CHUYỆN KỲ LẠ VỀ ÔNG MÙ... 11 VỢ
Ông là một nông dân nghèo độc nhất. Từ nhỏ đôi mắt đã không được tỏ tường. Nhưng, ông đã lập một "chiến tích" hết sức tiêu cực là lấy 11 bà vợ và có đến 24 người con.
Mọi người nói, đây có thể là người đàn ông lập kỷ lục Việt Nam về việc vi phạm luật Hôn nhân gia đình và chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình.
Người mù và hành tung bí ẩn
Đến xã Quang Minh (huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) hỏi ông Nguyễn Văn Sơn ở thôn Chi Đông thì ai cũng chỉ đường vanh vách. Bởi ông là người “nổi tiếng”. Thậm chí, khi hỏi đường, nhiều người còn hỏi với theo: “Nhà báo à? Đến gặp ông ấy để làm... Chuyện lạ Việt Nam à?”.
Hỏi mãi rồi tôi cũng tìm tới nơi ông ở, đó là ngôi nhà tuềnh toàng ở tận cùng con ngõ nhỏ cuối thôn. Thế nhưng, bởi không hẹn trước nên sáng ấy, công tôi hoá dã tràng. Ông đi vắng. Người nhà ông bảo, ông đã ra khỏi nhà thì đừng nói chuyện tìm, bởi tìm như thể tìm chim, hành tung của ông ngẫu hứng và bí ẩn. Chẳng ai có thể biết ông đi đâu, tạt ngang, tạt ngửa ở “cơ sở” nào! Nước tốt nhất là về và cho gia đình cái hẹn.
Mọi người nói, đây có thể là người đàn ông lập kỷ lục Việt Nam về việc vi phạm luật Hôn nhân gia đình và chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình.
Người mù và hành tung bí ẩn
Đến xã Quang Minh (huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) hỏi ông Nguyễn Văn Sơn ở thôn Chi Đông thì ai cũng chỉ đường vanh vách. Bởi ông là người “nổi tiếng”. Thậm chí, khi hỏi đường, nhiều người còn hỏi với theo: “Nhà báo à? Đến gặp ông ấy để làm... Chuyện lạ Việt Nam à?”.
Hỏi mãi rồi tôi cũng tìm tới nơi ông ở, đó là ngôi nhà tuềnh toàng ở tận cùng con ngõ nhỏ cuối thôn. Thế nhưng, bởi không hẹn trước nên sáng ấy, công tôi hoá dã tràng. Ông đi vắng. Người nhà ông bảo, ông đã ra khỏi nhà thì đừng nói chuyện tìm, bởi tìm như thể tìm chim, hành tung của ông ngẫu hứng và bí ẩn. Chẳng ai có thể biết ông đi đâu, tạt ngang, tạt ngửa ở “cơ sở” nào! Nước tốt nhất là về và cho gia đình cái hẹn.
Ông Nguyễn Văn Sơn. (Ảnh: Đào Tuy)
Lần sau, đúng hẹn, tôi sang. Để chắc ăn, trước khi đi, tôi điện, dặn ông ở nhà đợi khách. Thế nhưng, nghe máy, người nhà ông bảo, chẳng biết việc làng hay bà lẽ nào có chuyện nên ông đã đi từ sáng sớm. Tuy thế, trước khi ra khỏi nhà ông đã dặn: “Khách đến, cứ chờ. Gần trưa ông sẽ về!”. Tôi đành ngồi đợi.
Nhà ông như ong vỡ tổ. Chẳng là làng đang có hội, các cháu ông khắp nơi túa về chơi, nô đùa.
Đợt rét vừa qua quá khắc nghiệt, ruộng mạ gia đình ông cấy hỏng cả. Nắng ấm lên đành phải gieo lại. Việc ấy, bà cả đang cùng với mấy cô con dâu lúi húi làm ngoài sân. Đông người làm nên chỉ loáng cái là khoảng sân gạch trước nhà đã được phủ một lớp bùn đen kịt. Mất chỗ chạy nhảy, bọn trẻ con láo nháo đành dồn cả vào nhà, chí choé nô đùa. Ba gian nhà ngói bỗng trở nên chật chội. Nhức óc đinh tai!
Nhìn thấy ổ gà, chướng ngại vật bằng... não
Đúng hẹn, gần trưa ông về. Xe đạp phanh két trước cửa. Sự xuất hiện của ông trên chiếc xe đạp khiến tôi không khỏi ngạc nhiên. Mắt ông thế thì đi bộ còn khó huống chi vi vu xe đạp?! Thấy sự ngạc nhiên của tôi, mọi người trong nhà ùa vào lý giải: “Từ xưa tới giờ, 50 năm có lẻ, đi đâu ông vẫn dùng xe đạp!”.
Nghe mọi người nói thế, ông cũng vội khoe luôn cái biệt tài của mình. Ông bảo, ông có trực giác và trí nhớ rất tuyệt vời. Đường trong huyện, thậm chí đường lên tỉnh, ông chỉ cần đi một lần là nhớ từng ổ gà, khúc cua ngoắt nghéo. Nhớ chi tiết rồi thì cứ xe đạp, chầm chậm ông đi, không lạc bao giờ.
Ra đường, bởi mắt không còn trông thấy gì nên ông phải “tham gia giao thông” bằng đôi tai rất thính của mình (như thể tai ông được gắn camera và chíp điện tử để phân tích thông tin). Ông bảo, nghe tiếng máy nổ là ông nhận biết được mình sắp gặp ô tô hay xe máy. Căn cứ vào những gì nghe được ông sẽ đưa ra cách tránh, né an toàn. Đến bây giờ, sau nhiều năm dùng tai thay cho đôi mắt, ông còn có thể nhận biết, chiếc xe máy đang chạy trước mặt mình là xe của... Tàu hay Nhật.
Tuy trực giác siêu phàm vậy nhưng cũng đã vài lần ông gặp nạn. Đang bon bon bỗng gặp một chiếc xe chết máy giữa đường. Đâm! Khi đi thì con đường nhẵn nhụi, phẳng phiu, khi về thì bởi “vấn nạn đào đường”, ông “sập bẫy”. Bởi những “sự cố hi hữu” ấy mà đã có lần ông phải nhập viện. Tuy thế, ông vẫn chẳng chừa. Vẫn phải đánh đu với xe đạp vì phải nay chỗ này, mai chỗ khác tong tả thăm nom các bà vợ của mình.
Hỏng mắt, vẫn được làm... “quan chức Nhà nước”
Ông Sơn sinh năm 1946 trong một gia đình bần nông. Năm lên hai tuổi, ông bảo, phải vía trời, mắt trái ông bỗng dưng hỏng hẳn. Mắt phải cũng từ ngày ấy mà mờ dần đi, đến khi trai tráng thì tối hẳn.
Khi ấy chiến tranh, neo người, nên dù không còn đôi mắt, ông vẫn xin được thoát ly, làm ở ngành đường sắt. Không nhìn thấy lại hoá hay, bởi khi còn làm nhà nước hay sau này về quê làm dân công, ông đều được chỉ định làm tổ trưởng (mọi người đùa vui: Cũng là quan nhà nước)
Anh em sáng mắt thì lao động trực tiếp, tổ trưởng không thấy gì thì “ăn khâu”... chỉ đạo. Như bao gia đình thôn quê khác, năm ông vừa tròn 20 tuổi, bố mẹ đã... ép duyên, cưới cho ông một cô gái ngoan hiền ở trong xã.
Về phép, thấy bố mẹ đã... tự ý lấy vợ cho mình, ông giận, chẳng nói chẳng rằng đùng đùng bỏ đi. Lên xí nghiệp ở lì tại đó, gần 1 năm sau ông mới chính thức... lấy vợ cho mình.
“Giăng lưới” được nữ sinh duyên dáng
Người khiến trái tim ông loạn nhịp là bà Nguyễn Thị Lan, khi gặp ông, tuổi mới 15 trăng tròn. Tình yêu thật khó lý giải, vướng vào rồi thì chẳng khác nào dính phải bùa lú thuốc mê. Khi ấy, ông là một người tật nguyền còn bà Lan là một nữ sinh duyên dáng. Thêm nữa, bà lại là người Hà Nội, chỉ bởi nhà có người làm cùng xí nghiệp ông mà một vài lần lên thăm đã mắc phải bùa yêu. Khuyên can chẳng được, thôi thì đũa lệch so vừa, gia đình bà Lan đành cho đôi trẻ nên duyên nên lứa.
Hơn một năm sau bởi cảnh nhà neo người, ông xin thôi không làm ngành đường sắt nữa, đưa vợ con về quê sinh sống. Về đến nhà, bữa cơm đầu tiên, phát hiện ra mình chỉ là vợ bé, bà Lan giận, tu tu khóc bỏ về Hà Nội.
Cũng thời gian ấy, sống chung một mái nhà, tìm hiểu, thấy hoàn cảnh cô vợ mà bố mẹ cưới cho éo le, ông đã động lòng trắc ẩn. Thôi thì duyên trời đã định, ông đành chấp thuận nghe theo. Nhưng với bà Lan, chả hiểu sao, ông vẫn thường xuyên qua lại như vợ chồng.
Hôn nhân 3 tháng
Về nhà, ông bôn ba với đủ mọi thứ nghề, miễn sao là ra tiền, ra thóc để nuôi vợ, nuôi con. Trong một chuyến tàu buôn từ Phú Thọ về, bà thứ ba đã xuất hiện.
Bà tên là Hoàng Thị Chuyền, quê ở xã Thanh Lâm, cùng huyện Mê Linh, kém ông 1 tuổi. Bà Chuyền là người lận đận về đường tình duyên. Gặp nhau trên chuyến tàu chợ chật chội ấy, chẳng biết khám phá ở ông điều gì hấp dẫn mà bà đã xiêu lòng.
Quái lạ thay, tình yêu này vẫn nhận được sự đồng ý của hai bên gia đình. Tuy thế, với ông, đó là hôn nhân ngắn nhất trong đời. Ông quen bà hồi tháng 10 thì đến tháng giêng năm sau, bởi thấy hai bên phát sinh những tính nết không hợp nhau, nên ông đã quyết định đôi đường đôi ngả. Tuy nhiên, chỉ với 3 tháng sống với nhau, mối tình ngắn ngủi và vi phạm Luật Hôn nhân gia đình ấy cũng kịp có kết quả. Ông đã có với bà một mụn con.
Năm 1973, bà thứ tư lại xuất hiện. Bà tên Vương Thị Xuân, quê gốc ở Bình Định, theo cha là cán bộ kháng chiến tập kết ra Bắc. Hai người gặp nhau ở ga Gia Cẩm ( Phú Thọ ).
Cảm thấy sống “không thể thiếu nhau” nên ông đã về thuyết phục gia đình đem lễ đến hỏi. Và cái gia đình lạ lùng này lại đồng ý. Có với nhau một cô con gái thì bà Xuân theo bố mẹ vào Nam . Từ dạo đó, bởi đường xá xa xôi, hai người đã không còn qua lại nữa. Tuy nhiên, mấy năm trước, biết tin cô con gái lấy chồng, ông cũng lặn lội vào tận nơi để dự đám cưới.
Chuyến buôn... trâu và người vợ 14 tuổi
Cưới bà Xuân được đúng 3 năm thì “trái tim tội lỗi” của ông lại run lên bần bật khi nhìn thấy một người phụ nữ khác.
Bà thứ năm, tên là Nguyễn Thị Xâm cũng là người cùng huyện. Bà Xâm trẻ lắm, ngày gặp ông mới hơn 14 tuổi đầu. Nhà quê lam lũ lại ốm đau, quặt quẹo luôn nên bà trông già trước tuổi.
Ngày ấy, ông đi buôn trâu, thấy bà, ông Sơn nên đã đem lòng... dan díu. Đến với nhau từ năm 1976 và có với nhau 2 mặt con nhưng phải mãi đến năm 1990 ông mới “hợp lý hoá” được mối quan hệ ấy. Thường thì mỗi bà khi muốn “sống là người nhà ông, chết làm con ma nhà ông” thì đều được ông làm lễ cưới, hỏi. Tất nhiên, tuỳ hoàn cảnh, nên cỗ bàn chỉ gọi là báo cáo với họ hàng nhưng phần “nghi lễ” thì ông vẫn làm đầy đủ. Suốt những năm ấy, bởi bù đầu với việc kiếm ăn, ông đành để bà Xâm sống cảnh thiệt thòi. Đầu năm 1990, khi công việc đã tạm ngơi tay, ông đã bảo bà cả sắm lễ đến, chính thức hỏi bà Xâm làm vợ. Hôm ấy, nhà ông làm hẳn 10 mâm cơm, xóm làng, họ mạc đến, liên hoan vui đáo để.
Ông kể, khi lấy mấy bà vợ đầu thì còn có người phản đối, điều ong tiếng ve này nọ. Cưới đến bà thứ 5 thì chẳng ai còn có ý kiến gì nữa. Có lẽ, tất thảy mọi người trong làng, đều nghĩ rằng ông đã mù lòa nên có làm việc gì thì cũng không chấp.
Bà thứ sáu, ông đón về vào năm 1978. Bà ở thôn Đường Lệ, xã Đại Thịnh, cũng huyện Mê Linh. Ông quen bà cũng từ một lần đi chợ. Bà đi bán rau về, gặp ông nên mời vào nhà chơi. Vào mới biết hoàn cảnh nhà bà túng quẫn, khó khăn trăm bề. Qua lại một vài lần, bà này mạnh dạn: “Anh có thương thì trở đi trở về qua lại. Đời em cơ cực đã nhiều, chỉ mong một chỗ dựa về sau!”.
Được nhời như cởi tấm lòng, cái “tính quen thuộc” của ông trỗi dậy. Tuy thế, mối tình ngang trái này cũng đi đến kết cục chẳng ra làm sao. Có với nhau một mặt con, năm 1984, ông bà đã đường ai nấy đi bởi tính nết mỗi người một khác.
Chồng mù với vợ què, vợ hen
Chia tay bà thứ sáu được đúng 3 ngày thì ông gặp bà thứ bảy. Theo cái lý lạ lùng của ông, “đó là người phụ nữ gặp nhiều bất hạnh, ông không thể không thương”. Bà Ngải, tên bà thứ bảy, bị bom đánh mất một cánh tay từ tấm bé. Cũng như những bà trước, ông đem lễ đến xin. Lần này, khó khăn bởi gia đình nhà gái nằng nặc từ chối. Lý do, không phải vì ông đã có nhiều vợ mà bởi họ bảo: “Chồng mù, vợ què không được”. Thế nhưng, lần lữa mãi thì trời cũng đành phải chịu đất bởi “gạo đã nấu thành cơm”, “ván đã đóng thành thuyền”, “mầm sống” đã “sinh sôi”. Có con, ông cứ đón bà về và sau cùng, khó tính mấy thì “nhà gái” cũng phải gật đầu ưng thuận.
Bà Ngải ở thôn Tráng Việt, xã Tráng Việt (Mê Linh). Và những lần qua lại thôn ấy, ông lại thêm vướng lưới tình.
Bà thứ tám đến và sống với ông vừa đủ 20 năm rồi âm dương cách biệt. Bà tên Lê Thị Thân, kém ông 9 tuổi, là người nổi tiếng dịu dàng, phúc hậu. Thế nhưng, trời chẳng cho ai tất cả mọi thứ, đẹp người, đẹp nết nhưng bà lại mắc chứng bệnh hen, khiến trai làng không ai muốn đón về để chung xây tổ ấm.
Lỡ thì, bà gặp ông vậy là lại mắc lưới của “Đông Gioăng”. Theo ông Sơn, khi hai người đến với nhau, bên nhà bà Thân, nhiều người cũng phản đối rầm rầm. Tuy thế có một người đã rất ủng hộ ông, đó là bố đẻ ra bà. Có “chỗ dựa”, ông đã tới tấp tấn công và chỉ ít lâu sau, tất cả mọi người trong gia đình bà Thân đều gật đầu...
11 vợ chưa phải con số cuối cùng...
Theo thời gian, số bà vợ của ông Sơn tăng dần. Đến nay, đã có 11 phụ nữ... phải lòng người đàn ông "đặc biệt" này. Nhưng, không ai dám chắc đó là con số cuối cùng...
“Sự tích” về bà vợ thứ 9, 10,11
“Mối tình” với bà Thân vẫn còn hôi hổi thì ông có thêm bà thứ chín. Bà có cái tên mộc mạc: Nguyễn Thị Tỵ, người ở làng Táo, xã Tiến Thắng, Mê Linh.
Bà Tỵ kém ông đến hơn 20 tuổi, chỉ ngặt nỗi người không được hoạt bát do ít nhiều nhiễm độc da cam từ người bố đi bộ đội. Hoàn cảnh bà Tỵ khó khăn bởi bố mất sớm, mình bà tần tảo sớm hôm chăm sóc mẹ già và đứa em ốm đau, què quặt. Cảnh ấy khiến ông... thương, muốn chung tay, chung sức cùng bà đẩy lùi cam khó (???). Vậy là được sự đồng thuận của hai nhà, ông và bà Tỵ lại thành phu phụ.
“Đã thương thì thương... cho trót” - cái lý của ông Sơn là vậy. Theo lẽ thông thường, người đáng thương phải là ông, nhưng ông luôn cho rằng các bà mà ông muốn lấy làm vợ mới là đáng thương và cần một nơi nương tựa vững chãi - đó là ông (???). Vì thế, ở thôn Đường Lệ, xã Đại Thịnh, nơi bà vợ thứ 6 của ông ở có bà Vũ, cũng hoàn cảnh éo le như bà Tỵ, đã được ông “thương nốt cho trót”. Bố bà Vũ đi kháng chiến, nhiễm độc và để di họa lại cho con. Bà Vũ tuy học hết lớp 6 nhưng cũng chẳng được nhanh nhẹn như người. Ông gặp, “cảm thương số phận hẩm hiu” của bà nên quyết định nên vợ nên chồng. Ông bảo, ông đến với bà thứ 10 là bởi ông thấy mình cần phải có trách nhiệm với người đàn bà tạo hóa không thương ấy (???).
Trò chuyện cởi mở, ông tiết lộ một... bí mật mà ở làng ít người được biết. Đó là việc ông có bà thứ 11 hiện đang sống ở Bình Lục, Hà Nam . Bà này đã có với ông một mặt con và hai người quen nhau từ năm 1967. Khi ấy, ông đi nộp thóc thuế, gặp bà làm ở kho lương thực Phúc Yên. “Tiếng sét ái tình” kỳ quái nổ ra ngay từ lần gặp đầu tiên và người phụ nữ ấy dành cho ông nhiều ưu ái. Ông kể về sự ưu ái đầy tiêu cực ấy rằng, hồi đó, gánh thóc đến kho lương thực nộp, nếu gặp bà thì thóc rối bà cũng gật đầu cho là thóc sạch. “Sướng lắm!” - ông Sơn kể. Sau này, bà về quê Hà Nam sinh sống, bởi xa cách nên ông không thể đem lễ đến hỏi được. Cũng bởi phần lễ nghi này chưa được thực hiện nên dù đã có con với nhau từ lâu nhưng ông vẫn phải xếp bà ở vị trí thứ... 11.
Cái mồm đầy... ma lực
Mắt hỏng, nhưng trông vẻ ngoài ông còn mạnh mẽ lắm. Hỏng mắt, nhưng ông Sơn lại rất khéo ăn khéo nói. Đây cũng là lý do khiến ông vi phạm nặng nề chính sách DS-KHHGĐ và Luật Hôn nhân & Gia đình, nhưng vẫn được các “người tình” chấp thuận về sống kiếp chồng chung.
Cái mồm ông đầy ma lực, chuyện giời chuyện bể ông đều biết cả. Càng ngồi, càng thấy người đàn ông trông bề ngoài chẳng có gì nổi bật ấy... có điểm gì đó hấp dẫn. Ông có khả năng hút hồn người khác bằng những câu chuyện khó tin nhưng có vẻ rất thật của mình. Chuyện ông kể, tuy chẳng có gì lớn lao, chẳng có gì bóng bảy nhưng nó khiến người đối diện thích nghe bởi những tình tiết bất ngờ, bằng chất giọng nghe như quê mùa nhưng vô cùng hóm hỉnh.
Bởi thế, theo “thói quen”, theo cái lý khó chấp nhận được của riêng ông: “thương thì thương cho trót”, nhiều người đã nhận định, với ông, “tình vẫn chưa yên”. Rất có thể một ngày đẹp trời, trên con đường làng quen thuộc hay trên một chuyến tàu chật ních người, gặp một phụ nữ có hoàn cảnh đáng thương, ông lại thêm một lần “sét đánh”. Điều ấy chẳng ai dám chắc là sẽ không xảy ra! Chuyện ấy tế nhị, hỏi ông, ông chỉ cười.
Những khả năng đặc biệt
Ngay khi gặp, tôi không tin là ông Sơn hỏng mắt hoàn toàn. Ông vẫn đi xe đạp và làm nhiều việc như người sáng mắt.
Thế nhưng, sự thật là người đàn ông hỏng mắt hoàn toàn ấy đã làm được rất nhiều chuyện không giống ai mà người sáng mắt cũng phải kinh ngạc. Ông đi buôn trâu, nhưng chỉ cần sờ là biết con trâu ấy tuổi tác, sức khoẻ thế nào. Thậm chí, với đồ gỗ, ông cũng là người sành sỏi. Ông đã giúp những người ít am hiểu về lĩnh vực này chọn được những bộ đồ gỗ chất lượng.
Ông bảo, chỉ cần sờ tay vào vân, thớ gỗ ông cũng có thể nhận biết đó là gỗ gì. Trình độ ấy đã được ông “kiểm nghiệm” qua lần một mình lụi cụi đạp xe về Đồng Kỵ, Bắc Ninh để mua cho gia đình mình chiếc tủ chè mà đến giờ ai vào nhà cũng đều phải trầm trồ khen đẹp.
Ngoài sự nhạy cảm của đôi tay, thì đôi tai và trí nhớ của ông cũng ở mức tuyệt vời. Ở làng, nhiều người mua đài, đầu đĩa cũng phải nhờ đến ông. Dân quê nghèo, làm gì có tiền mà đến cửa hàng, đại lý để mua hàng mới, sản phẩm của những hãng nổi tiếng. Đồ cũ, đồ đã qua sử dụng thì mới có giá mềm. Bởi thế nên họ phải nhờ ông vì chỉ cần nghe tiếng, ông có thế nhận biết những thứ đó của hãng nào, “tuổi thọ” còn được bao lâu. Con ông mua chiếc tivi, về mở, nghe tiếng, chẳng cần hỏi ông cũng biết đó là “đồ Tàu” dù bề ngoài, trông như hàng xịn.
Trí nhớ của ông thì khó người nào sánh kịp. Bởi thế mà trong huyện, đường ngang ngõ tắt ông thuộc như lòng bàn tay. Đến “vùng đất mới”, chưa biết đường, thì chỉ cần có người ngồi sau xe “xi nhan” một lần là khi về, ông đi đâu vào đấy.
Biến “ớt cay” thành “ớt ngọt”
Ông thống kê, tới thời điểm này, ông đã có cả thảy 24 người con. Là con trưởng nên nhà ông nhiều giỗ chạp. Mỗi lần có việc, các bà vợ cùng các con, cháu kéo về chật ních cả nhà. Cỗ bàn bày ra cả chục mâm, ngồi kín trong nhà, nhiều khi còn tràn cả ra sân.
Ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà lại chẳng hay ghen chồng! Thế nhưng, trường hợp các bà vợ của ông thì khác. Rất lạ từ trước đến nay giữa các bà chưa từng một lần xảy ra cãi vã, ghen tuông. Điều này đã được mọi người... kiểm chứng.
Cách đây hơn chục năm, bà thứ bảy - Nguyễn Thị Ngải - đã về ở hẳn trên mảnh đất nhà ông. Tuy gọi là ở riêng nhưng chẳng khác nào ở chung bởi hai nhà chung ngõ, chỉ cách nhau bức tường chưa vượt quá đầu người. Mấy lần tôi đến vẫn thấy bà chạy qua chạy lại chuyện trò. Đặc biệt, để ý, thấy bà Ngải với bà cả trò chuyện tíu tít với nhau. Sự thân thiện ấy không chỉ khiến một người lạ là tôi khó hiểu, mà nó còn khiến nhiều người dân ở Chi Đông, nơi ông ở cũng phải mắt tròn mắt dẹt kinh ngạc. Mọi người đã rất băn khoăn bởi không biết ông có phép màu gì hiệu nghiệm khiến hai bà thân nhau đến thế, lúc nào cũng sát cánh kề vai, có nhau trong mọi việc?!
Ông bảo, ông có bí quyết riêng để biến “ớt cay” thành “ớt ngọt”. Khôn ngoan chẳng lọ thật thà, trước khi đồng thuận đến với nhau, ông cứ “lột trần” hết những khó khăn, thuận lợi khi về nhà ông cho các bà nghe. Nếu các bà thực sự hiểu và thông cảm thì mới bàn đến chuyện se duyên kết tóc, không thì “sét đánh” có dữ dội mấy ông cũng “vẫy tay chào”.
“Chiêu” ấy hoá hiệu nghiệm bởi nó như một mũi tên, trúng liền hai đích. Thứ nhất, nó sẽ khiến đối phương nghĩ rằng chỉ những người thật lòng mới có những lời lẽ chân thành đến vậy. Thứ hai, nó giúp ông giải quyết “bài toán” “hậu hôn nhân” sau này. “Bài toán” ấy không dễ hóa giải. Xã hội, ối người chỉ một lần duy nhất lập “phòng nhì” đã phải trả giá đắt. Thậm chí có người còn vào tù cũng chỉ vì mù quáng trong chuyện quyết liệt giữ “mảnh trời riêng” cho mình. Do được “làm công tác tư tưởng” từ trước nên khi lấy ông, “các bà đều biết rõ bổn phận và trách nhiệm của mình” (lời ông khoe). Bởi thế, về nhà ông, các bà vẫn vui vẻ ngồi chung mâm, trong êm ngoài ấm.
Hệ lụy... buồn
Ông Sơn bảo, các con ông ai cũng ngoan hiền bởi có sự chăm chút, dạy dỗ tới nơi tới chốn của ông.
Thế nhưng, điều ông không nói ra nhưng ai cũng biết, đó là: Chúng khổ vì cái sự đa mang kỳ quái của ông. Tối ngày chúng túi bụi với công việc để toan lo cuộc sống thường ngày.
Ông giờ đang ở với người con út, con của bà cả trong ngôi nhà ngói tồi tàn. Anh con út ấy cũng như bao anh em khác của mình, không được học hành tới nơi tới chốn. Tí tuổi đầu anh đã phải tìm về thành phố tần tảo làm thuê để kiếm sống qua ngày.
Lớn lên, lấy vợ, cũng vẫn nghiệp làm thuê, tối mắt tối mũi. Bởi quá bận rộn nên đến giờ, có một sự thật phũ phàng là anh vẫn chưa biết hết mặt... anh em mình.
Anh bảo, quanh năm tất tả với công với việc, chẳng lúc nào được nghỉ ngơi nên cũng chẳng có điều kiện để đi thăm nom anh em ở các nơi. Buồn lắm! Ngày giỗ, ngày Tết, nhà bố đẻ ở đây, ai có lòng thì đến, uống được với nhau chén rượu rồi lại về. Thế nhưng, đâu phải ai cũng nhiệt tâm, người thế này, người thế nọ, xum họp đầy đủ khó lắm!
Họ cũng như anh, cũng phải tất bật với những lo toan của riêng mình, vì ai cũng giống ai, bố chẳng lo cho được gì, nhà thì neo đơn.
Thêm nữa, nếu muốn đi thăm để tận thấy tất cả anh em mình, với điều kiện kinh tế của các anh bây giờ thì có lẽ là điều... không tưởng. Kẻ nam người bắc, người ở phố kẻ ở quê đi hết thì có mà... cả tháng. Bởi thế nên đành chịu, bởi thế nên đành ngồi nhà, ai đến thì biết người đấy chứ đến người này, bỏ người kia cũng không được.
Chính quyền địa phương: Bó tay!
Trong tổng số 11 bà vợ trên, thì chỉ có bà vợ cả do bố mẹ ông cưới cho là có thủ tục đăng ký kết hôn đàng hoàng. Số bà còn lại, ông đều... cưới chui hoặc cứ đến sinh sống với nhau như vợ chồng. Điều ấy, làng xóm láng giềng biết và đương nhiên, chính quyền địa phương cũng biết. Thế nhưng, biện pháp ngăn chặn thì tưởng dễ nhưng đụng đến lại... khó vô cùng.
Theo ông Nguyễn Mạnh Sinh, Chủ tịch xã Quang Minh - nơi ông Sơn sinh sống - “vấn đề ông Sơn nhiều vợ”, trước đây, Ban Tuyên giáo huyện Mê Linh đã về xã và có buổi làm việc nghiêm túc.
Tại buổi làm việc đó, xã đã trình bày tất cả những khó khăn của mình. Những khó khăn đó, theo ông Sinh, các bà vợ bé của ông Sơn đều là người xã khác, bởi thế, xã không có quyền can thiệp. Thêm nữa, từ trước tới nay, chính quyền xã cũng chưa phải đứng ra để giải quyết tranh chấp, kiện tụng gì giữa các “bà vợ” của ông Sơn, cũng như những người liên quan nên không có lý do gì để đưa biện pháp ngăn chặn.
Còn chuyện bà Ngải, bà vợ thứ bảy, hiện nay đang ở trên mảnh đất trước đây là của ông Sơn thì lại là một câu chuyện dài. Câu chuyện “hai trong một” này, theo ông Trương Quang Dũng, Cán bộ hộ khẩu, Công an xã Quang Minh thì cũng rất... hợp lý (???).
Bà Ngải ở xã Tráng Việt đã theo ông làm vợ lẽ. Trước đó, ông Sơn ra làm kinh tế ở thôn Ấp Tre, (xã Quang Minh) bà Ngải theo đến ở cùng. Việc ấy chính quyền xã đã nhiều lần ngăn cản, thế nhưng, dù nhiều lần bị “trục xuất” nhưng “thuyền” vẫn một lòng quay về “bến cũ”. Ông về mua đất ở thôn Chi Đông, bà vẫn theo ông. Ông Sơn đã nhiều lần lên xã lạy lục để xin xã cho phép bà được nhập hộ khẩu vào nhà mình. Đương nhiên, xã không giải quyết bởi danh không chính ngôn không thuận, bà Ngải và ông Sơn không có quan hệ gì.
Tuy thế, ông Sơn vẫn “cắt đất” để mẹ con bà Ngải dựng nhà ngay sát nhà mình. Mãi đến tháng 5/2007 vừa rồi, bà Ngải mới được chính quyền xã cho đăng ký hộ khẩu vì theo luật cư trú mới, người nào có đất, sinh sống ổn định trên địa bàn thì phải được làm hộ khẩu!
Nỗi đau của người cha mù
Ông đang ấp ôm trong mình một nỗi đau tê tái. Cô con gái thứ hai con của ông với bà cả bị kẻ xấu lừa bán sang Trung Quốc. Thương con, năm 1995, gom góp tiền, dù cảnh mù loà, ông vẫn lặn lội sang đó kiếm tìm.
Lặn lội từ Quảng Đông đến Quảng Tây, lang thang đến tất cả những nơi có thể nhưng con gái ông vẫn bặt vô âm tín. Giờ, điều mong ước lớn nhất của ông là tìm lại được cô con gái tội nghiệp ấy.
Nhiều đêm, nhớ đến con mà nước mắt đầm đìa. Thương con nhưng cũng đành chịu chứ biết tính làm sao! Nhiều lúc ông cũng nghĩ: “Giá mà cảnh nhà khá giả, được học hành tới nơi tới chốn thì con gái mình đã không thành “miếng mồi ngon” cho bầy lang sói!”.
Lấy 11 vợ, đẻ 24 đứa con, liệu ông chăm sóc và gặp gỡ họ được mấy ngày? Những bà vợ có thể tự hào điều gì khi kể về chồng? Những đứa con học được gì từ tấm gương của bố?
Chắc rằng những đêm nhiều nước mắt như vậy không phải là hiếm đối với người đàn ông kỳ lạ ấy.
Nhà ông như ong vỡ tổ. Chẳng là làng đang có hội, các cháu ông khắp nơi túa về chơi, nô đùa.
Đợt rét vừa qua quá khắc nghiệt, ruộng mạ gia đình ông cấy hỏng cả. Nắng ấm lên đành phải gieo lại. Việc ấy, bà cả đang cùng với mấy cô con dâu lúi húi làm ngoài sân. Đông người làm nên chỉ loáng cái là khoảng sân gạch trước nhà đã được phủ một lớp bùn đen kịt. Mất chỗ chạy nhảy, bọn trẻ con láo nháo đành dồn cả vào nhà, chí choé nô đùa. Ba gian nhà ngói bỗng trở nên chật chội. Nhức óc đinh tai!
Nhìn thấy ổ gà, chướng ngại vật bằng... não
Đúng hẹn, gần trưa ông về. Xe đạp phanh két trước cửa. Sự xuất hiện của ông trên chiếc xe đạp khiến tôi không khỏi ngạc nhiên. Mắt ông thế thì đi bộ còn khó huống chi vi vu xe đạp?! Thấy sự ngạc nhiên của tôi, mọi người trong nhà ùa vào lý giải: “Từ xưa tới giờ, 50 năm có lẻ, đi đâu ông vẫn dùng xe đạp!”.
Nghe mọi người nói thế, ông cũng vội khoe luôn cái biệt tài của mình. Ông bảo, ông có trực giác và trí nhớ rất tuyệt vời. Đường trong huyện, thậm chí đường lên tỉnh, ông chỉ cần đi một lần là nhớ từng ổ gà, khúc cua ngoắt nghéo. Nhớ chi tiết rồi thì cứ xe đạp, chầm chậm ông đi, không lạc bao giờ.
Ra đường, bởi mắt không còn trông thấy gì nên ông phải “tham gia giao thông” bằng đôi tai rất thính của mình (như thể tai ông được gắn camera và chíp điện tử để phân tích thông tin). Ông bảo, nghe tiếng máy nổ là ông nhận biết được mình sắp gặp ô tô hay xe máy. Căn cứ vào những gì nghe được ông sẽ đưa ra cách tránh, né an toàn. Đến bây giờ, sau nhiều năm dùng tai thay cho đôi mắt, ông còn có thể nhận biết, chiếc xe máy đang chạy trước mặt mình là xe của... Tàu hay Nhật.
Tuy trực giác siêu phàm vậy nhưng cũng đã vài lần ông gặp nạn. Đang bon bon bỗng gặp một chiếc xe chết máy giữa đường. Đâm! Khi đi thì con đường nhẵn nhụi, phẳng phiu, khi về thì bởi “vấn nạn đào đường”, ông “sập bẫy”. Bởi những “sự cố hi hữu” ấy mà đã có lần ông phải nhập viện. Tuy thế, ông vẫn chẳng chừa. Vẫn phải đánh đu với xe đạp vì phải nay chỗ này, mai chỗ khác tong tả thăm nom các bà vợ của mình.
Hỏng mắt, vẫn được làm... “quan chức Nhà nước”
Ông Sơn sinh năm 1946 trong một gia đình bần nông. Năm lên hai tuổi, ông bảo, phải vía trời, mắt trái ông bỗng dưng hỏng hẳn. Mắt phải cũng từ ngày ấy mà mờ dần đi, đến khi trai tráng thì tối hẳn.
Khi ấy chiến tranh, neo người, nên dù không còn đôi mắt, ông vẫn xin được thoát ly, làm ở ngành đường sắt. Không nhìn thấy lại hoá hay, bởi khi còn làm nhà nước hay sau này về quê làm dân công, ông đều được chỉ định làm tổ trưởng (mọi người đùa vui: Cũng là quan nhà nước)
Anh em sáng mắt thì lao động trực tiếp, tổ trưởng không thấy gì thì “ăn khâu”... chỉ đạo. Như bao gia đình thôn quê khác, năm ông vừa tròn 20 tuổi, bố mẹ đã... ép duyên, cưới cho ông một cô gái ngoan hiền ở trong xã.
Về phép, thấy bố mẹ đã... tự ý lấy vợ cho mình, ông giận, chẳng nói chẳng rằng đùng đùng bỏ đi. Lên xí nghiệp ở lì tại đó, gần 1 năm sau ông mới chính thức... lấy vợ cho mình.
“Giăng lưới” được nữ sinh duyên dáng
Người khiến trái tim ông loạn nhịp là bà Nguyễn Thị Lan, khi gặp ông, tuổi mới 15 trăng tròn. Tình yêu thật khó lý giải, vướng vào rồi thì chẳng khác nào dính phải bùa lú thuốc mê. Khi ấy, ông là một người tật nguyền còn bà Lan là một nữ sinh duyên dáng. Thêm nữa, bà lại là người Hà Nội, chỉ bởi nhà có người làm cùng xí nghiệp ông mà một vài lần lên thăm đã mắc phải bùa yêu. Khuyên can chẳng được, thôi thì đũa lệch so vừa, gia đình bà Lan đành cho đôi trẻ nên duyên nên lứa.
Hơn một năm sau bởi cảnh nhà neo người, ông xin thôi không làm ngành đường sắt nữa, đưa vợ con về quê sinh sống. Về đến nhà, bữa cơm đầu tiên, phát hiện ra mình chỉ là vợ bé, bà Lan giận, tu tu khóc bỏ về Hà Nội.
Cũng thời gian ấy, sống chung một mái nhà, tìm hiểu, thấy hoàn cảnh cô vợ mà bố mẹ cưới cho éo le, ông đã động lòng trắc ẩn. Thôi thì duyên trời đã định, ông đành chấp thuận nghe theo. Nhưng với bà Lan, chả hiểu sao, ông vẫn thường xuyên qua lại như vợ chồng.
Hôn nhân 3 tháng
Về nhà, ông bôn ba với đủ mọi thứ nghề, miễn sao là ra tiền, ra thóc để nuôi vợ, nuôi con. Trong một chuyến tàu buôn từ Phú Thọ về, bà thứ ba đã xuất hiện.
Bà tên là Hoàng Thị Chuyền, quê ở xã Thanh Lâm, cùng huyện Mê Linh, kém ông 1 tuổi. Bà Chuyền là người lận đận về đường tình duyên. Gặp nhau trên chuyến tàu chợ chật chội ấy, chẳng biết khám phá ở ông điều gì hấp dẫn mà bà đã xiêu lòng.
Quái lạ thay, tình yêu này vẫn nhận được sự đồng ý của hai bên gia đình. Tuy thế, với ông, đó là hôn nhân ngắn nhất trong đời. Ông quen bà hồi tháng 10 thì đến tháng giêng năm sau, bởi thấy hai bên phát sinh những tính nết không hợp nhau, nên ông đã quyết định đôi đường đôi ngả. Tuy nhiên, chỉ với 3 tháng sống với nhau, mối tình ngắn ngủi và vi phạm Luật Hôn nhân gia đình ấy cũng kịp có kết quả. Ông đã có với bà một mụn con.
Năm 1973, bà thứ tư lại xuất hiện. Bà tên Vương Thị Xuân, quê gốc ở Bình Định, theo cha là cán bộ kháng chiến tập kết ra Bắc. Hai người gặp nhau ở ga Gia Cẩm ( Phú Thọ ).
Cảm thấy sống “không thể thiếu nhau” nên ông đã về thuyết phục gia đình đem lễ đến hỏi. Và cái gia đình lạ lùng này lại đồng ý. Có với nhau một cô con gái thì bà Xuân theo bố mẹ vào Nam . Từ dạo đó, bởi đường xá xa xôi, hai người đã không còn qua lại nữa. Tuy nhiên, mấy năm trước, biết tin cô con gái lấy chồng, ông cũng lặn lội vào tận nơi để dự đám cưới.
Chuyến buôn... trâu và người vợ 14 tuổi
Cưới bà Xuân được đúng 3 năm thì “trái tim tội lỗi” của ông lại run lên bần bật khi nhìn thấy một người phụ nữ khác.
Bà thứ năm, tên là Nguyễn Thị Xâm cũng là người cùng huyện. Bà Xâm trẻ lắm, ngày gặp ông mới hơn 14 tuổi đầu. Nhà quê lam lũ lại ốm đau, quặt quẹo luôn nên bà trông già trước tuổi.
Ngày ấy, ông đi buôn trâu, thấy bà, ông Sơn nên đã đem lòng... dan díu. Đến với nhau từ năm 1976 và có với nhau 2 mặt con nhưng phải mãi đến năm 1990 ông mới “hợp lý hoá” được mối quan hệ ấy. Thường thì mỗi bà khi muốn “sống là người nhà ông, chết làm con ma nhà ông” thì đều được ông làm lễ cưới, hỏi. Tất nhiên, tuỳ hoàn cảnh, nên cỗ bàn chỉ gọi là báo cáo với họ hàng nhưng phần “nghi lễ” thì ông vẫn làm đầy đủ. Suốt những năm ấy, bởi bù đầu với việc kiếm ăn, ông đành để bà Xâm sống cảnh thiệt thòi. Đầu năm 1990, khi công việc đã tạm ngơi tay, ông đã bảo bà cả sắm lễ đến, chính thức hỏi bà Xâm làm vợ. Hôm ấy, nhà ông làm hẳn 10 mâm cơm, xóm làng, họ mạc đến, liên hoan vui đáo để.
Ông kể, khi lấy mấy bà vợ đầu thì còn có người phản đối, điều ong tiếng ve này nọ. Cưới đến bà thứ 5 thì chẳng ai còn có ý kiến gì nữa. Có lẽ, tất thảy mọi người trong làng, đều nghĩ rằng ông đã mù lòa nên có làm việc gì thì cũng không chấp.
Bà thứ sáu, ông đón về vào năm 1978. Bà ở thôn Đường Lệ, xã Đại Thịnh, cũng huyện Mê Linh. Ông quen bà cũng từ một lần đi chợ. Bà đi bán rau về, gặp ông nên mời vào nhà chơi. Vào mới biết hoàn cảnh nhà bà túng quẫn, khó khăn trăm bề. Qua lại một vài lần, bà này mạnh dạn: “Anh có thương thì trở đi trở về qua lại. Đời em cơ cực đã nhiều, chỉ mong một chỗ dựa về sau!”.
Được nhời như cởi tấm lòng, cái “tính quen thuộc” của ông trỗi dậy. Tuy thế, mối tình ngang trái này cũng đi đến kết cục chẳng ra làm sao. Có với nhau một mặt con, năm 1984, ông bà đã đường ai nấy đi bởi tính nết mỗi người một khác.
Chồng mù với vợ què, vợ hen
Chia tay bà thứ sáu được đúng 3 ngày thì ông gặp bà thứ bảy. Theo cái lý lạ lùng của ông, “đó là người phụ nữ gặp nhiều bất hạnh, ông không thể không thương”. Bà Ngải, tên bà thứ bảy, bị bom đánh mất một cánh tay từ tấm bé. Cũng như những bà trước, ông đem lễ đến xin. Lần này, khó khăn bởi gia đình nhà gái nằng nặc từ chối. Lý do, không phải vì ông đã có nhiều vợ mà bởi họ bảo: “Chồng mù, vợ què không được”. Thế nhưng, lần lữa mãi thì trời cũng đành phải chịu đất bởi “gạo đã nấu thành cơm”, “ván đã đóng thành thuyền”, “mầm sống” đã “sinh sôi”. Có con, ông cứ đón bà về và sau cùng, khó tính mấy thì “nhà gái” cũng phải gật đầu ưng thuận.
Bà Ngải ở thôn Tráng Việt, xã Tráng Việt (Mê Linh). Và những lần qua lại thôn ấy, ông lại thêm vướng lưới tình.
Bà thứ tám đến và sống với ông vừa đủ 20 năm rồi âm dương cách biệt. Bà tên Lê Thị Thân, kém ông 9 tuổi, là người nổi tiếng dịu dàng, phúc hậu. Thế nhưng, trời chẳng cho ai tất cả mọi thứ, đẹp người, đẹp nết nhưng bà lại mắc chứng bệnh hen, khiến trai làng không ai muốn đón về để chung xây tổ ấm.
Lỡ thì, bà gặp ông vậy là lại mắc lưới của “Đông Gioăng”. Theo ông Sơn, khi hai người đến với nhau, bên nhà bà Thân, nhiều người cũng phản đối rầm rầm. Tuy thế có một người đã rất ủng hộ ông, đó là bố đẻ ra bà. Có “chỗ dựa”, ông đã tới tấp tấn công và chỉ ít lâu sau, tất cả mọi người trong gia đình bà Thân đều gật đầu...
11 vợ chưa phải con số cuối cùng...
Theo thời gian, số bà vợ của ông Sơn tăng dần. Đến nay, đã có 11 phụ nữ... phải lòng người đàn ông "đặc biệt" này. Nhưng, không ai dám chắc đó là con số cuối cùng...
“Sự tích” về bà vợ thứ 9, 10,11
“Mối tình” với bà Thân vẫn còn hôi hổi thì ông có thêm bà thứ chín. Bà có cái tên mộc mạc: Nguyễn Thị Tỵ, người ở làng Táo, xã Tiến Thắng, Mê Linh.
Bà Tỵ kém ông đến hơn 20 tuổi, chỉ ngặt nỗi người không được hoạt bát do ít nhiều nhiễm độc da cam từ người bố đi bộ đội. Hoàn cảnh bà Tỵ khó khăn bởi bố mất sớm, mình bà tần tảo sớm hôm chăm sóc mẹ già và đứa em ốm đau, què quặt. Cảnh ấy khiến ông... thương, muốn chung tay, chung sức cùng bà đẩy lùi cam khó (???). Vậy là được sự đồng thuận của hai nhà, ông và bà Tỵ lại thành phu phụ.
“Đã thương thì thương... cho trót” - cái lý của ông Sơn là vậy. Theo lẽ thông thường, người đáng thương phải là ông, nhưng ông luôn cho rằng các bà mà ông muốn lấy làm vợ mới là đáng thương và cần một nơi nương tựa vững chãi - đó là ông (???). Vì thế, ở thôn Đường Lệ, xã Đại Thịnh, nơi bà vợ thứ 6 của ông ở có bà Vũ, cũng hoàn cảnh éo le như bà Tỵ, đã được ông “thương nốt cho trót”. Bố bà Vũ đi kháng chiến, nhiễm độc và để di họa lại cho con. Bà Vũ tuy học hết lớp 6 nhưng cũng chẳng được nhanh nhẹn như người. Ông gặp, “cảm thương số phận hẩm hiu” của bà nên quyết định nên vợ nên chồng. Ông bảo, ông đến với bà thứ 10 là bởi ông thấy mình cần phải có trách nhiệm với người đàn bà tạo hóa không thương ấy (???).
Trò chuyện cởi mở, ông tiết lộ một... bí mật mà ở làng ít người được biết. Đó là việc ông có bà thứ 11 hiện đang sống ở Bình Lục, Hà Nam . Bà này đã có với ông một mặt con và hai người quen nhau từ năm 1967. Khi ấy, ông đi nộp thóc thuế, gặp bà làm ở kho lương thực Phúc Yên. “Tiếng sét ái tình” kỳ quái nổ ra ngay từ lần gặp đầu tiên và người phụ nữ ấy dành cho ông nhiều ưu ái. Ông kể về sự ưu ái đầy tiêu cực ấy rằng, hồi đó, gánh thóc đến kho lương thực nộp, nếu gặp bà thì thóc rối bà cũng gật đầu cho là thóc sạch. “Sướng lắm!” - ông Sơn kể. Sau này, bà về quê Hà Nam sinh sống, bởi xa cách nên ông không thể đem lễ đến hỏi được. Cũng bởi phần lễ nghi này chưa được thực hiện nên dù đã có con với nhau từ lâu nhưng ông vẫn phải xếp bà ở vị trí thứ... 11.
Cái mồm đầy... ma lực
Mắt hỏng, nhưng trông vẻ ngoài ông còn mạnh mẽ lắm. Hỏng mắt, nhưng ông Sơn lại rất khéo ăn khéo nói. Đây cũng là lý do khiến ông vi phạm nặng nề chính sách DS-KHHGĐ và Luật Hôn nhân & Gia đình, nhưng vẫn được các “người tình” chấp thuận về sống kiếp chồng chung.
Cái mồm ông đầy ma lực, chuyện giời chuyện bể ông đều biết cả. Càng ngồi, càng thấy người đàn ông trông bề ngoài chẳng có gì nổi bật ấy... có điểm gì đó hấp dẫn. Ông có khả năng hút hồn người khác bằng những câu chuyện khó tin nhưng có vẻ rất thật của mình. Chuyện ông kể, tuy chẳng có gì lớn lao, chẳng có gì bóng bảy nhưng nó khiến người đối diện thích nghe bởi những tình tiết bất ngờ, bằng chất giọng nghe như quê mùa nhưng vô cùng hóm hỉnh.
Bởi thế, theo “thói quen”, theo cái lý khó chấp nhận được của riêng ông: “thương thì thương cho trót”, nhiều người đã nhận định, với ông, “tình vẫn chưa yên”. Rất có thể một ngày đẹp trời, trên con đường làng quen thuộc hay trên một chuyến tàu chật ních người, gặp một phụ nữ có hoàn cảnh đáng thương, ông lại thêm một lần “sét đánh”. Điều ấy chẳng ai dám chắc là sẽ không xảy ra! Chuyện ấy tế nhị, hỏi ông, ông chỉ cười.
Những khả năng đặc biệt
Ngay khi gặp, tôi không tin là ông Sơn hỏng mắt hoàn toàn. Ông vẫn đi xe đạp và làm nhiều việc như người sáng mắt.
Thế nhưng, sự thật là người đàn ông hỏng mắt hoàn toàn ấy đã làm được rất nhiều chuyện không giống ai mà người sáng mắt cũng phải kinh ngạc. Ông đi buôn trâu, nhưng chỉ cần sờ là biết con trâu ấy tuổi tác, sức khoẻ thế nào. Thậm chí, với đồ gỗ, ông cũng là người sành sỏi. Ông đã giúp những người ít am hiểu về lĩnh vực này chọn được những bộ đồ gỗ chất lượng.
Ông bảo, chỉ cần sờ tay vào vân, thớ gỗ ông cũng có thể nhận biết đó là gỗ gì. Trình độ ấy đã được ông “kiểm nghiệm” qua lần một mình lụi cụi đạp xe về Đồng Kỵ, Bắc Ninh để mua cho gia đình mình chiếc tủ chè mà đến giờ ai vào nhà cũng đều phải trầm trồ khen đẹp.
Ngoài sự nhạy cảm của đôi tay, thì đôi tai và trí nhớ của ông cũng ở mức tuyệt vời. Ở làng, nhiều người mua đài, đầu đĩa cũng phải nhờ đến ông. Dân quê nghèo, làm gì có tiền mà đến cửa hàng, đại lý để mua hàng mới, sản phẩm của những hãng nổi tiếng. Đồ cũ, đồ đã qua sử dụng thì mới có giá mềm. Bởi thế nên họ phải nhờ ông vì chỉ cần nghe tiếng, ông có thế nhận biết những thứ đó của hãng nào, “tuổi thọ” còn được bao lâu. Con ông mua chiếc tivi, về mở, nghe tiếng, chẳng cần hỏi ông cũng biết đó là “đồ Tàu” dù bề ngoài, trông như hàng xịn.
Trí nhớ của ông thì khó người nào sánh kịp. Bởi thế mà trong huyện, đường ngang ngõ tắt ông thuộc như lòng bàn tay. Đến “vùng đất mới”, chưa biết đường, thì chỉ cần có người ngồi sau xe “xi nhan” một lần là khi về, ông đi đâu vào đấy.
Biến “ớt cay” thành “ớt ngọt”
Ông thống kê, tới thời điểm này, ông đã có cả thảy 24 người con. Là con trưởng nên nhà ông nhiều giỗ chạp. Mỗi lần có việc, các bà vợ cùng các con, cháu kéo về chật ních cả nhà. Cỗ bàn bày ra cả chục mâm, ngồi kín trong nhà, nhiều khi còn tràn cả ra sân.
Ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà lại chẳng hay ghen chồng! Thế nhưng, trường hợp các bà vợ của ông thì khác. Rất lạ từ trước đến nay giữa các bà chưa từng một lần xảy ra cãi vã, ghen tuông. Điều này đã được mọi người... kiểm chứng.
Cách đây hơn chục năm, bà thứ bảy - Nguyễn Thị Ngải - đã về ở hẳn trên mảnh đất nhà ông. Tuy gọi là ở riêng nhưng chẳng khác nào ở chung bởi hai nhà chung ngõ, chỉ cách nhau bức tường chưa vượt quá đầu người. Mấy lần tôi đến vẫn thấy bà chạy qua chạy lại chuyện trò. Đặc biệt, để ý, thấy bà Ngải với bà cả trò chuyện tíu tít với nhau. Sự thân thiện ấy không chỉ khiến một người lạ là tôi khó hiểu, mà nó còn khiến nhiều người dân ở Chi Đông, nơi ông ở cũng phải mắt tròn mắt dẹt kinh ngạc. Mọi người đã rất băn khoăn bởi không biết ông có phép màu gì hiệu nghiệm khiến hai bà thân nhau đến thế, lúc nào cũng sát cánh kề vai, có nhau trong mọi việc?!
Ông bảo, ông có bí quyết riêng để biến “ớt cay” thành “ớt ngọt”. Khôn ngoan chẳng lọ thật thà, trước khi đồng thuận đến với nhau, ông cứ “lột trần” hết những khó khăn, thuận lợi khi về nhà ông cho các bà nghe. Nếu các bà thực sự hiểu và thông cảm thì mới bàn đến chuyện se duyên kết tóc, không thì “sét đánh” có dữ dội mấy ông cũng “vẫy tay chào”.
“Chiêu” ấy hoá hiệu nghiệm bởi nó như một mũi tên, trúng liền hai đích. Thứ nhất, nó sẽ khiến đối phương nghĩ rằng chỉ những người thật lòng mới có những lời lẽ chân thành đến vậy. Thứ hai, nó giúp ông giải quyết “bài toán” “hậu hôn nhân” sau này. “Bài toán” ấy không dễ hóa giải. Xã hội, ối người chỉ một lần duy nhất lập “phòng nhì” đã phải trả giá đắt. Thậm chí có người còn vào tù cũng chỉ vì mù quáng trong chuyện quyết liệt giữ “mảnh trời riêng” cho mình. Do được “làm công tác tư tưởng” từ trước nên khi lấy ông, “các bà đều biết rõ bổn phận và trách nhiệm của mình” (lời ông khoe). Bởi thế, về nhà ông, các bà vẫn vui vẻ ngồi chung mâm, trong êm ngoài ấm.
Hệ lụy... buồn
Ông Sơn bảo, các con ông ai cũng ngoan hiền bởi có sự chăm chút, dạy dỗ tới nơi tới chốn của ông.
Thế nhưng, điều ông không nói ra nhưng ai cũng biết, đó là: Chúng khổ vì cái sự đa mang kỳ quái của ông. Tối ngày chúng túi bụi với công việc để toan lo cuộc sống thường ngày.
Ông giờ đang ở với người con út, con của bà cả trong ngôi nhà ngói tồi tàn. Anh con út ấy cũng như bao anh em khác của mình, không được học hành tới nơi tới chốn. Tí tuổi đầu anh đã phải tìm về thành phố tần tảo làm thuê để kiếm sống qua ngày.
Lớn lên, lấy vợ, cũng vẫn nghiệp làm thuê, tối mắt tối mũi. Bởi quá bận rộn nên đến giờ, có một sự thật phũ phàng là anh vẫn chưa biết hết mặt... anh em mình.
Anh bảo, quanh năm tất tả với công với việc, chẳng lúc nào được nghỉ ngơi nên cũng chẳng có điều kiện để đi thăm nom anh em ở các nơi. Buồn lắm! Ngày giỗ, ngày Tết, nhà bố đẻ ở đây, ai có lòng thì đến, uống được với nhau chén rượu rồi lại về. Thế nhưng, đâu phải ai cũng nhiệt tâm, người thế này, người thế nọ, xum họp đầy đủ khó lắm!
Họ cũng như anh, cũng phải tất bật với những lo toan của riêng mình, vì ai cũng giống ai, bố chẳng lo cho được gì, nhà thì neo đơn.
Thêm nữa, nếu muốn đi thăm để tận thấy tất cả anh em mình, với điều kiện kinh tế của các anh bây giờ thì có lẽ là điều... không tưởng. Kẻ nam người bắc, người ở phố kẻ ở quê đi hết thì có mà... cả tháng. Bởi thế nên đành chịu, bởi thế nên đành ngồi nhà, ai đến thì biết người đấy chứ đến người này, bỏ người kia cũng không được.
Chính quyền địa phương: Bó tay!
Trong tổng số 11 bà vợ trên, thì chỉ có bà vợ cả do bố mẹ ông cưới cho là có thủ tục đăng ký kết hôn đàng hoàng. Số bà còn lại, ông đều... cưới chui hoặc cứ đến sinh sống với nhau như vợ chồng. Điều ấy, làng xóm láng giềng biết và đương nhiên, chính quyền địa phương cũng biết. Thế nhưng, biện pháp ngăn chặn thì tưởng dễ nhưng đụng đến lại... khó vô cùng.
Theo ông Nguyễn Mạnh Sinh, Chủ tịch xã Quang Minh - nơi ông Sơn sinh sống - “vấn đề ông Sơn nhiều vợ”, trước đây, Ban Tuyên giáo huyện Mê Linh đã về xã và có buổi làm việc nghiêm túc.
Tại buổi làm việc đó, xã đã trình bày tất cả những khó khăn của mình. Những khó khăn đó, theo ông Sinh, các bà vợ bé của ông Sơn đều là người xã khác, bởi thế, xã không có quyền can thiệp. Thêm nữa, từ trước tới nay, chính quyền xã cũng chưa phải đứng ra để giải quyết tranh chấp, kiện tụng gì giữa các “bà vợ” của ông Sơn, cũng như những người liên quan nên không có lý do gì để đưa biện pháp ngăn chặn.
Còn chuyện bà Ngải, bà vợ thứ bảy, hiện nay đang ở trên mảnh đất trước đây là của ông Sơn thì lại là một câu chuyện dài. Câu chuyện “hai trong một” này, theo ông Trương Quang Dũng, Cán bộ hộ khẩu, Công an xã Quang Minh thì cũng rất... hợp lý (???).
Bà Ngải ở xã Tráng Việt đã theo ông làm vợ lẽ. Trước đó, ông Sơn ra làm kinh tế ở thôn Ấp Tre, (xã Quang Minh) bà Ngải theo đến ở cùng. Việc ấy chính quyền xã đã nhiều lần ngăn cản, thế nhưng, dù nhiều lần bị “trục xuất” nhưng “thuyền” vẫn một lòng quay về “bến cũ”. Ông về mua đất ở thôn Chi Đông, bà vẫn theo ông. Ông Sơn đã nhiều lần lên xã lạy lục để xin xã cho phép bà được nhập hộ khẩu vào nhà mình. Đương nhiên, xã không giải quyết bởi danh không chính ngôn không thuận, bà Ngải và ông Sơn không có quan hệ gì.
Tuy thế, ông Sơn vẫn “cắt đất” để mẹ con bà Ngải dựng nhà ngay sát nhà mình. Mãi đến tháng 5/2007 vừa rồi, bà Ngải mới được chính quyền xã cho đăng ký hộ khẩu vì theo luật cư trú mới, người nào có đất, sinh sống ổn định trên địa bàn thì phải được làm hộ khẩu!
Nỗi đau của người cha mù
Ông đang ấp ôm trong mình một nỗi đau tê tái. Cô con gái thứ hai con của ông với bà cả bị kẻ xấu lừa bán sang Trung Quốc. Thương con, năm 1995, gom góp tiền, dù cảnh mù loà, ông vẫn lặn lội sang đó kiếm tìm.
Lặn lội từ Quảng Đông đến Quảng Tây, lang thang đến tất cả những nơi có thể nhưng con gái ông vẫn bặt vô âm tín. Giờ, điều mong ước lớn nhất của ông là tìm lại được cô con gái tội nghiệp ấy.
Nhiều đêm, nhớ đến con mà nước mắt đầm đìa. Thương con nhưng cũng đành chịu chứ biết tính làm sao! Nhiều lúc ông cũng nghĩ: “Giá mà cảnh nhà khá giả, được học hành tới nơi tới chốn thì con gái mình đã không thành “miếng mồi ngon” cho bầy lang sói!”.
Lấy 11 vợ, đẻ 24 đứa con, liệu ông chăm sóc và gặp gỡ họ được mấy ngày? Những bà vợ có thể tự hào điều gì khi kể về chồng? Những đứa con học được gì từ tấm gương của bố?
Chắc rằng những đêm nhiều nước mắt như vậy không phải là hiếm đối với người đàn ông kỳ lạ ấy.
Đào Thanh Tuy (báo Gia Đình & Xã Hội)