• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Tiếng khóc thành thơ của một bà hoàng

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Tiếng khóc thành thơ của một bà hoàng

    Tiếng khóc thành thơ của một bà hoàng





    "Ai tư vãn", dòng huyết lệ của nỗi buồn đau tưởng nhớ, tiếng khóc thành thơ của một bà hoàng, một trong những tác phẩm sáng giá nhất (và có thể là sớm nhất) viết về người anh hùng kiệt xuất Quang Trung Nguyễn Huệ. Bấy nhiêu đó có lẽ đã là quá đủ để Ngọc Hân công chúa lưu danh trong lịch sử văn chương dân tộc.

    Trong "Từ điển văn học" (bộ mới. NXB Thế giới, 2004), ở mục từ "Ai tư vãn", nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc viết: "Lê Ngọc Hân (1770 - 1799) là con gái thứ 21 của vua Lê Hiển Tông. Mẹ đẻ là người làng Phù Ninh, huyện Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Từ bé đã thông kinh sử và biết làm thơ văn. Năm 1786, mới 16 tuổi nàng được vua cha cho kết duyên với Nguyễn Huệ lúc Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh. Sau đó, Nguyễn Huệ lên làm vua. Năm Kỷ Dậu (1789) chiến thắng quân Thanh, vua Quang Trung lập Ngọc Hân làm Bắc cung Hoàng hậu. Năm Nhâm Tý (1792) nhà vua qua đời, để lại cho Ngọc Hân hai con nhỏ. Ngọc Hân rất đau khổ, nàng làm bài "Ai tư vãn" để khóc chồng. Sau khi Ngọc Hân mất, triều đình Tây Sơn truy tặng miếu hiệu là Như ý Trang Thận Trinh Nhất Vũ Hoàng hậu" (Sđd, tr24).

    Từ một vài thông tin ngắn gọn về tác giả tác phẩm như trên, có thể gảy ra mấy ý như sau. Thứ nhất, Lê Ngọc Hân là một bà hoàng làm thơ. Đây là trường hợp hy hữu trong lịch sử thi ca Việt Nam: văn chương trung đại ở ta không hiếm những ông hoàng làm thơ (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Minh Tông, Lê Thánh Tông, Tự Đức...), nhưng bà hoàng làm thơ - và lại là loại thơ có thể lưu truyền hậu thế - thì cực ít.

    Thứ hai, đây là "nhà thơ một bài". Vì, tuy nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc viết: "Từ bé đã thông kinh sử và biết làm thơ văn", nhưng về mặt tư liệu, cho đến nay vẫn chưa ai tìm thấy tác phẩm nào khác của Ngọc Hân công chúa ngoài "Ai tư vãn".

    Thứ ba, "Ai tư vãn" được Ngọc Hân công chúa viết ra có lẽ không với dụng ý "làm thơ", mà đó là tiếng khóc thành thơ, là tâm trạng buồn đau khôn xiết đã mượn được cấu trúc âm điệu sẵn có của thể song thất lục bát mà cất lên lời.

    Điểm thứ ba này - trong một so sánh có thể hơi khập khiễng - khiến ta nghĩ đến trường hợp cuốn nhật ký của bác sỹ - liệt sỹ Đặng Thùy Trâm vài năm gần đây: người viết không định "làm văn", nhưng chính sự "không định làm văn" ấy đã góp phần tạo ra một hiệu quả xã hội to lớn cho văn bản khi nó xuất hiện trước công chúng độc giả.

    "Ai tư vãn", như chính tên gọi của nó - Bài vãn ca về nỗi buồn đau tưởng nhớ - là tác phẩm nói lên một tâm trạng, chứ không phải tác phẩm chuyển tải một luận đề hay kể lại một câu chuyện. Và đây là tâm trạng của chính tác giả - Ngọc Hân công chúa, một con người cụ thể, được lưu lại trong biên niên sử - chứ không phải tâm trạng của một nhân vật văn chương (người vợ có chồng đi lính trong "Chinh phụ ngâm", hay người cung nữ bị thất sủng trong "Cung oán ngâm").

    Tâm trạng ấy khởi lên từ mối quan hệ với một con người cũng rất cụ thể, được lưu lại trong biên niên sử - hoàng đế Quang Trung - chứ không phải từ một nhân vật của văn chương (người chinh phụ trong "Chinh phụ ngâm", hay đấng thiên tử háo sắc và bạc bẽo trong "Cung oán ngâm"). Điểm này ít ra cũng cho ta thấy được một nét khác của "Ai tư vãn" khi so sánh nó với hai tác phẩm, có thể nói là hai kiệt tác, thuộc thể song thất lục bát trong văn học trung đại, mặc dù ảnh hưởng của "Chinh phụ ngâm" và "Cung oán ngâm" trên "Ai tư vãn" là điều không cần phải bàn cãi.
    Mạch tâm trạng của chủ thể trữ tình trong "Ai tư vãn", theo chiều thời gian, chạy suốt từ quá khứ tới hiện tại, từ nỗi nhớ về hình ảnh lúc sinh thời của người đã khuất tới những cảm nhận về sự mất mát đang hiện hữu quanh mình.

    Thoạt tiên là nỗi nhớ về "khởi điểm của mọi khởi điểm", tức lúc đôi trai tài gái sắc kết duyên phu phụ:

    "Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc
    Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương
    Xe dây vâng mệnh phụ hoàng
    Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy".

    Ngọc Hân công chúa không "giấu giếm" sự thật về cuộc hôn nhân của mình: bốn chữ "vâng mệnh phụ hoàng" đã cho thấy đó là cuộc hôn nhân vương giả với không ít những ý đồ, những mưu toan chính trị của cả hai bên được ẩn vào bên trong.

    Đọc "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" ta biết rằng Nguyễn Hữu Chỉnh chính là kiến trúc sư của mối quan hệ thông gia giữa hai nhà Lê - Tây Sơn. Với sự mai mối của Cống Chỉnh, vua Lê Hiển Tông đã thuận gả con gái yêu cho Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ, hòng có một sự bảo trợ vững chắc cho cái ngai vàng đang tới hồi mục ruỗng của mình.
    (Trong bài "Gửi lệ vào thiên thu" in trên Chuyên đề An ninh thế giới Cuối tháng năm 2009, người viết bài này đã có nhầm lẫn đáng tiếc khi viết rằng Ngọc Hân công chúa là con của vua Lê Chiêu Thống - thật ra quan hệ giữa hai người là... cô cháu! Một bài học: đừng bao giờ tin hoàn toàn vào trí nhớ của mình, kiểm tra lại tư liệu không khi nào là thừa).

    Dẫu vậy, vượt qua những toan tính thực dụng ban đầu của cuộc hôn nhân vương giả, Lê Ngọc Hân và Nguyễn Huệ đã sống một đời sống vợ chồng chứa chan tình nghĩa :

    Nhờ hồng phúc gội cành hòe quế
    Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi

    và mơ ước tới sự lâu bền của hạnh phúc ấy :

    Những ao ước chập trung tuổi hạc
    Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui

    Thế nhưng:

    "Ngán thay máy Tạo đất bằng
    Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!".

    Quang Trung băng hà, để lại một sự nghiệp hiển hách với bao hoài bão to lớn chưa kịp thực hiện, để lại trên đời vợ góa con côi. Người thác, nhưng còn dư ảnh. Và chính cái dư ảnh ấy đã khiến cho người đang sống không ít phen phải rơi vào trạng thái nửa thực nửa mộng, tựa như bị thôi miên:

    "Khi trận gió hoa bay thấp thoáng
    Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu
    Vội vàng sửa áo lên chầu
    Thương ôi quạnh quẽ trước lầu nhện giăng
    Khi bóng trăng lá in lấp lánh
    Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi
    Vội vàng dạo bước tới nơi
    Thương ôi vắng vẻ giữa trời sương sa!".

    Đọc những câu Ngọc Hân công chúa ghi lại sự trải nghiệm cá nhân này, không hồ nghi gì nữa, cái tình thực của cổ nhân đã hằn trên dòng chảy thời gian, như một minh chứng cho nỗi đau khôn xiết.

    Trong hồi tưởng của Ngọc Hân công chúa, bằng những câu thơ cực tả, vua Quang Trung đã hiện lên lồng lộng với kích thước của những vĩ nhân trong huyền thoại:

    "Nghe trước có đấng vương Thang, Võ
    Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao
    Mà nay áo vải cờ đào
    Giúp dân dựng nước biết bao công trình
    Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn
    Công đức dầy ngự vận càng lâu
    Mà nay lượng cả ơn sâu
    Móc mưa tưới khắp chín châu đượm nhuần!"

    Xét từ quan điểm ý thức hệ, cách nhìn nhận đánh giá về Quang Trung Nguyễn Huệ như vậy tuyệt nhiên không thể có ở những người phò Lê hay theo Nguyễn - nó gần với quan điểm của nhà sử học cách mạng hơn nhiều! Dù sao chăng nữa, qua đoạn thơ này, ít nhất tác giả cũng đã lưu lại được dấu ấn của mình trong văn học sử dân tộc với một cụm từ định tính (có sức phổ biến rất rộng và lâu bền) cho nhân vật lịch sử Quang Trung: "Áo vải cờ đào". Chẳng lẽ đó không phải là một điều đáng kể?

    Từ hồi tưởng quá khứ tới những cảm nhận hiện tại là cả một niềm đau đớn, một "đích lịch trình khổ nạn" với tác giả "Ai tư vãn". Bà cho hậu thế thấy điều đó bằng sự đối lập Xưa/ Giờ:

    "Xưa sao sớm hỏi khuya bầy
    Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ
    Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ
    Tình cô đơn ai kẻ xét đâu
    Xưa sao gang tấc gần chầu
    Trước sân phong nguyệt trên lầu sinh ca
    Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi
    Tin hàn huyên khôn hỏi thăm lênh
    Nửa cung gẫy, phiếm cầm lành
    Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ".

    Nếu xét tới "thân thế sự nghiệp" của tác giả (xin nhấn mạnh: một bà hoàng), người đọc tất sẽ không tránh khỏi cảm giác ngậm ngùi khi đọc đoạn thơ này. Không còn là một bà hoàng sống trong nhung lụa và đau nỗi đau vương giả nữa. Tuyệt nhiên không. Chỉ còn là một góa phụ, một người đàn bà hết sức bình thường đang sống trong tâm trạng đầy sợ hãi khi phải đối diện với viễn cảnh mẹ góa con côi bơ vơ giữa biển đời dông tố! (Có lẽ là không thừa nếu nhìn qua một chút cái bối cảnh chính trị - xã hội sau khi vua Quang Trung băng hà: ở phía Bắc, những lực lượng phù Lê chính thống đang có cơ trỗi dậy; ở miền Trung, "ông bác" Nguyễn Nhạc vẫn an nhiên xưng đế; và đáng sợ hơn cả là ở Gia Định, nơi quân lực của chúa Nguyễn đang nuôi tham vọng gồm thâu toàn bộ đất nước).

    "Đời" hơn nên đau hơn, nên hoang mang hơn, mờ mịt hơn khi người viết tự đặt mình trong cái mênh mông của không gian:

    "Trông mái đông lá buồm xuôi ngược
    Thấy mênh mông những nước cùng mây
    Đông rồi thời lại trông tây
    Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà
    Trông nam thấy nhạn sa lác đác
    Trông bắc thôi ngàn bạc màu sương
    No trông trời đất bốn phương
    Cõi tiên khơi thẳm biết đường nào đi".

    Phóng tầm mắt, cũng là trải lòng mình ra khắp bốn phương trời, đây là điều thật ra Ngọc Hân công chúa, dù muốn hay không, đã học được từ người vợ lính trong "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn. Thế nhưng, là tâm sự của một con người cụ thể trong hoàn cảnh cụ thể, có thể nói, nỗi thấm thía về cái mất mát mà "Ai tư vãn" của Lê Ngọc Hân đặt trên người đọc đã có được một sức lan truyền đặc biệt.

    Thế kỷ XVIII - tiền bán thế kỷ XIX, giai đoạn "vàng" của văn học Việt Nam trung đại. Tính chất "vàng" của giai đoạn này đã được các nhà nghiên cứu lịch sử văn học chứng minh trên nhiều phương diện (đội ngũ tác giả, cảm hứng nhân văn, sự xuất hiện các thể loại mới bằng chữ Nôm v.v...), người viết chỉ xin nhắc đến một điểm nhỏ: đây là giai đoạn bừng nở của những tác giả nữ sáng giá, điều dường như không thể có trong bảy, tám thế kỷ văn chương trước kia: Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, và Ngọc Hân công chúa.

    "Nhà thơ một bài" Lê Ngọc Hân, nếu xét từ giác độ một sự nghiệp văn chương cũng như sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật thì có thể "lép" hơn một chút so với ba tác giả kể trên - ấy là kẻ hậu nhân bạo gan mà làm cái việc "cân đo" như vậy - song bà vẫn có một vị thế riêng.

    "Ai tư vãn", dòng huyết lệ của nỗi buồn đau tưởng nhớ, tiếng khóc thành thơ của một bà hoàng, một trong những tác phẩm sáng giá nhất (và có thể là sớm nhất) viết về người anh hùng kiệt xuất Quang Trung Nguyễn Huệ. Bấy nhiêu đó có lẽ đã là quá đủ để Ngọc Hân công chúa lưu danh trong lịch sử văn chương dân tộc


    Hoài Nam




    ******************


    Cái chết của Hoàng Đế Quang Trung là bước ngoặt lùi trọng đại của dân tộc Việt Nam, và là sự kiện bi thảm của cuộc đời Hoàng Hậu Ngọc Hân.

    Bà viết Tế Vua Quang Trung và Ai Tư Vãn để bày tỏ nỗi lòng đau khổ và tiếc thương chồng. Bài vãn này gồm 164 câu, viết theo thể Song thất lục bát.

    AI TƯ VÃN

    Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo
    Trước thềm lan, hoa héo ron ron.
    Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non,
    Xe rồng thăm thẳm, bóng loan dàu dàu.

    Nỗi lai lịch dễ hầu than thở
    Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao?
    Sầu sầu, thảm thảm xiết bao...
    Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời!

    Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,
    Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
    Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
    Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy.

    Trăm ngàn dặm quản chi non nước;
    Chữ "nghi gia" mừng được phải duyên.
    Sang yêu muôn đội ơn trên,
    Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.

    Lượng che chở, vụng lầm nào kể.
    Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời.
    Dẫu rằng non nước biến dời,
    Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.

    Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
    Khắp tôn thân cùng đội ơn sang.
    Miếu đường còn dấu chưng thường,
    Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.

    Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế
    Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi
    Non Nam lần chúc tuổi trời,
    Dâng câu Thiên Bảo, bày lời Hoa Phong.

    Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
    Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui.
    Nào hay sông cạn, bể vùi,
    Lòng trời giáo giở, vận người biệt ly.

    Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
    Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
    Xiết bao kinh sợ, lo phiền,
    Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.

    Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
    Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
    Ngán thay, máy Tạo bất bằng,
    Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan.

    Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy,
    Kể sum vầy đã mấy năm nay?
    Lênh đênh chút phận bèo mây,
    Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu?

    Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
    Biết cậy ai dập nỗi bi thương?
    Trông mong luống những mơ màng,
    Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.

    Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
    Ngỡ hương trời bảng bảng còn đâu:
    Vội vàng sửa áo lên chầu,
    Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng.

    Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
    Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi.
    Vội vàng dạo bước tới nơi,
    Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa!

    Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
    Mặt rồng sao cách gián lâu nay,
    Có ai chốn ấy về đây,
    Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành?

    Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
    Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen.
    Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
    Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.

    Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
    Công nghiệp nhiều tuổi thọ thêm cao;
    Mà nay áo vải cờ đào,
    Giúp dân dựng nước xiết bao công trình!

    Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
    Công đức dày, ngự vận càng lâu;
    Mà nay lượng cả, ơn sâu,
    Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.

    Công dường ấy, mà nhân dường ấy,
    Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công?
    Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
    Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.

    Buồn thay nhẽ, sương rơi gió lọt,
    Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa.
    Tưởng lời di chúc thiết tha,
    Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê.

    Buồn thay nhẽ, xuân về hoa ở,
    Mối sầu riêng ai gỡ cho xong,
    Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
    Trên rường nào ngại giữa dòng nào e.

    Con trứng nước thương vì đôi chút,
    Chữ tình thâm chưa thoát được đi,
    Vậy nên nấn ná đòi khi,
    Hình tuy còn ở, phách thì đã theo;

    Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo,
    Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân,
    Theo xa thôi lại theo gần,
    Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.

    Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh,
    Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao!
    Mơ màng thêm nỗi khát khao,
    Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi?

    Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
    Nguyệt đồng sinh sao đã kíp phai?
    Xưa sao sớm hỏi khuya bày,
    Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.

    Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ,
    Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu?
    Xưa sao gang tấc gần chầu,
    Trước sân phong nguyệt, trên lầu sính ca.

    Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
    Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh.
    Nửa cung gẫy phím cầm lành,
    Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!

    Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc,
    Tiếng tử quy thêm giục lòng thương.
    Não người thay, cảnh tiên hương,
    Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.

    Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
    Thấy mênh mông những nước cùng mây,
    Đông rồi thì lại trông tây:
    Thấy non cao ngất, thấy cây rườm rà.

    Trông Nam thấy nhạn sa lác đác,
    Trông Bắc thời ngàn bạc màu sương.
    Nọ trông trời đất bốn phương,
    Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi.

    Cậy ai có phép gì tới đó,
    Dâng vật thường xin ngỏ lòng trung,
    Này gương là của Hán cung
    Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.

    Duyên hảo hợp xót rày nên lẽ,
    Bụng ai hoài vội ghẻ vì đâu?
    Xin đưa gương ấy về chầu,
    Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.

    Tưởng linh sàng nhơn nhơn còn dấu,
    Nỗi sinh cơ có thấu cho không?
    Cung xanh đang tuổi ấu xung
    Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương?

    Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm
    Đầu mũ mao, mình tấm áo gai,
    U ơ ra trước hương đài,
    Tưởng quang cảnh ấy chua cay lòng này.

    Trong sáu viện ố đào, ủ liễu
    Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê
    Long đong xa cách hương quê,
    Mong theo: lầm lối, mong về: tủi duyên.

    Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ
    Cất chân tay thương khó xiết chi.
    Hang sâu nghe tiếng thương bi,
    Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân.

    Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
    Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi?
    Càng trông càng một xa vời,
    Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng?

    Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi,
    Gương Hằng Nga đã bụi màu trong.
    Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
    Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.

    Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn,
    Cánh hải đường đã quyện giọt sương.
    Trông chim càng dễ đoạn trường
    Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.

    Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy
    Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu?
    Phút giây bãi bể nương dâu,
    Cuộc đời là thế biết hầu nài sao?

    Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng,
    Nỗi đoạn trường còn sống còn đau.
    Mấy lời tâm sự trước sau,
    Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.

    LÊ NGỌC HÂN
    (1770 - 1799)

    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 19-03-2010, 09:12 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    Những nỗi oan khiên của nàng “Chúa tiên”

    Đó là công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ 9 của vua Lê Hiển Tông. Cả kinh thành Thăng Long ở thập kỷ thứ 8 của thế kỷ 18, đều gọi nàng là “Chúa tiên”. Bởi, dung nhan xinh đẹp, cầm kỳ thi họa đủ tài xuất chúng, đây chính là sắc hương của kinh đô nước Việt một thời.

    Năm “Chúa tiên” 16 tuổi (1786), cả đất nước, kinh thành và vương triều nhà Hậu Lê, đều gặp cơn biến động lớn. Tây Sơn Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, bằng “chiến dịch kép” Phú Xuân – Thăng Long, đã xóa sổ thế lực các Chúa nhà Trịnh. Và, với danh nghĩa “Phù Lê”, được vua Lê Hiển Tông phong làm “Nguyên soái Phù chính Dực vũ Uy Quốc công”. Một cuộc “hôn nhân chính trị” để liên kết vương triều nhà Hậu Lê với thế lực Tây Sơn cũng được tính toan liền đấy. Và thế là thành một đám cưới linh đình suốt hai ngày (10 và 11 tháng bảy âm lịch) năm 1786 – sự kiện nghìn năm chưa từng thấy ở chốn đế đô: gả Chúa tiên cho thủ lĩnh Tây Sơn!



    Tượng Hoàng hậu Lê Ngọc Hân
    "thờ kín" ở Đền Ghềnh

    Cuộc tình duyên siêu hạng giữa Ngọc Hân và Nguyễn Huệ chỉ kéo dài 6 năm. Nhưng ở ngay năm đầu tiên gắn bó, khó khăn – nghiêm trọng và căng thẳng – đã ập đến với nàng công chúa nhà Lê đi làm dâu nhà Tây Sơn rồi.

    Số là, vua cha Lê Hiển Tông, chỉ 6 ngày sau khi gả con gái yêu cho thủ lĩnh Tây Sơn, thì đã băng hà (ngày 17 tháng bảy âm lịch). Nhưng vẫn kịp di chúc (được ghi vào sách “Hoàng Lê nhất thống chí”) rằng: “Sau khi ta nhắm mắt, việc nối ngôi là sự trọng đại. Chuyện gì cũng phải bẩm qua với ông ấy, không được khinh suất!”
    Do đấy mà việc triều đình nhà Lê quyết định đưa Hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ lên nối ngôi, đã được “bẩm qua với ông ấy” ngay. Nhưng “ông ấy” – tức Nguyễn Huệ - lại đem “sự trọng đại” này, hỏi ý kiến người vợ trẻ mới cưới của mình – vừa là công chúa nhà Lê, vừa chính là Hoàng cô của Lê Duy Kỳ. Và đã nhận được lời khuyên sáng suốt vô tư của Ngọc Hân là: “Không chấp nhận”!

    Việc đăng quang của Lê Duy Kỳ lúc đầu bị phủ quyết, vậy là có nguyên nhân từ chính Lê Ngọc Hân. Đám cựu thần và hoàng thân quốc thích thủ cựu nhà Hậu Lê dò biết được điều này, đã nhao nhao phản ứng, dồn sức ép – thậm chí cả lời nguyền rủa lẫn đòi xóa tên khỏi “Kim sách” (Sổ vàng hoàng tộc) – đối với Ngọc Hân!

    Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Huệ - biết chắc ý kiến Ngọc Hân là đúng, nhưng để giải tỏa sức ép cho người vợ yêu – đã quyết định lại: hãy cứ cho Lê Duy Kỳ lên ngôi! Để rồi phải trả giá cho sự “dĩ hòa vi quý” của mình, bằng cả một loạt trận đánh ở mùa “Xuân lửa Đống Đa” sau đấy: quét sạch vừa là 29 vạn quân Thanh xâm lược, vừa là kẻ “cõng rắn cắn gà nhà” Lê Chiêu Thống! Chiêu Thống chính là niên hiệu trị vì của Hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ mà Ngọc Hân trước đã phản đối việc nối ngôi!

    Nguyễn Huệ tin và yêu Ngọc Hân vì những việc như thế. Cho nên, sau khi lên ngôi Quang Trung Hoàng Đế, đã phong ngay Ngọc Hân làm “Bắc cung Hoàng hậu”. Nhưng chỉ được 2 năm thì Hoàng hậu đã thành Thái hậu (góa chồng): Quang Trung đột ngột từ trần (ngày 29 tháng chín âm lịch năm 1792)!




    Tam quan Đền Ghềnh, trong Đền "thờ kín" bà Hoàng Lê Ngọc Hân

    Thiên “Ai tư vãn” của Ngọc Hân đã ra đời trong hoàn cảnh ấy. Nhưng áng thơ nôm tuyệt bút của bà Hoàng 22 tuổi – đổ máu mắt khóc chồng, và thay mặt được cả lịch sử và dân tộc mà đánh giá Quang Trung bằng (chỉ) 2 câu (nhưng) hay nhất mọi thời:

    Mà nay áo vải cờ đào

    Giúp dân dựng nước xiết bao công trình”

    – vậy mà vẫn chẳng giúp Ngọc Hân thoát được – một lần nữa – những oan khiên tệ hại. Có kẻ còn xưng xưng – nhưng vẫn được ghi lại vào sách vở như một “giả thuyết khoa học” – rằng: Quang Trung đột tử là do bị Ngọc Hân… đầu độc bởi ghen tuông!

    Chưa hết vạ này đã sang nạn khác: 7 năm sau, khi đã lặng lẽ đi theo Quang Trung vào cõi vĩnh hằng ở tuổi 29 rồi, vậy mà Ngọc Hân vẫn còn bị mắc vào một chuyện tày trời nữa: “lấy chồng hai vua”!

    Dễ dàng đọc trong “Dụ Am văn tập” của văn hào Phan Huy Ích ở thế kỷ 18, bài “Văn tế Bắc cung Hoàng hậu”, do họ Phan được vua Cảnh Thịnh – kế vị ngai vàng do vua Quang Trung để lại - ủy thác việc khóc tang Lê Ngọc Hân. Ở đó ghi rõ cả ngày tháng qua đời của Bắc cung Hoàng hậu là: mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Tị (1799)! Ấy thế mà đến năm 1802, khi vua Gia Long nhà Nguyễn đánh bại Tây Sơn Cảnh Thịnh, có việc ông vua sáng nghiệp triều Nguyễn này, nhân đà đắc thắng, đã lấy luôn “ngụy hậu” (hoàng hậu (ngụy) triều Tây Sơn) làm vợ, không ít người đã cho và tin rằng: Ngọc Hân chính là bà “ngụy hậu” đó!

    Thật tội cho người đã mất từ 3 năm trước đấy! Chỉ bởi vì cái tên “Ngọc Hân” nghe na ná như “Ngọc Bình”. Đây mới chính là “ngụy hậu” (vợ vua Cảnh Thịnh) – vốn tên gốc là Nguyễn Thị Bình, có danh nghĩa là “em gái nuôi” của Nguyễn Thị Huyền (mẹ đẻ của Ngọc Hân) – chính đã được cất nhắc lên hàng “con nuôi”, mang tên Lê Ngọc Bình, và được đem gả cho vua Cảnh Thịnh làm phi tần!

    Tuy nhiên, tất cả những oan sai bịa đặt mà Ngọc Hân phải chịu đó, đều không thể sánh được với cái nghiệt họa – đích thực và ghê gớm – sau đây:

    Bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, vì là vợ vua Lê Hiển Tông, nên sau khi chồng (và cả vương triều Hậu Lê) mất, thì vẫn giữ được quê hương làng Nành (Ninh Hiệp, Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội) một khu dinh thự khang trang (gọi là “Dinh Thiết Lâm”). Xót phận con gái Ngọc Hân sau khi mất, vẫn phải gửi thân xác ở xứ xa (Phú Xuân – Huế), bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền đã tìm cách đưa được hài cốt Bắc cung Hoàng hậu nhà Tây Sơn về an táng (ở trong Dinh Thiết Lâm) tại quê nhà. Không ngờ đến đời vua Minh Mệnh – kế nghiệp vua cha Gia Long – do tranh chấp quyền lợi và mâu thuẫn dòng tộc – có kẻ quê làng Nành (Ninh Hiệp) đã đem việc “ngụy hậu” Tây Sơn – còn thoát được việc “trả thù 9 đời” do vua Gia Long khởi xướng và thực thi – vẫn đang được “mồ yên mả đẹp” ở quê mẹ! Thế là chiếu chỉ từ triều đình Huế ban ra: lập tức đào mồ quật mả Ngọc Hân lên, san đất thành bình địa cho cỏ gai mọc đầy, còn xương cốt thì đem vứt xuống sông, phi tang tích!

    Cả một cuộc đời nhiều oan khiên của nàng “Chúa tiên” – Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân vì thế, bây giờ chỉ còn hai nơi chỗ bóng gió lưu dấu phụng thờ, là tòa miếu nhỏ ở Ninh Hiệp (Gia Lâm) và ngôi đền Ghềnh ở Bồ Đề (Long Biên), nấp dưới danh nghĩa: thờ “Cô hồn”, và: thờ “Mẫu Thoải”!


    Việt Báo (Theo Quê Hương online )
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 16-03-2010, 09:56 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      Về số phận của hai người con của vua Quang Trung và công chúa Ngọc Hân



      Bài viết được đăng lúc 10:34:48 AM, 31.03.2010



      Vua Quang Trung và Công chúa Ngọc Hân - Ảnh: Internet



      NGUYỄN ĐẮC XUÂN

      Thừa Thiên Huế tự hào có Phú Xuân là Kinh đô của nước Việt dưới thời Nguyễn Huệ Quang Trung (1788-1792). Và cũng chính nơi đây đã diễn ra cuộc trả thù nghiệt ngã của dòng họ Nguyễn Phúc dành cho họ Nguyễn Tây Sơn. Do đó những thông tin lịch sử về thời đại Quang Trung và Phong trào Tây Sơn ở Huế đã bị thủ tiêu và làm sai lệch đi khá nhiều.

      Cho mãi đến cuối triều Nguyễn, đặc biệt từ sau ngày thống nhất đất nước (1975), tại Thừa Thiên Huế mới sưu tầm, nghiên cứu, khám phá được những thông tin cần thiết để dựng lại diện mạo đích thực của thời đại anh hùng của người anh hùng Nguyễn Huệ Quang Trung. Tuy nhiên, với những cái đã đạt được vẫn chưa tương xứng với những gì đã có và chưa thỏa mãn được sự đòi hỏi của quần chúng.

      Vừa qua, nhân kỷ niệm 200 năm mất (1799-1999) của Công chúa Ngọc Hân - Bắc cung Hoàng hậu của vua Quang Trung, nhiều người muốn biết: Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, số phận hai người con của Công chúa Ngọc Hân và vua Quang Trung như thế nào? Để góp phần trả lời câu hỏi nầy tôi xin cung cấp một số tư liệu tham khảo sau đây.

      Cho đến nay giới khoa học đã khẳng định được năm qua đời của Công chúa Ngọc Hân là 1799. Tất cả những ức thuyết gì đề cập đến Công chúa mà không khớp với thời điểm Công chúa mất vào năm 1799 đều không đúng. Công chúa có với vua Quang Trung 2 người con, 1 trai (Nguyễn Văn Đức), 1 gái là Nguyễn Thị Ngọc (theo Đỗ Bang), nhưng theo Phạm Văn Diêu (Lành Mạnh, số 2, 1.11.56, tr.2) là Nguyễn Thị Ngọc Bảo. Sau khi Công chúa mất, hai con của bà vẫn ở Huế hay đi đâu chưa xác định được. Đến mùa hè năm 1801, ông Nguyễn Ánh (sau nầy là vua Gia Long) lấy lại Phú Xuân trong tay nhà Tây Sơn, tất cả những người thân của gia đình vua Quang Trung và vua Quang Toản không chạy kịp đều rơi vào tay quân Nguyễn Ánh. Barizy - một sĩ quan người Pháp theo chân Nguyễn Anh vào Phú Xuân ngay từ ngày đầu của cuộc thắng thế ở Huế, trong thư viết ngày 16.7.1801, Barizy cho biết:

      “ Nhà vua (Nguyễn Ánh) bảo tôi đi xem mặt các cô công chúa của kẻ tiếm vị (tức Quang Trung). Tôi đến đó, họ ở trong một căn phòng hơi tối, không phải là một phòng sang trọng, có tất cả 5 công chúa: 1 cô 16 tuổi, theo tôi là một cô gái đẹp, một em bé 12 tuổi là con gái của bà công chúa Bắc Kỳ (tức Ngọc Hân) em nầy cũng coi được. Còn 3 cô nữa từ 16 đến 18 tuổi thì nước da hơi nâu nhưng diện mạo cũng dễ thương. Ngoài ra còn có 3 con trai, có 1 em độ 16 tuổi cũng da nâu nhưng nét mặt thì tầm thường, còn em trai kia độ 12 tuổi là con của bà công chúa Bắc Kỳ thì diện mạo rất đáng yêu và có những cử chỉ rất dễ thương.” (1)

      Giả thuyết rằng Barizy viết đúng vào tháng 7 năm 1801 thì những người thân của các vua Nguyễn Tây Sơn đã bị giam cho đến tháng 11, rồi tất cả những người bị bắt ấy đều bị giết như Đại Nam Thực lục Chính biên - bộ biên niên sử của triều Nguyễn đã viết:

      Năm Tân dậu (1801), tháng 11:“Phá hủy mộ giặc Nguyễn Văn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu của giặc 31 người đều bị lăng trì cắt nát thây” (2)

      Nếu chúng ta tin Barizy viết đúng và chưa tìm được một tài liệu nào chứng tỏ hai người con của Công chúa Bắc Kỳ đã vượt ngục hay được Nguyễn Ánh ân xá thì ta phải tin là hai người con của Công chúa Ngọc Hân đã chịu chung số phận trong số “31 người đều bị lăng trì cắt nát thây” như Thực lục đã viết.

      Sau cuộc trả thù đó một năm, Nguyễn Ánh lấy niên hiệu là Gia Long và làm, ông lại thực hiện một cuộc giết chóc kinh khủng thứ hai nữa.Trong chiếu ra vào tháng 11 Nhâm tuất (1802) đề cập đến lễ Hiến phù (dâng những người bắt được trong chiến tranh) vua Gia Long cho biết: “ Ngày 7 tháng 11 năm Nhâm tuất (1802) yết tế Thái Miếu, làm lễ hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy thái tể Quang Huy, Nguyên súy Quang Thiệu, đốc trấn Quang Bàn, thiếu phó Trần Quang Diệu, tư đồ Võ Văn Dũng, tư mã Nguyễn Văn Tứ; đổng lý Nguyễn Văn Thận, đô ngu Nguyễn Văn Giáp, thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng...” (3)

      Trong danh sách tử tội bị hành hình lần thứ hai nầy không hề thấy có tên Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Thị Ngọc (Bảo). Điều đó củng cố thêm ý tưởng hai người con của Công chúa Ngọc Hân đã chết hồi tháng 11 năm trước rồi (tức năm 1801).

      Theo Barizy thì hai người con của Công chúa Ngọc Hân đã sa vào tay Nguyễn Ánh. Nhưng theo tài liệu của nhà Nguyễn thì không hề thấy một tư liệu nào chứng tỏ điều đó. Mà theo sử nhà Nguyễn thì hai người đó đã “chết non cả”. Chết ở đâu, lúc nào, vì sao thì chưa ai khám phá ra được. Xin đọc đoạn Thực lục sau đây của nhà Nguyễn viết về thời Thiệu Trị:

      Nhâm dần, Thiệu Trị năm thứ 2 (1842), mùa Thu, tháng 7:“Tỉnh Bắc-ninh có dân xã Phù-ninh ngầm thờ ngụy quỉ. Việc bị phát giác. Vua sai hủy bỏ đền thờ.

      (Nguyên người xã ấy là Nguyễn Thị Huyền, làm cung nhân của vua Lê Hiển tông, có người con gái là (tr.183) Ngọc Hân, sau gả cho ngụy (Nguyễn) Huệ sinh được 1 trai, 1 gái. Ngọc Hân chết, trai gái cũng chết non cả. Khoảng đầu năm Gia-long, ngụy đô đốc tên là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú-xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù-ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả dối, đổi lại họ tên để làm mất dấu tích. Tới đây, việc ấy phát giác, vua sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy đi) (4)

      Đọc kỹ đoạn trích nầy ta thấy:

      Đô đốc Hài là một tướng của Tây Sơn mà không bị Nguyễn Ánh bắt và có thể bí mật dời hài cốt của mẹ con Công chúa Ngọc Hân về chôn cất ở xã Phù Ninh. Chứng tỏ việc dời đó chỉ có thể diễn ra trước khi Nguyễn Ánh làm chủ được ở Phú Xuân tức phải trước tháng 6.1801;

      Các con bà Công chúa Ngọc Hân phải chết trước khi Nguyễn Ánh về lại Phú Xuân (6.1801) thì mới có hài cốt để cho đô đốc Hài mang về Phù-ninh;

      Thông tin dẫn trong đoạn trích trên có độ tin cậy cao, bởi vì: Đô đốc Hài làm một việc thiêng liêng, khó khăn và đầy nguy hiểm như thế không thể dời mộ sai, bà Nguyễn Thị Huyền không thể dựng bia đắp mộ cho những người không phải thân thuộc của mình; vua quan nhà Nguyễn thời Thiệu Trị không thể làm một việc thất nhân tâm đến thế mà lại làm sai đối tượng!

      Công chúa Ngọc Hân và hai người con của bà đã chết trước khi Nguyễn Ánh trở lại và làm chủ được Phú Xuân là khớp với toàn bộ những sử liệu của triều Nguyễn viết về sự kiện nầy.

      Nếu chưa tìm ra được những tư liệu gì xác đáng hơn để có thể bác bỏ được những tư liệu trên thì ta có thể tin là nếu hai người con của Công chúa Ngọc Hân không chết trước khi Nguyễn Ánh về Phú Xuân (6.1801) thì cũng phải chết trong các cuộc trả thù của Nguyễn Ánh vào tháng 11 Tân dậu (1801) và tháng 11 Nhâm tuất (1802). Tức là Hoàng tử Nguyễn Văn Đức và Công chúa Nguyễn Thị Ngọc (Bảo) không còn ở trên cõi đời cho tới cuối năm 1802.

      Thế nhưng Tiến sĩ Đỗ Bang - môt chuyên gia về Phong trào Tây Sơn, lại đưa ra một thuyết mới. Ts cho rằng mãi đến năm 1831 (sau 30 năm) Hoàng tử Nguyễn Văn Đức - con của Công chúa Ngọc Hân và vua Quang Trung, mới bị quan quân của vua Minh Mệnh bắt và “chém ngang lưng”. Thuyết mới của Ts Đỗ Bang được trình bày như sau:

      “ Theo Đại Nam chính biên liệt truyện (Q.30 tờ 55b) vào năm Minh Mạng thứ 12 (1831) quan quân nhà Nguyễn vẫn tiếp tục truy tầm hậu duệ của Tây Sơn, bắt được Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Văn Lương và Nguyễn Văn Đâu (5), Đâu là con của Đức tất cả đều bị xử “chém ngang lưng” liệt truyện ghi là 3 người trên đều là con và cháu của Nguyễn Nhạc cả.

      Nếu liệt truyện, chép nhầm Nguyễn Văn Đức là con của Nguyễn Nhạc, và cũng không có lý khi lấy niên hiệu của cha là Thái Đức lại đặt tên cho con là Đức, thì Nguyễn Văn Đức bị bắt vào năm 1831 chính là Hoàng tử của Quang Trung Hoàng đế con của Hoàng hậu Ngọc Hân, năm bị bắt đã gần 45 tuổi...”.

      Đoạn trên trích nguyên văn từ sách Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung của Đỗ Bang, Sở VHTT Bình Trị Thiên, Huế 1988, tr. 54-55. Cũng theo cách lý giải ấy, mới đây trong Lễ kỷ niệm 200 năm mất của Công chúa Ngọc Hân tổ chức vào ngày 4.12.1999 tại Đại học Huế, trong bài nghiên cứu Lê Ngọc Hân, thời đại và sự nghiệp,Ts Đỗ Bang, sau khi dẫn đoạn sử trong Liệt truyện, ông kết luận:”Nguyễn Văn Đức ở đây chính là Hoàng tử con vua Quang Trung và Hoàng hậu Ngọc Hân mà Barizy gặp ở Huế năm 1801 (NĐX nhấn mạnh), lúc đó Đức chừng 12 tuổi (vì không thể Nguyễn Nhạc đặt tên cho con là Đức khi đã đặt niên hiệu của mình là Thái Đức (NĐX nhấn mạnh). Năm 1831, bị xử chém ngang lưng, lúc đó Nguyễn Văn Đức đã ngoài 40 tuổi. Đây là thông tin cuối cùng hậu duệ của triều Tây Sơn được sử sách triều Nguyễn ghi lại (NĐX nhấn mạnh).” (6)

      Hai đoạn trích trên Ts Đỗ Bang viết cách nhau trên 10 năm (1988-1999), nhưng nội dung không khác nhau bao nhiêu, nó đã đặt ra một số vấn đề hết sức quan trọng về cả hai mặt phương pháp sử và thông tin lịch sử. Tôi xin nêu mấy vấn đề thuộc thông tin lịch sử:

      Ts Đỗ Bang viết: Không thể có chuyện “Nguyễn Nhạc đặt tên cho con là Đức khi đã đặt niên hiệu của mình là Thái Đức”. Có thể như thế, triều Nguyễn có qui định ấy. Nhưng cho đến nay giới sử học chưa hề tìm thấy một văn bản pháp qui nào của triều Tây Sơn đề cập đến vấn đề cấm kỵ đó. Có thể có những việc triều Lê trước đây, triều Nguyễn sau nầy cấm kỵ, nhưng triều Tây Sơn chưa kịp làm thì sao? Ts Đỗ Bang có thể đặt một nghi vấn ở đây chứ không thể khẳng định là Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn đã chép nhầm con Nguyễn Huệ thành con Nguyễn Nhạc khi chưa có tài liệu chứng minh là nhầm. Lý luận như vậy là tùy tiện suy diễn. Mà trong khoa học lịch sử thì không cho phép suy diễn. Sau khi trình bày việc “Nguyễn Văn Đức bị chém ngang lưng” vào năm Minh Mạng thứ 2 (1831), Ts Đỗ Bang kết luận “Đây là thông tin cuối cùng hậu duệ của triều Tây Sơn được sử sách triều Nguyễn ghi lại” (7). Kết luận như thế là mâu thuẫn với chính ông. Trong sách Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung, tr.55, ông Đỗ Bang đã trích Đại Nam thực lục Đệ tam kỷ Thiệu Trị thứ hai (1842) về chuyện đô đốc Hài bí mật đem hài cốt mẹ con Công chúa Ngọc Hân về làng Phù Ninh. Sự kiện xảy ra dưới thời Thiệu Trị sau sự kiện xảy ra dưới thời Minh Mạng đến 11 (1831-1842) năm mới gọi là cuối cùng chứ?

      Nếu chấp nhận kết luận của TS Đỗ Bang: Đại Nam Liệt truyện viết nhầm, Nguyễn Văn Đức bị bắt và bị chém ngang lưng vào năm Minh Mạng 12 (1831) chính là con của Hoàng hậu Ngọc Hân với Hoàng đế Quang Trung thì sẽ có những vấn đề phát sinh phải giải quyết như sau:

      Theo Barizy thì hai người con của Hoàng hậu Ngọc Hân và vua Quang Trung đã bị bắt ngay khi Nguyễn Ánh mới làm chủ được Phú Xuân (6.1801), hai người đó làm sao có thể thoát được ngục tù và tội tử hình của Nguyễn Ánh dành cho họ? Hay Barizy đã phịa ra chuyện nầy chứ thực sự hai người ấy đã xa chạy cao bay trước khi Nguyễn Ánh về Phú Xuân rồi? Tài liệu nào có thể bác bỏ được thông tin của Barizy?

      Hai người con vua Quang Trung quan trọng đến như thế mà có thể chạy thoát được, Nguyễn Ánh không truy nã sao? Có thông tin nào nói đến chuyện truy nả hai người con của bà Ngọc Hân và vua Quang Trung không?

      Người con trai (Nguyễn Văn Đức) trốn được và sống đến trên 40 tuổi, còn người con gái (Nguyễn Thị Ngọc) thì đi đâu? Hai người xa nhau lúc nào? Nguyễn Thị Ngọc chết lúc nào? Theo lô-gích, sau khi bắt giết được Đức, vua Minh Mệnh phải cho người đi truy tìm Ngọc, có tài liệu nào chứng tỏ điều đó không?

      Như vậy đô đốc Hài chỉ đem được hài cốt của Ngọc Hân về Phù Ninh, không có chuyện đem hài cốt các người con của bà về, như vậy đoạn Thực lục viết về sự kiện ấy cũng sai nốt? Chứng cớ nào nói đoạn Thực lục đó chép sai?

      Việc các con của bà Ngọc Hân và vua Quang Trung chết lúc nào không phải là một việc đơn lẻ mà nó là một phần nằm trong cái toàn bộ các sự kiện lịch sử mà các sử thần triều Nguyễn đã dành cho việc nhà Nguyễn trả thù Phong trào Tây Sơn. Sự kiện gì không khớp với cái toàn thể đó mới có thể gọi là nhầm. Nếu không thì một là đúng hai là nhầm hết. Việc Liệt truyện chép Nguyễn Văn Đức là con của Nguyễn Nhạc không có gì không khớp với các sự kiện khác trong Liệt truyện cũng như trong Thực lục và các bộ sử khác. Vì vậy, cho đến khi nào TS Đỗ Bang chưa giải quyết được 4 phát sinh nêu trên thì khó có thể đồng ý với kết luận sau của ông “Đại Nam Liệt truyện viết nhầm, Nguyễn Văn Đức bị quan quân nhà Nguyễn chém ngang lưng năm 1831 là con trai của bà Ngọc Hân và vua Quang Trung”.

      Khi phê phán những người viết sử làm sai lạc lịch sử, người ta hay dẫn câu nói của nhà văn Pháp J.B.Bossuet (1627-1704) rằng: “Từ ngày có những nhà viết sử thì không còn sử nữa” (Depuis qu’ il y a des historiens, il n’ y a plus d’ histoire). Bước vào thiên niên kỷ mới chúng ta phải phấn đấu để đừng bao giờ còn phải nghe câu nói xưa cũ ấy nữa.

      Gác Thọ Lộc, một ngày cuối đông 1999
      N.Đ.X.
      (134/04-00)


      chú thích :

      (1) Trích lại của Đỗ Bang, Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung, Sở VHTT Bình Trị Thiên, Huế 1988, tr.51. Đỗ Bang không cho biết đã đọc được bản gốc ở đâu hay trích lại của ai nên không kiểm chứng được. Do đó hai người con của Công chúa bắc Kỳ (Ngọc Hân) đều ở tuổi 12;

      (2) Đại Nam Thực lục Chính biên, bản dịch, tập II, Nxb Sử học, Hà Nội 1963, tr. 451

      (3) Đại Nam Thực lục Chính biên, bản dịch, tập III, Nxb Sử học, Hà Nội 1963, tr. 87

      (4) Đại Nam Thực lục Chính biên, bản dịch, tập XIV, Nxb Khoa học, Hà Nội 1971, tr.183-184;

      (5) Phần viết về các nhân vật chủ chốt của Phong trào Tây Sơn trong bộ Đại Nam liệt truyện đã được dịch và in nhiều nơi, bản dịch mới nhất do Thuận Hoá xuất bản năm 1993. Nhưng Tiến sĩ Đỗ Bang không dẫn chứng bản dịch mà dùng bản gốc chữ Hán tại Quyển 30, tờ 55b. Nhưng tôi tra trong bản chính thì thấy tên 3 người con và cháu của Nguyễn Nhạc đều không chép họ Nguyễn như Đỗ Bang dẫn (Xem phụ bản đính kèm).

      (6) PTS Đỗ Bang, Lê Ngọc Hân, Thời đại và sự nghiệp, bản vi tính, tr.7;.

      (7) PTS Đỗ Bang trích sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Q.30 tờ 55b) soạn xong và in vào năm 1899 và có lẽ thấy như thế nên PTS Đỗ Bang cho là mới nhất. Sự thật các nhà soạn Liệt truyện (Nguyễn Trọng Hợp và Bùi Ân Niên chủ trì) cũng lấy tư liệu từ Thực Lục (Đệ nhị kỷ) thời Minh Mạng. Tôi xin sao lai sau đây để dẫn chứng:

      Minh Mệnh thứ 2 (1831), mùa hạ: “Lại sai đình thần xét lại án của dòng dõi ngụy là Nguyễn Văn Lương, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Văn Đâu, đều chém ngang lưng, ném thây xuống bể, thân thuộc và con gái của ngụy cùng con của đồng đảng ngụy là Trần Quang Tồn (con ngụy thiếu phó Trần Quang Diệu), kẻ phạm tội chứa chấp ngụy là Nguyễn Văn Thể cộng 15 tên, đều trảm quyết.
      Những thân thuộc của ngụy còn nhỏ tuổi và Lê Thiện Anh khinh thường thả dòng dõi ngụy, Trần Văn Tha tri tình mà cố ý tha, cộng 14 tên phạm đều phải án chém nhưng được giam đợi lệnh. Lại phát vãng làm quân, làm nô lệ, và bị tội đồ, tội lưu tất cả hơn 40 tên phạm. Còn bao nhiêu đều tha”.(Đại Nam Thực lục Chính biên, Đệ nhị kỷ, quyển LXXIII, Bản dịch, tập X, Nxb Khoa học, Hà Nội 1964, tr.258-259)

      Và đoạn Liệt truyện trích trên theo bản dịch của Thuận Hoá như sau: “Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) bắt được con Nhạc là Văn Đức, Văn Lương, cháu là Văn Đâu (con Văn Đức) đều đem chém ngang lưng. Bấy giờ dòng giống Tây Sơn không còn sót một người nào nữa”. (Bản dịch Đại Nam Liệt truyện, tập 2, Nxb Thuận Hoá, Huế 1993, tr. 539)







      Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 01-04-2010, 01:18 AM.
      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      • #4

        Có một lời đồn như thế này không biết có đúng không. Vua Gia Long sau khi lên ngôi, và sau khi đào mộ của Vua Quang Trung, bèn lấy sọ của Vua Quang Trung làm ống nhổ. Mỗi ngày ông ấy đều nhổ đờm, nước miếng vào đó. Nếu thế thì thật là hèn hạ, tiểu nhân. Nghe giai thoại này xong, tôi thật ghét Vua Gia Long.

        Đồng ý rằng làm chính trị thì phải thật là tàn ác, có thể giết hết cả gia tộc người ta để tránh hậu họa. Vô độc bất trượng phu! Nhưng khi người ta chết rồi thì thôi, không hại mình nữa thì mình nên để yên cho người ta. Phải không?

        Câu chuyện này làm cho tôi nhớ đến một câu chuyện gian ác của Trần Thủ Độ về việc "nhổ cỏ tận gốc". Làm chính trị là như vậy đó. Mới tìm được trên Net như sau:

        "Là người Việt Nam ai cũng biết Trần Thủ Độ là người vô cùng xảo hoạt, đầy uy lực, quyền bính, nên đã thao túng được toàn bộ triều đình nhà Lý. Biết Lý Huệ Tông (con trưởng của vua Cao Tông) thể tạng nhỏ lại mang trọng bệnh, lên ngôi được 3 năm vẫn chưa có con trai (1221- 1224) liền vận động hoàng hậu là Trần thị Dung và cận thần ép Lý Huệ Tông phải ra chùa Chân Giáo chữa bệnh, để nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng, rồi dựng ra một đám cưới giữa Chiêu Hoàng (7 tuổi) và Trần Cảnh (8 tuổi) là cháu ruột mình để Lý Chiêu Hoàng trao mọi quyền lực vào tay chồng. Ngay sau đó ông ra chùa Chân Giáo buộc Huệ Tông (lúc bấy giờ là Huệ Quang đại tự) phải tự vẫn chết khi mới tròn 33 tuổi (*):

        Nhà Lý đổ, chấm dứt một thời trị vì hơn 200 năm, trải qua tám đời (Lý bát đế), Trần Thủ Độ lấy mẹ đẻ của Lý Chiêu Hoàng là Trần Thị Dung. Cuộc hôn nhân tưởng sẽ hoá giải được xích mích giữa hai dòng họ, triều vua, ai ngờ, với chiêu thức “nhổ cỏ nhổ tận gốc”, nên khi biết các tôn thất nhà Lý hàng năm vẫn tụ tập hội họp tại ngôi nhà lớn ở hoa thôn Thái Bình để giỗ tổ, Trần Thủ Độ đã bí mật cho đặt cả hệ thống dây chằng, xích sắt… cột trụ để giật sập nhà, giết chết cả 300 quan tài tướng giỏi của triều cũ để họ hết bề làm phản. Hiện mộ chôn tập thể vẫn còn ở thôn Thái Bình, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh (gần khu vực cầu Đuống, Hà Nội).

        Thật là một tội ác tày trời mà sử sách Việt
        Nam
        muôn đời ghi khắc.

        Chưa đủ, sau 7 năm đặt cháu lên ngai vàng thấy Trần Cảnh vẫn không có con nối dõi, Trần Thủ Độ liền cưỡng ép Trần Cảnh phải lấy chị ruột của vợ mình là Thuận Thiên, khi đó Thuận Thiên (vợ của Trần Liễu - anh trai Cảnh) đã có mang 4 tháng. Còn Chiêu Hoàng, nếu muốn ở lại trong cung thì phải lấy Trần Liễu… . Không chịu nổi việc đảo lộn luân thường đạo lý: Em rể lấy chị dâu, anh chồng lấy em vợ như vậy nên sau khi ngửa cổ than: “Trời ơi, đến bậc dân thường còn hiểu điều phải quấy, huống chi bậc đế vương. Sao có chuyện thương luân bại lý như vậy”. Lý Chiêu Hoàng bỏ ra chùa Trấn Quốc…"


        UKH
        Đã chỉnh sửa bởi Uất Kim Hương; 01-04-2010, 11:03 PM.

        Comment

        • #5




          không có chuẩn mực đạo đức trong chính trị + tín ngưỡng :

          mọi thời , mọi nơi -



          nhưng hình như lịch sử Việt Nam còn khoan dung , nhân ái nhiều so với các dân tộc khác. Nếu CO kể ra vài chuyện ở các nơi khác , e là UKH sẽ rùng mình trước sự tàn độc của con người với nhau...




          oh...con người là loài động vật ăn thịt lẫn nhau -đầu tiên và nhiều nhất...
          Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 01-04-2010, 10:16 PM.
          ----------------------------

          Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

          Comment

          • #6

            CO kể đi! Nghe để biết thì không hại gì cả mà. Nghề tui đang làm cần biết càng nhiều chuyện càng tốt. Nói chuyện phone và đọc internet suốt ngày để thu thập thêm chuyện...

            Comment

            • #7

              ..::~Trích dẫn nguyên văn bởi Uất Kim Hương View Post
              CO kể đi! Nghe để biết thì không hại gì cả mà. ...




              Hai người đàn bà trong vương triều Lý


              Nguyên phi Ỷ Lan với nỗi hối hận về vụ án Thượng Dương hoàng hậu cùng 72 cung nữ ở cung Thượng Dương bị thiêu sống vào năm 1072 và Lý Chiêu Hoàng, vị vua không được thờ tự ở đền Đô. Nhưng cuộc đời hai người đàn bà này không chỉ có vậy...

              Cách đây cả nghìn năm, bắt đầu từ mùa thu tháng 8 năm Canh Tuất (1010), Lý Công Uẩn một vị vua anh minh với tầm nhìn chiến lược đã chuyển kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, để từ đấy xây dựng nên kinh thành Thăng Long, thủ đô của nước Đại Việt.

              Sử xưa chép lại, người nay tôn thờ, thế nhưng lịch sử đôi khi như bức màn bí mật và khó lòng giải mã về những câu chuyện đặc biệt, xoay quanh vương triều Lý đầy bí ẩn mở đầu cho văn hóa đất Thăng Long, tồn tại 216 năm, với 9 đời vua.

              Trong lịch sử Vương triều Lý có hai người đàn bà đã để lại những dấu ấn không nhỏ đó là Nguyên Phi Ỷ Lan với những kỳ tích phi thường nhưng không phải không có "điểm đen" trong quá khứ. Và, bi kịch oan khiên của Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng triều Lý - nữ hoàng duy nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

              Nguyên Phi Ỷ Lan

              Nhà Lý, một triều đại viết lên trang sử oai hùng qua những trận chiến chống quân Tống, không thể không nhắc đến hai đời vua Lý thịnh trị. Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông, cuộc đời của hai vị vua này gắn với một nhân vật nữ kiệt xuất có một không hai trong lịch sử nước nhà, nguyên phi Ỷ Lan, người đàn bà đã hai lần đăng đàn nhiếp chính.




              Cung thờ Linh Nhân hoàng thái Hậu Ỷ Lan.

              Hiện nay, trong khắp mọi miền đất nước còn sót lại 72 ngôi đền, chùa thờ Linh nhân Hoàng thái hậu Ỷ Lan. Trong số đó, nơi thờ Ỷ Lan có tên gọi "Chùa bà Tấm" hay "Đền bà Tấm" tại làng Dương Xá, Gia Lâm (Hà Nội) là có niên đại lâu nhất, được chính tay bà xây dựng cho đến ngày nay vẫn còn nguyên vẹn 72 cửa. Nhưng con số 72 cũng gợi người ta nghĩ đến vụ án oan trong lịch sử đó là vụ Thượng Dương hoàng hậu cùng 72 cung nữ ở cung Thượng Dương bị thiêu sống vào năm 1072 khi Vua Lý Thánh Tông băng hà có “bàn tay” của Nguyên phi Ỷ Lan.

              Chính vì uẩn khúc này, các nhà chép sử khi xưa đã không muốn nhắc nhiều đến bà khi ghi nhận công đức xây dựng nên một nền văn hóa rực rỡ thời nhà Lý, nhưng thật ra không thể thiếu vai trò của Nguyên phi Ỷ Lan.

              Sử chép lại, mùa xuân năm Quý Mão 1063 Vua Lý Thánh Tông, tuổi đã 40 mà không có con nối dõi về viếng chùa Dâu (phủ Thuận Thành, Bắc Ninh) để cầu tự, dân làng mở hội nghênh giá. Từ xa nhà vua nghe thấy tiếng hát luyến láy ngân nga ở đâu đưa đến, nhìn kỹ thấy một người con gái đứng tựa gốc cây lan. Vua cho mời vào, hỏi ra mới biết nàng ở trang Thổ Lỗi, gia đình làm nghề trồng dâu nuôi tằm. Thấy người con gái tuổi vừa đôi mươi, dáng vẻ yêu kiều quyến rũ, đối đáp thông minh, vua rước về kinh thành lập làm phi. Ỷ Lan lần lượt sinh cho Vua Lý Thánh Tông hai người con trai. Người con trai đầu là Thái tử Càn Đức (sinh năm 1066) và người con thứ hai là Minh Nhân Vương. Sau khi vua cha băng hà, Thái tử Càn Đức lên nối ngôi, tức Vua Lý Nhân Tông.

              Năm Nhâm Tý 1072 Vua Lý Thánh Tông băng hà, Càn Đức lên nối ngôi cha khi mới 6 tuổi (niên hiệu Lý Nhân Tông). Vì vua còn quá nhỏ, Linh nhân Hoàng thái hậu Ỷ Lan đã buông rèm nhiếp chính, trông coi triều chính, xây dựng điều khiển quốc gia. Khi vua chưa đầy 10 tuổi thì vận nước xảy ra biến cố lớn, bà đã thay quyền và có những quyết sách đúng đắn. Chỉ trong một giai đoạn lịch sử rất ngắn, giá trị văn hóa được nâng tầm khi nhà Lý, mà điển hình là Linh nhân Hoàng thái hậu Ỷ Lan cho xây Quốc Tử Giám vào năm 1076, và các khoa thi để chọn người hiền tài không có nguồn gốc xuất thân là quý tộc ra giúp nước. Khoa thi đầu tiên được mở vào năm 1075. Phải chăng cũng vì xuất thân từ tầng lớp dân lao động, bà hiểu nỗi thống khổ và san sẻ được với các tầng lớp nhân dân, sử dụng người tài đúng theo tinh thần "hiền tài là nguyên khí của quốc gia", tập hợp lòng dân hướng về chính nghĩa. Chính vì điều này nên dân đã suy tôn bà với cái tên huyền thoại "Bà Tấm"!

              Hai lần quân Tống sang xâm lược nước ta, kéo dài cuộc chiến tranh Tống - Việt (1075-1077), nhà vua còn nhỏ tuổi chưa thể điều binh khiển tướng, bà đã bỏ qua hiềm khích cũ điều Lý Đạo Thành đang trấn ải Nghệ An về trao lại chức thái sư, cùng ông lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến. Các nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng, kể từ sau trận Bạch Đằng năm 938 của dân tộc Việt thì đây là cuộc chiến ác liệt nhất trong việc chống quân phương Bắc xâm lược, mà Lý Thường Kiệt là nhân vật anh hùng kiệt xuất, thì bên cạnh đấy không thể không kể đến công lao to lớn biết tận dụng sức người và tập hợp lòng dân của Linh nhân Hoàng thái hậu Ỷ Lan.

              Hai lần bà buông rèm nhiếp chính thì cả hai lần nước Đại Việt làm nên chiến thắng vang dội và là cú hích ngoạn mục có một không hai trong lịch sử dân tộc nước nhà. Lần thứ nhất, mở rộng lãnh thổ Đại Việt năm 1069; và lần thứ hai buộc triều đình Trung Quốc công nhận Đại Việt là một quốc gia độc lập năm 1077. Tuy vậy, cuộc đời bà không phải không có nỗi thống khổ và sự giày vò.

              Năm 1072, Vua Lý Thánh Tông mất, triều đình rối ren, Ỷ Lan, thân phận của một nguyên phi không được can dự vào triều chính. Quyền lực về tay Hoàng hậu Thượng Dương khi có Thái sư Lý Đạo Thành là một quan văn đầu triều đứng ra giúp sức. Bốn tháng sau, Nguyên phi Ỷ Lan mới trở lại cầm quyền với sự trợ giúp đắc lực của Thái úy Lý Thường Kiệt, người nắm giữ quân đội triều Lý.

              Một tay vun vén sơn hà, bà đã điều vị quan đầu triều Thái sư Lý Đạo Thành vào trấn ải Nghệ An. Tại hoàng cung, Hoàng hậu Thượng Dương cùng với 72 cung nữ bị đưa đi thiêu sống.

              Trong sử cổ chép lại về cái chết bi thảm này, có quyển nói Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ thân tín của bà bị nhốt vào lãnh cung và bị bỏ đói cho đến chết.

              Gần đây, các nhà nghiên cứu khoa học thấy giả thiết vụ án oan chết do giàn thiêu hợp lý hơn việc đày ải không cho ăn. Vì Vua Lý Thánh Tông khi mất, thi thể của ông được hỏa táng. Việc vua mất có người đi theo để hầu hạ hợp lôgích với triều đại phong kiến khi xưa.

              Nhiều năm sau này, Ỷ Lan hối hận về hành động của mình, bà đã cho xây hàng trăm ngôi chùa, hàng nghìn tòa tháp, để siêu linh tịnh độ cho những linh hồn hàm oan nơi chín suối. Nỗi lòng Ỷ Lan, đâu dễ tỏ tường.

              Nhà sử học Lê Văn Lan và Tiến sĩ Phật học Thích Đức Thiện, trụ trì chùa Phật Tích đều cùng chung một cái nhìn nhân ái về việc này: "Trong sự nghiệp làm chính trị thì âu đấy cũng là chuyện thường thấy…"!



              *************************


              Lý Chiêu Hoàng

              Nếu ai đó có dịp đến ngôi đền Đô nổi tiếng, nơi thờ 8 vị vua Lý, không khỏi chạnh lòng khi nghĩ về thân phận của vị vua bà đời thứ 9 nhà Lý không được thờ tự nơi đây. Chẳng biết có phải, tạo hóa trêu ngươi hay định mệnh trớ trêu, Lý Chiêu Hoàng, vị nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam, lên ngôi có một năm và ngày nay trên khắp đất nước chỉ có một số nơi thờ bà.




              Đền Đô tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh) thờ 8 vị vua nhà Lý.


              Người ta biết đến nhiều nhất là ngôi đền Rồng trên quê hương của bà ở thôn Long Vĩ, phường Đình Bảng, Bắc Ninh. Mà mãi cho đến tháng 1/2009, ngôi đền mới được công nhận là di tích cấp tỉnh. Ngôi đền ọp ẹp, bạc phếch màu thời gian, hoành phi câu đối giản tiện đến nghèo nàn, hoàn toàn không có giá trị vật chất nhưng nơi đây lưu giữ tinh thần, linh hồn của vị vua bà duy nhất trong lịch sử 1000 năm Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Hiện nay ngôi đền đang trong quá trình trùng tu tôn tạo lại gần như hoàn toàn. Và có một điều đặc biệt, ngày ngày khách thập phương đến viếng đền, là đa phần xin phúc của bà để cầu tự, rất linh nghiệm.

              Bà là con thứ của Vua Lý Huệ Tông và mẹ là Trần Thị Dung, có chị gái là Thuận Thiên công chúa. Bà sinh vào buổi giao thời, khi vận nhà Lý đã suy. Năm 1224, Trần Thủ Độ chuyên quyền ép Vua Lý Huệ Tông đi tu. Lý Huệ Tông không có con trai phải lập Chiêu Thánh khi đó mới 7 tuổi làm thái tử rồi truyền ngôi đổi niên hiệu là Thiên chương Hữu Đạo, gọi là Lý Chiêu Hoàng.

              Khi nhà Lý đã đến hồi suy vong, Trần Thủ Độ có công lớn với đất nước, với nhà Trần, nhưng lại vô tình đẩy vị vua bà nhỏ tuổi là quân cờ trong ván bài chính trị của mình. Năm 1225, Trần Thủ Độ dựng nên cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh, rồi chuyển giao triều chính bằng cách Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Sử chép rằng: "Ngày 1 tháng Chạp năm Ất Dậu, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế". Lúc đó Chiêu thánh mới 8 tuổi (lịch âm).

              Mất ngôi được một năm thì cũng mất cha do một tay Trần Thủ Độ đạo diễn. Năm 1226, Trần Thủ Độ ép Vua Lý Huệ Tông tự vẫn. Nhưng có lẽ cuộc đời truân chuyên của vị vua bà thực sự khổ ải, khi gắn với một mớ hỗn độn bòng bong tấn bi kịch hôn nhân, mà bản thân không thể nào điều phối được. Giữa vinh - nhục, yêu - ghét, đắng cay - thù hận, khi chứng kiến cuộc hôn nhân đầy tai tiếng của mẹ nàng, vợ của vị vua thứ 8 đời nhà Lý với Thái sư Trần Thủ Độ, để rồi đang từ một bà Hoàng Thái hậu họ Lý đổi thành Thiên Cực công chúa đời Trần. Còn bản thân bà chỉ vì sống với Vua Thái Tông Trần Cảnh 12 năm mà không có con nên đang từ Chiêu Thánh hoàng hậu lại bị phế ngôi, để cho chị gái là Thuận Thiên công chúa lúc này đang có mang 3 tháng với Trần Liễu (anh trai Trần Cảnh) thế vào chỗ của mình. Kẻ thù giết cha lấy mẹ, chồng mình phối hôn với chị ruột của mình. Hỏi có nỗi đau nào lớn hơn thế?!

              Bi kịch của tuổi thơ qua 20 năm sau, Lý Chiêu Hoàng vào tuổi 40 cuối cùng cũng tìm ra tình yêu đích thực của đời mình. Năm 1258, Vua Thái Tông Trần Cảnh đặt đại lễ ở chính điện, có lệnh gả Chiêu Hoàng cho Lê Phụ Trần, một vị tướng tài trong cuộc chiến với quân Nguyên lần thứ nhất.

              Bà sống với Lê Phụ Trần 20 năm, sinh ra một người con trai, một người con gái. Đầu năm 1278, bà về thăm lại quê xưa làng Cổ Pháp (Bắc Ninh). Tháng 3 năm đó bà mất, thọ 61 tuổi. Bà không được chôn cùng tôn thất nhà Lý, mà phải chịu cảnh hiu quạnh một mình một cõi ở khu rừng Báng phía tây. Cũng có giả thiết vì do bà để mất ngôi, có tội với tổ tông nên chỉ được chôn ở phía tây là nơi mặt trời lặn, một nơi ra đi vào cõi vĩnh hằng…
              Hiện nay một số nhà nghiên cứu lịch sử đang ra sức bảo vệ đòi lại công bằng cho vị nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam, với mong muốn đưa Lý Chiêu Hoàng vào thờ tại đền Đô, nơi chỉ dành riêng thờ 8 vị vua nhà Lý. Về việc hàng trăm năm nay, ngôi đền này không thờ Lý Chiêu Hoàng vì nhiều lẽ.

              Người đời cho rằng, bà đã làm mất ngôi vua, để nhà Trần hoán ngôi nhà Lý. Hoặc, sau khi bị phế bỏ hoàng hậu, bà lại tái giá lấy chồng không còn là người trong cung thất nhà Lý. Và, mới đây nhất Tiến sĩ Phật học Thích Đức Thiện đưa ra lý giải: "Ngôi đền được xây dựng từ thời phong kiến mang đậm ảnh hưởng của đạo Khổng, đạo Nho, chính vì lẽ đó nên phụ nữ cũng ít được coi trọng và phải chịu nhiều thiệt thòi…"


              Mỹ Trần - ANTG Tết 2010


              .
              Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 01-04-2010, 11:32 PM.
              ----------------------------

              Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

              Comment

              • #8

                xem qua kinh sử mấy lần
                nửa phần lại ghét , nửa phần lại thương

                Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu


                UKH biết ko , ngày trước ở triều đình Thổ nhĩ kỳ , khi tân hoàng đế đăng quang , các hoàng tử còn lại - dù cùng mẹ hay khác mẹ (luật Hồi giáo : đa thê ) - đều đem ra xử tử để tránh hậu hoạ cho vua. Mãi về sau , luật này mới bị bãi bỏ , khủng khiếp !!!
                ----------------------------

                Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                Comment

                • #9

                  ..::~Trích dẫn nguyên văn bởi CONHAKO View Post
                  xem qua kinh sử mấy lần
                  nửa phần lại ghét , nửa phần lại thương

                  Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu


                  UKH biết ko , ngày trước ở triều đình Thổ nhĩ kỳ , khi tân hoàng đế đăng quang , các hoàng tử còn lại - dù cùng mẹ hay khác mẹ (luật Hồi giáo : đa thê ) - đều đem ra xử tử để tránh hậu hoạ cho vua. Mãi về sau , luật này mới bị bãi bỏ , khủng khiếp !!!
                  Thiệt sao? Chuyện khủng khiếp à nha! Mới nghe lần đầu đó! May quá tui không ước được làm vua ở xứ này. Tui ước làm Vua ở xứ 1 Răng, 1 Rắc thui.

                  Comment

                  • #10

                    hi hi hi ...để CO search thêm vài chuyện cho UKH đọc cho rùng mình - hơn phim kinh dị một chút - đúng hơn là bi kịch có thật...nhưng có lẽ sự thật ko ngừng ở đấy...


                    ************************






                    Bi kịch của tả quân Lê Văn Duyệt triều Nguyễn

                    Ngày 4/2/2008, bức tượng toàn thân Tả thần chưởng cơ Lê Văn Duyệt đã chính thức được an vị tại lăng Lê Văn Duyệt, thường gọi là Lăng Ông - Bà Chiểu, số 1, đường Vũ Tùng, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh. Việc đặt tượng ông đồng nghĩa với việc chấm dứt cuộc tranh cãi ồn ào hàng trăm năm quanh hai chữ công hay tội đối với bậc khai quốc công thần triều Nguyễn này.

                    Công thần triều Nguyễn

                    Lê Văn Duyệt sinh năm 1764 tại Vàm Trà Lọt, làng Hòa Khánh, tỉnh Tiền Giang. Dòng họ ông vốn quê gốc ở tỉnh Quảng Ngãi, đến đời ông nội là Lê Văn Hiếu mới di cư vào Nam Bộ. Sau khi sinh Lê Văn Duyệt, ông Lê Văn Toại, cha ông mới dời nhà về vùng Rạch Gầm, nay thuộc làng Long Hưng, tỉnh Tiền Giang.

                    Bức tượng Lê Văn Duyệt vừa khánh thành được đúc bằng đồng, cao 2,7m, nặng 2,8 tấn, do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thực hiện. Tượng mô tả ông theo đúng chân dung được vẽ trên tờ giấy bạc của miền Nam trước 1975. Trong đó, Đức Tả quân là người có khuôn mặt sáng, nhân từ, cái nhìn thấu thị. Thanh gươm đặt ngang trước bụng giới thiệu ông là một võ tướng, sự nghiệp gắn với những võ công hiển hách. Thế nhưng, ông lại là một người gầy gò, mày râu nhẵn nhụi. Điều này phù hợp với thực tế: bẩm sinh Lê Văn Duyệt là người ái nam ái nữ.

                    Thuở nhỏ, Lê Văn Duyệt ít học hành chữ nghĩa, chỉ mê mải chọi chim, bắt cá và rất ham thích hát bội, đá gà. Tuy nhiên, ông là người có chí lớn thích học võ và rất giỏi võ. Năm 15 tuổi, Lê Văn Duyệt từng tuyên bố: "Sinh ở thời loạn, không dựng cờ đánh trống đại tướng, chép công danh vào sử sách không phải là bậc trượng phu".

                    Trên đường trốn chạy sự truy đuổi của quân Tây Sơn, trong một đêm mưa to gió lớn năm 1781, thuyền của Nguyễn Ánh đã bị đắm gần vàm Trà Lọt, được Lê Văn Duyệt phát hiện bơi ra cứu thoát và đưa cả đám quan chúa về nhà tá túc. Năm đó, Lê Văn Duyệt 17 tuổi. Thưởng công cứu giá, Nguyễn Ánh nhận ông làm thái giám, sau phong lên chức Cai cơ coi sóc nội binh.

                    Ít học nhưng Lê Văn Duyệt lại là một bậc kỳ tài quân sự. Ông đã theo phò Nguyễn Ánh Nam chinh Bắc chiến, lập nhiều công lao hãn mã trong việc đánh đuổi nhà Tây Sơn. Từ năm 1789, ông được Nguyễn Ánh đặt vào hàng tín tướng, cho dự bàn những việc cơ mật đại sự.

                    Tháng 1/1801, Lê Văn Duyệt lập công to khi cùng nhiều dũng tướng khác của nhà Nguyễn hạ thành Qui Nhơn, thu tóm thành Diên Khánh và phủ Bình Khương. Đến tháng 5/1801, khi Nguyễn Ánh dẫn đại thủy quân ra vào cửa Tư Dung, ông lại cầm quân đại phá quân Tây Sơn, bắt sống phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách, sau đó đuổi vua Cảnh Thịnh của nhà Tây Sơn chạy dài ra Bắc.

                    Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Gia Long hoàng đế (1802), ông được phong Khâm sai Chưởng tả quân dinh Bình Tây tướng quân, thường gọi là Tả quân. Vâng lệnh Gia Long, ông đã cùng với Thống chế Lê Chất dẫn quân bình định và thu phục được đất Bắc Hà chỉ trong một thời gian rất ngắn.

                    Năm 1813, ông được Gia Long giao làm Tổng trấn Gia Định, quyền lực bao trùm lên cả đất Bình Thuận phía Bắc và xứ Hà Tiên ở phía Nam. Để củng cố sức mạnh nơi phên giậu, ông đã cho đắp thành Phiên An bằng đá ong với thành cao, hào sâu làm nơi trấn thủ, đến năm 1830 thì hoàn tất. Nhân dân kính trọng, gọi ông là "Ông lớn Thượng". Các nước lân bang cũng nể sợ, gán cho ông danh xưng "Cọp gấm Đồng Nai".

                    Hàng năm, vào dịp Tết Nguyên đán hoặc đại khánh vua nhà Nguyễn, vua nước Cao Miên phải đích thân sang thành Phiên An chúc tụng. Riêng dịp Tết, vua Cao Miên phải có mặt từ trước đêm 30 để đúng sáng mùng 1 Tết cùng Lê Văn Duyệt lên vọng cung hành lễ, bái tạ và chúc thọ vua nhà Nguyễn! Ở cương vị Tổng trấn Gia Định, cai quản một vùng đất rộng 30.000km2 phía Nam đất nước (Từ Bình Thuận đến Hà Tiên), Lê Văn Duyệt đã hết sức quan tâm chăm lo đến đời sống nhân dân.

                    Tại Gia Định, ông cho lập hai cơ sở từ thiện là Anh Hài và Giáo Dưỡng. Nơi thứ nhất là chốn dạy võ nghệ và nghề cung kiếm cho trẻ em. Nơi thứ hai, ông thu gom trẻ em mồ côi, quả phụ không nơi nương tựa về nuôi nấng, dạy chữ và dạy nghề thủ công, giúp họ mưu sinh. Thành Gia Định sau những tháng năm giặc giã đã nhanh chóng trở thành một đô thị sầm uất.

                    Năm 1822, một phái đoàn Anh do ông Crawfurd dẫn đầu đã đến Gia Định và xin yết kiến Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Trong hồi ký của mình, Crawfurd đã không giấu nổi sự thán phục: "Tôi bất ngờ thấy rằng nó (thành Gia Định) không thua gì kinh đô nước Xiêm (...). Tôi có cảm giác rằng đây là một vương quốc lý tưởng".

                    Mô tả đời sống của nhân dân trong thành, vị khách Ăng-lê đã không tiếc lời ca tụng: "Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành. Trộm cướp không có. Người ăn xin rất hiếm. Tổng trấn rất nhân từ, tha cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu qui phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây. Một vị quan nhỏ ra đường ghẹo gái cũng bị cách chức lưu đày. Một đứa con vô lễ chửi mẹ, Tổng trấn biết được cũng bị phạt rất nặng".

                    Phan Thanh Giản, một vị quan thanh liêm khác cũng hết lời ca ngợi đức độ và tấm lòng vì dân của Lê Văn Duyệt: "Gia Định này thật có phúc mới gặp được một Tổng trấn như đại quan. Tôi ở Kinh thành, ở Bắc thành vào Gia Định thấy như đi qua một nước khác (...). Tôi thật mừng".


                    Quyền lực thị phi

                    Là một người có tấm lòng cởi mở, khoan hòa, Lê Văn Duyệt đã sớm nhìn ra lòng dạ hẹp hòi và đầu óc thiển cận, cố chấp của Nguyễn Phúc Đảm (Vua Minh Mạng sau này), người được Gia Long ưu ái tuyên chọn, từ đầu đã tỏ ra không phục.

                    Năm 1815, Lê Văn Duyệt cùng các trọng thần được triệu về kinh nghị bàn việc lập Đông cung Thái Tử kế vị Gia Long. Với lý do ngôi báu phải được truyền chính dòng con trai trưởng, ông là một trong số những trọng thần quyết liệt ủng hộ con trai của Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh (đã mất), phản đối việc truyền ngôi cho Hoàng tử Đảm.

                    Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi. Là khai quốc công thần, Tả quân Lê Văn Duyệt từng được Gia Long cho hưởng nhiều đặc ân, trong đó có hai đặc ân "nhập triều bất bái" và "tiền trảm hậu tấu". Vì vậy sau này, ông dứt khoát không chịu lạy vua Minh Mạng. Nổi tiếng công tư nghiêm minh, quốc pháp bất vị thân, Lê Văn Duyệt còn cả gan giết cả Huỳnh Công Lý, cha đẻ một quí phi được Minh Mạng sủng ái vì ông này phạm tội tham nhũng.

                    Tuy hận nhưng không thể đường đột biếm chức hay hặc tội vị trọng thần của tiền triều, Minh Mạng thường tìm cớ quở trách, từng bước một cắt bớt quyền lực của Tả quân Lê Văn Duyệt - Tổng trấn Gia Định thành. Mặt khác, cách đánh giá của Minh Mạng đối với vai trò và vị trí phòng thủ của thành Gia Định, trong vị trí một đô thị trung tâm của cả khu vực Đông Nam Á cũng tỏ ra hạn hẹp và sai lầm.

                    Năm 1830, thấy Lê Văn Duyệt cho sửa sang gia cố thành Qui, khiến thành này trở nên "kiên cố và tráng lệ", Minh Mạng đã tỏ ra lo lắng, cho rằng Lê Văn Duyệt có âm mưu cát cứ. Ông chỉ dụ: "Đắp thành Phiên An, tiếm bằng kinh thành (Huế), hào thì đào sâu hơn. Nếu bảo thành cao hào sâu đề phòng giặc Xiêm, thì đường bể phải phòng ở Hà Tiên, đường bộ phải phòng ở Chân Lạp... Thế là rõ ràng phòng triều đình chứ không phải phòng ngoại họa!".

                    Năm 1831, phủ Gia Định bị Minh Mạng chia nhỏ thành 6 tỉnh là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, thường gọi là "Nam kỳ lục tỉnh", cắt thêm người giữ các chức Tổng đốc cai trị từng tỉnh, không ngoài mục đích thu hẹp quyền lực của Lê Văn Duyệt.

                    Đến năm 1835, khi Lê văn Duyệt mất đã 3 năm, Minh Mạng đã cho san phẳng thành Qui, dỡ đá ong, gạch nung của thành cũ xây lại thành mới có qui mô nhỏ hơn, mang tên thành Phụng. Thành Gia Định bị hạ thấp qui mô một cách vô lý và không cần thiết.

                    Năm 1807, Lê Văn Duyệt nhận lệnh vua đi dẹp loạn Mọi Vách Đá. Thay vì thẳng tay đàn áp quân khởi nghĩa, ông lại ra lệnh chém đầu Chưởng cơ Lê Quốc Huy, tên đại thần tham nhũng, tàn ác, nguyên nhân chính gây ra bất mãn với triều đình và hình thành nên cuộc khởi nghĩa. Hành động thượng tôn luật pháp này của ông đã khiến loạn Mọi Vách Đá tan rã chỉ một năm sau đó.

                    Đến năm 1819, khi được đi kinh lược hai tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An, ông lại thẳng tay trừng trị thêm nhiều tham quan ô lại khác, vỗ yên mầm bạo loạn ở hai vùng đất nổi tiếng kiêu binh qua mọi vương triều. Những kẻ tham gia bạo loạn ra hàng, ông đều tha tội chết và thu dung, lập thành ba đội lính hồi lương là An Thuận, Thanh Thuận và Bắc Thuận. Trong số này có Lê Văn Khôi, người gốc Cao Bằng, dấy loạn chống triều đình, bị truy nã nên phải trốn vào Thanh Hóa. Thấy Khôi là người có chí lớn và tài thao lược, Lê Văn Duyệt đã tha tội chết, lại nhận làm con nuôi, cho mang họ Lê và đưa theo về Gia Định hầu hạ dưới trướng.

                    Khi triều đình Minh Mạng cử Nguyễn Văn Quế và Bạch Xuân Nghiêm vào Nam nhậm chức Tổng đốc và Bố chính một tỉnh mới chia tách, Tổng trấn Lê Văn Duyệt đã dứt khoát từ chối, không chịu tiếp nhận vì lý do hai đại thần nói trên là hai kẻ tham quan ô lại, bức hại nhân dân. Trên ngôi báu, Minh Mạng thường nhắc lại những chuyện này để qui kết Lê Văn Duyệt có mưu đồ "kháng mệnh triều đình, tóm thâu quyền lực, nuôi mầm phản loạn, âm mưu cát cứ", liệt vào hàng cần đề phòng và nghiêm trị.

                    Ngay sau khi Lê Văn Duyệt mất vào đêm 30/7/1832, Nguyễn Văn Quế và Bạch Xuân Nghiêm đã được Minh Mạng đưa ngay vào Gia Định tiếp quản quyền lực. Bạch Xuân Nghiêm đón ý vua, tìm cách hặc tội những người thân tín của vị Tổng trấn mới qua đời. Biết khó lòng tránh được tai họa, Lê Văn Khôi đã tập hợp những kẻ từng mang tội với triều đình nhưng được Lê Văn Duyệt tha bổng và dung nạp dấy binh làm loạn. Ngày 18/5 năm Quí Tỵ (1833), Khôi cầm đầu 28 kẻ nổi loạn tràn vào dinh Bố chính giết chết Bạch Xuân Nghiêm. Tổng đốc Nguyễn Văn Quế đưa quân đến ứng cứu cũng bị quân khởi loạn giết chết.

                    Cuộc bạo loạn bị đàn áp đẫm máu nhưng chưa có hồi kết thì tháng 12/1833, Khôi mắc bệnh mà chết. Nhưng mãi đến năm 1835, quân thảo phạt mới chiếm được thành Phiên An. Con trai Lê Văn Khôi mới 6 tuổi cùng 5 người khác (có hai người Pháp) bị giải về kinh khép tội chủ mưu mà xử lăng trì. 1831 loạn quân bị giết sạch đem chôn chung một chỗ, gọi là "Mã Ngụy".

                    Lê Văn Duyệt, dù chết đã từ lâu vẫn không tránh được liên lụy, vẫn bị Minh Mạng trả thù. Vua ra chỉ dụ: "Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả không bõ gia hình. Vậy cho Tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia ở trên viết cho những chữ "Quyền yểm Lê Văn Duyệt pháp xử" (đây là nơi tên yêm hoạn LVD chịu phép nước ) , để chính tội danh cho kẻ đã chết mà tỏ phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời".

                    Từ cách đây non 2 thế kỷ, Phan Thanh Giản đã từng phát biểu khi nói về Lê Văn Duyệt: "Mình làm quan thấy dân vui là mình vui. Làm quan chỉ biết vui phần mình thì thật đáng trách". Lê Văn Duyệt cùng với Phan Thanh Giản, người vì trung với triều Gia Long chống nhà Tây Sơn, người vì bất lực đành để đất nhiều tỉnh rơi vào tay giặc Pháp, đã có những lúc hàm oan bị lịch sử xem như những tội đồ, gây ra những cuộc tranh cãi học thuật hàng thập kỷ.

                    Nhưng lòng dân công tâm, đền thờ ông và đền thờ Phan Thanh Giản vẫn được dựng nhiều nơi. Lịch sử phức tạp có thể mang những định kiến chủ quan và sai lầm, nhưng lòng dân thì luôn sáng suốt và giản dị: ai thương dân, đó là người yêu nước. Những con người như thế vẫn luôn được nhân dân xem như những bậc anh hùng.


                    *****************


                    ( Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt ) 1966 ( mặt sau là hình Lăng Ông )








                    PS : nếu có biết chuyện tình Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà , cũng nên nhớ Võ Đông Sơ là con của Võ Tánh và Bạch Thu Hà là con gái hay em gái (? ) của Bạch Xuân Nghiêm ( có đề cập ở trên ).
                    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 02-04-2010, 12:40 AM.
                    ----------------------------

                    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                    Comment

                    • #11

                      Đọc thêm :


                      ................................................


                      III.Trích vài nhận xét để ghi nhận công lao to lớn của Tả Quân:

                      Chỉ nói riêng ở vùng đất phía Nam thôi, công lao của LVD thật vô cùng to tát.

                      Đó là công khai hoang, lập ấp; làm cho một vùng rừng rậm, đầm lầy … trở nên trù phú với một nền an ninh vững chắc, bởi chiến lược bảo vệ và phòng thủ phía Nam và phía Tây rất hữu hiệu của ông.

                      Việc đáng kể nữa mà người hôm nay ít ai nhắc tới: Tả quân cũng là người có công lớn trong việc đào kinh Vĩnh Tế tại Châu Đốc, An Giang. Bởi nếu không có ông giỏi huy động một lúc 55000 ngàn dân phu Việt lẫn Khơ-me đến trợ giúp Thoại Ngọc Hầu từ năm 1822-1824, thì dù Minh Mạng có nóng ruột đến đâu đi nữa bởi công việc bị trì trệ, thì kênh cũng không sao hoàn thành sớm như bụng vua ước mong.

                      Quả thật vậy, dưới thời ông làm Tổng trấn, đất miền Nam thái bình, dân chúng yên ổn làm ăn, kinh tế phát đạt. Đặc biệt ông có cách ứng xử khéo léo, khá rộng rãi đối với người phương Tây đến mua bán; ban hành nhiều chính sách ưu đãi cho dân Hoa kiều nhập cư vào đất Gia Định để họ phát triển việc thương mại…

                      Phan Thanh Giản, cũng là một vị quan chính trực, thanh liêm thời bấy giờ, đã phải thốt lên lời khen ngợi :

                      “Gia Định này thật có phúc mới gặp được một Tổng Trấn như đại quan. Tôi ở Kinh Thành, ở Bắc Thành vào Gia Định thấy như đi qua một nước khác. Ở dọc sông thì trên bến, dưới thuyền, ghe thuyền san sát, lúa gạo nghìn nghịt. Vải vóc, đồ thau, đồ đồng, đồ sứ, đồ gốm, thảo mộc quý, quế, trầm, hồi thật là không thiếu thứ gì. Trên đất liền, nhà cửa phố xá san sát, khang trang. Đường đi lại lát gạch, lát đá sạch sẽ mát mắt….
                      Cảnh dân theo đạo Thiên Chúa trốn chui, trốn nhủi như ở ngoài Bắc Thành, Kinh Thành, ngoài Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, vào đây không thấy. Cha truyền giáo vẫn đi lại bình thường trên đường phố.
                      Tôi thật mừng. Mình làm quan thấy dân vui là mình vui. Làm quan chỉ biết vui phần mình thật đáng trách.”

                      Năm 1822 một phái đoàn Anh do ông Crawfurd dẫn đầu có đến yết kiến ngài tổng trấn. Trong dịp này Crawfurd thú nhận:

                      “Đây là lần đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ thấy rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt trông nó còn sầm uất hơn, không khí mát mẻ hơn, hàng hóa phong phú hơn, giá cả hợp lý hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giác như đây là một vương quốc lý tưởng.”

                      Sau đó ông còn ghi lại trong quyển nhật ký của ông về những sinh hoạt của thành phố Sài Gòn lúc đó và tiếng tăm của ngài tổng trấn như sau:

                      Thành phố Saigun không xa biển, có lẽ cách độ 50 dặm; thành phố Pingeh (Bến Nghé) gần đó cách thành phố Saigun độ 3 dặm. Dinh Tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm.

                      Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông hà. Nơi đây buôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đây được Tổng trấn cho nhập hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Định. Đông nhất nơi đây là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ đều có nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành. Trộm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm.

                      Tổng trấn rất nhân từ, tha cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây. Một vị quan nhỏ ra đường ghẹo gái cũng bị cách chức lưu đày. Một đứa con vô lễ chửi mẹ Tổng Trấn biết được cũng bị phạt rất nặng.

                      Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp. Từ các nơi, dân đi thuyền theo các kênh rạch lên bán cho chúng tôi. Nhìn dân chúng hân hoan vui vẻ, chúng tôi biết dân no đủ. Nhiều người rất kính trọng vị Tổng Trấn của họ.

                      Con người này ít học. Nhưng lạ lùng thay là có được cái nhìn cởi mở hơn nhiều những đại thần và cả nhà vua học rộng, làu kinh sử của Khổng giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia Định này trù phú hơn mọi quốc gia khác ở trong vùng biển Đông.” …


                      Trích “Nhật Ký Hành Trình” của John White ,London 1824, tr.236 , nói về lần hội kiến với LVD như sau :

                      Tổng đốc Sài gòn nghe lời người ta nói là một hoạn quan.Trông hình dáng của ông đã chứng minh khá rõ tiếng đồn này . Ông ấy khoảng 50 tuổi , có cái nhìn thông minh . Ông có vẻ hoạt động mạnh về thể chất & tinh thần . Gương mặt tròn , nhẳn , không râu . Riêng giọng nói rất chát tai , giống tiếng đàn bà .Còn y phục của ông ta giản dị giống như y phục của người nghèo …

                      IV.Tả quân với 2 trọng án thời nhà nguyễn:

                      Soạn phần này, tôi không nhằm mà cũng không thể bôi xấu, bôi lem một nhân vật lịch sử đã có nhiều công lao và đã được nhân dân hết sức tôn kính, yêu mến

                      Chẳng qua, từ những vụ việc sẽ kể sau, tôi muốn soi rọi, biết đâu sẽ hiểu thêm phần nào góc cạnh của một con người; đồng thời qua nó, chúng ta hình dung được phần nào sức mạnh của Quyền lực, của Vàng son...để rồi sẽ thận trọng hơn trên mỗi bước đi của mình…

                      Trong dân gian râm ran truyền miệng rằng vào những ngày cuối đời, lúc thần hồn đã dần mê muội, miệng LVD thường nhắc đến tên 2 người: Nguyễn Văn Thành & Tống thị, chừng như trong ông vẫn còn day dứt về cái chết của 2 người này.

                      Dựa theo sách Đại Nam chính biên liệt truyện, xin lần lượt kể sơ qua cả 2 vụ việc:

                      4.1 Với vụ án Nguyễn Văn thành:

                      Vào năm 1799, Nguyễn Văn Thành được làm Tiết chế, chỉ huy trận đánh vào thành Quy Nhơn do quân Tây Sơn đang nắm giữ.

                      Sách trên ghi: “ Thành cùng Duyệt, cắm cờ trên bành voi để chỉ huy các tướng Tính Thành thích uống rượu. Lúc sắp vào trận, Thành lấy be rót uống, nhân thể rót mời Duyệt. Duyệt không uống, Thành nói: “Hôm nay trời rét, uống rượu cho thêm khí lực. Duyệt cười mà nói rằng: “ Người nào nhút nhát mới phải mượn rượu để tăng khí lực. Trước mắt ta, nào có ai đáng mặt giỏi trận mạc để cùng đối địch, vậy cần gì phải dùng đến rượu?”

                      Thành nghe vậy thì thẹn và cũng kể từ đó, bắt đầu để bụng nuôi giận đối với Duyệt…”


                      Theo sách Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe, nguyên Đổng lý văn phòng của vua Bảo Đại, do có điều kiện tiếp xúc với nhiều sử liệu trong cung, nên ông đã kể lại chuyện như sau:

                      Thành cậy mình nhiều tuổi, văn võ song toàn nên thường tỏ ra xem thường Duyệt, vì Duyệt vốn là một hoạn hoan, lại thiếu học. Còn Duyệt thì cho rằng Thành, nơi chiến trường kém dũng mãnh mà hay lên mặt đàn anh, nên trong thâm tâm rất ghét Thành…”Ông Phạm Khắc Hòe còn kể thêm, tuy họ ghét nhau nhưng vì Gia Long khéo dàn xếp nên hai “mãnh hổ” tạm sống chung rừng.

                      Mãi đến cuối năm 1815, Nguyễn Văn Tuyên, con Thành có làm bài thơ gửi cho bạn với lời lẽ hơi ngông cuồng, ý nghĩa khá mù mờ, trích 2 câu cuối:

                      Sơn tể phen này dù gặp gỡ,
                      Giúp nhau xoay đỗi hội cơ này”


                      Không ngờ có người đầy tớ tên Hiệu lấy đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Hữu Nghi vốn có thù oán với Thành bèn xui tên Hiệu đi tố cáo với Duyệt.

                      Nhân cơ hội để ra đòn hiểm, Duyệt liền đem dâng lên vua với lời cáo buộc thơ có ý “mưu phản” để bắt giam Tuyên, rồi ngầm ra lệnh tra tấn phạm nhân rất dữ, nên con Thành đành nhận mình có ý đồ mưu phản….

                      Thế là những phe cánh của Duyệt hùa nhau tố cáo loạn xị, khiến Thành phải chạy theo níu áo Gia Long kêu khóc: “ Thần theo Bệ hạ từ nhỏ đến nay không có tôi gì, lẽ nào Bệ hạ ngồi yên để cho họ bày chuyện hại thần”.

                      Nhà vua rứt áo bỏ đi, ra lệnh cấm không cho Thành vào chầu nữa…

                      Rồi Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc tự tử và các con ông này tuy được Gia Long tha cho, nhưng đến khi Minh Mạng lên ngôi thì đều bị ghép vào án chết !...


                      4.2 Với vụ án Tống thị Quyên:

                      Năm Minh Mạng thứ năm (1824),có người bí mật tố cáo rằng Mỹ Đường thông dâm với mẹ ruột là Tống thị, vợ Thái tử Cảnh .

                      Lê văn Duyệt đem vụ việc này tâu lên rồi cũng chính ông được lệnh bắt Tống thị dìm nước cho chết , còn Mỹ Đường thì phải giao trả hết ấn tín & dây thao , đồng thời bị giáng xuống làm thứ dân , con trai con gái chỉ được biên chép phụ ở phía sau sổ tôn thất …

                      Đây thực sự là một bi kịch không nhỏ ở chốn cung đình nhà Nguyễn.
                      Tuy không có bằng chứng nhưng qua cách hành xử của vua Minh Mạng (con dòng thứ) đối với dòng chánh, đáng lẽ ra họ phải được nối ngôi, thì mới thấy nhà vua đã tìm mọi cách để triệt hạ, trù dập con cháu Hoàng tử Cảnh như thế nào.

                      Xin trích theo sử nhà Nguyễn:

                      Năm Minh Mạng thứ bảy (1826) , Mỹ Thùy lại bị quân lính ở đạo Dực Chẩn kiện , sắp bị đưa cho đình thần nghị tội thì Mỹ Thùy bị bệnh mà mất , lúc ấy chưa có con cái gì .Vua cho lấy con trưởng của Mỹ Đường là Lệ Chung , tập phong làm Ứng Hòa Hầu để lo việc phụng thờ Anh Duệ Hoàng Thái Tử (tức Hoàng tử Cảnh ) ...

                      Tưởng bi kịch đến đó là hết, nào dè đến năm Minh Mạng thứ mười bảy (1836), vì sợ con cái của Lệ Chung nhờ cha mà hưởng phúc ấm , nên triều thần lại tiếp tục nghị tội , buộc con trai con gái của Lệ Chung là Lệ Ngân , Thị Văn, Thị Dao đều phải giáng làm thứ nhân .

                      Mãi đến năm Tự Đức thứ hai (1848), khi Mỹ Đường bị bệnh mất, dòng dõi của Hoàng tử Cảnh mới tạm yên ở phận dân thường



                      Người soạn lạm bàn:

                      Qua nội dung hai vụ án trên, tôi thật sự băn khoăn vì sao một con người chánh trực, hết lòng ủng hộ dòng chánh; thế mà một hôm nghe ai đó tố cáo, rồi vội vàng tâu vua, người mà trong thâm tâm ông không hề ưa.
                      Để rồi chẳng có một cuộc điều tra hoặc một phiên xét xử nào, ông dễ dàng nhận lệnh, vội vàng “dìm” chết đi một con người; phải chăng cũng tức là ông đoạn tuyệt hẳn một chánh kiến, một phe phái mà ông đã từng tán đồng và ủng hộ?…

                      Bởi gian kế khiến ông lầm, hay chính vì miếng đỉnh chung mà ông chấp nhận thỏa hiệp?...

                      Còn với vụ án Nguyễn Văn Thành, nguyên là tổng Trấn Bắc Thành, chẳng qua nhân chuyện hai “mãnh hổ " không thể chung rừng, vua nhà Nguyễn ngầm ra tay “Điểu tận cung tàng”(chim bay cao hết, cung tốt vất bỏ), vì lo sợ công thần nắm giữ binh quyền quá lớn, dễ gây họa cho con cháu của nhà vua.

                      Nhân đây, ta cũng nên biết Nguyễn Văn Thành có thể ỷ mình là công thần nên đã có lời nói, làm đôi ba chuyện đối với nhà vua hơi quá mức; nên sau này Gia Long có đưa ra những lỗi này, để đình thần ghép thêm tội cho bề tôi thân thiết xưa.

                      Nhưng sâu xa hơn cả, chính là vì ông Thành làm như không biết ý vua đã quyết truyền ngôi cho Hoàng tử Đởm, tức vua Minh Mạng sau này; nên hễ mở miệng ra là cổ xúy cho dòng chính, rồi còn dám rủ rê các quan tụ tập ở nhà riêng, bàn chuyện xin vua lập Hoàng tôn Đán, tức con Thái tử Cảnh, lên ngối ngôi; thì bảo sao ông không bị dổn ép vào sát chân tường cho được.

                      Sử nhà Nguyễn ghi chỉ vì mấy câu “mời rượu” giữa 2 ông khiến nảy sinh hiềm khích nên mới có vụ án này; đấy là sử quan muốn che giấu thâm ý của nhà vua.

                      Tuy vậy, từ mấy câu “mời rượu” ta thấy gì? (Duyệt cười mà nói rằng: “ Người nào nhút nhát mới phải mượn rượu để tăng khí lực. Trước mắt ta, nào có ai đáng mặt giỏi trận mạc để cùng đối địch, vậy cần gì phải dùng đến rượu").Rõ ràng Duyệt rất uất ức vì không được nhận lãnh cờ “tiết chế” ”(quyền chỉ huy cao nhất), nên mới có mấy câu xấc xược, tỏ ý xem thường vị chỉ huy của mình.

                      Thâm sâu hơn, nó còn cho ta thấy trước sự cám dỗ quyền lực, ngay cả con người có nhiều đức tính tốt như Duyệt… cũng dễ dàng bị nó quyến dụ để rồi tình đồng chí, đồng đội, đồng cam khổ ngày nào phải nhanh chóng nhợt nhạt, úa phai…


                      IV.Tạm kết bài:

                      Bản thân vốn là một cậu bé ít học, ham chơi; nhờ cơ may, nhờ thời thế mà thi thố bản lĩnh.

                      Là một người bị hoạn bẩm sinh, nhưng không vì thế mà mặc cảm, ông chỉ biết cống hiến hết tài năng, hết sức mình nên nhanh chóng trở thành đại tướng, mang ấn công hầu, làm “vương” một cõi, vua quan trong ngoài và cả lân bang đều phải nể trọng …

                      Cả khi ông mất rồi, mộ bị san phẳng, bị xiềng xích …Ấy vậy mà, người ta vẫn lén lút thờ cúng & hình ảnh ông luôn là vị thần hoàng hiển linh trong lòng dân tộc Việt lẫn Hoa .

                      Chắc có nhiều lý do, nhưng theo tôi, ai biết quên túi riêng để lo cho chuyện chung, nhất là làm sao cho dân hưởng được cuộc sống yên ổn, có được cơ hội để làm ra manh áo, chén cơm…thì sẽ được tôn Thần !

                      Và biết đâu, nếu như triều đình Nhà Nguyễn có cái nhìn cởi mở, chính sách cai trị khôn khéo trong ngoài… như ông; thì rất có thể Việt Nam đã sớm trở thành một nước tiến bộ, giàu mạnh ngay từ buổi ấy.

                      Ngẫm lại, LVD thật vô cùng xứng đáng làm tấm gương để mọi người soi rọi rồi biết nói ít, làm nhiều; không vì lợi ích riêng mà quên dân, quên nước …


                      Bùi Thụy Đào Nguyên , biên soạn


                      ************************************************** *******

                      (Coi cho biết : )


                      4.Khi bài đã soạn xong, tôi mới được đọc quyển Lê Văn Duyệt của Hoàng Lại Giang, Nxb VHTT năm 1999; trong đó có nhiều trang viết về vụ án Tống Thị Quyên.

                      Có đoạn cho biết lúc Minh Mạng còn là một vị hoàng tử, ông ta đã sàm sỡ với người chị dâu xinh đẹp, đức hạnh vừa kể trên nên bị một cái tát tai. Vì vậy “bây giờ ta là Hoàng đế, ta sẽ trị nó theo cách ta muốn. Cho vào cũi và đìm xuống nước”. Ở trang 273, tác giả cũng cho biết ông Duyệt có dâng sớ xin vua Minh Mạng tha chết cho Tống Thị Quyên, vì đấy chỉ là tin đồn thổi.Thế nhưng:

                      “… nhà vua nổi giận, cho hủy sớ tâu và quyết theo ý mình.

                      Lê Văn Duyệt cho rằng không vì cái hận tát tai kia thì may ra Minh Mạng còn nghe mình. Sau đó, mỗi lần ra kinh thành, bao giờ Lê Văn Duyệt cũng ghé qua phía tây nam kinh thành, trên ngọn đồi Không tên, tìm tới một nấm đất thấp mọc đầy một thứ hoa màu tím thanh khiết.

                      Dân trong vùng gọi đó là hoa chung thủy.Lặng lẽ, Duyệt nhổ từng cây cỏ dại và đốt cho người đàn bà oan khuất này nén hương.

                      Mỗi lần đi như vậy trở về, lão Cơ Điều (người nô bộc thân tín)lại thấy Lê Văn Duyệt hai má đầm đìa nước mắt!...”.


                      Tôi không biết ông Giang dựa vào sử liệu nào để ghi như trên và cũng không thấy ông nhắc việc chính ông Duyệt là người tâu vua chuyện loạn luân và cũng là người thi hành lệnh dìm chết người vương phi góa bụa này.

                      Cũng như sự việc rạn nứt giữa ông Duyệt và Thành, theo tôi tác giả đã cố ý che bớt trách nhiệm của Tả quân trong cái chết của ông Thành rất nhiều.

                      Tác giả viết như thế này: Vụ án Tuyên, con trai Nguyễn Văn Thành, lại do Lê Văn Duyệt phụ trách. Bị đòn tra tấn nặng, Thuyên đã nhận liều là có ý mưu phản. Nghe Thuyên nhận tội, Duyệt trầm ngâm, ông không vui, cũng không buồn. Dường như có điều gì gờn gợn…

                      Thế rồi : “…Sau cái chết bằng thuốc độc của Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt thấy như mình có tội. Nỗi ân hận giày vò ông….Thuyên có thể dại dột, xốc nổi; còn Thành, một đại thần tự thưở hàn vi của Thế tổ như thế làm sao có thể phản nghịch được mà Thế tổ nỡ lòng…Lê Văn Duyệt tự vấn mình giữa ngọn đèn khuya.”(tr.84-85)

                      Có thể vì tác giả quá yêu mến, kính trọng nhân vật lịch sử họ Lê, nên cố gắng làm cho tấm gương thêm “tròn trịa” chăng?




                      [url="http://www.maiyeuem.net/topic/132591/Ta-Quan-Le-Van-Duyet"][COLOR=black]Link




                      ----------------------------

                      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                      Comment

                      • #12

                        ..::~Trích dẫn nguyên văn bởi Uất Kim Hương View Post
                        Thiệt sao? Chuyện khủng khiếp à nha! Mới nghe lần đầu đó! May quá tui không ước được làm vua ở xứ này. Tui ước làm Vua ở xứ 1 Răng, 1 Rắc thui.

                        1 Răng (Jean ), 1 Rắc (Jacques )...dzồi có rút-xô (Rousseau ) ko...

                        Tri túc , tiện túc....nàng ui !!!
                        ----------------------------

                        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                        Comment

                        • #13

                          coi thêm chuyện về các người đẹp Trung hoa nhe...


                          ********************



                          9 người phụ nữ độc ác nhất lịch sử Trung Hoa:


                          1. Lã Hậu: Người đàn bà độc ác nhất trong lịch sử

                          Hán Cao tổ Lưu Bang và Lã Trĩ quả là một cặp vợ chồng hoạn nạn có nhau, thế nhưng sự xuất hiện của Thích Phu nhân là một trở ngại nghiêm trọng cho cuộc sống hạnh phúc của cặp vợ chồng đế hậu này.

                          Người Trung Quốc có câu “Nam nhi ái hậu phụ, nữ tử trọng tiền phu” (Đàn ông thì yêu vợ sau, đàn bà thường trọng người chồng trước). Thích Phu nhân mặt đẹp như hoa, thân hình gợi cảm, hát hay múa giỏi, lại sinh được cho Lưu Bang hoàng tử Như Ý.
                          Như Ý thông minh khôi ngô, Lưu Bang rất yêu nên có ý muốn phế trưởng lập thứ. Lã Hậu rất hoảng, tưởng bị phế đến nơi, may nhờ có các đại thần ủng hộ nên bà ta mới giữ vững được ngôi hậu.

                          Sau khi Hán Cao tổ qua đời, Lã Hậu chuyên quyền, bắt đầu tính đến chuyện trả thù những phi tần đã được Lưu Bang sủng ái khi trước. Thích Phu nhân là nạn nhân đầu tiên.
                          Bà ta sai người chặt hết chân tay Thích Phu nhân, chọc mù mắt, đâm thủng tai, bắt uống thuốc độc cho câm, sau đó quẳng kẻ tình địch trong tình trạng sống dở chết dở như thế vào một căn hầm tối, gọi là “Người lợn”. Tình cảnh của Thích Phu nhân đáng sợ đến mức một lần con trai Lã Hậu là Hán Huệ Đế tình cờ nhìn thấy, sợ quá lâm bệnh, nằm liệt giường.
                          Những thủ đoạn giết người tàn bạo không phải là hiếm ở Trung Quốc, nhưng thủ đoạn tàn ác như Lã Hậu thì quả là có một không hai. Không những hại Thích Phu nhân, Lã Hậu còn lừa Như Ý vào trong cung.

                          Huệ Đế biết rõ tính mẹ, sợ đứa em cùng cha bị mẹ hãm hại nên ăn ngủ cùng nhau, không rời một bước. Nhưng dù được người anh tốt bụng che chở thì Như Ý cũng không thoát khỏi tay người đàn bà hiểm độc được mãi. Một lần, nhân lúc Huệ Đế đi săn ngoài cung, Lã Hậu đã sai người bóp chết con trai của kẻ tình địch.


                          2. Chiêu Tín: Quái vật trong triều Hán

                          Chiêu Tín là cơ t**** của Quảng Xuyên Vương Lưu Khứ, cháu nội vua Hán Cảnh Đế. Chiêu Tín đẹp thế nào thì không thấy sử sách ghi, nhưng tính tình tàn nhẫn hiểm ác thì vào loại hàng đầu trong lịch sử Trung Quốc.

                          Theo sử chép thì lúc đầu Lưu Khứ rất sủng ái hai nàng Vương Chiêu Bình, Vương Địa Dư, hứa hẹn lập họ làm hoàng hậu. Nhưng vốn là kẻ hoang dâm vô độ nên sau này ông ta lại quay ra sủng ái Chiêu Tín. Chiêu Bình, Địa Dư rất căm tức nên bàn mưu định hại Chiêu Tín.
                          Chuyện bị bại lộ, Lưu Khứ bắt Chiêu Bình ra dùng khổ hình tra khảo. Đánh roi mây, Chiêu Bình nén chịu không khai, chuyển sang dùng dùi sắt đâm, Chiêu Bình đau quá phải khai. Thế là Lưu Khứ bèn triệu tập các phi tần đến, bắt họ dùng kiếm đâm chết Địa Dư, còn Chiêu Bình thì để Chiêu Tín đâm chết. Ông ta còn cho treo cổ 3 thị tỳ, sau đó đem đốt xác hai người đẹp ông ta hằng yêu dấu thành tro rồi đổ đi.

                          Chưa hài lòng, Chiêu Tín còn vu cáo Vọng Ngưỡng, một ái t**** khác được Lưu Khứ sủng ái. Nghe Chiêu Tín siểm tấu, Lưu Khứ cho gọi các phi tần cùng kéo đến nơi Vọng Ngưỡng ở, lột hết quần áo nàng, bắt các phi tần dùng dùi nung đỏ gí vào người nàng. Vọng Ngưỡng bỏ chạy, nhảy xuống giếng tự vẫn, Chiêu Tín lôi lên, dùng giáo đâm vào chỗ kín, xẻo mũi cắt miệng, cắt lưỡi nàng… đem nấu chín, bắt các phi tần khác xem.
                          Chưa hết, Chiêu Tín còn vu cáo hãm hại một cung phi là Vinh Ái. Vinh Ái sợ quá nhảy xuống giếng nhưng không chết. Chiêu Tín lôi lên, trói lại, gí dao nung làm mù hai mắt, cắt hai tay, nung chì đổ vào miệng nàng. Vinh Ái chết, Chiêu Tín còn sai phân thây bắt chôn mỗi thứ một nơi. Có tới 14 cung phi từng được Lưu Khứ sủng ái bị Chiêu Tín hành hạ như vậy.

                          3. Lệ Cơ: Kẻ giết người không dao

                          Sự hiểm độc của Lệ Cơ khác với những người khác ở chỗ “giết người không dao”.

                          Thời Xuân Thu, Tấn Hiến Công xuất binh đánh Lệ Nhung - một nhánh của Tây Nhung, nay thuộc huyện Lâm Đồng, tỉnh Thiểm Tây - giết vua Lệ Nhung, bắt Lệ Cơ công chúa là con gái ông ta mang về trung nguyên.
                          Lệ Cơ đẹp nghiêng nước nghiêng thành nên Hiến Công rất thích. Bất chấp lời can ngăn của quan chiêm bốc (thầy bói), ông ta vẫn lấy làm t****, sau đó Lệ Cơ sinh được con trai, đặt tên là Khê Tề.
                          Sinh được con trai rồi, Lệ Cơ tìm cách hành động để lo liệu cho tương lai của hai mẹ con. Trước hết, nàng dọn sạch mọi trở ngại trên con đường đưa Khê Tề đến ngai vàng, lập mưu trừ bỏ 3 công tử tài hoa là Thân Sinh, Trùng Nhĩ, Di Ngô. Nàng thẽ thọt bẩm với Hiến Công sai Thân Sinh mang quân đi đánh Nhung Địch rồi thừa cơ nắm lấy chỗ yếu, đẩy Thân Sinh đến chỗ chết, nhưng không thực hiện được.

                          Tiếp đó, Lệ Cơ tìm cách vu cáo bỏ thuốc độc vào thức ăn dâng lên để giết hại vua cha, bức Thân Sinh phải thú nhận rồi ôm hận tự sát. Thân Sinh chết rồi, Lệ Cơ bèn vu cho Di Ngô đồng mưu khiến Công tử Trùng Nhĩ phải bỏ chạy về Bồ Thành, còn Di Ngô chạy đến Khuất Thành.
                          Tấn Hiến Công nghe nói hai con trai bỏ trốn liền nổi giận lôi đình, càng tin rằng hai người đồng mưu với Thái tử Thân Sinh hại cha và Lệ Cơ nên ra lệnh điều binh đi đánh Bồ Thành. Viên quan coi Bồ Thành sợ quá khuyên Trùng Nhĩ tự sát để tạ tội, Trùng Nhĩ vội nhảy xuống dưới thành chạy trốn, người này chỉ kịp vung gươm cắt lấy tay áo của Trùng Nhĩ. Hiến Công sai người đánh Khuất Thành nhưng không được.

                          Sau khi Hiến Công chết, các quan đại phu tập hợp dư đảng của các công tử làm loạn giết chết Khê Tề và Trác Tử, đón Di Ngô trở về lên ngôi vua, cơn sóng gió do Lệ Cơ gây nên bấy giờ mới yên.

                          4. Triệu Phi Yến đời Hán: Cặp chị em ghê gớm

                          Vẻ đẹp của Triệu Phi Yến có thể nói là “Đệ nhất thiên hạ”, không ai sánh bằng, nhưng sự hiểm độc của đại mỹ nhân này thì cũng không ai so được.
                          Triệu Phi Yến và người em gái là Triệu Hợp Đức sau khi được Hán Thành Đế đưa vào cung làm phi đã cùng nhau lật đổ Hứa Hoàng hậu.

                          Nói về tài múa hát và nghệ thuật phòng the của Phi Yến thì không ai sánh bằng, có giả thuyết nàng xuất thân gái lầu xanh. Chính vì là gái ca kỹ nên không còn khả năng sinh đẻ.
                          Người em gái cũng vậy, “hoa không thể đẹp mãi”, nếu không sinh được con trai để củng cố địa vị thì chẳng ng thì chầy sẽ bị gạt bỏ, hai chị em họ biết rõ mối nguy hiểm đó. Hai người bắt đầu chú ý đến các cung phi được Thành Đế sủng ái khác. Một số cung phi có mang đã chuốc họa vào thân vì điều đó.

                          Một cung phi là Tào Cung sau khi “tiến ngự” sinh được con trai khiến Thành Đế tuổi đã 40 mà chưa có con trai mừng đến phát cuồng. Thế nhưng chị em Phi Yến hay tin đã ép vua xử tử cả hai mẹ con Tào Cung, gây nên vụ thảm án kinh hoàng. Một năm sau, tình cảnh tương tự lại xảy ra với Hứa mỹ nhân - một người cũng vừa sinh được con trai.
                          Thành Đế không phải không biết đến sự hiểm độc của hai người đàn bà này, nhưng do quá chìm đắm trong sắc dục nên ông ta không cương quyết được. Tận mắt thấy cốt nhục của mình bị chị em Phi Yến hãm hại mà chỉ đành gạt nước mắt than vãn.

                          Sử ký còn ghi “Vô số cung phi mang thai đều bị ép uống thuốc để phá bỏ”. Ông vua hoang ấy gục ngã dưới váy chị em nhà họ Triệu, để mặc họ tàn hại cốt nhục của mình, bất chấp nguy cơ Hán triều bị tuyệt tự, như thế đủ biết sức quyến rũ của hai chị em nhà ấy ghê gớm đến thế nào.

                          5.Giả Nam Phong đời Tấn: Vua sợ như cọp

                          Nói về sự hiểm độc, xấu xa lẫn đãng thì khó ai qua mặt được Giả Nam Phong, hoàng hậu của Tấn Huệ Đế.

                          Là hoàng hậu nhưng bà ta sinh liền 4 công chúa, không có con trai thì các phi tần khác trong cung nếu ai may mắn được Huệ Đế lâm hạnh dĩ nhiên sẽ lãnh đủ. Giả Nam Phong hung tàn hơn hẳn Triệu Phi Yến. Sau khi biết tin một cung phi có thai, bà ta chạy ngay đến nơi người đó ở, giật lấy kích của thị vệ đâm cho cô ta một nhát vào ngực chết tươi. Tấn Huệ Đế sợ Giả Nam Phong như sợ cọp. Tuy luôn mồm nói mình tôn sùng “lễ pháp”, nhưng trước sự hoành hành bạo ngược của Giả Nam Phong, ông vua này cũng chỉ biết than thầm.

                          6.Độc Cô hoàng hậu đời Tùy: Cậy công làm càn

                          Hoàng hậu của Tuỳ Văn Đế họ Độc Cô thực ra có thể ăn no ngủ kỹ chẳng phải lo gì đến chuyện giết c những người thân thích vì bà ta sinh đến 5 con trai, hơn nữa cả 5 người đều đã trưởng thành, thì còn lo gì chuyện bị thất sủng? Thế nhưng tâm lý phòng bị đã khiến bà ta trở thành người hiểm độc.

                          Tùy Văn Đế từng sủng ái một cung nữ ở cung Thượng Nhân Thọ, người này họ Úy Trì, rất xinh đẹp trẻ trung, có thể coi như một đóa hoa mới nở. Tùy Văn Đế bị trói buộc với Độc Cô hoàng hậu nhiều năm nay ít được những người đẹp khác chiều chuộng, gặp Úy Trì liền mê mẩn ngay.
                          Độc Cô hoàng hậu nghe tin, lập tức sai người đi giết Úy Trì thị khiến Tùy Văn Đế uất quá phóng ngựa ra ngoài cung lang thang suốt ngày, đến chiều tối mới rầu rĩ về cung.

                          Độc Cô hoàng hậu sở dĩ dám hung hãn đối kháng với chồng như thế vì bà ta luôn tự hào về việc mình đã góp công lớn cùng chồng đánh lấy thiên hạ, bà ta có làm thế thì Tùy Văn Đế cũng chả dám làm gì bà ta.

                          7.Võ Tắc Thiên thời Đường: Vì chính trị không từ điều gì

                          Tự cổ chí kim, ở Trung Quốc chưa có ai sánh được với Võ Tắc Thiên cả về tài hoa lẫn sự độc ác. Nhưng sự độc ác của bà ta là vì mục đích chính trị, giết con giết cháu, không điều gì không dám làm để dọn đường cho việc bản thân buông rèm nhiếp chính.

                          Một người phụ nữ đã được Đường Thái Tôn Lý Thế Dân ngự hạnh, sau đó lại được vị hoàng đế mới là Lý Trị đón vào cung, không phải bởi sức quyến rũ, mà bởi tình thế cuộc đấu đá tranh giành sự sủng ái trong cung đưa đẩy mà nên.
                          Vương Hoàng hậu tuy là người có gương mặt rất đẹp nhưng thân hình lại mảnh mai. Ở vào thời đại nhà Đường, phụ nữ đẹp phải là người đầy đặn, béo tốt thì Tiêu Thục Phi bằng vóc người phốp pháp và vẻ yêu kiều nũng nịu đã chiếm được sự sủng ái của Cao Tông Hoàng đế, Hoàng hậu gửi gắm vào Mị Nương nên cho đón vào cung để dùng làm công cụ đối phó lại Tiêu Thục Phi.

                          Lúc mới vào cung, Mị Nương hiền lành đáng yêu, rất được mọi người trong cung quý mến. Nhưng dần dần tình thế thay đổi, Mị Nương liên tiếp sinh hạ hai hoàng tử nên nhanh ng trở thành thế lực mới trong cung. Từ chỗ là đồng minh, giờ đây Vương Hoàng hậu lại lo sợ, quay ra hợp mưu với Tiêu Thục Phi để đối phó lại Mị Nương.
                          Sau đó xảy ra vụ công chúa Như Ý con của Mị Nương bị đột tử khiến hoàng đế rất đau xót. Giữa lúc đó có người trong cung báo, trước lúc xảy ra chuyện Vương hoàng hậu có đến thăm công chúa, cử chỉ có nhiều điểm đáng ngờ. Rồi một loạt tin đồn bất lợi với Vương hoàng hậu lan ra, dần dà bà sống trong nỗi lo bị phế bỏ và trị tội.

                          Sau khi thanh lọc các thế lực đối địch trong triều, Mị Nương bắt đầu chĩa mũi nhọn vào các phụ nữ trong cung. Lúc đầu là việc các thuật phù thủy trừ tà của Vương hoàng hậu bị phát giác, sau đó đến chuyện bà cùng Tiêu Thục Phi bị phế làm dân thường với tội danh định dùng rượu độc làm hại Võ chiêu nghi. Hai người bị giam trong phòng tối cách biệt với bên ngoài.
                          Có lần Cao Tông nghĩ lại tình ân ái khi trước, động lòng trắc ẩn, định tha cho họ ra ngoài thì tin lan đến tai Mị Nương. Thế là họ bị người của Mị Nương bám theo đánh, chặt chân tay, quẳng vào chum rượu... Sau mấy ngày trong chum rượu, cả hai người đều chết thảm. Trước khi chết, Tiêu Thục Phi nguyền rủa sau khi chết sẽ hoá thành mèo để bắt chuột là “Võ yêu tinh”. Tin truyền đến tai Võ Tắc Thiên (Mị Nương), bà ta lo sợ, từ đó cấm tiệt việc nuôi mèo trong cung. Và truyền thuyết Võ Tắc Thiên sợ mèo còn truyền đến tận ngày nay.

                          8.Lý Hoàng hậu nhà Tống: Ghen tuông bệnh hoạn

                          Một bà hoàng khác là Lý Hoàng hậu thời vua Nam Tống Quang Tôn cũng nổi tiếng về sự độc ác với những kẻ tình địch và những thủ đoạn ngăn chặn thói lăng nhăng của chồng.

                          Một hôm khi Quang Tôn rửa tay chợt thấy bàn tay của thị nữ đang rửa tay cho mình trắng ngần gợi cảm, rất thích, bất giác nắm lấy ve vuốt, hôn hít và buông lời khen đẹp. Mấy hôm sau, Lý Hoàng hậu sai người dâng vua một cái hộp nói đây là thứ vua rất yêu thích nên tiện thiếp lấy để dâng lên. Quang Tôn nghe nói cả mừng, vội mở ra xem thì ra trong đó là... đôi bàn tay của thị nữ hôm nọ vua khen đẹp đã bị chặt ra. Vua kinh hãi, sây xẩm cả mặt ***

                          9.Minh triều Vạn Trân Nhi: Không được ăn thì đạp đổ

                          Vạn Trân Nhi chính là nguyên mẫu trong vụ án Ly miêu tráo Thái tử được nói đến trong các phim về Bao Công.

                          Vạn Thị là người Thanh Châu, Sơn Đông, được tuyển vào cung từ nhỏ làm cung nữ. Lớn lên, Vạn Thị được hầu hạ Chu Kiến Thâm, dần dà hai người nảy sinh tư tình. Năm Thiên Thuận thứ 8, Anh Tôn băng hà, Chu Kiến Thâm lên ngôi khi tròn 18 tuổi, lấy hiệu là Hiến Tôn, lúc đó Vạn Thị đã 35 tuổi. Tuy tuổi tác chênh lệch nhưng hai người vẫn lén mây mưa cùng nhau. Vạn Trân Nhi đẹp một cách đầy đặn phốp pháp, có câu rằng “Thanh tú tựa Triệu Hợp Đức, đầy đặn như Dương Quý Phi”, bà ta rất được Hiến Tôn sủng ái.

                          Nhưng sau khi Hiến Tôn lên ngôi thì hai vị Thái hậu đã tuyển chọn vào cung nhiều mỹ nữ, trong đó phải kể đến Hoàng hậu Ngô Thị, hai nàng phi Vương Thị và Bách Thị, khiến Vạn Trân Nhi đem lòng ghen ghét, thù hận.
                          Ngô Hoàng hậu thấy Vạn Trân Nhi không coi ai ra gì, muốn trị cho một trận. Một hôm khi Vạn Trân Nhi vào gặp, rất ngạo mạn vô lễ, bà liền mắng. Vạn Thị không vừa liền đáp trả nói năng chỏng lỏn. Bực quá, Hoàng hậu vớ lấy chiếc gậy trong tay thái giám gõ cho mấy cái. Vạn Thị bèn tìm đến vua khóc lóc tố khổ và bịa chuyện nói khích. Hiến Tôn tức giận liền truyền chỉ phế bỏ Ngô Hoàng hậu rồi lập Vương Thị làm hậu.

                          Năm Thành Hoá thứ 2 (1466), Vạn Thị sinh được con trai, được phong làm Quý phi, nhưng ít lâu sau thì đứa bé chết yểu, từ đó về sau bà ta không sinh được nữa. Vạn Thị thường ghen tuông đến mức điên khùng trước việc những phi tần, cung nữ khác trong cung được vua sủng ái. Nếu phát hiện thấy ai có thai bà ta liền sai người lấy cớ chữa bệnh để bắt uống thuốc phá thai, vậy mà vua chẳng dám làm gì ngoài việc nhỏ nhẹ phủ dụ bà ta.
                          Một lần, Hiến Tôn lâm hạnh một cung phi họ Kỷ, người này có bầu. Vạn Thị sai một cung nữ đi dò xét, người này bản chất lương thiện nên về nói dối là không có mang. Sau đó Kỷ Thị sinh hạ một bé trai, biết cả hai mẹ con sẽ lâm nguy nên khẩn cầu viên thái giám hãy bóp chết đứa bé đi. Thái giám thấy bất nhẫn, bèn lén đưa vào nuôi trong phòng kín. Ngô Hoàng hậu sau khi bị phế cũng thường vào thăm đứa bé.

                          Bấy giờ Hiến Tôn mới có một con trai là Tá Cực, chưa đầy 2 tuổi vừa được lập làm Thái tử đã bị Vạn Thị sai người giết chết. Trước nỗi đau mất con, vua vô cùng sầu não. Một hôm, vua soi gương và than thở mình tuổi đã cao mà không có con trai nối dõi. Thái giám Trương Mẫn thừa cơ bẩm báo chuyện mình đã lén nuôi được một hoàng tử. Vua cả mừng, cho đón Kỷ Thị và đứa bé vào cung. Vạn Thị nổi điên, hại chết Kỷ Thị. Trương Mẫn hoảng sợ, cũng phải nuốt vàng tự tử.

                          .
                          Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 02-04-2010, 01:20 AM.
                          ----------------------------

                          Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                          Comment

                          • #14

                            CO ơi, chuyện đàn bà độc ác có mấy...tay trong thiên hạ? Còn đờn ông độc ác thì có....hà rầm. Mình cùng là đàn bà nên hiểu mà phải không CO?

                            Comment

                            • #15

                              Lăng Ba Vành là lăng mộ Quang Trung Hoàng đế?

                              ..::~Trích dẫn nguyên văn bởi Uất Kim Hương View Post
                              CO ơi, chuyện đàn bà độc ác có mấy...tay trong thiên hạ? Còn đờn ông độc ác thì có....hà rầm. Mình cùng là đàn bà nên hiểu mà phải không CO?



                              ...hình như phụ nữ chỉ thành " cọp cái " khi ghen và khi bảo vệ "cọp con " chứ đàn ông thì "thất đức " vì mọi lý do ...bản chất họ vốn thế !!! ( oh ko chừng có "anh " lại lên tiếng ngay đấy , " oan cho chúng tôi ! " )



                              *********************

                              Kết cục bi thảm của triều Tây Sơn


                              Theo sử sách để lại, tháng bảy năm Nhâm Tý (1792), sau một thời gian hôn mê sâu, triều đình Phú Xuân đã tìm hết cách chạy chữa, nhưng rồi Vua Quang Trung cũng băng hà ở tuổi 39.

                              Tháng Năm năm Tân Dậu (1801), quân Tây Sơn bị vỡ trận và quân của Nguyễn Vương nhanh chóng cắt đường, đánh thẳng vào kinh thành Phú Xuân, đúng vào dịp Tết Đoan Ngọ. Nguyễn Quang Toản, người vừa nối ngôi quá bất ngờ, cùng đoàn tùy tùng chạy ra Bắc.

                              Nguyễn Vương sau khi trở lại cựu đô đã trả thù Quang Trung bằng cách ra lệnh cho một toán binh tượng lên ngay Đan Dương lăng và lăng bà Tả cung họ Phạm để quật phá, sau đó đưa quan tài của hai vợ chồng vua Quang Trung về thành Phú Xuân. Nguyễn Vương ra lệnh bổ quan tài ra, mang thi thể của vua Quang Trung và bà Tả cung họ phạm ra để trị tội. Do Tây Sơn có kỹ thuật ướp xác, nên hai thi thể của hai vợ chồng còn nguyên vẹn, Nguyễn Vương ra lệnh đem hai thi thể treo cổ ở Chợ Được, gần cầu Gia Hội hiện nay, nhằm thị uy và đe nẹt những người còn luyến nhớ Tây Sơn. Sau vài ngày, hai thi thể được đặt trở lại quan tài và được quân lính mang theo đoàn quân Bắc tiến để tiêu diệt Quang Toản.

                              Do mộ của vợ chồng Quang Trung đã bị quật, thi thể lại bị mang theo đoàn quân để phô trương thanh thế, quân Tây Sơn đã ngã lòng. Nhiều tướng tá thời Tây Sơn trở giáo theo Nguyễn Vương. Khi tướng sĩ Tây Sơn về hàng, ai vẫn được giữ chức ấy và cứ thế theo đoàn quân ra thẳng Thăng Long.

                              Trong thế chẻ tre, vua Gia Long lại vào Thăng Long, còn Nguyễn Quang Toản cùng với Lê Thị Ngọc Bình trên một con voi, chạy trốn trong rừng huyện Phương Nhãn. Do có người mách bảo, Vua Gia Long đã lệnh cho một tay có biệt tài “rống to” để dọa voi. Gã này vào rừng Phượng Nhãn rống to, con voi chở Nguyễn Quang Toản và Lê Thị Ngọc Bình quỵ xuống và quân của vua Gia Long đã bắt sống hai người.

                              Vua Gia Long đã “ tận pháp trừng trị” vua quan Tây Sơn trước “Từ đường các chúa Nguyễn”. Nguyễn Quang Toản bị hành hình theo phép phanh thây. Còn toàn bộ xương cốt của tử tội được cho vào giỏ mây, lệnh quân lính phóng uế vào,sau đó giã nát, nhồi vào súng, bắn xuống sông.

                              Riêng ba cái sọ của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Toản được cho vào ba cái vò, dán bùa yểm, treo lên ở nhà giam trong Vũ Khố, về sau đưa vào khám đường ở Tây Lộc.




                              Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 02-04-2010, 08:36 PM.
                              ----------------------------

                              Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                              Comment

                              Working...
                              X
                              Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom