn giáo từ ngàn xưa vẫn còn tiềm tàng mạnh mẽ trong thế hệ thi sĩ Tây Tạng lưu vong hôm nay. Thơ của họ đơn giản, rõ ràng như lời nói thường ngày, và hầu như luôn luôn hàm chứa một thông điệp tâm linh.

      Tất nhiên, cái thi pháp bộc trực ấy đôi khi có thể chuyên chở những tứ thơ đẹp, bám dính vào ký ức người đọc. Chẳng hạn, trong bài thơ "In This Life I Saw" của Kathup Tsering có những câu:

      một người
      cụt hết tay chân
      nằm trên mặt đất
      một con ngựa mất đầu
      lông dựng lên
      vì sợ gió

      Hay trong bài "A Room without a Door" của Bhuchung D. Sonam:

      Khung cửa sổ của tôi nhỏ
      quá nhỏ để mời
      Những ngọn gió vi vu
      Nhưng bụi
      Như những con ma chen chúc chui vào
      Đóng thành một lớp mỏng
      Trên đó tôi viết -
      Làm sao bạn vào xem được?

      Tôi ở trong một căn phòng
      Không có lối ra vào.

      7.

      Tôi hỏi Tashi phải chăng các nhà thơ Tây Tạng không quan tâm đến những phát triển của thi ca thế giới đương đại. Tashi nói: "Họ biết, nhưng không thật sự quan tâm, vì họ giành hết tâm trí cho sự sống còn của đất nước và văn hoá Tây Tạng. Có lẽ, một ngày nào đó, khi chúng tôi đã bình yên trở về Lhasa và khôi phục lại quê hương, các nhà thơ Tây Tạng mới được thảnh thơi để thưởng thức và hoà mình vào dòng thơ của thế giới."
      Tôi hỏi Tashi: "Bạn so sánh thế nào giữa thi ca và âm nhạc của Tây Tạng? Chẳng hạn, bạn so sánh thế nào giữa những bài thơ của các thi sĩ lưu vong và những khúc nhạc của một nhạc sĩ lưu vong như Tenzing Tsewang?" Và Tashi đáp: "Âm nhạc của Tenzing sinh ra trực tiếp từ cảm hứng của anh ấy và ngân vang qua lòng ống trúc. Nó gắn liền với thiên nhiên, và nó vô ngôn, nên nó phi thời. Khi Tenzing thổi sáo trên dòng sông Hawkesbury, anh ấy biến thành một với thiên nhiên, và anh ấy về đến tận nguồn cội. Ngồi thổi sáo trên một chiếc thuyền ở phía Tây Bắc Sydney, tâm linh của Tenzing đã trở về đến Tây Tạng. Các nhà thơ Tây Tạng lưu vong viết những bài thơ tiếng Anh là để truyền đạt cho nhau những thông điệp và kinh nghiệm về đời sống lưu vong. Họ hướng về Tây tạng, nhưng không thể trở về đến Lhasa qua những bài thơ ấy. Để trở về bằng tâm linh, họ không cần giấy bút. Họ ngồi xuống, nhắm mắt, và cất lên tiếng OM trong im lặng. Đó là bài thơ ngắn nhất, duy nhất, nối liền họ với dòng máu muôn đời của quê hương."

      8.

      Sau buổi rạng đông nằm nghe tiếng sáo của Tenzing bên bờ biển White Sand, tôi trở về Sydney và gửi điện thư cho Tashi. Tôi chúc Tashi một năm mới tuyệt vời. "Tashi Deleg! Tashi Deleg! Tashi Deleg!"
      Tashi hồi âm ngay, anh viết: "Vô cùng cảm ơn lời chúc của anh! 'Tashi Deleg' là lời chúc tốt đẹp nhất của người Tây Tạng. Tên của tôi cũng là Tashi, nghĩa là 'thành công, may mắn, thịnh vượng', nhưng cuộc sống của tôi còn rất nhiều khó khăn cho đến ngày nào chúng tôi yên bình trở về Lhasa. Ngày ấy chắc sẽ còn xa... Tôi xin tặng lại anh lời chúc 'Tashi Deleg! Tashi Deleg! Tashi Deleg!'"

      Kèm theo bức điện thư ấy, Tashi chuyển cho tôi một bài thơ của Palden Gyal, và viết thêm rằng: "Anh em thanh niên Tây Tạng lưu vong chúng tôi chuyền cho nhau đọc bài thơ này nhân dịp đầu năm. Có lẽ những thuyền nhân trẻ Việt Nam cũng chia sẻ với chúng tôi những cảm nghĩ tương tự."
      Cảm ơn Tashi, tôi xin dịch bài thơ “A New Year Invocation to Young Tibet in Exile” của Palden Gyal ra tiếng Việt và đăng lên báo Xuân, hy vọng những độc giả trẻ của cộng đồng người Việt Nam lưu vong sẽ đọc và chia sẻ.

      Lời cầu chúc đầu năm cho thanh niên Tây Tạng lưu vong

      Palden Gyal

      Nào, các bạn
      Hãy nâng ly
      Đón mừng Năm Mới!

      Cứ mỗi dịp cuối năm,
      Các bạn lại hồi tưởng về những biến cố trong quá khứ.
      Nhưng các bạn có biết biến cố trọng đại nhất trong lịch sử chúng ta?

      Cách đây hơn bốn mươi năm,
      Ông Bà của các bạn
      Đã phải bỏ xứ ra đi,
      Mang theo Cha Mẹ của các bạn
      Trong vạt áo 'chupa’ [1]
      Máu lệ in dấu trên con đường vượt thoát.

      Có lẽ các bạn đã là chứng nhân của thảm kịch này,
      Bởi, lúc ấy, các bạn vẫn còn là những 'Linh Hồn"
      Nhởn nhơ bay lượn trên cao nguyên bao la của Xứ Tuyết.

      Có phải chỉ riêng sự sống còn trong cuộc lưu vong
      Cũng đủ để chúng ta hân hoan trẩy hội?
      Dường như không phải vậy;
      Nhưng hãy vững lòng và đừng tuyệt vọng.

      Ôn lại những bài học của năm vừa qua,
      Các bạn hãy chấp nhận những thử thách của Năm Mới
      với lòng can đảm;
      Và nếu trong năm mới các bạn thành công trong bất cứ lĩnh vực xứng đáng nào,
      Thì kể như các bạn hoàn thành một năm tốt đẹp,
      Và an ủi những linh hồn lo lắng của Tổ Tiên chúng ta.

      Hỡi các anh em của tôi!
      Đêm nay, với rượu và bia, ở Luân-đôn này,
      Chúng ta hãy chúc mừng Năm Mới,
      Và cầu nguyện rằng vào ngày này năm tới,
      Với rượu 'chang’ [2] ngọt ngào đầy những 'phorpa’ [3] bằng bạc,
      Tất cả chúng ta sẽ đoàn tụ ở Lhasa,
      Để đón chào Năm Mới,
      Một lần nữa,
      Trong hoan lạc
      Tuyệt vời!

      Tashi Deleg!
      Tashi Deleg! Tashi Deleg!

      9.

      Thân phận lưu vong của chúng ta chắc hẳn ít đau đớn hơn thân phận lưu vong của người Tây Tạng. Nhưng sức mạnh tâm linh của họ đã giúp họ lạc quan và sống mạnh mẽ. Nhà thơ Tây Tạng Norbu Zangpo đã nhắn với chúng ta:

      Các bạn phải học lại một lần nữa

      Để biết mỉm cười trong ánh bình minh...

      Tại sao không? Tôi tự nhủ. Một năm cũ đã qua. Một năm mới lại đến. Chúng ta hãy cùng nâng ly và mỉm cười. Với nhau. Dưới ánh mặt trời.


      _________________________
      [1]chupa: một loại áo khoác có dây vải thắt lưng của người Tây Tạng.
      [2]chang: một thứ rượu của người Tây Tạng, có vị ngọt, làm bằng lúa mạch.
      [3]phorpa: một vật đựng rượu của người Tây Tạng, giống như cái cốc.
      Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 24-02-2010, 11:26 PM.
      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      Working...
      X
      Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom