• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Ký sự Hương Giang

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Ký sự Hương Giang

    Một hành trình khám phá dòng sông nổi tiếng bậc nhất Việt Nam, từ giọt nước đầu tiên đến khi nó hòa mình vào đại dương. Đó là Hương Giang, dòng sông mẹ của các bộ tộc trên dãy Trường Sơn, cũng là dòng sông hoàng gia của những triều đại vua chúa, và dòng sông đã đi vào tâm thức của bao thế hệ tao nhân, mặc khách…


    1 - Giọt nước từ Trường Sơn


    Khởi nguồn từ dãy Trường Sơn, giáp biên giới Việt-Lào, sông Hương là hợp lưu của hai dòng Tả Trạch và Hữu Trạch. Tả Trạch bắt đầu từ đại ngàn thuộc huyện Nam Đông, còn Hữu Trạch, từ huyện A Lưới đổ về. Hai nhánh gặp nhau ở ngã ba Tuần tạo thành dòng sông Hương chảy qua thành phố Huế, rồi từ đó đổ ra biển Đông.






    Cuộc sống lênh đênh trên sông Hương của những người làm nghề bè lồ ô

    Chúng tôi đến Huế đang là mùa giông bão, nhiều thông tin cho biết, nước sông Hương đang dâng cao, khó lòng chinh phục được những con thác phía thượng nguồn, nhưng điều đó không hề làm nản lòng, bởi với chuyến đi này, chúng tôi hy vọng sẽ là một cuộc hành trình khám phá trọn vẹn dòng sông nổi tiếng nhất trong các dòng sông Việt.

    Nơi khởi đầu của dòng sông

    Từ Huế, chúng tôi bắt đầu hành trình ngược sông Hương theo nhánh Hữu Trạch nơi có cảnh quan hùng vĩ, hai bên sông chỉ có núi đá và rừng già, nhiều gềnh thác.

    Đường bộ từ Huế lên A Lưới tương đối dễ dàng, cho dù phải vượt qua hai con đèo cao ngất là đèo Kim Quy và đèo Tà Lương. Từ ngã ba Phú Vinh, chúng tôi bắt đầu bước vào cung đường Hồ Chí Minh ở đoạn khó khăn nhất với bao đèo dốc quanh co, một bên là núi cao, một bên là vực sâu A Đớt - A Tép với những đường hầm sâu hun hút. Bên dưới vực là các khe, suối A Moong, Ta Ra, Cha Linh…tạo nên dòng Hữu Trạch dài 60 km, chi lưu đầu tiên của sông Hương.

    Chúng tôi vượt đèo A Năm vào địa phận xã A Roàng, vùng đất của người Tà Ôi. Người Tà Ôi thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Kh’mer, được gọi với nhiều tên gọi khác nhau như Tôi Ôi, Pa Cô, Pa Hy với dân số khoảng 26.000 người, sống tập trung tại phía tây miền trung Việt Nam thuộc địa phận huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên – Huế và hai huyện Hướng Hóa, Dak Rông tỉnh Quảng Trị.

    Ghé vào thăm làng A Ca A Chi , thuộc xã A Roàng, huyện A Lưới. Đây là một ngôi làng đẹp, điển hình của người Tà Ôi. Đã quá giữa trưa, mà các cô gái Tà Ôi vẫn miệt mài bên khung dệt zèng – một khung cửi đặc trưng của người Tà Ôi. Nghề dệt zèng với đặc trưng xâu cườm rất nổi tiếng của người Tà Ôi, cho dù một tấm dệt cườm phải mất có khi 45 ngày, nhưng các cô gái Tà Ôi luôn muốn khẳng định khả năng thẩm mỹ và khéo tay của mình.







    Dòng Hương Giang nơi thượng nguồn Hữu Trạch

    Những cô gái Tà Ôi thật dễ mến, thanh niên nam nữ thường tìm hiểu nhau qua tục đi “sim”, tình tự nơi nương rẫy và trao cho nhau những vật làm tin như lời thề hẹn ước trọn đời. Và ở nơi heo hút Trường Sơn này, chúng tôi đã nhận ra bản sắc tuyệt vời ấy. Rất nhiều cô gái Tà Ôi đã hàng mấy năm trời còng lưng dệt zèng kiếm tiền nuôi chồng đi học đại học dưới miền xuôi. Cô Blúp Thị Phú, đã hơn hai năm dệt zèng nuôi chồng học Đại học nông lâm cho biết: Mỗi tấm zèng loại thường, cô dệt mất một tuần, bán đi được hơn trăm ngàn, tằn tiện mỗi tháng gởi về xuôi cho chồng ăn học hơn bạc triệu, vậy mà cô vẫn vui, vẫn miệt mài, bởi đó là tập quán hy sinh của con gái Tà Ôi từ ngàn xưa…

    Xuôi theo dòng nước

    Con sông ở thượng nguồn trông nhỏ và hẹp, và có đến 14 con thác lớn , dốc cao, cực kỳ nguy hiểm…, nhưng càng về xuôi, lòng sông như rộng mở và êm đềm hơn.

    Chúng tôi quyết định sử dụng phương tiện bè lồ ô để đi về hạ lưu. Từ bao đời nay, đó là nguồn sinh sống của những người dân sống dọc theo sông Hương. Nghề khai thác lồ ô đã có từ hàng trăm năm qua. Những tiều phu lên rừng đốn về rồi kết thành bè rồi thả xuôi theo dòng về tận Huế, Hương Vinh, Thảo Long… cung cấp nguyên liệu cho các nghề làm nón, làm bàn ghế cho các gia đình, hay xuôi ra tận biển Thuận An, phá Tam Giang để rồi trở thành những chiếc nò, chiếc đơm, ngư cụ cho ngư phủ.

    Và chính câu chuyện trên chiếc bè cũ nát của vợ chồng chị Nguyễn Thị Oanh, người thôn Võ Xá hàng chục năm trời lam lũ đối mặt với mưa nguồn, bão lụt với những chuyến bè để dành dụm từng đồng nuôi đàn con năm đứa đều vào đại học đã cho chúng tôi một cảm giác ấm áp lạ thường vì cái tình của cư dân phía thượng lưu này. Bà Oanh nói như tâm sự với dòng sông: “Tôi xem sông Hương như người mẹ hiền đã cho tôi cơ hội nuôi đàn con của mình hàng chục năm qua…”.





    2 - Trong làng Cơ Tu



    Nếu như dòng Hữu Trạch được xem là nhánh sông phụ, thì dòng Tả Trạch dài khoảng 67km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, qua nhiều ghềnh thác hùng vĩ, sau đó chảy qua thị trấn Khe Tre (huyện Nam Đông) trước khi hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng thành dòng Hương giang lững lờ trôi về phía biển.


    Những đứa trẻ Cơ Tu của làng A Xăng ở Nam Đông

    Nam Đông là huyện miền núi cực nam của tỉnh Thừa Thiên – Huế, nối liền với cực tây bắc tỉnh Quảng Nam. Là một huyện có dân số chỉ có 2,3 vạn người, trong đó người Cơ Tu chiếm đến 41%. Nếu vùng thượng nguồn sông Hương bên phía nhánh Hữu Trạch là vùng đất của người Tà Ôi, thì khu vực Tả Trạch lại là các thôn, bản của người dân tộc Cơ Tu sinh sống với nét đặc trưng riêng.

    Ngôi làng độc đạo

    Cả Nam Đông gần như chỉ có một tuyến đường 14B ngược đèo La Hy để về miền xuôi. Có lẽ vì vậy, người Cơ Tu luôn ý thức sự thua thiệt của dân tộc mình để vươn lên trong cuộc sống. Chúng tôi tìm về phía Thượng Long, vùng đất xa xôi nhất của Nam Đông nằm nép mình bên thượng nguồn Tả Trạch dưới chân núi Quỳnh Tang, nơi có bản A Xăng còn giữ gần như nguyên bản văn hoá dân tộc Cơ Tu.

    Bản chỉ có 24 nóc nhà. Trưởng thôn Rapát Króc tiếp chúng tôi tại nhà gươl. Nhà gươl của người Cơ Tu gần giống nhà sàn, nhà rông của các dân tộc Tây Nguyên, nhưng được chạm khắc công phu hơn. Phía trên hai đầu nhà gươl thường được chạm, khắc hình gà trống hoặc hai đầu trâu nhô sừng lên đối diện. Bên trong được chạm các hình ảnh mang những nét văn hoá riêng của người Cơ Tu, như: hình ảnh các chàng trai, thiếu nữ Cơ Tu múa cồng chiêng, săn bắt thú rừng, đặc biệt các loại đầu động vật có được sau các cuộc săn bắt cũng được lưu giữ tại đây.

    Từ thượng nguồn dòng Tả Trạch về đến nơi hai nhánh sông gặp nhau phải qua khoảng 120 cái thác, trong đó có 55 thác lớn, nước chảy xiết, do đó rất nhiều người Cơ Tu vẫn chưa một lần được đặt chân đến nơi kinh kỳ rực rỡ ánh điện.

    Khát vọng “đi hết một dòng sông”


    Những cô gái Cơ Tu ở Nam Đông vẫn còn giữ cách thức giã gạo.

    Trong những ngày này, bản A Xăng đang nhộn nhịp vào mùa lễ hội mừng lúa mới – một trong những lễ hội lớn nhất trong năm của người Cơ Tu. Các cô gái thôn nữ xúng xính trong bộ váy áo mới do chính các cô dệt nên thay nhau giã gạo, làm cỗ. Những đứa bé cũng chộn rộn không kém khi thấy có khách lạ viếng thăm bản. Theo trưởng thôn thì đây là nơi thâm sơn cùng cốc, cách biệt, nên mỗi khi bản có khách ghé qua, cho dù là một người đi rừng tìm mật về, một lữ khách phương xa cũng là niềm vui của bản. Vụ mùa năm nay, bản A Xăng cũng được lúa đầy bồ, thóc đầy sàn với sản lượng từ 50 – 53 tạ trên một hecta. Hai năm trước bản cũng được mùa, nên dân bản ai cũng đồng lòng góp vào mỗi người 300 ngàn đồng để làm nên cái nhà gươl này đây. Năm nay để tăng tình đoàn kết, già làng quyết định cả 24 hộ đều góp gạo thổi ăn chung tại nhà gươl.

    Buổi cơm chiều với người Cơ Tu thật ấm áp, chỉ với cơm lam nấu ống tre và thịt heo rừng nướng mà sao nồng nàn, quyến luyến như đã thâm giao lâu lắm rồi. Trưởng thôn Rapát Króc cứ ngại ngùng khi không kịp sắp đặt ché rượu cần mời khách theo truyền thống của người Cơ Tu. Ông “đền bù” cho khách phương xa bằng điệu khên, loại nhạc cụ mà nhiều dân tộc khác gọi là khèn. Đây là loại khèn gồm 14 ống nứa xếp song song từng đôi thành bảy hàng từ ngắn đến dài, các ống nứa đều có gắn lưỡi gà tạo âm thanh và nối vào với chiếc bầu gọi là apúc được bịt kín bằng sáp ong ruồi. Tiếng khèn với âm vực trầm bổng giữa núi rừng Trường Sơn nghe sao dịu vợi và thanh khiết đến dường nào.

    “Đi hết một dòng sông” là câu nói của nhiều người Cơ Tu căn dặn con mình cố “ăn học đến nơi, đến chốn” vì theo như những người già trong bản thường nói với lớp trẻ: “ở cuối con sông này “người ta tiến bộ hơn mình nhiều”, hãy ráng học để xuôi về cuối con sông học được cái hay, cái giỏi của họ”. Ông Rapát Ray, bí thư thôn cho hay: “Cả bản không có người mù chữ nữa, năm nay đã có hai đứa vào trung học phổ thông và khăn gói ra thị trấn Khe Tre học rồi”.



    .


    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    Ký sự Hương Giang

    .


    3- Người lưu dấu ngàn năm


    Có người ví Hương giang như một cô gái Huế, không chỉ mang hình dáng kiều diễm làm đắm say lòng người, mà dòng sông ấy còn chất chứa thẳm sâu trong lòng nhiều bí ẩn của dấu xưa ngàn năm…






    Vẫn còn ẩn chứa những cổ vật ngàn năm dưới lòng sông Hương, với sắc tim tím rất đặc trưng. Ảnh: Th.L

    Một trong những đứa con sinh ra, lớn lên và say mê sông Hương, đó là nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan. Ông đã dành trên 30 năm để sưu tầm và giải mã những hiện vật đã trầm hàng thế kỷ dưới lòng sông này.

    Dòng sông cổ vật

    Sự nghiệp sưu tầm gốm cổ của ông bắt đầu những năm sau 1975 từ người vợ chuyên đi đỡ đẻ cho dân vạn đò lênh đênh trên sông nước. Ban đầu nghe bà kể dưới đò có những vật dụng bằng gốm rất lạ. Một số chủ đò đã gói cho bà mấy vật lạ mang về. Lần đầu tiên, bà mang về một vài thứ. Nhìn thấy, ông Phan rùng mình vì nhận ra đó là những món đồ cổ có từ đời Đường, Tống, Lý, Trần… hàng ngàn năm tuổi.

    Trong lịch sử, sông Hương là một huyết mạch giao thông đường thuỷ quan trọng, có thể do giông bão hay chiến tranh, nhiều chiếc thuyền chìm xuống lòng sông mang theo những hàng hoá mà nó chở theo. Do đó, sẽ có rất nhiều hiện vật có giá trị văn hoá lịch sử đang bị chôn vùi đâu đó dưới lớp bùn trong dòng sông Hương.

    Trong khu vườn rộng hơn 2.500m2 nằm trong hẻm của đường Cao Bá Quát phía đông bắc kinh thành Huế, bộ sưu tập cổ vật Hương giang của ông Phan có được bởi hàng chục cuộc khai quật từ dân vạn đò trong nhiều thế hệ. Thời gian đầu, có ngày ông mua đến mấy chuyến đò gốm như thế. Có rất nhiều loại gốm khác nhau trong bộ sưu tập hàng chục ngàn cổ vật của ông Phan. Chiếm phần lớn là hàng trăm loại vật dụng, xương gốm, kiểu dáng đặc trưng Chămpa từ hơn 700 năm trước. Trong khi tại nhiều bảo tàng chuyên ngành, hiện vật gốm của nền văn hoá Sa Huỳnh, giai đoạn khảo cổ học được xem là tiền sơ sử của văn hoá Chămpa có niên đại tương đương văn hoá Đông Sơn ở miền Bắc hơn 2.000 năm trước rất hiếm. Trong khi đó, bộ sưu tập của ông Phan có hàng ngàn hiện vật hầu hết còn nguyên vẹn.

    “Có hai sự kiện mà với tôi vô cùng đặc biệt, đó là việc cửa biển Hoà Duân mở mới trong cơn lũ 1999 và sự phát lộ hàng hà sa số những hiện vật gốm nhiều giai đoạn văn hoá lịch sử dưới đáy sông Hương. Không phải thời nào, giai đoạn nào cuộc đời người ta cũng có diễm phúc chứng kiến tiếng vọng về từ ngàn đời của nhiều thế hệ cổ nhân như vậy”, ông Phan nói.

    Người đi nhặt những “mảnh vỡ thời gian”






    Ông Hồ Tấn Phan, nhà sưu tầm cổ vật sông Hương. Ảnh: Th.L

    Ông là một trong những con người kỳ lạ mà chúng tôi đã gặp trong hành trình xuôi theo dòng sông Hương. Ông xuất thân từ một nhà giáo. Ở tuổi thất thập cổ lai hy, con người ấy chỉ nhận mình là đứa con của sông Hương, yêu thiết tha dòng sông ấy đến mộng mị. Ông giữ lại những ẩn ngữ dưới lòng sông như một trách nhiệm. Như ông hy vọng, hậu thế sẽ có những giải mã thêm về lịch sử của dòng sông Hương, còn ông chỉ nhận mình là người đi nhặt những mảnh vỡ của ngàn năm trên sông Hương, mà có người dí dỏm gọi là “nhà gốm bể học”.

    Với chúng tôi, cuộc hành trình đi qua nhiều dòng sông Việt mang đến nhiều cảm giác khó tả, nếu Đà giang dũng mãnh, Sesan hoang sơ hiểm trở thì Hương giang với chúng tôi là chuyến đi sâu sắc đằm thắm. Nếu so với các dòng sông lớn ở Việt Nam, sông Hương không sâu, không dài, không nhiều phù sa nhưng nó chở nặng phong thuỷ của cả một vùng đất.

    Và qua chuyến hành trình khám phá trọn vẹn Hương giang chúng tôi mới phát hiện ra một góc cạnh khác của sông Hương, không chỉ nằm trên đôi bờ, mà còn là tận sâu dưới đáy sông: dòng sông cổ vật ngàn năm…




    4- Đây, phá Tam Giang


    Thương em anh cũng muốn vô
    Truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang,
    với chúng tôi câu ca dao trên luôn là nỗi ám ảnh trong suốt hành trình khám phá sông Hương…

    Từ thành Huế, chúng tôi lại xuống đò dọc xuôi theo dòng sông Hương để về phá Tam Giang. Chiếc thuyền xuất phát từ bến Tượng – ngày xưa nơi đây là bến tắm voi của những đội tượng binh dưới triều Nguyễn. Xuôi theo dòng sông Đông Ba – một nhánh của sông Hương – về phía hạ nguồn. Nơi chúng tôi xuất phát cũng là đoạn dừng chân của xóm vạn đò. Theo một thống kê mới nhất, khoảng một ngàn con đò đang sống lênh đênh trên sông Hương như thế.

    Chiều trên phá Tam Giang…

    Trước mắt chúng tôi là ngã ba Sình – chỗ hợp lưu của sông Bồ vào sông Hương – nơi hai dòng nước trong – đục bắt đầu một cuộc giao hoan trước khi cùng nhau sánh vai trên chặng đường mới. Đến đây, con đò không đi thẳng theo sông Hương mà theo dòng sông Bồ, một phụ lưu của sông Hương. Dòng sông như ngày càng mở rộng khi trời đã về chiều, chúng tôi đã nghe hương vị mặn của biển ở đầu môi… Và phá Tam Giang đã mở ra trước mắt, một không gian thoáng rộng tít tắp tận chân trời. Phá Tam Giang dài khoảng 27km, kéo dài từ đập Cửa Lát đến cửa biển Thuận An.






    Chiều trên phá Tam Giang

    Phá Tam Giang được hình thành từ khoảng hơn 2.000 năm trước do những cồn cát nổi lên, chạy dọc theo bờ biển. Con phá mênh mông nước lợ này là sự hoà lẫn từ nước ngọt đổ về từ các con sông và nước mặn lấn vào từ biển qua các cửa sông, tạo thành một vùng tiểu khí hậu, tiểu sinh thái đặc trưng, độc đáo. Theo thống kê gần đây, phá Tam Giang mang trong mình hơn 900 loài sinh vật, đặc biệt có 7 loài cỏ biển, 7 loài thực vật ngập mặn, 230 loài cá, 73 loài chim nước, 12 loài tôm, 18 loài cua có giá trị kinh tế cao… Nhiều loại nhuyễn thể khác như trìa, ngao, vẹm xanh, cùng hàng chục loài cá nước lợ rất nổi tiếng ngon mang hương vị riêng như cá đối nục, cá cặn… Phá Tam Giang là môi trường sống, là thu nhập, là cuộc sống gắn liền nhiều đời của hàng chục vạn người dân sống xung quanh.

    Chiều rơi trên phá, màu xanh biếc đã dần được thay thế bằng những gam màu sẫm hơn. Nước trời cùng hoà chung một không gian huyền hoặc. Đây cũng là thời điểm diễn ra trò đùa của màu sắc trên mây nước và những tia sáng mặt trời còn sót lại. Bức tranh như được hoạ sĩ thiên nhiên pha và đổi màu liên tục… Những đàn chim tìm về tổ ấm, riêng người dân sống trên phá mới bắt đầu một vòng mưu sinh mới… Chúng tôi quyết định neo thuyền lại giữa phá. Bữa ăn tối có món tôm luộc được vớt lên từ dòng nước lợ này. Dã chiến là vậy nhưng ngon đến lạ lùng. Đêm, mưa bắt đầu nặng hạt, chúng tôi chen chúc nhau trong khoang thuyền của vợ chồng anh Huy, một ngư dân cố cựu của xóm Sáo, xã Điền Hải, huyện Phong Điền giữa trời nước mênh mông.

    Những dòng đời lênh đênh






    Chỉ mong ước mỗi ngày vài con tôm, con cá để chờ ngày đổi đời. Ảnh: Th.L

    Câu chuyện về phá Tam Giang trong đêm mưa thật ấn tượng. Đến đời anh Huy là đời thứ tư sống nương vào đầm phá, ước mơ truyền đời chỉ là mái nhà trên bờ, nhưng… Anh Huy kể: “Năm 1999, cả nhà mới gom đủ tiền dựng một ngôi nhà sàn trên bờ phá, chưa kịp mừng vui thì lũ lụt ập tới. Đêm đó nghe gió rít trên mặt phá đến rợn người, nước đã lên đến sàn nhà, tôi chỉ kịp bỏ mấy đứa con vào thúng đẩy vào sâu trong xóm gởi nhờ trường học, quay ra thì những con sóng cả đã ụp vào cuốn trôi cả ngôi nhà cùng với toàn bộ gia tài, tay trắng vẫn hoàn trắng tay, mãi đến năm ngoái mới đủ sức dựng lại căn nhà sàn mới…”. Đối với hầu hết cư dân nơi này, thuyền là nhà, những con người “sống vô gia cư, thác vô địa táng” cứ lênh đênh qua bao năm tháng. Phá Tam Giang luôn mang lại nguồn sống bất tận, nhưng cũng dễ dàng lấy đi tất cả. Khi mùa mưa lũ đến, cả đầm phá mênh mông dựng sóng, những con thuyền – nhà trở thành chiếc lá mỏng manh giữa dòng thác đổ. Những lúc ấy, ngư dân xóm thuyền chỉ biết bỏ của chạy trốn vào nhà dân trên đất liền. Nửa đêm về sáng, chúng tôi cùng tỉnh giấc để theo vợ chồng anh Huy bắt đầu cuộc mưu sinh trên phá. Những con cá, con tôm sao bé nhỏ được anh chị tần tảo, mò mẫm trong dòng nước lạnh buốt để khi bình minh lên hy vọng có đủ tiền đong gạo cho con lót dạ đến trường. Chúng tôi khá bất ngờ khi cuộc sống quá lam lũ, nhưng cả ba đứa con anh Huy đều đến trường, anh Huy luôn hy vọng: “Đời chúng nó không phải nhọc nhằn như cha mẹ chúng lênh đênh trên đầm phá, chúng phải đổi đời và thoát khỏi định mệnh “sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang nữa…”.


    5 - Sứ mệnh của dòng sông





    Đoạn sông Hương trước khi ra cửa biển hoà mình vào biển Đông.

    Từ làng Thuận Hoà, men theo con đê, chúng tôi đến Rú Chá, đây là điểm chuyển tiếp giữa đồng ruộng và đầm phá. Một ốc đảo kỳ lạ mà dòng nước Hương giang trước khi về với biển đã tạo nên…

    Trước mắt chúng tôi là khu rừng nguyên sinh. Như tên gọi của nó, nơi mọc gần như hoàn toàn cây chá – một loại cây ngập mặn khá đặc biệt và duy nhất còn sót lại trong hệ thống đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Rú Chá thuộc địa phận của làng Thuận Hoà, xã Hương Phong, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Đây là một khu rừng ngập mặn nằm ngay đầu cửa phá Tam Giang, cuối nguồn sông Hương và cửa biển Thuận An.

    Tấm bình phong trước biển

    Theo người dân trong vùng, ngày xưa Rú Chá rất rộng, về sau, cùng với nhu cầu lấy đất làm ao nuôi trồng thuỷ sản cùng lấy củi làm chất đốt mà Rú Chá dần thu hẹp. Hiện nay, diện tích Rú Chá còn khoảng 5 hecta. Cây chá có một sức sống kỳ lạ. Nó sống trong điều kiện đặc biệt: ngập nước vào mùa mưa lũ nước lớn và khô vào mùa nắng ráo. Trong điều kiện đó, cây chá rất phát triển phần gốc và rễ. Bộ phận này thật lớn với nhiều hình thù khác nhau. Vừa nhô lên cao, vừa cắm sâu vào mặt đất để chống chọi với gió bão trên trời và sóng nước dưới mặt đất.

    Bây giờ đang là mùa cây chá ra hoa, mùa Rú Chá đẹp nhất nơi này. Chúng tôi có thể đi lại trên mặt rú mềm ướt để đến ngôi đền hoang vu nằm giữa rú. Đây là ngôi miếu thiêng nằm giữa Rú Chá – nơi thời ba bà hai cậu. Cạnh ngôi miếu là nền móng của ngôi đình cổ của làng Thuận Hoà, mặt hướng ra cửa biển. Nền móng lưu lại cho thấy ngôi đình có kiến trúc ba gian không chái tương đối quy mô, vách tường khá dày. Theo nhiều người dân, ngôi đình đã bị tàn phá trong hai cuộc kháng chiến từ chống Pháp và Mỹ. Bức bình phong phía trước còn nguyên dạng vẫn còn lưu lại những vết bom đạn bắn phá ấy. Dân làng Thuận Hoà có câu: “Rú tàn thì làng mạc”. Chính khu rừng này là nơi chắn sóng, chắn gió từ bao đời nay cho dân làng. Trong cơn lũ lịch sử 1999, Rú Chá đã trở thành nơi trú náu an toàn cho hàng ngàn hộ dân vạn đò khi sóng to gió lớn.

    Giữa mênh mông chá và nước có một ngôi nhà nhỏ, gần như độc nhất, cô quạnh nằm giữa những ngôi mộ cổ, to lớn trông rất kỳ quái và người ta cho biết đã tồn tại giữa rú hàng trăm năm qua. Bà Hồng, gia chủ đã ở đây hàng chục năm trời, gần mười đứa con bà đã lớn lên trong sự đùm bọc của rừng rú, nhưng khi trưởng thành, chúng không thể kham nổi cuộc sống nơi này nên đã lần lượt dọn vào trong xóm tìm tương lai. Sống nhờ vào con tôm, con cá, con còng, nguồn nước chủ yếu là nước mưa, những năm khô hạn phải vào tận xóm xin từng can một, vậy mà khi hỏi ý định trở về với cuộc sống làng xóm như bao người, thì bà chỉ cười bảo: “Sống nơi này quen rồi, không vào đâu”…

    Sứ mạng mới của dòng sông

    Rời Rú Chá, chúng tôi tiếp tục đi về phía biển. Trong ánh nắng chiều đã có thể nhìn thấy ngọn hải đăng Thuận An cao 36,6m, đây chính là nơi chúng tôi có thể quan sát toàn cảnh dòng nước sông Hương hoà mình vào đại dương. Cửa biển Thuận An cũng là nơi hợp lưu giữa phá Tam Giang và sông Hương. Hai dòng nước hoà vào nhau cùng đổ ra biển Đông.






    Ngôi miếu hoang trong Rú Chá

    Đi hết một dòng sông, chúng tôi chợt nhớ đến một cách ví: “Sông Hương vừa là một người mẹ, vừa là một cô gái trẻ”. Người mẹ, bởi vì sông Hương được hình thành từ khá sớm, từ khoảng 50 – 70 triệu năm về trước, cùng lúc với giai đoạn hình thành của sông Hồng và sông Cửu Long. Và như một cô gái trẻ, bởi nhan sắc và những gì của dòng sông này mang đến quá đậm đà, lung linh và rực rỡ.

    Đi hết dòng Hương giang từ những giọt nước đầu tiên trên dãy Trường Sơn qua bao ghềnh thác, lững lờ trôi qua kinh thành Huế với hàng trăm di sản của con người và thiên nhiên, đến cửa biển Thuận An rộng mở ra đại dương, với chúng tôi đó là một hành trình trọn vẹn, tràn đầy cảm xúc với dòng sông quê hương và cũng còn ít lưu lại dấu chân khám phá. Nhưng với nhà báo Hoàng Thái Lộc, một đồng nghiệp Huế đã tình nguyện đồng hành với chúng tôi đi suốt con sông này chỉ vì một lý do “quá yêu sông Hương”, thì hành trình Hương giang với anh vẫn chưa kết thúc, bởi lẽ đơn giản: Hương giang đã vượt đại dương sang tận tổng hành dinh của Unesco để vinh hạnh là dòng sông di sản văn hoá của nhân loại, Hương giang lại bắt đầu một hành trình mới, sứ mạng mới…

    Hết.


    ( sgtt )


    .



    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    Working...
    X
    Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom