Một hành trình khám phá dòng sông nổi tiếng bậc nhất Việt Nam, từ giọt nước đầu tiên đến khi nó hòa mình vào đại dương. Đó là Hương Giang, dòng sông mẹ của các bộ tộc trên dãy Trường Sơn, cũng là dòng sông hoàng gia của những triều đại vua chúa, và dòng sông đã đi vào tâm thức của bao thế hệ tao nhân, mặc khách…
1 - Giọt nước từ Trường Sơn
Khởi nguồn từ dãy Trường Sơn, giáp biên giới Việt-Lào, sông Hương là hợp lưu của hai dòng Tả Trạch và Hữu Trạch. Tả Trạch bắt đầu từ đại ngàn thuộc huyện Nam Đông, còn Hữu Trạch, từ huyện A Lưới đổ về. Hai nhánh gặp nhau ở ngã ba Tuần tạo thành dòng sông Hương chảy qua thành phố Huế, rồi từ đó đổ ra biển Đông.

Cuộc sống lênh đênh trên sông Hương của những người làm nghề bè lồ ô
Chúng tôi đến Huế đang là mùa giông bão, nhiều thông tin cho biết, nước sông Hương đang dâng cao, khó lòng chinh phục được những con thác phía thượng nguồn, nhưng điều đó không hề làm nản lòng, bởi với chuyến đi này, chúng tôi hy vọng sẽ là một cuộc hành trình khám phá trọn vẹn dòng sông nổi tiếng nhất trong các dòng sông Việt.
Nơi khởi đầu của dòng sông
Từ Huế, chúng tôi bắt đầu hành trình ngược sông Hương theo nhánh Hữu Trạch nơi có cảnh quan hùng vĩ, hai bên sông chỉ có núi đá và rừng già, nhiều gềnh thác.
Đường bộ từ Huế lên A Lưới tương đối dễ dàng, cho dù phải vượt qua hai con đèo cao ngất là đèo Kim Quy và đèo Tà Lương. Từ ngã ba Phú Vinh, chúng tôi bắt đầu bước vào cung đường Hồ Chí Minh ở đoạn khó khăn nhất với bao đèo dốc quanh co, một bên là núi cao, một bên là vực sâu A Đớt - A Tép với những đường hầm sâu hun hút. Bên dưới vực là các khe, suối A Moong, Ta Ra, Cha Linh…tạo nên dòng Hữu Trạch dài 60 km, chi lưu đầu tiên của sông Hương.
Chúng tôi vượt đèo A Năm vào địa phận xã A Roàng, vùng đất của người Tà Ôi. Người Tà Ôi thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Kh’mer, được gọi với nhiều tên gọi khác nhau như Tôi Ôi, Pa Cô, Pa Hy với dân số khoảng 26.000 người, sống tập trung tại phía tây miền trung Việt Nam thuộc địa phận huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên – Huế và hai huyện Hướng Hóa, Dak Rông tỉnh Quảng Trị.
Ghé vào thăm làng A Ca A Chi , thuộc xã A Roàng, huyện A Lưới. Đây là một ngôi làng đẹp, điển hình của người Tà Ôi. Đã quá giữa trưa, mà các cô gái Tà Ôi vẫn miệt mài bên khung dệt zèng – một khung cửi đặc trưng của người Tà Ôi. Nghề dệt zèng với đặc trưng xâu cườm rất nổi tiếng của người Tà Ôi, cho dù một tấm dệt cườm phải mất có khi 45 ngày, nhưng các cô gái Tà Ôi luôn muốn khẳng định khả năng thẩm mỹ và khéo tay của mình.

Dòng Hương Giang nơi thượng nguồn Hữu Trạch
Những cô gái Tà Ôi thật dễ mến, thanh niên nam nữ thường tìm hiểu nhau qua tục đi “sim”, tình tự nơi nương rẫy và trao cho nhau những vật làm tin như lời thề hẹn ước trọn đời. Và ở nơi heo hút Trường Sơn này, chúng tôi đã nhận ra bản sắc tuyệt vời ấy. Rất nhiều cô gái Tà Ôi đã hàng mấy năm trời còng lưng dệt zèng kiếm tiền nuôi chồng đi học đại học dưới miền xuôi. Cô Blúp Thị Phú, đã hơn hai năm dệt zèng nuôi chồng học Đại học nông lâm cho biết: Mỗi tấm zèng loại thường, cô dệt mất một tuần, bán đi được hơn trăm ngàn, tằn tiện mỗi tháng gởi về xuôi cho chồng ăn học hơn bạc triệu, vậy mà cô vẫn vui, vẫn miệt mài, bởi đó là tập quán hy sinh của con gái Tà Ôi từ ngàn xưa…
Xuôi theo dòng nước
Con sông ở thượng nguồn trông nhỏ và hẹp, và có đến 14 con thác lớn , dốc cao, cực kỳ nguy hiểm…, nhưng càng về xuôi, lòng sông như rộng mở và êm đềm hơn.
Chúng tôi quyết định sử dụng phương tiện bè lồ ô để đi về hạ lưu. Từ bao đời nay, đó là nguồn sinh sống của những người dân sống dọc theo sông Hương. Nghề khai thác lồ ô đã có từ hàng trăm năm qua. Những tiều phu lên rừng đốn về rồi kết thành bè rồi thả xuôi theo dòng về tận Huế, Hương Vinh, Thảo Long… cung cấp nguyên liệu cho các nghề làm nón, làm bàn ghế cho các gia đình, hay xuôi ra tận biển Thuận An, phá Tam Giang để rồi trở thành những chiếc nò, chiếc đơm, ngư cụ cho ngư phủ.
Và chính câu chuyện trên chiếc bè cũ nát của vợ chồng chị Nguyễn Thị Oanh, người thôn Võ Xá hàng chục năm trời lam lũ đối mặt với mưa nguồn, bão lụt với những chuyến bè để dành dụm từng đồng nuôi đàn con năm đứa đều vào đại học đã cho chúng tôi một cảm giác ấm áp lạ thường vì cái tình của cư dân phía thượng lưu này. Bà Oanh nói như tâm sự với dòng sông: “Tôi xem sông Hương như người mẹ hiền đã cho tôi cơ hội nuôi đàn con của mình hàng chục năm qua…”.
2 - Trong làng Cơ Tu
Nếu như dòng Hữu Trạch được xem là nhánh sông phụ, thì dòng Tả Trạch dài khoảng 67km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, qua nhiều ghềnh thác hùng vĩ, sau đó chảy qua thị trấn Khe Tre (huyện Nam Đông) trước khi hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng thành dòng Hương giang lững lờ trôi về phía biển.

Những đứa trẻ Cơ Tu của làng A Xăng ở Nam Đông
Nam Đông là huyện miền núi cực nam của tỉnh Thừa Thiên – Huế, nối liền với cực tây bắc tỉnh Quảng Nam. Là một huyện có dân số chỉ có 2,3 vạn người, trong đó người Cơ Tu chiếm đến 41%. Nếu vùng thượng nguồn sông Hương bên phía nhánh Hữu Trạch là vùng đất của người Tà Ôi, thì khu vực Tả Trạch lại là các thôn, bản của người dân tộc Cơ Tu sinh sống với nét đặc trưng riêng.
Ngôi làng độc đạo
Cả Nam Đông gần như chỉ có một tuyến đường 14B ngược đèo La Hy để về miền xuôi. Có lẽ vì vậy, người Cơ Tu luôn ý thức sự thua thiệt của dân tộc mình để vươn lên trong cuộc sống. Chúng tôi tìm về phía Thượng Long, vùng đất xa xôi nhất của Nam Đông nằm nép mình bên thượng nguồn Tả Trạch dưới chân núi Quỳnh Tang, nơi có bản A Xăng còn giữ gần như nguyên bản văn hoá dân tộc Cơ Tu.
Bản chỉ có 24 nóc nhà. Trưởng thôn Rapát Króc tiếp chúng tôi tại nhà gươl. Nhà gươl của người Cơ Tu gần giống nhà sàn, nhà rông của các dân tộc Tây Nguyên, nhưng được chạm khắc công phu hơn. Phía trên hai đầu nhà gươl thường được chạm, khắc hình gà trống hoặc hai đầu trâu nhô sừng lên đối diện. Bên trong được chạm các hình ảnh mang những nét văn hoá riêng của người Cơ Tu, như: hình ảnh các chàng trai, thiếu nữ Cơ Tu múa cồng chiêng, săn bắt thú rừng, đặc biệt các loại đầu động vật có được sau các cuộc săn bắt cũng được lưu giữ tại đây.
Từ thượng nguồn dòng Tả Trạch về đến nơi hai nhánh sông gặp nhau phải qua khoảng 120 cái thác, trong đó có 55 thác lớn, nước chảy xiết, do đó rất nhiều người Cơ Tu vẫn chưa một lần được đặt chân đến nơi kinh kỳ rực rỡ ánh điện.
Khát vọng “đi hết một dòng sông”

Những cô gái Cơ Tu ở Nam Đông vẫn còn giữ cách thức giã gạo.
Trong những ngày này, bản A Xăng đang nhộn nhịp vào mùa lễ hội mừng lúa mới – một trong những lễ hội lớn nhất trong năm của người Cơ Tu. Các cô gái thôn nữ xúng xính trong bộ váy áo mới do chính các cô dệt nên thay nhau giã gạo, làm cỗ. Những đứa bé cũng chộn rộn không kém khi thấy có khách lạ viếng thăm bản. Theo trưởng thôn thì đây là nơi thâm sơn cùng cốc, cách biệt, nên mỗi khi bản có khách ghé qua, cho dù là một người đi rừng tìm mật về, một lữ khách phương xa cũng là niềm vui của bản. Vụ mùa năm nay, bản A Xăng cũng được lúa đầy bồ, thóc đầy sàn với sản lượng từ 50 – 53 tạ trên một hecta. Hai năm trước bản cũng được mùa, nên dân bản ai cũng đồng lòng góp vào mỗi người 300 ngàn đồng để làm nên cái nhà gươl này đây. Năm nay để tăng tình đoàn kết, già làng quyết định cả 24 hộ đều góp gạo thổi ăn chung tại nhà gươl.
Buổi cơm chiều với người Cơ Tu thật ấm áp, chỉ với cơm lam nấu ống tre và thịt heo rừng nướng mà sao nồng nàn, quyến luyến như đã thâm giao lâu lắm rồi. Trưởng thôn Rapát Króc cứ ngại ngùng khi không kịp sắp đặt ché rượu cần mời khách theo truyền thống của người Cơ Tu. Ông “đền bù” cho khách phương xa bằng điệu khên, loại nhạc cụ mà nhiều dân tộc khác gọi là khèn. Đây là loại khèn gồm 14 ống nứa xếp song song từng đôi thành bảy hàng từ ngắn đến dài, các ống nứa đều có gắn lưỡi gà tạo âm thanh và nối vào với chiếc bầu gọi là apúc được bịt kín bằng sáp ong ruồi. Tiếng khèn với âm vực trầm bổng giữa núi rừng Trường Sơn nghe sao dịu vợi và thanh khiết đến dường nào.
“Đi hết một dòng sông” là câu nói của nhiều người Cơ Tu căn dặn con mình cố “ăn học đến nơi, đến chốn” vì theo như những người già trong bản thường nói với lớp trẻ: “ở cuối con sông này “người ta tiến bộ hơn mình nhiều”, hãy ráng học để xuôi về cuối con sông học được cái hay, cái giỏi của họ”. Ông Rapát Ray, bí thư thôn cho hay: “Cả bản không có người mù chữ nữa, năm nay đã có hai đứa vào trung học phổ thông và khăn gói ra thị trấn Khe Tre học rồi”.
.
Comment