• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Nghĩ về Bích Khê

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Nghĩ về Bích Khê

    Nghĩ về Bích Khê
    Khổng Đức

    Click image for larger version

Name:	duonglam.jpg
Views:	38
Size:	29.3 KB
ID:	261627Nếu trong thơ Hàn Mặc Tử hay đề cập đến Trăng, thì Bích Khê lại hay nói đến Thu, mùa Thu:

    Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
    Của hồn thu đi lạc ở trong mơ
    (Mộng cầm ca)

    Mây nhung pha màu thu trên trời
    Sương lam phơi màu thu muôn nơi
    (Tỳ Bà)

    Đêm nay hồn lặng làm sao
    Cánh thu ôm cả chiêm bao vào lòng
    (Cuối thu)

    Ô ! Mộng đêm thu mây vút xa
    Say sưa ộ sắc cạnh đào hoa
    (Mộng)

    Mùa thu ám ảnh nhà thi sĩ
    Muốn thổi tiêu vàng giữa khói sương...
    (Nấm mộ)

    Thu đã ám ảnh thi sĩ nên nó đầy dẫy trong Tinh Huyết và Tinh Hoa. Anh cũng từng có bút hiệu là Lê Mộng Thu. Phải chăng vì địa danh Thu Xà là nơi sinh trưởng Bích Khê mà cũng là chốn an nghỉ cuối cùng của anh, miền đất quê hương đã in đậm nét trong thơ anh:

    Nơi đây làng cũ buồn hiu quạnh (làng em)
    Phố phường hai dãy đứng trơ trơ (Thu Xà cảm tác)

    Nặng lòng với quê hương ư ? Thì cũng đúng, nhưng còn hơn thế nữa kìa, vì theo các nhà “tâm lý học miền sâu” (Psychologie des profondeurs), đó là hiện tượng con người luôn luôn muốn trở về nguồn (besoin de retour au sein maternel). Quê hương hay đất mẹ cũng là mẹ đó thôi. Một hình ảnh khắc sâu trong tâm khảm con người của nghìn đời trước và nghìn đời sau. Nó thể hiện bằng những hình ảnh tượng trưng, nó biến thái, nó thăng hoa khó nhận ra đấy, nó cũng mang dấu ấn tình cảm, cảm xúc... Bích Khê là nhà thơ, hẳn nhạy cảm hơn ai hết thì tên địa danh quê hương làm sao không nặng trĩu trong lòng để biến hình thành Thu, như Thu với nắng, trăng ngọc, kim cương sao...

    Thu Xà là một thị trấn nhỏ thuộc huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Nghĩa. Nhưng Thu Xà là gì? Căn cứ theo bộ địa bạ ghi chép từ năm Gia Long thứ 12 (1814) thì Thu Xà vốn là xã Tăng Sai nghĩa là đánh cá bằng bè lưới, nôm na là bè rớ. Thời Gia Long, Minh Mạng làng này dân cư thưa thớt, nhưng đến đầu thế kỷ 20 đã có người Hoa Kiều đến ở và buôn bán rất phồn thịnh, dân cư trở nên đông đúc. Có thể người Hoa đến ở thấy chữ Tăng Sai không mấy đẹp nên đã đổi thành Thu Sai, Sai cũng đọc là Sài. Hay là tên làng đã được đổi thay từ đời Tự Đức, nên trong Đại Nam Nhất Thống Chí được biên soạn trong thời này đã viết tên làng là Thu Sài, người Hoa phát âm là Thu Sà rồi thường dân gọi Thu Xà thành thói quen.

    Thu Xà nằm bên bờ sông gần cửa biển tiện cho việc thuyền bè đi lại cả đường sông lẫn đường biển. Nó cách Cổ Lũy một dòng sông, là một trong những thắng cảnh của Quảng Nghĩa “Cổ Lũy Cô Thôn”. Cửa biển là cửa Đại, nơi sông Trà Khúc và sông Vệ gặp nhau nên lòng sông khá rộng và sâu. Từ Thu Xà ra biển chỉ vào khoảng 2 cây số, phía nam Thu Xà có Vực Hồng, nơi dòng sông Vệ đổ về xoi sâu vùng đất đỏ thành bờ cao trong rất hùng vĩ. Đối chọi với Vực Hồng là Phú Thọ ở phía Bắc có núi đá đen khá uy nghi. Qua dải sông sâu là Cổ Lũy nằm sát bên bờ biển chơ vơ với đám rừng dừa cao ngút nghiêng mình bên mé nước trong xanh, cũng là nơi thuyền bè ra vào với những cánh buồm trắng xóa hay chen chúc nhau đậu bên bờ. Sớm chiều ánh nắng vàng êm dịu trải lên màu xanh đậm của nước, của cát trắng, của ruộng đồng lúa mía, của những mảnh đất nơi đây đỏ nơi đây vàng pha lẫn với đá đen, cùng với những mái nhà xám màu tranh tre hay gạch ngói đỏ. Nói chung cảnh trí Thu Xà và các vùng lân cận là một bức tranh hài hòa dễ khơi động hồn thơ hơn đâu hết; nên không lạ nơi sinh trưởng ra Bích Khê. Và rồi miền đất nước có sông sâu biển rộng núi cao này ảnh hưởng đến đời thơ anh không phải là ít. Điều đó quá rõ là thiên tài Bích Khê phát triển quá sớm, mới 12, 13 tuổi đã biết làm thơ Đường, đến 15, 16 tuổi đã có thơ đăng báo và xướng họa với những vị lão nho.
    Thế nhưng tại sao Bích Khê đến với thơ mới quá muộn? Mãi đến năm 1937 anh mới tuyệt giao với thơ cũ và gia nhập vào làng thơ mới. Phải chăng vì những lý do sau đây:

    Bích Khê là con trai út trong gia đình có truyền thống cách mệnh, ông cha đã từng tham gia các phong trào yêu nước. Thơ anh đăng trên báo Tiếng Dân, Phụ Nữ Tân Văn v.v...cũng là thơ yêu nước. Anh lại chịu ảnh hưởng của cụ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng khá nặng nên có thành kiến với thơ mới:

    Rồng vẽ lối xưa toàn những sáo
    Cua bò thơ mới chả nên câu.

    Chính nhà thơ lão thành Khương Hữu Dụng cũng từng tâm sự với chúng tôi là do ảnh hưởng của cụ Phan quá nặng mà thơ anh đắm trong tinh thần yêu nước, không thoát xác để đi vào thơ mới sớm hơn. Đó là chưa kể dân tình, dân khí Quảng Nghĩa luôn luôn có máu cách mạng, ưa bạo động. Quảng Nghĩa cũng là đất Chiêm Thành xưa, mà Quảng Nam, Bình Định cho đến bây giờ vẫn còn ít nhiều di tích của Chàm, những cổ tháp cao ngạo nghễ với trời xanh. Trong khi đó ở Quảng Nghĩa đã từ lâu chẳng còn dấu vết gì của Chiêm Thành, nếu còn chăng chỉ là những viên gạch to tướng thỉnh thoảng gặp nơi các cánh đồng. Do đó kể từ phong trào Văn Thận, Duy Tân, Đông Du ... lúc nào cũng sôi nổi ồ ạt, làm sao không lay động đến tâm hồn Bích Khê. Những sự kiện vừa nêu là những dây xích cột chặt anh trong trường phái cổ điển Đường Luật dù anh là người học Tây. Cũng nên kể thêm rằng từ sau 1936, hoàn cảnh đất nước và dân tộc Việt Nam rõ ràng rơi vào ngõ bí thoái trào trầm trọng. Tâm trạng “Bán sầu”, “Bán thơ” (đầu đề bài Hát nói của Bích Khê) là có thật; cũng là tâm trạng mất định hướng của thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ.

    Nên khi gặp và đọc thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên thì Bích Khê như người chụp được phao cứu mệnh, tìm được sự giải thoát cho chính mình. Gia nhập vào làng thơ mới tức là gia nhập vào trào lưu lãng mạn. Xin đừng hiểu nghĩa từ lãng mạn theo thông tục lâu nay là xấu xa, mà phải hiểu theo tinh thần chính thống của Tây Phương. Nó là hiện tượng chống lại chủ nghĩa quý tộc mà sinh ra chủ nghĩa bình dân, chống lại chủ nghĩa hình thức mà sinh ra chủ nghĩa tự do, nó chối bỏ cái thế giới thực xấu xa bỉ ổi mà hướng về cội nguồn, một địa đàng xa xôi, nôm na là mơ về một thế giới lý tưởng. Ánh sáng văn học thế giới cận đại mở đầu là do chủ nghĩa của phái lãng mạn.

    Vừa gia nhập làng thơ mới tại sao Bích Khê lại xông vào trường phái tượng trưng? Có người cho là do ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử, cũng đúng một phần, nhưng chưa phải là lý do duy nhất. Ý thức chuyển hướng vào thơ mới từ năm 1937, cũng là giai đoạn thơ mới đã hình thành và có thể đứng vững vàng; vì đã có nhiều tác phẩm ra đời, và có bao nhiêu người xứng danh là thi sĩ. Với cách mạng Chế Lan Viên đã từng tỉ tê “Đi xa về quá chậm”, nhưng trong văn học đối với Bích Khê phải đổi lại là “Về chậm phải đi xa”. Hơn nữa, đến năm 1937 chiếu làng thơ mới với trường phái lãng mạn đã chật chỗ vì các nhà thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Thanh Tịnh v.v...và còn một lý do chính yếu là Bích Khê có thừa khả năng tiếp xúc với các trào lưu văn học thi ca Pháp, thì trường phái tượng trưng vốn có tính chất canh tân cách mạng quá hợp với anh. Có thể nói đó là mảnh đất tốt để cho hạt giống tài năng Bích Khê ấp ủ lâu nay được cơ hội gieo trồng phát triển:

    Tượng trưng vầy cao đẹp
    Chỗ chính phẩm văn chương
    (Ngũ Hành Sơn - hậu)

    Vậy thơ tượng trưng là gì? Nôm na nó là một phong trào tân lãng mạn của Pháp phát sinh từ cuối thế kỷ 19, do các thi nhân thiên tài dẫn đầu là Rimbaud, Verlaine, Mallarmé... Thơ với họ là tiếng nói của vô thức, là đào sâu vào tự ngã, nhắm tìm kiếm một ý tưởng siêu việt, một nguyên tố thâm sâu của vũ trụ, cũng gọi là bản thể, là thực tại hay cuộc sống nội tâm:

    Ôi sắc đẹp, anh hoa hồn vũ trụ
    Phấn Trang sinh : tính chất khí âm dương
    Mi làm long phím lòng muôn trinh nữ
    Muôn tài hoa nghiêng nước vẻ thiên hương
    Mi rớt ngọc cho vang muôn tinh tú
    Mi nhả sâm ngọt lịm vạn sầu thương
    (Đồ mi hoa)

    Nó mang tính chất siêu hình, hay đúng hơn nó quan niệm rằng: sáng tác thi ca là đi tìm một tri thức bí nhiệm, thi nhân là kẻ giúp ta khám phá những gì ta chưa bao giờ nhìn thấy, cảm biết:

    Hỡi trần gian hãy chết ngột trăng sao
    Cho nhân lý ngời ra như lưỡi kiếm
    Và hào quang khiêu vũ với hào quang
    (Nàng bước tới)

    Do đó họ phải mượn các hiện tượng vật chất để diễn tả cái tâm linh nội tại, nó có khuynh hướng chủ quan thần bí, nó dùng ẩn dụ, ám thị làm ấn tượng diễn tả. Nó ỷ lại vào âm nhạc để diễn tả tâm linh huyền diệu của con người, nên phần lớn phải vận dụng hình ảnh, và cũng vì nhiều khó khăn đó, nó phải phối hợp hội họa, điêu khắc kiến trúc, vũ khúc, nói chung là vận dụng các cảm xúc hương vị, âm thanh, màu sắc... để nói lên cái điều không sao nói được. Muốn đạt đến cảnh giới đó nhà thơ phải trực cảm hay sống bằng trực giác:

    Chữ biến hình ảnh mới, lúc trong ngâm
    Chữ điêu khắc tỉa nghệ thuật sầu câm
    Đây thẩm mỹ như một pho thần tượng
    Múa song song khiêu vũ với đêm hồng
    (Duy Tân)

    Sự kiện ấy có vẻ mới lạ với Tây Phương, nhưng đối với văn học Đông Phương thì lại là chuyện cũ. Vì từ Kinh Thi, Sở Từ, Nam Hoa Kinh cho đến thi ca Đường Tống... đều mang tính chất tượng trưng. Có điều họ không nói tượng trưng mà lại nói là Ngộ, là Thiền, là Thần Vận, Tính Linh v.v... Vì vậy không lạ gì Bích Khê đến với thơ mới bằng con đường tượng trưng. Thoạt nhìn cứ ngỡ là anh bị ảnh hưởng trực tiếp trường phái tượng trưng Pháp, nhưng có đi sâu vào thơ anh mới thấy anh chỉ mượn cái xác của Tây để rồi tái sinh bằng cái hồn, cái sống của tinh thần Đông Phương hay của Việt Nam có lẽ đúng hơn:

    Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
    Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng
    (Duy Tân)

    Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
    Buồn sang cây tùng thăm Đông quân
    (Tỳ Bà)

    Tinh thần Đông Phương ấy thể hiện đầy dẫy trong Tinh Huyết, nói chi đến Tinh Hoa thì hoàn toàn là thứ tượng trưng thuần Đông, thuần Việt, và cũng vì vậy nó mang tính chất là thơ Thuần túy hơn tượng trưng, tiêu biểu là hai bài Ngũ Hành Sơn. Xin miễn trích dẫn dài dòng để còn được đề cập đến một điểm nữa là khả năng lao động thơ của Bích Khê, mà trước đây ít người nói đến.

    Trong vòng chỉ có ba tháng mà hoàn thành tác phẩm thơ như Tinh Huyết, dù không vĩ đại cũng phải nói là một kỳ công. Và tác dụng của nó như một quả bom nổ giữa làng thơ Việt, khiến ai cũng ngạc nhiên, Hàn Mặc Tử đã trân trọng giới thiệu với sự ca tụng hết lời.

    Đã hay sáng tác cần phải có thiên tài, nhưng thiên tài không chưa đủ để thành tác phẩm mà còn phải có nhân lực.

    Đến như Newton còn phải nói: thiên tài chỉ là sự nhẫn nại kham khổ lâu dài. Trong địa hạt văn học phần nhân lực lại còn quan trọng hơn. Câu chuyện một bước thành thơ hay uống một đấu rượu hoàn thành trăm bài thơ khó mà có thật, hay nếu có cũng chỉ là tình cờ cọng với bao nhiêu công phu tu dưỡng từ trước mà thôi. Hẳn ai cũng biết muốn thành thơ là phải có cảm hứng (inspiration), đúng ra phải gọi đó là nguồn linh cảm, nó thường bột phát ngoài ý liệu của tác giả nên thành tựu rất mau. Người xưa cho đó là sự khai thị của thần linh, nhưng theo các nhà tâm lý học hiện đại thì linh cảm là những gì đã được thai nghén uẩn nhưỡng trong tâm tư rồi đột nhiên hiện ra đấy thôi. Hiện tượng thai nghén phải có thời gian để cho tiềm thức hoạt động, đến khi nào ý thức buông xả là lúc ý tưởng hình ảnh dễ dàng xuất hiện. Ý thức buông xả là trực giác thì chữ thơ tuôn trào, thế nhưng chưa phải là tác phẩm đã hoàn thành, chẳng qua chỉ mới là những phác thảo như đứa trẻ sơ sinh vừa lọt lòng mẹ, còn phải gỡ nhau, cắt rún, tắm rửa, nuôi dưỡng v.v... rồi mới ra người. Nói rõ là còn phải tôi luyện sửa chữa càng nhiều bấy nhiêu. Loại thơ bình thường còn phải thế, huống chi là nhà thơ có tầm vóc thì khi sáng tạo một phác thảo rồi sau đó phải tính toán tỉ mỉ như nhà luyện kim thuật, nhà toán học, kiến trúc sư, chữ thơ phải được cân nhắc, nghĩa thông dụng, nghĩa ngữ học, nghĩa ẩn tàng và những hình ảnh đưa ra phải mới lạ, lại còn phải chú trọng đến âm điệu chất nhạc...

    Trăng có đôi : rưng rưng ánh ngọc
    Mùa rất cao : đẹp xuống anh hoa
    (Lên Kim Tinh)

    Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc
    Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương
    (Nàng bước tới)

    Nhìn chung là công việc rất nhiêu khê, thế mà thay vì hứa hẹn sáu tháng, chỉ trong ba tháng Bích Khê đã hoàn thành tập Tinh Huyết với số lượng 50 bài, mà bài có ngắn đâu. Thật đúng như tên tác phẩm, nó là máu lệ, tinh tủy của tác giả cơ hồ như đã trút hết vào đó. Tiếc rằng hằng ngày chúng ta chẳng còn một bản thảo nào của Bích Khê, tuy nhiên cứ nhìn vào tác phẩm, hay chịu khó đọc lại toàn bộ tác phẩm của Bích Khê, hẳn cũng thấy được anh đã phải làm việc như thế nào... Đã hay trong Tinh Huyết cũng còn những khuyết điểm, nhưng cũng chỉ là sơ sót nhỏ. Trong thời điểm 1939 và cho đến ngày nay nữa tập thơ Tinh Huyết vẫn là một kỳ công. Phải chăng vì dốc hết tâm lực, hay nói theo danh từ ngày nay Bích Khê đã lao động quá mức, nên đã hoàn thành được Tinh Huyết thì anh cũng ngã bệnh lao. Thật là một đời đã cống hiến và dâng trọn cho nghệ thuật. Tinh Hoa là tác phẩm của cơn bệnh đã đi vào giai đoạn trầm kha.

    Có một điều hơi lạ, là ngày rời khỏi cõi thế để đi về chốn vĩnh hằng của Bích Khê sao giống hệt Rimbaud, là cả hai cũng thấy trước giây phút ra đi của mình, cũng dọn mình, cũng sửa soạn cho một cuộc hành trình bất tử.

    Thật là :
    Châu vỡ thiên tài lai láng cả
    Chết rồi khí phách của tôi đâu ?

    Khí phách đó gởi trọn trong Tinh Huyết, Tinh Hoa hay phó thác hết cho hậu thế chúng ta.
    Đã chỉnh sửa bởi hoangvu; 09-04-2020, 08:17 AM.
    Sống trên đời

    Similar Threads
  • #2


    Thi sĩ Bích Khê (1916-1946)




    Bích Khê, “thi sĩ thần linh” - “thơ lõa thể”


    I. Xác thịt lên ngôi thần
    Nàng Thơ của Bích Khê là một người “đẹp và dâm”. Chân dung nàng luôn được thi nhân trình bày ở dạng lõa thể, khỏa thân. Nhìn vào đó ta thấy Nàng đẹp.
    Đẹp một cách tổng quát:

    Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
    Nàng là hương hay nhan sắc lên hương
    Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường
    Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
    Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
    Vài chút trăng say đọng ở làn môi (I)
    (Lõa thể)

    Đẹp ở “cặp đùi non, một vẻ tơ mơ một vẻ ngon”.
    Đẹp ở cặp mắt “xanh tợ ngọc”, “đa tình ngời sắc kiếm”, “kho tàng muôn châu báu”. Bích Khê thấy Hai mắt ấy chói hào quang sáng ngợp / Dẫn ta vào thế giới thiêng liêng. Đó là ánh sáng soi đường thơ cho nhà thơ. Cặp mắt và bầu vú là hai ám ảnh thơ của Bích Khê, xuất phát từ cách nhìn lõa thể thơ của ông. Nhiều nhà thơ mới đã ca ngợi đôi mắt phụ nữ, nhưng nói đến vú thì hình như chỉ Bích Khê là một.
    Đẹp ở đôi bầu vú:

    Những vú nõn: đồi cong thon, nho nhỏ
    Với đôi dòng suối sữa trắng như tinh
    (Sắc đẹp)

    Vẻ chi mãnh liệt nhưng êm ái
    Trong cặp tuyết lê ướm dậy thì
    (Châu)

    Bích Khê nói nhiều đến đôi vú Người Nữ, của Nàng Thơ. Vì với ông đó là nguồn thơ. Ông làm thơ tức là ông “nút” vú, “nút” tinh chất của Người Nữ, của Nàng Thơ, là tìm chất quý thơm tinh mùi khoái lạc. Động từ “nút” của tiếng địa phương miền Trung được dùng nhiều trong thơ Bích Khê là liên quan đến cảm hứng cảm xúc này của nhà thơ. Thêm một trạng từ địa phương nữa thường được dùng đi cùng động từ này - “”. Nút cho nư, đã nư, tức là nút đến no nê, tràn đầy, thỏa mãn. (Hàn Mặc Tử cũng hay dùng những từ này).

    Với cô gái trong một bức tranh lõa thể:
    Hai vú nàng! Hai vú nàng! Chao ôi!
    Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng

    Với “người em lãng mạn” trong một bức ảnh:
    Anh tính ôm chầm lấy mắt mơ
    Lấy môi lấy má... lấy ngây thơ
    Để anh nút ớn mùi hương ấm
    Của một tình yêu giận hững hờ

    Với “một cô đào hát bộ”:
    Tôi chợt ôm cô trong giấc mộng
    Nút bao thanh khí, đã nư thèm...

    Cả với một cảnh vật mùa xuân Bích Khê cũng “vú hóa” theo cảm hứng này: “Nâng lên núm vú đồi / Sữa trăng nhi nhỉ giọt”. Từ đó mùa xuân mới chảy vào thơ ông thành xuân tượng trưng. (So sánh với Hàn Mặc Tử cũng viết về đồi và trăng: Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ / Đầy mình lốm đốm những hào quang. Hai cách viết thơ khác hẳn nhau, một bên là đi vào liên hệ bên trong, một bên là nhân hóa cảnh tượng bên ngoài).
    Đẹp ở da thịt “nức một đường thơm một điệu êm”, tỏa một mùi hương “còn thơm hơn chất xạ”, khiến thi nhân muốn “Cho ta xin trong một tối du dương / Muôn thớ đàn run trên da thịt tuyết”. Da thịt tuyết này còn hiện ra ở tràng cánh trắng của đồ mi hoa, trong khi Đài nộn nhụy hóa nguồn trinh tinh khiết. Và Bích Khê phổ cả cảm hứng nhục thể vào bầu trời khi từ đỉnh Ngũ Hành Sơn nhìn lên:

    Có ai biết trên cao
    Da trời màu thịt sứa
    Da trời se chất sữa
    Truyền cảm hứng mênh mông
    (Ngũ Hành Sơn - bài hậu)

    Đến cả mộng của ông cũng là “mộng lạ”. Các nhà thơ mới hay mộng, mà mộng gặp tiên, gặp người đẹp, chuyện ấy đã thường. Bích Khê cũng mộng, trong mộng cũng gặp các nàng “giai nhân hiện dưới bóng hằng nga” (một motiv quen thuộc, như đã thành một cliché của thơ lãng mạn), rồi cũng tả sắc đẹp của người đẹp ở mắt môi dáng đứng dáng đi. Đột một cái, hai câu kết bài “Mộng lạ”: Ôi đi! Đoàn tiên lột khỏa thân / Hoan hô xác thịt chiếm ngôi thần. Thế là tiên đã thành người trần. Mộng đã thành thực. Thơ tiên đã thành thơ phàm. Ở một bài khác (Hiện hình) trước khi thấy Một người thiếu nữ hiện trong trăng thì thi nhân đã ngửi thấy Thơm tho mùi thịt bắt say ngà! Ông tự nhận Hồn tôi mất cả đồng trinhmê luyến những hình thiên nga. Cho nên trong một lần Mơ tiên ông đã những muốn đi cướp mây trời / vén ra cho thấy một vài nường tiên để coi hồn đương say nghiền / đã nư khoái lạc trong miền chiêm bao. Khoái cảm nhục thể của Bích Khê quả là mạnh trong thơ ông. Đến mức một trái cây như trái măng cụt cũng thành ra da thịt người dưới mắt ông, múi mát tợ thịt thơm, và ăn nó như là bú vú vậy, mùi sữa mớm vô răng.

    Bích Khê có hẳn một bài thơ đặt tên là Xác thịt:

    Tôi vồ người như một miếng mồi ngon
    Miệng ngậm hờn riết chặt lấy môi son
    Mắt đổ lửa lườm qua làn sóng sắc...
    Tôi giật nẩy rồi cười lên sặc sặc
    Hai tay cào đôi vú trắng như bông

    Hàn Mặc Tử cho rằng đọc những vần thơ ấy “giây thần kinh và gân huyết ta rung động say mê bởi những làn khoái lạc của xác thịt nóng, thơm, ran ran lên cả người” (II).

    Như vậy, xác thịt được đặt lên ngôi thần, được đưa vào ngôi chủ thơ. Đó là Bích Khê. Ông “hoan hô” cái sự đó, nghĩa là ông thấy ở đó nên thơ và đáng thơ.
    Nàng thơ của Bích Khê hiện hình trong thơ ông qua tên gọi phiếm chỉ những người phụ nữ khác nhau. Duy chỉ có một nàng được ông gọi thẳng tên và nhắc đến nhiều lần với niềm yêu thương, trân trọng. Đó là nàng Xuân Hương.
    Ông gặp nàng ở bến sông Ngân:

    Ô! Nàng Xuân Hương ngực để trần
    Ngâm bài “Vấn nguyệt” tiếng trong ngần
    Nhìn xuống nhân gian cười như điên
    (Nghê thường)

    Ông muốn xuống địa ngục trong cơn ăn mày cảm hứng “Đặng ngủ nhờ một đêm với Xuân Hương”. Ông nằm mộng “Thì mộng: Xuân Hương nường đã đến / Thưa cô, dáng nguyệt tuyết còn vương”.

    Và ông có hẳn một bài thơ nhan đề Hồ Xuân Hương mời nàng nữ sĩ về làm vợ mình, gọi bà là người vợ trong thơ. Ông đồng điệu tri âm với nữ sĩ trong loại thơ đặc sắc của bà mà chắc ông muốn học theo: Văn chương quán thế không ai biết / Trong mộng mình về thưởng với tôi. Xuân Hương trong mắt Bích Khê vẫn mãi đẹp.

    Đêm nay nửa gối nghiêng nghiêng mộng
    Muôn dặm người xa đã thấy về
    Xanh liễu ngoài sân vừa đổi biếc
    Màu thi sắc lá đọ dung nghi

    Phải chăng Bích Khê thấy ở Hồ Xuân Hương sự đồng điệu với ông trong quan niệm thơ lõa thể - đẹp và dâm? Nàng thơ là người đẹp, nhưng cái đẹp đó phải được thức dậy, được sống động ở nhục thể, ở da thịt, ở ân ái. Có là mộng, là thiên tài, thì cũng phải Trên hỗn độn khỏa thân. Thơ, với Bích Khê, là da thịt biến ra thơm, là Bắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn hương khi Cả địa ngục đi vào trăm lỗ hổng, là Hợp tinh khí chảy ra thành chất ngọc. Ông nói thẳng ra những điều Hồ Xuân Hương thể hiện lấp lửng hai mặt. Ông tuyên bố:

    Ôi! say khướt mới dào muôn ý tứ
    Ôi! điên rồ mới ngợp ánh chiêm bao
    Ôi! dâm cuồng mới biết giá trăng sao! (III)

    Duy tân thơ của Bích Khê, vì thế, là thơ lõa thể.

    II. Thơ lõa thể
    Sự đậm đặc những hình ảnh, cách nói về thân xác và hoạt động thân xác ở thơ Bích Khê như ta đã thấy không hề là ngẫu nhiên. Bích Khê có lẽ là nhà thơ ‘ca tụng thân xác” say sưa và nồng nhiệt nhất thơ Việt. Có thể có yếu tố phân tâm học bệnh lý của Bích Khê ở đây. Nhưng cái chính, đó là một quan niệm thơ của ông.


    Sau khi tắm, tác phẩm của Auguste Renoir (1841-1919)


    Văn học lãng mạn Việt Nam (Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới) có một đóng góp cách tân lớn là xác lập và đề cao cái đẹp thể chất của con người. “Dâm” trong “đẹp và dâm” của Bích Khê có thể hiểu theo nghĩa này, như những câu thơ, đoạn thơ tôi dẫn ra trên đây đã cho thấy. Nhưng như đã nói, mệnh đề này còn là quan niệm thơ của Bích Khê, và như thế để hiểu rõ nó thì cần đặt nó vào hệ thống của “trường thơ Bình Định”.
    Hàn Mặc Tử chủ trương thơ Điên.
    Chế Lan Viên làm thơ Loạn.
    Thơ Điên, thơ Loạn, “cái gì của nó cũng tột cùng”, “cái gì nó nói đều có cả” (Chế Lan Viên). Bích Khê ở trong môi trường này cũng sẽ làm thơ theo không khí và tinh thần đó.

    Tập Tinh huyết của Bích Khê là do Hàn Mặc Tử đề tựa sau khi đã “khích” bạn mình sáng tác “đợt hai” và Hàn đã rất ca ngợi đợt sản phẩm mới này của bạn (IV). Tinh huyết có ba phần: Nhạc và lệ, Đẹp và dâm, Cuồng và ánh sáng, nhưng tôi thấy tinh thần của phần giữa là quán xuyến cả tập. Như vậy có thể nói Bích Khê làm thơ Dâm, hiểu theo nghĩa ông phơi mở và đề cao thân thể phụ nữ và các hoạt động thân thể mà ông tụng ca là Đẹp, là Thơ. Giống như thơ Hồ Xuân Hương bị coi là dâm nhưng đó thực là thơ ca ngợi vẻ đẹp cơ thể phụ nữ và đòi quyền sống cho thân xác con người trong tình yêu đôi lứa. Ở đây không cần phải biện hộ gì cho chữ Dâm cả, Bích Khê đã đặt Dâm ngang hàng với Đẹp, và như thế với ông đó là một phạm trù thơ. Tên phạm trù đó, loại thơ đó Bích Khê cũng đã đặt: thơ lõa thể. Và ông tự nguyện hiến mình cho loại thơ này.

    Thơ lõa thể! Giai nhân tuần trăng mật
    Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người

    Điên - Loạn - Dâm, có thể coi đó là đặc trưng của “trường thơ Bình Định” với nghĩa bộc lộ hết mình và tột cùng, cả thể chất và tinh thần, trong cơn sáng tạo quyết liệt. Bởi thế, đọc thơ họ, một nhà phê bình nhạy cảm và tinh tế như Hoài Thanh cũng phần nhiều chịu bó tay. Ông “mệt lả” khi theo Hàn Mặc Tử. Ông thấy Chế Lan Viên là “niềm kinh dị”. Với Bích Khê ông thú nhận là đành “kính nhi viễn chi”. Tất nhiên, phải nói thêm ở đây, mỹ cảm của Hoài Thanh là nằm trọn trong chủ nghĩa lãng mạn, mà các nhà thơ “trường thơ Bình Định” thì ít nhiều đã vượt sang chủ nghĩa tượng trưng.

    Thơ lõa thể, đó là hồn và xác. Đó là lãng mạn và tượng trưng. Thơ Mới đến Bích Khê và nhóm thơ Bình Định đã vượt qua những cảm xúc lãng mạn thời kỳ đầu để tiến tới những biểu hiện của tượng trưng, siêu thực về sau. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu, Thơ Mới Việt Nam (xét dưới góc độ: “Sự tương hợp giữa Thơ Mới và Thơ Pháp trong cuộc giao thoa của hai văn hóa Việt Nam và Pháp nửa đầu thế kỷ XX”) có hai làn sóng. Làn sóng thứ nhất “chịu ảnh hưởng chủ yếu của thơ lãng mạn Pháp nửa đầu thế kỷ XX”. Lớp nhà thơ thuộc làn sóng này viết diễn cảm. Làn sóng thứ hai “chịu tác động sâu sắc của Baudelaire và những nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa Pháp”. Lớp nhà thơ của làn sóng này viết diễn đạt cái tương hợp (V). Bích Khê là nhà thơ mới thuộc làn sóng thứ hai. Đẹp và dâm, vừa là sự đối nghịch, vừa là sự tương hợp. Thơ cũng vậy. Thơ lõa thể của Bích Khê là vậy.

    Có hiểu thế ta mới hiểu vì sao bài thơ nhan đề Trái tim của Bích Khê lại kết thúc bằng hai câu thơ có hai gạch đầu dòng, trong đó câu cuối cùng rất gây “sốc” khi mới đọc qua (và có thể là “tục” nữa nếu ai muốn nghĩ thế).

    - Yêu bằng mộng là mơ tim sáng láng
    - Đây sự thực trần truồng nằm giữa háng!

    Hai cái gạch đầu dòng cho phép hiểu hai câu thơ này như một cặp câu đối thoại. Ở đoạn hai của bài thơ đã có cuộc đối thoại của “tôi” với “cô”. Tôi ăn mày chỉ một trái tim thôi / Lạy tứ hướng cô mới chịu cho tôi / Cô vùng vằng là tôi không có thả... Tiếp đó là hai câu độc thoại: Mình say chưa? Mình đã thật say sao / Có lảo đảo, có điên cuồng đấy chứ? Và sau ba câu để trong ngoặc đơn vừa như giải thích, vừa như tuyên ngôn mà tôi đã dẫn ở trên (Ôi! say khướt...) là đến hai câu gạch đầu dòng này kết thúc bài thơ. Có thể hiểu câu Yêu bằng mộng... là lời cô gái chăng, và câu Đây sự thực... là lời “tôi”-chàng trai chăng. Cũng có thể hiểu cả hai câu là hai ý nghĩ vật lộn, đan xen trong tâm trí của ‘tôi” chăng. Hiểu cách gì thì cũng thấy toát lên một ý là Bích Khê trong thơ rất ám ảnh và ám gợi thân xác, nhục thể. Ngay trong bài này đã có câu Đây xác thịt ớn lên vì đã mệt. Đọc kỹ cả bài thơ Trái tim thì thấy đó như không phải nói trái tim, mà nói chuyện thân xác.

    Yêu thực là yêu bằng cả tình cảm và nhục thể. Có lẽ đối với Bích Khê thơ đẹp là thơ phải có dâm, là mộng cộng sự thực. Có thể thấy rõ điều này qua một phép so sánh hai bài thơ của Bích Khê và Hàn Mặc Tử, hai người bạn thơ gần gũi thân thiết và có nhiều điểm tương đồng. Cả hai bài cùng viết về đề tài tân hôn, cùng đều bốn khổ. Nhưng cảm hứng thì khác hẳn. Hàn Mặc Tử nghiêng về mộng nhiều hơn, sợ khi đã qua đêm tân hôn rồi thì

    Không còn ý nhị ban đầu nữa
    Sẽ chán chường và sẽ chán chê.
    Cho nên tôi tưởng tối tân hôn
    Chưa tới, còn xa để được buồn
    Để sống trong niềm thương nhớ đã
    Để còn mường tượng đến giai nhơn (VI)

    Một tâm trạng rất lãng mạn chủ nghĩa! Tâm trạng này của Hàn Mặc Tử cũng là của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ cũng có tên là Tối tân hôn. Họ Vũ coi đó là sự bắt buộc rời xứ Mộng, là từ thiên giới thanh cao phải quay về hạ giới nhơ bẩn. Tối tân hôn là thời điểm mộng chết.

    Hai xác thịt lẫn vào nhau mê mải
    Chút thơ ngây còn lại cũng vừa chôn
    Khi tỉnh dậy, bùn nhơ nới Hạ giới
    Đã dâng lên ngập quá nửa linh hồn (VII)

    Bích Khê thì khác, ông nhìn thẳng và phơi bày sự thực: Họ tưởng tân hôn êm ấm lạ / Không hay sao ốm lả hoa tàn... / Họ tưởng tân hôn êm ấm lạ / Không hay xuân kín vỡ màn trinh... Và thi nhân chúc mừng đôi lứa tân hôn:

    Mộng rớt đêm nay như chất ngọc:
    Người ta say nghiến những men tình
    Tôi hoan hô - phút giây thần diệu
    Chết giả nhưng cười trắng thủy tinh

    Có ẩn ức tâm lý gì ở đây không, nhưng về thơ thì rất baudelaire! Và cũng như lần đầu hoan hô xác thịt, lần này ông lại hoan hô tối tân hôn. Với ông, những gì liên quan đến nhục thể là đáng ngợi ca và đáng làm thơ.
    Hàn Mặc Tử gọi Bích Khê là “thi sĩ thần linh”. Ông cho thơ Bích Khê ở tập Tinh huyết có ba tính cách: 1) Thơ tượng trưng, 2) Thơ huyền diệu, và 3) Thơ trụy lạc. Nhận xét về thơ trụy lạc của bạn mình, Hàn viết: “Ở địa hạt dâm cuồng này, ta thấy thi sĩ Bích Khê hoàn toàn là Baudelaire. Vì trong tác phẩm chàng, gợi dục tình thì ít, mà làm cho người ta ghê rợn đến gớm guốc cái cảnh trần truồng khả ố thì nhiều” (VIII).

    Điều này không hẳn đúng. Loại thơ nhục thể của Bích Khê một mặt, thể hiện niềm khát sống, niềm hoan lạc trần thế của con người nói chung, của chính nhà thơ nói riêng. Mặt khác, Bích Khê đã nâng khoái cảm nhục thể ấy lên thành một nguồn cảm hứng, một mỹ học thơ. Thơ “lõa thể” của ông đọc lên không thấy gợi dục tình theo hướng xấu xa, điều này Hàn Mặc Tử nói đúng, nhưng cũng không hề gợi cảm giác ghê rợn, gớm guốc. Đọc chúng, ta được khoái cảm tổng hợp của sự tương giao âm thanh, màu sắc, hương thơm như một đặc tính cốt yếu của thơ tượng trưng. Tính chất “thần linh” của Bích Khê, nếu có, thì không chỉ ở những bài thơ huyền diệu, siêu thoát, mà ở cả chỗ này nữa: ông nói tục mà thanh, ông nói những điều khó nói mà nói được một cách tự nhiên, thanh thoát. Ta hiểu thêm một lý do nữa vì sao ông thích thú và gần gũi với Hồ Xuân Hương đến vậy. Và ta cũng hiểu vì sao Bích Khê lại gọi Baudelaire là “Vua Thi Sĩ”, vì ông đã học được bao nhiều mùi thi vị ở tác giả Hoa Ác (Les Fleurs du Mal):

    Có những mùi hương mát như da thịt trẻ con
    Êm nhẹ như tiếng sáo, xanh mướt như cỏ non
    Và những mùi hương oanh liệt, phong phú và trụy lạc


    - Tỏa khắp không gian như những cái vô hạn, vô cùng
    Như nhựa thơm, như xạ, như hương trầm
    Hát ca những khoái lạc của tinh thần và thể xác (IX)
    (Bản dịch của Vũ Đình Liên)

    và ông muốn phà hơi lên cho mùi thi vị đó từ Baudelaire truyền nhiễm thấu trần ai (Ăn mày).
    Cuối cùng, tất cả tan hòa, khi Nàng bước tới...

    Nàng! nàng! nàng! không có nữa châu thân
    Xác là mộng mà tình là tuyệt đích
    Hỡi không gian! hãy tan ra tiếng địch
    Của lòng yêu ca ngợi tuyệt vời cao
    Hỡi trần gian! hãy chết ngột trong sao
    Cho chân lý ngời ra như lưỡi kiếm
    Cho tình ta xô dồn sang cực điểm
    Và hào quang khiêu vũ với hào quang...

    Thân xác, nhục thể tắm gội trong một tâm hồn mang khí vị thần linh của thi sĩ đã biến thành hào quang lung linh. Thơ lõa thể của Bích Khê đã phát quang như vậy. Và đó là phép thơ riêng của ông. Một phép thơ đã để lại những lời thơ đầy hơi hám, nghĩa là có mùi vị, nghĩa là không bị tiệt trùng, nghĩa là sống, mà Bích Khê tin chắc là tay khách đa tình sẽ chuyển trao. Niềm tin của ông đã thành sự thực. Thơ lõa thể của ông một thời gian dài bị im lặng, nay được đem ra đọc, và còn nói được nhiều điều cho thơ và các nhà thơ hôm nay.



    Hà Nội rằm Giêng Bính Tuất (2006)
    • Phạm Xuân Nguyên
    Ghi chú: Bài này đã đọc tại hội thảo Thơ Bích Khê do Hội Nhà văn Việt Nam và Hội văn học nghệ thuật Quảng Ngãi tổ chức tại thị xã Quảng Ngãi (20-21/2/2006) và đã đăng tạp chí Nghiên Cứu Văn Học (Viện Văn Học) số 4/2006.
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 03-03-2010, 02:33 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      Thi sĩ Bích Khê, người công dân trung thành của "vương quốc Trường thơ Loạn".

      Bích Khê (1916 -1946) là một nhà thơ tiền chiến nổi tiếng của Việt Nam.
      Ngoài bút hiệu trên, ông còn ký bút hiệu '''Lê Mộng Thu''' khi sáng tác thơ Đường luật.

      Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24 tháng 3 năm 1916 tại xã Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
      Ông là con thứ chín trong một gia đình nho học, người ông từng tuẫn tiết vì không chịu theo Nguyễn Thân đàn áp cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Cha ông từng tham gia phong trào Đông Du của Phan Bội Châu.
      Thuở nhỏ, Bích Khê học tiểu học ở Phước Lộc và Đồng Hới, học trung học ở Huế rồi ra Hà Nội học ban tú tài nhưng nửa chừng bỏ dở.

      Năm 1931, 15 tuổi, ông đã biết làm thơ Đường luật, ca trù.
      Năm 1934, cùng người chị ruột tên Ngọc Sương vào Phan Thiết mở trường dạy học tư và học thêm.
      Năm 1936, chị Ngọc sương bị mật thám Pháp bắt, trường đóng cửa, Bích Khê trở lại quê nhà.
      Năm 1937, bị bệnh phổi, sau khi điều trị trở về lên sống trên núi Thiên Ấn thuộc Quảng Ngãi, rồi lại ngược xuôi trên một chiếc thuyền quanh các ngả Sa Kỳ - Trà Khúc.
      Năm 1938, lại cùng chị Ngọc Sương (khi ấy đã được thả) vào Phan Thiết mở trường dạy học, được vài năm lại bị chính quyền Pháp ra lệnh đóng cửa.
      Năm 1941, Bích Khê dạy học ỏ Huế.
      Năm 1942, bệnh phổi tái phát, ông trở về Thu Xà. huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
      Ngày 17 tháng 1 năm 1946, Bích Khê lìa bỏ cõi đời và cõi thơ lúc 30 tuổi.

      Trước khi đến với Thơ mới, một thời gian dài (1931-1936), Bích Khê đã viết ca trù, thơ Đường luật, đăng trên các báo Tiếng Dân, Tiểu thuyết thứ Năm, Người mới...
      Sau 1937, ông chuyển hẳn sang làm thơ mới do sự tác động của Hàn Mặc Tử và chịu nhiều ảnh hưởng của nhà thơ vắn số này...

      Các sáng tác của Bích Khê:
      -Tinh Huyết (1939): tác phẩm duy nhất ra đời khi ông còn sống và rất được người yêu thơ chú ý.
      Bốn tập thơ & một tập tự truyện chưa xuất bản, gồm:
      -Tinh Hoa (sáng tác từ 1938 đến 1944)
      - Đẹp (sáng tác năm 1939)
      - Ngũ Hành Sơn (chưa có thông tin)
      - Mấy dòng thơ cũ (tập hợp khoảng 100 bài thơ đường luật đã đăng trên các báo từ 1931-1936)
      - Lột truồng (tự truyện, chưa rõ năm sáng tác).

      Người lưu giữ thơ Bích Khê đầy đủ nhất là thi sĩ Quách Tấn. Năm 1971, Quách Tấn viết và cho xuất bản cuốn Đời Bích Khê. Năm 1975, ông cho in Thơ Bích Khê (Nxb Nghĩa Bình, 1988) và Bích khê tuyển tập (Hà Nội, 1988)...
      Dù không có tuyên ngôn, nhưng trong tập Tinh huyết, các bài như: "Mộng cầm ca", "Đôi mắt", "Xuân tượng trưng", và đặc biệt là bài "Duy tân" thể hiện khá rõ quan niệm sáng tác thơ của Bích Khê.

      Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân đã chọn bài thơ này cùng với bài "Xuân tượng trưng" để in trong phần giới thiệu thơ Bích Khê.

      Trích Duy Tân:

      …Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
      Của lời thơ lóng đẹp - Hạt châu trong -
      Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
      Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng...
      ...Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo Ta
      Lời nối lời bố thí lộc tinh hoa
      Của âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy,
      Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy
      Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương
      Và mới mẻ - trên viễn cổ Đông phương!
      (Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật?)
      Thơ lõa thể! Giai nhân tuần trăng mật,
      Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người !

      Đánh giá tập thơ Tinh huyết của Bích Khê, trong bài tựa, Hàn Mặc Tử viết:
      "Ta có thể sánh văn thơ của Bích Khê như đóa hoa thần dị... Và đem phân chất, ta sẽ thấy thơ chàng gồm có ba tính cách khác nhau: Thơ tượng trưng, thơ huyền diệu và thơ trụy lạc...Sự điên cuồng ấy uyên nguyên ở một phần thiên tài, và ở một phần sự "Đau khổ"..."

      Theo Hoài Thanh và Hoài Chân thì Bích Khê có những câu thơ hay nhất Việt Nam, như:
      Ô! hay buồn vương cây ngô đồng
      Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông...

      Hay:
      Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
      Nàng là hương hay nhan sắc lên hương...

      Nhưng liền sau đó hai tác giả thú nhận:
      "Tôi chưa thể nói nhiều về Bích Khê. Tôi đã đọc không biết mấy chục lần bài ''Duy Tân''. Tôi thấy trong đó những câu thơ thật đẹp. Nhưng tôi không dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó. Hình như vẫn còn gì nữa...Còn các bài khác hoặc chưa xem hoặc mới đọc có đôi ba lần. Mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc...: (Nxb Văn học, 1988, tr. 231-232)

      Trong Từ điển văn học bộ mới, Nguyễn Huệ Chi nhận xét:
      Thơ Bích Khê mang rõ phong cách mang rõ phong cách Trường thơ Loạn. Và tính chất tượng trưng là đặc điểm quán xuyến toàn bộ thơ Bích Khê. Làm tăng tính chất tượng trưng ấy là màu sắc được sử dụng êm dịu, chói chang hay huyền ảo; và âm thanh tạo nên chất nhạc du dương cho khá nhiều bài. Tính tượng trưng đôi khi làm biến dạng hẳn cảm giác thực của người đọc và gây nên những ảo giác, khi tiếp xúc với đối tượng diễn tả của Bích Khê; cái chết rùng rợn thành hương sắc, khoái cảm xác thịt trở thành ghê gợn, và ngay cả màu sắc, âm thanh cũng không còn là màu sắc, âm thanh nữa mà trở nên hư hư, thực thực...Tuy nhiên, bút pháp tượng trưng đặc sắc và luôn tìm tòi cái mới ấy, vẫn không che giấu được hai nguồn cảm hứng thường trộn vào nhau và hằn rõ trong thơ Bích Khê, đó là nhục cảm và cuồng loạn...''

      Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, thì:
      Với Tinh huyết, "Thơ mới" chuyển từ lãng mạn sang tượng trưng và siêu thực.
      Ở Tinh huyết phần lớn là bí hiểm, nhưng vẫn có thể nhìn thấy trong đó một hồn thơ đắm đuối, cuồng nhiệt. Nhà thơ có nhiều tìm tòi đổi mới thơ ca theo hướng chủ nghĩa hiện đại, đi sâu vào cõi vô thức. Có một số bài, một số câu ý tứ mới mẻ, nhạc điệu du dương...'' (Nxb Hà Nội, 1995, tr. 215)

      Với bạn thơ, Bích Khê rất thân thiết với Hàn Mặc Tử. Hai thi sĩ này có số phận khá tương đồng: cả hai đều từ thơ cũ (thơ Đường luật) chuyển sang thơ mới, đều mắc bệnh nan y, đều tài hoa và chết trẻ.

      Năm 1935, Hàn Mặc Tử ra Phan thiết gặp Mộng Cầm, cháu Bích Khê, nên Hàn biết người cậu trẻ này. Buổi gặp gỡ giữa hai thi sĩ diễn ra khá nhạt nhẽo. Mãi đến năm 1937, khi Bích Khê đọc được những sáng tác của Hàn trong tập Đau thương (bản đánh máy), ông mới thực sự cảm phục mà thư từ qua lại.
      Gần cuối năm 1938, Bích Khê gửi cho Hàn Mặc Tử nhiều thơ, bị trả lại kèm theo lời ''khiêu khích mỉa mai (cốt làm cho chàng tức)''. Ông xé nát tập thơ đó và thề là ''Trong sáu tháng sẽ trở nên một thi sĩ phi thường, bằng không sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện làm thi sĩ nữa. Ngờ đâu sự hằn học của chàng đã bật nẩy thiên tài của chàng ra...chỉ trong vòng ba tháng thôi, chàng đã viết được tập thơ bằng máu huyết, tinh tủy và châu lệ, tất cả say sưa đắm đuối của một tâm hồn thi sĩ...'' Cuối năm 1939, tập thơ ra đời với bài tựa do Hàn Mặc Tử viết, đã gây nên một làn sóng dư luận mạnh mẽ.
      Sau, Mộng Cầm có chồng, thấy Hàn Mặc Tử cứ đau khổ mãi, trong một lần ra thăm, Bích Khê tặng cho Hàn bức ảnh của ông chụp với chị Ngọc Sương rồi giới thiệu là chị mình cũng am hiểu văn chương và rất thích thơ Hàn. Đối ảnh sinh tình, Hàn Mặc Tử viết bài ''Người Ngọc''. Trong bài, hai chữ Ngọc Sương được lồng vào thơ một cách kín đáo: ''Ta đề chữ ngọc trên tàu lá - Sương ở cung thiềm giỏ chẳng thôi - Tình ta khuấy mãi không thành khối - Nư giận đòi phen cắn phải môi...''(khi biết chuyện, Ngọc Sương đã yêu cầu em dừng ngay trò mai mối lại).
      Ngày 11 tháng 11 năm 1940, Bích Khê như người mất hồn vì sự ra đi của Hàn mặc Tử - người bạn thơ mà ông hết lòng mến yêu.(Những từ nghiêng đều trích từ thư & thơ của Hàn Mặc Tử, dẫn theo ''Hàn Mặc Tử - hôm qua & hôm nay'', Nxb Hội nhà văn, 1966, tr. 127-128)

      Và, theo Trần Thị Huyền Trang: Hàn Mặc Tử mất (1940), Trường thơ Loạn bắt đầu tan rã. Mặc dù Yến Lan, Chế Lan Viên và Bích Khê vẫn chơi thân với nhau, song không còn ai tha thiết với việc duy trì hoạt động Trường thơ. Nó còn tồn tại một thời gian nữa, rải rác trong các sáng tác của Bích Khê và kết thúc cùng với sự qua đời của "người công dân trung thành của vương quốc (Trường thơ Loạn)" là Bích Khê vào năm 1946.'' (Hàn Mặc Tử, hương thơm và mật đắng'', Nxb Hội nhà văn, 1990, tr. 56-57).

      Thơ Bích Khê:

      Làng em
      Nơi đây: làng cũ buồn hiu quạnh !
      Anh có khi nào trở lại chưa ?
      Ngày đi chậm lắm, dòng sông biếc
      Hừng sáng trong trời sợi sợi mưa.

      Nơi đây thành phố đời ngưng mạch
      Mấy nàng lai khách vẫn buồn mơ
      Đường lên hội quán sương khuya xuống
      Đâu mấy chàng trai rõi nhớ hồ?

      Anh có khi nào còn trở lại
      Chờ lúc hoàng hôn trăng đã lên
      Tìm ngõ nhà em anh sẽ thấy
      Khóm lan thơm nặng khí ưu phiền.

      Là lúc về đêm trên mái ngói
      Những nhành nhãn muộn cánh dơi lay
      Em đang nổi bệnh trong phòng vắng
      Tình đậm theo trăng sáng sáng đầy...


      Nấm mộ
      Mây tuyết thời gian bay tợ nhạc
      Hồn tôi đã thoát để tiêu dao
      Những tờ thơ nát đầy hơi hám
      Tay khách đa tình sẽ chuyển trao
      Rồi những mùa thu vô hạn thương
      Trở về dưới biếc chập chờn hương
      Mùa thu ám ảnh nhà thi sĩ
      Muốn thổi tiêu vàng giữa khói sương''
      Gió tiêu sẽ quạt buồn thanh tịnh
      Về chốn thôn già viếng mả tôi
      Đầy cỏ xanh xao mây lớp phủ
      Trên mồ con quạ đứng im hơi.


      Ngoài ra, Bích Khê còn có nhiều bài thơ tượng trưng, như Duy tân, Tỳ bà, Nhạc, Mộng cầm ca..., nhiều bài thơ vừa tượng trưng vừa nhục cảm, như Tranh lõa thể, Xác thịt, Sắc đẹp...rất được người yêu thơ chú ý...

      Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.

      Long Xuyên, tháng 10 năm 2008.
      Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 03-03-2010, 02:31 AM.
      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      • #4

        Tỳ bà

        Nàng ơi ! Tay đêm đang giăng mềm
        Trăng đan qua cành muôn tay êm
        Mây nhung pha màu thu trên trời
        Sương lam phơi màu thu muôn nơi


        Vàng sao nằm im trên hoa gầy
        Tương tư người xưa thôi qua đây
        Ôi ! Nàng năm xưa quên lời thề
        Hoa vừa đưa hương gây đê mê


        Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
        Cây đàn yêu đương run trong mơ
        Hồn về trên môi kêu: em ơi
        Thuyền hồn không đi lên chơi vơi


        Tôi qua tìm nàng vay du dương
        Tôi mang lên lầu lên cung Thương
        Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
        Tình tang tôi nghe như tình lang


        Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
        Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
        Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
        Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi


        Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
        Sao tôi không màng kêu: em yêu
        Trăng nay không nàng như trăng thiu
        Đêm nay không nàng như đêm hiu


        Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
        Buồn sang cây tùng thăm đông quân
        Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng
        Vàng rơi ! vàng rơi: Thu mênh mông
        *****************


        Thi pháp Bích Khê

        Thụy Khuê

        Thơ Bích Khê là sự giao lưu giữa thơ cổ và thơ hiện đại, trong một kiến trúc nghệ thuật âm nhạc và hội họa. Đặc biệt trong lối tạo hình, ông đã sử dụng một phương pháp mới, lúc ấy chưa thịnh hành ở Việt Nam : phương pháp cắt dán (collage).

        Bài Tỳ bà của Bích Khê là một khúc ngâm mới, dựa trên tinh thần Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, bản dịch của Phan Huy Thực (nhiều nơi ghi là của Phan Huy Vịnh, con trai Phan Huy Thực), với những lời tuyệt bút :

        Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt,
        Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ.
        Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ,
        Tiếng tơ lặng ngắt, bấy giờ càng hay.
        Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
        Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao.
        Cung đàn trọn khúc thanh tao,
        Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
        Thuyền mấy là đông tây lặng ngắt,
        Một vầng trăng trong vắt lòng sông (Tỳ bà hành diễn nôm)

        Bích Khê chỉ mượn tinh thần của Tỳ bà hành, nhưng đã thay đổi toàn diện bối cảnh, kiến trúc âm nhạc và kiến trúc hình ảnh, để tạo ra một tác phẩm hiện đại. Tỳ bà là một cấu trúc mới, hoà hợp hai yếu tố chính: Âm nhạc và hình ảnh.

        Vàng sao nằm im trên hoa gầy
        Tương tư người xưa thôi qua đây
        Ôi ! nàng năm xưa quên lời thề
        Hoa vừa đưa hương gây đê mê

        Tôi qua tìm nàng vay du dương
        Tôi mang lên lầu lên cung Thương
        Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
        Tình tang tôi nghe như tình lang

        Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
        Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
        Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
        Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi

        Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
        Buồn sang cây tùng thăm đông quân
        Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng
        Vàng rơi ! Vàng rơi: Thu mênh mông (Tỳ bà)

        Phạm Duy, vẫn lại là người nghe được tiếng nhạc lạ trong Tỳ bà và ông đã tạo ra một bản nhạc réo rắt, âm hưởng giao thoa kim cổ.

        Kiến trúc âm nhạc trong Tỳ bà của Bích khê dựa trên âm bằng (dấu huyền hoặc không có dấu). Toàn bài hầu như không có âm trắc (sắc, hỏi, ngã, nặng). Lối lập âm này, trong thơ mới, có một số người đã làm nhưng không mấy ai thành công như Bích Khê. Vì chỉ có âm bằng nên nhạc trong thơ đổi hẳn cung bậc, không còn giống thơ cổ điển và cũng khác hẳn thơ mới.

        Về mặt tạo hình, lần đầu tiên, trong bài Tỳ bà, một thi sĩ Việt áp dụng thủ pháp cắt dán trong thơ. Nói cách khác, các hình ảnh được «cắt dán» rồi ghép cạnh nhau, cho nên ảnh sau, không dính dáng gì đến ảnh trước.
        Ví dụ, trong câu Vàng sao nằm im trên hoa gầy, hai hình ảnh vàng sao và hoa gầy, tuy không dính dáng với nhau, nhưng được tác giả cho chúng nằm im trên nhau, sự kiện này không thể có trong thơ cổ điển và thơ mới, mà các yếu tố có một liên hệ chặt chẽ, để tạo thành một câu «có nghiã». Trong khi «vàng sao nằm im trên hoa gầy» của Bích khê là một câu gần như «vô nghiã».

        Lại cần phải phân biệt một điểm nữa : việc Bích Khê đem hình ảnh sao vàng (ở trên trời) xuống, cho «nằm im» trên hoa gầy (ở dưới đất) là một động tác cắt dán, không giống với động tác của Hàn Mặc Tử trong những câu « Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối» hay « Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ / Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu» là những động tác tưởng tượng. Và trong câu : «Bóng gương lồng bóng đồ mi chập chùng », Nguyễn Gia Thiều dùng biện pháp ẩn dụ : bóng gương để chỉ nhà vua, bóng đồ mi là người cung nữ. Tóm lại, cùng mô tả một «việc» ấy, mà mỗi nhà thơ có một thủ pháp khác nhau, để cùng đi tới mục đích diễn tả nhục cảm xác thịt.

        Những phương pháp khác nhau đó, phản ánh thời đại, lối viết và cá tính của nhà thơ : Ôn Như Hầu dùng ẩn dụ, cách tạo hình trong thơ cổ điển. Hàn Mặc Tử dùng tưởng tượng, một phong cách sáng tạo hiện đại, phát triển từ Thi sơn (Parnasse). Và Bích Khê dùng phương pháp cắt dán (collage) của hội hoạ hiện đại, nhưng việc để những yếu tố hoàn toàn khác nhau lại cạnh nhau, còn là phương pháp của Siêu thực nữa.

        Cho nên có thể nói rằng ngay từ năm 1936, Bích Khê đã áp dụng những phương pháp rất mới của Tây phương để làm thơ, trong một tinh thần hết sức Đông phương.

        Cấu trúc gián đoạn

        Hình ảnh trong thơ Bích Khê là sự cát dán lắp ghép, hình ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử là tưởng tượng, vì vậy khi nhìn bề ngoài có vẻ giống nhau nhưng thật ra rất khác : thơ Bích Khê «mới» hơn Hàn Mặc Tử, vì Bích Khê tiếp nhận thêm được những kiến thức siêu thực, mà Hàn Mặc Tử chưa kịp tiếp thu, đã mất. Nhưng cùng trong hoàn cảnh bệnh hoạn, Bích Khê không cô đơn, tuyệt vọng như Hàn, nên thơ Bích Khê không đạt được mức đớn đau tuyệt tác như thơ Hàn Mặc Tử.
        Phong cách siêu thực trong thơ xẩy ra ở cả mức độ chữ, lẫn câu : Bích Khê không chỉ để hai hình ảnh khác nhau cạnh nhau, mà còn để hai câu thơ hoàn toàn khác nhau cạnh nhau, như: Vàng sao nằm im trên hoa gầy / Tương tư người xưa thôi qua đây. Câu trên là một câu mô tả sự khăng khít xác thịt : Vàng sao nằm im trên hoa gầy. Câu dưới : Tương tư người xưa thôi qua đây, mô tả sự tan vỡ, nói đúng ra là, vừa đang yêu : tương tư vừa tan vỡ : người xưa thôi qua đây. B
        Bích Khê đã đảo lộn trật tự thời gian sống, để tạo một nghịch cảnh, nghịch lý mới: thường thì người ta tương tư, rồi khăng khít và sau cùng mới lìa nhau, đằng này, người ta khăng khít trước, rồi mới tương tư, rồi xa nhau.
        Tóm lại câu thơ của Bích Khê không có logique, vì vậy mà Hoài Thanh và nhiều người khác đọc không hiểu.
        Tỳ bà là một trong những bài thơ đầu tiên của Việt Nam có cấu trúc gián đoạn : Bích Khê dán những chữ không liên lạc gì với nhau cạnh nhau, dán nhũng câu không liên lạc với nhau lại gần nhau, để tạo ra những hình ảnh hoàn toàn siêu thực: tay-đêm, giăng-mền, trăng – đan, mây-nhung, thuyền -hồn...

        Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mền
        Trăng đan qua cành muôn tay êm
        Mây nhung phơi màu thu trên trời
        Sương lam phơi màu thu muôn nơi

        Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
        Dây đàn yêu đương run trong mơ
        Hồn về trên môi kêu : em ơi
        Thuyền hồn không đi lên chơi vơi

        Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
        Sao tôi không màng kêu: em yêu
        Trăng nay không nàng như trăng thiu
        Đêm nay không nàng như đêm hiu. (Tỳ bà)

        Mỗi câu thơ của Bích Khê là một sự đứt đoạn : Bích Khê là nhà thơ tiên phong, đã đi trước thời đại, thể hiện sự đứt đoạn trong không gian và trong thâm hồn. Sự đứt đoạn của đời sống là một trong những khám phá của nghệ thuật hiện đại trong toàn bộ thơ, văn, nhạc, hoạ, từ đầu thế kỷ XX. Bởi mỗi ý nghĩ của chúng ta là một đứt đoạn, mỗi hình ảnh chúng ta nhìn thấy trong đời sống là một đứt đoạn.
        Bích Khê đã nhìn thấy sự đứt đoạn đó từ những năm 1936-39. Và bẵng đi một thời gian dài, mãi sau này, đến thập niên 60, mới thấy xuất hiện ở Thanh Tâm Tuyền và Trịnh Công Sơn.
        Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 03-03-2010, 03:06 AM.
        ----------------------------

        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

        Comment

        • #5

          Mộng cầm ca


          Đây bát ngát và thơm như sữa lúa;
          Nhựa đương lên: sức mạnh của lòng thương;
          Mùi tô hợp quyện trong tơ trăng lụa;
          Đây dạ lan hương, đây đỉnh trầm hương;
          Đây bát ngát và thơm như sữa lúa;
          - Hồn dạ hương phơ phất ở trong sương.

          Không gian tơ - không gian tơ gợn sóng;
          âm thanh gì sắp sửa... Ngọc Kiều ơi!
          Hay hơi thở của hoa hồng mơ mộng?
          Hay buồn đêm rào rạt, - ứ muôn nơi?
          Không gian tơ - không gian tơ gợn sóng;
          Ngọc Kiều ơi! - Hồn đến bến xa khơi!...

          Níu cho ta, cho ta muôn yến nguyệt,
          Ngọc Kiều ơi! - nầy khúc Lạc Mai Hoa.
          Suối tóc mát, nhúng trong vùng mộng tuyết:
          Ta đê mê, ta gảy điệu Tỳ Bà;
          Níu cho ta, cho ta muôn yến nguyệt
          Còn đây em, nầy khúc Mộng Cầm Ca.

          Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc?
          Vú non non? Da dịu dịu, êm êm?
          Đâu hang báu cho người ta phải khóc?
          - Trên môi son, ta liếc lưỡi gươm mềm!
          Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc?
          - Lưới lông mi rờn rợn ánh tơ đêm!

          Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
          Của gương hồ im lặng tợ bài thơ.
          Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nằng nặng.
          Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ.
          Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
          Của hồn thu đi lạc ở trong mơ...

          Người cho ta một thanh gươm rất sắc?
          Ô vung lên... cắt mạch nguyệt vàng xanh!
          Xẻ mạch trời, - mây xô sao, răng rắc!
          Phăng mạch đêm, - hương vỡ, ứa ngầm tinh!
          Người cho ta một thanh gươm rất sắc?
          - Ta điên rồ... múa giữa áng bình minh.
          ----------------------------

          Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

          Comment

          • #6


            Tỳ Bà

            Nàng ơi ! Tay đêm đang giăng mềm
            Trăng đan qua cành muôn tay êm
            Mây nhung pha màu thu trên trời
            Sương lam phơi màu thu muôn nơi
            Vàng sao nằm im trên hoa gầy
            Tương tư người xưa thôi qua đây
            Ôi ! Nàng năm xưa quên lời thề
            Hoa vừa đưa hương gây đê mê
            Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
            Cây đàn yêu đương run trong mơ
            Hồn về trên môi kêu: em ơi
            Thuyền hồn không đi lên chơi vơi
            Tôi qua tìm nàng vay du dương
            Tôi mang lên lầu lên cung Thương
            Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
            Tình tang tôi nghe như tình lang
            Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
            Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
            Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
            Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
            Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
            Sao tôi không màng kêu: em yêu
            Trăng nay không nàng như trăng thiu
            Đêm nay không nàng như đêm hiu
            Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
            Buồn sang cây tùng thăm đông quân
            Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng
            Vàng rơi ! vàng rơi: Thu mênh mông


            Bích Khê
            Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.

            Comment

            • #7

              Những cuộc tình duyên của Bích Khê:


              Một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ đến sáng tác của Bích Khê là phần đời tình ái của ông. Cũng như người thầy Baudelaire của mình, trước sau Bích Khê có ba người yêu. Song tất cả đều lần lượt ra khỏi cuộc đời ông để lại trong tâm hồn ông những hình bóng sâu đậm, những nỗi đau buồn khôn nguôi.


              Trước hết là một học sinh trường Hồng Đức có bí danh là Song Châu. Mối tình đầu có tính chất thơ ngây này diễn ra khoảng một năm, và đã chấm dứt khi ông bỏ trường ra đi, do hoàn cảnh lúc này của ông, và cũng do Song Châu còn quá trẻ, mới chí là “người mỹ nữ xuân mười bốn” (1). Tuy vậy ông đã dành cho mối tình này cả một chương trong tập “Tinh Huyết” với nhan đề “Châu”.

              Người thứ hai là Thanh Thủy cũng quê ở Quảng Ngãi. Tuy đã quen biết nhau từ hai năm trước ở Mũi Né, nhưng đến năm 1937, khi tác ngộ trên con sông Trà Khúc, tình yêu giữa hai bên mới nảy nở. Tưởng chừng một cuộc hôn nhân sẽ xảy ra, vì Thanh Thủy yêu Bích Khê tha thiết, và gia đình cũng khuyên ông lấy vợ, nhưng không ngờ ông lại từ chối với lý do để giữ một thứ “tình yêu thơ mộng, tình yêu thuần khiết”! (Phải chăng bên trong có một lý do xác thực hơn là tình trạng sức khỏe suy yếu?”). Để an ủi Thanh Thủy đang đổ bệnh vì thất vọng, ông gửi tặng bài thơ “Ngón giai nhân” kết thúc bằng hai câu:

              Tình anh lụy ngón giai nhân
              Sống lìa nay được ấy ngần đoàn viên.

              Người thứ ba có biệt hiệu là Ngọc Kiều (tên thật là Nhung) cũng là một học sinh, nhưng là một học sinh đã lớn theo học lớp buổi tối ở trường Quảng Thuận (1938 – 1939). Đây là một mối tình nồng nàn, chín chắn. Gia đình nhà thơ tiến hành dạm hỏi, nhưng gia đình Ngọc Kiều từ chối vì chê Bích Khê nghèo. Ngọc Kiều đau khổ đến phát điên khiến gia đình hoảng sợ buộc phải chấp nhận gả con. Nhưng một bất ngờ lớn đã xảy ra: đến lượt Bích Khê từ chối cuộc hôn nhân, vì cảm thấy mình bị xúc phạm danh dự quá lớn. Dù người yêu hết mực van xin, dù bà con, bạn bè hết sức khuyên nhủ, Bích Khê kiên quyết giữ ý kiến của mình. Tuy không có cái may mắn như Song Châu chiếm trọn một phần trong tác phẩm “Tinh Huyết”, nhưng hình ảnh của Ngọc Kiều luôn hiển hiện hay bàng bạc trong nhiều bài thơ của Bích Khê. Có khi là cái tên thật được lồng vào một chi tiết của thiên nhiên: “Nhung mây tê ngời sao kim cương” (Nghê thường). Có khi là một hình ảnh huyền ảo: “Đào nguyên trong lòng nàng đây thôi” (Tỳ bà).

              Ngoài ra Bích Khê còn có một mối tình đơn phương kín đáo nữa. Đó là một quả phụ còn trẻ rất mực đoan trang, đã từng tham gia dạy học ở trường Quảng Thuận. Mười năm sau khi Bích Khê mất, trong dịp đến thăm bà Ngọc Sương, Minh Sim – tên của người phụ nữ ấy – mới biết được chuyện này, và đau đớn nhận những bức thư chưa bao giờ được gửi đi, mà Bích Khê để lại trước khi mất.

              Tiến trình sáng tác của Bích Khê:

              Tiến trình sáng tác của Bích Khê có thể chia ra ba giai đoạn:

              1. Giai đoạn “thơ cũ”: Bích Khê bước vào làng thơ rất sớm, khi còn ở tuổi thiếu niên. Từ những năm 1931-1932, ông đã có thơ đăng ở báo “Tiếng dân”. Cho đến cuối năm 1936, nhiều bài được sáng tác theo các lối Đường luật, từ khúc và hát nói của ông đều đặn xuất hiện trên mặt báo này, và đăng rải rác ở một số báo khác như “Phụ nữ Tân Văn”, “tuần báo Đông Tây” dưới các bút danh Lê Mộng Thu, Bích Khê. Tuy tuổi đời tác giả còn trẻ, nhưng nhiều bài thơ của ông đã đạt đến trình độ già dặn, và được nhiều bậc túc nho tán thưởng. Hấp thụ truyền thống yêu nước của gia đình, đồng thời chịu ảnh hưởng của cụ Phan Bội Châu. “thơ cũ” của Bích Khê nằm trong xu hướng văn chương “ưu thời mẫn thế” hồi mấy thập kỷ đầu thế kỷ 20.

              2. Giai đoạn “Tinh Huyết”: Từ năm 1936, Bích Khê từ giã con sông dù sao cũng vẫn êm ả của “thơ cũ”, để nhảy vào dòng xoáy của “thơ mới”. Điều đó không có gì là lạ trong xu thế đổi mới tất yếu của thơ ca Việt Nam đường thời, mà Hàn Mặc Tử cũng là một trường hợp tiêu biểu. Có lạ chăng là một khi đã chuyển hướng, Bích Khê muốn vượt lên đi đến một cuộc “Duy tân” (tên một bài thơ nổi tiếng của ông) thật mạnh mẽ, sâu sắc và táo bạo đối với thi ca. Để làm việc này, Bích Khê đã tìm đến các trường phái thi ca hiện đại của Phương Tây cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20: chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa siêu thực. Đặc biệt ông chịu ảnh hưởng của mỹ học Baudelaire mà ông tôn làm “Vua thi sĩ” (“Người ăn mày” – “Tinh Huyết”). Nhưng ông không dừng ở đó, mà còn tiếp biến nhiều quan điểm nghệ thuật khác của các nhân vật cự phách thuộc các trường phái nói trên: Rimbaud, Verlaine, Mallarmé v.v… Đương nhiên ông không phải là người độc nhất trong số các nhà thơ đương thời đã tiếp nhận ảnh hưởng của phương Tây, nhưng ông là người hơn ai hết muốn đi đến tận cùng của lý thuyết các trường phái ấy.

              Tuy nhiên, trong khi hướng mạnh về phương Tây, Bích Khê vẫn giữ những mối liên hệ mật thiết, bền chặt với các truyền thống văn hóa, văn học Phương Đông và dân tộc. Lý Bạch của Trung Quốc, Hồ Xuân Hương và Tản Đà của Việt Nam vẫn để những dấu vết sâu đậm trong thơ ông. Và nếu Hàn Mặc Tử tìm nguồn cảm hứng trong Thiên Chúa giáo, thì Bích Khê đến với Phật giáo và Đạo giáo.

              Tất cả những điều này chi phối mạnh mẽ hoạt động sáng tác của Bích Khê, nhất là trong thời gian đầu của quá trình chuyển hướng sang thơ mới, mà kết quả là sự ra đời của tập thơ “Tinh Huyết” vào cuối năm 1939, tập thơ đã được Hàn Mặc Tử đón nhận như “Một bông hoa lạ nở hương” (Tựa tập thơ “Tinh Huyết”).

              3. Giai đoạn “Tinh Hoa”: Từ sau “Tinh Huyết” cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng, mặc dù sức khỏe ngày càng suy giảm, Bích Khê vẫn tiếp tục sáng tác. Nhưng giờ đây người ta sẽ bắt gặp một Bích Khê khác. “Tinh Huyết” là cả một bầu máu nóng của tuổi trẻ với những ưu điểm, nhược điểm của nó. Sự háo hức đi tìm cái mới lạ, sự sôi nổi trong cảm hứng sáng tạo, một mặt đem lại sức sống và tính độc đáo cho các bài thơ, nhưng mặt khác có lúc cũng dẫn đến những gì còn sượng, chưa nhuần nhị. Có thể nói đó mới là một cuộc thử nghiệm táo bạo. Đến “Tinh Hoa”, sự bồng bột ban đầu lắng xuống, những cái gì quá đà được gạn lọc để hiện lên một Bích Khê chín chắn hơn, cả về tâm hồn lẫn nghệ thuật. Một sự so sánh những bài thơ trong dạng ban đầu trong “Tinh Huyết”, với những văn bản đã được sửa đổi của chung in trong tập “Tinh Hoa” sẽ cho ta thấy một phần quan trọng của sự chuyển hướng ấy. Trong sự kết hợp Đông – Tây, nếu trước kia ảnh hưởng của phương Tây có phần mạnh hơn, thì bây giờ yếu tố “Đông” trỗi dậy để tạo ra sự hài hòa trong nội dung cũng như trong hình thức. Nói cách khác, “Tinh Hoa” là một cuộc trở về: trở về với những lối thơ truyền thống cùng những âm hưởng quen thuộc, nhưng cấu trúc không hoàn toàn như cũ; trở về với cách nghĩ, điệu cảm quen thuộc nhưng với một tâm trạng của con người thời đại mới. Tuy nhiên ông vẫn giữ một sự nhất quán về những quan niệm nghệ thuật cơ bản của mình.

              Có thể khái quát tiến trình thơ của Bích Khê như sau: “Tinh Huyết” là phủ định của “thơ cũ”, và “Tinh Hoa” là phủ định của “Tinh Huyết” vậy!( Dĩ nhiên, đây là phủ định theo kiểu triết học biện chứng “phủ định của phủ định”)

              Cuộc đời của người thi sĩ tài hoa bạc mệnh quá ngắn ngủi, nhưng ông đã kịp hoàn thành ba tập thơ:

              - “Những dòng thơ cũ” tập hợp các bài thơ cũ được sáng tác trong khoảng 1931 – 1936 chưa xuất bản.

              - “Tinh Huyết” được xuất bản vào tháng 12 năm 1939

              - “Tinh Hoa” (2) được xuất bản trọn vẹn vào tháng giêng năm 1997 (trước đó đã được trích đăng một số bài trên các sách, báo trước và sau 1975).



              _____________________
              • Chú thích:
              • 1 -“Tinh Hoa” – “Tấm bia trước mộ thơ”
              2. Có một số tài liệu ghi Bích Khê còn có các tập thơ “Đẹp”, “Ngũ hành sơn”. Điều ấy không đúng. Đó chỉ là những cái tên mà ông dự định đặt cho tập thơ thứ hai, trước khi dừng lại ở cái tên chính thức: “Tinh Hoa”. Bích Khê cũng không hề viết thiên tự truyện “Lột truồng” như có người đã nói.


              %%%%%%%%%%%%%%%%%

              Mít nhỏ , Mít thử vào link này "tham khảo " :

              Link

              CO chúc Mít nhỏ vui !
              Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 04-03-2010, 06:51 PM.
              ----------------------------

              Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

              Comment

              Working...
              X
              Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom