Đền thờ cửa Ông
Thanh An
Nói đến đền thờ Cửa Ông thì đa phần những người sinh trưởng ở miền Bắc đều biết đến. Ngôi đền Cửa Ông nằm trên đỉnh đồi về phía Đông Bắc thị trấn Cửa Ông, thuộc khu Hồng Quảng cũ (tên mới là tỉnh Quảng Ninh). Cửa đền nhìn ra vịnh Hạ Long, bên trái đền kề với núi Cô Tiên, bên phải kề sát biển. Phía sau đền là thị trấn Cửa Ông với dân số khoảng 3 vạn người.
Ngôi đền này được xây cất từ thế kỷ thứ 13 với lối kiến trúc cổ, thờ Trần Quốc Tảng, con trai thứ ba của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Sử đền ghi lại: Khu vực này trước đây là rừng thiêng nước độc và cũng là nơi cư ngụ của những băng đảng thổ phỉ chuyên nghề cướp bóc, trấn lột và hãm hiếp nhân dân các vùng lân cận. Để bình yên giang sơn về mọi mặt, vua đã cử Trần Quốc Tảng dẫn đầu một đạo quân đến trấn thủ biên cương và dẹp loạn. Trong vòng gần 2 năm, ông đã bình yên được khu vực. Ngay sau đó, dân chúng kéo đến lập ấp và sinh sống mỗi ngày một đông đức. Được ba năm sau khi dẹp loạn thì ông tạ thế. Để nhớ đến công ơn Người, dân chúng đã lập đền thờ ngay từ thời đó. Tục truyền sau khi lập đền thờ xong, cứ vào ngày mồng một và ngày rằm, sau khi rung chuông gỏ mõ thì có hai con hổ về chầu trước cửa đền đợi hưởng lộc, chủ yếu là thịt lợn.
Mặc dù hàng thế kỷ đã qua, cùng với nhiều cuộc chiến xảy ra trên đất nước, ngôi đền Cửa Ông vẫn giữ được nguyên bản kiến trúc văn hóa cổ xưa. Trước và sau đền vẫn còn những gốc cổ thụ to hàng hai người ôm không xuể. Chung quanh đều được bao bọc bởi những hàng tre xanh tươi lẫn với tre ngà vàng óng. Đây chính là loại tre lấy từ làng Phù Đổng mà lịch sử đã ghi nhận Thánh Gióng dùng thay gậy sắt bị gẫy trong lúc đánh đuổi giặc Ân. Nơi đây quanh năm rì rầm sóng biển, lồng lộn mây trời, chim kêu vượn hú, núi non trùng điệp. Thỉnh thoảng lại vọng lên tiếng kẽo kẹt của bụi tre, khóm trúc như bản trường ca không dứt. Phong cảnh thật hài hòa, tạo nên một bức tranh sơn thủy hữu tình.
Hàng năm cứ vào cuối tháng hai đầu tháng ba dương lịch, lúc trời vào xuân, mưa phùn bay bay như bụi phấn, hoa đào còn khoe sắc, mặt vịnh Hạ Long phẳng lặng như gương, mây nước nhạt nhòa, biển trời hòa sắc thì nam thanh nữ tú và khách hành hương đua nhau trẩy hội. Từng đoàn từng đoàn người xuôi về Cửa Ông. Khách ở khắp nơi đổ tới. Có những người từ miền Nam xa xôi đi mất năm bảy ngày đường để kịp đến dâng hương vào ngày mở hội.
NGUYỄN AN TỔNG CÔNG TRÌNH SƯ CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG CỐ CUNG Ở BẮC KINH
Ai đã một lần đến thăm Bắc Kinh, thủ đô Trung Quốc, hẳn không thể nào quên thắng cảnh di tích lịch sử nổi tiếng Cố Cung (tên cũ là Tử Cấm Thành). Toàn thể kiến trúc này còn được bảo tồn khá hoàn chỉnh, là trung tâm tiêu biểu của chế độ phong kiến chuyên chế lớn và lâu dài bậc nhất thế giới, nơi từng có 24 đời hoàng đế trị vì.
Khởi công xây từ năm Vĩnh Lạc (nhà Minh) thứ 4 (1406) đến năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420) thì hoàn tất. Cố Cung tính đến này đã 6 thế kỷ. Theo thời gian, hai triều Minh và Thanh đã nhiều phen trùng tu, mở rộng nhưng vẫn giữ nguyên bố cục buổi ban đầu với diện tích rộng hơn 72 nghìn mét vuôg (1087 mẫu tàu) và hơn chín nghìn ngôi nhà, diện tích khoảng 150 nghìn mét vuông, chung quanh là tường thành cao hơn 10 mét, có sông đào bảo vệ (hộ thành hà) rộng 52 mét, thể hiện truyền thống ưu tú và phong cách độc đáo của kiến trúc cổ Trung Quốc. Công trình này từng huy động đến mười vạn thợ và hàng triệu phu dịch.
Lưỡng cung Tam Điện là cụm kiến trúc lớn nhất của Cố Cung gồm hai cung Càn Thanh và Khôn Ninh, ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái và Cẩn Than. Ba điện này năm 1421 bị sét thiêu rụi, đến năm 1559-1562 xây dựng lại, đổi tên là Hoàng Cực, Trung Cực và Kiến Cực. Đến năm 1645 lại đổi tên là Thái Hòa, Trung Hòa và Bảo Hòa.
Sau khi vào Trung Nguyên, nhà Mãn Thanh vẫn giữ nguyên chế độ cung khuyết của nhà Minh, bởi thế Cố Cung nhà Thanh cũng chính là Cố Cung nhà Minh.
Người thiết kế và chỉ đạo công trình xây dựng như vậy xứng đáng được suy tôn là một công trình sư vĩ đại. Điều thú vị là theo tài liệu khảo sát của các nhà sử học, vị kiến trúc sư ấy chính là một người Việt Nam(Giao Chỉ) tên là Nguyễn An.
Sử sách nhà Minh biết đến hai Nguyễn An, cả hai đều là người Giao Chỉ, một làm thợ sau thăng làm Phó Sứ ở Văn Tư Uyển, và một làm thái giám, còn có tên là A Lưu. Chính Nguyễn An thứ hai này là người thiết kế và chỉ đạo xây dựng Cố Cung ở Bắc Kinh dưới hai triều vua Minh: Vĩnh Lạc và Chính Thống. Có thể nói, tất cả các công trình mộc lớn ở Bắc Kinh đều do một tay Nguyễn An A Lưu chỉ huy kiến tạo và ông đã trọn đời cống hiến tinh lực cho kiến trúc này. Nguyễn An A Lưu đến Trung Quốc vào khoảng đời vua Vĩnh Lạc, khi Trương Phụ bình định Giao Châu, bắt những thanh thiếu niên tuấn tú của Giao Châu đem về nước. Nguyễn An ở trong số đó. Lúc đến Nam Kinh ông còn là một cậu bé, đến năm Vĩnh Lạc thứ tư, mới hai mươi mấy tuổi, đã đảm đương một công trình trọng đại như vậy.
Sử sách Trung Quốc (Minh Sử, quyển 304, Anh Tông, Chính Thống Thực Lục quyển 54, quyển 84, quyển 91, quyển 130, Thụy Đông Nhật Ký của Diệp Thịnh đời Minh) cho biết về ông: “Một tay chỉ vạch, hình thể đâu ra đấy”.
Về sau, điều khiển trị thủy ở các sông Tái Dương, Thu Lịch, ông tự tay khiên sọt, cầm xẻng cùng dân chia sẻ những lao dịch nặng nhọc. Ông cũng từng trong coi vận tải đường thủy từ Thống Châu đến Nam Kinh. Vùng Trương Thu (Sơn Đông) Hoàng Hà vỡ đê, hàn mãi không được, triều đình lại phái ông đi trị thủy. Năm Canh Thái thứ bảy (1456), ông mất trên đường đi, thọ hơn 60 tuổi. Công lao như vậy, nhưng ông sống rất thanh bạch, trước lúc chết, ông còn hiến tất cả tiền bạc được triều đình ban thưởng mà ông dành dụm được (sử ghi rõ, năm Chính Thống thứ sáu, tháng mười ngày Kỷ Sửu, ông được lĩnh thưởng 50 lượng vàng nhân khánh thành Lưỡng cung Tam điện).
Có thể nói, nơi kiến trúc sư Nguyễn An có sự kết hợp của một trí tuệ thiên tài và một đạo đức cao thượng.
Trải qua bao nhiêu năm, nhờ sự trao đổi văn hóa và mở rộng thông tin giữa các nước, chúng ta mới biết người Việt đã lưu lại dấu vết của mình ở khắp nơi, và làm nên nhiều chuyện lớn lao mà người bản xứ vị tất đã làm nổi.
Ngày nay trên thế giới, hiện tượng “Nguyễn An” đang nở rộ. Người Việt có mặt khắp nơi, đóng góp đủ loại kỳ công trong các lãnh vực không gian, khoa học, kỹ thuật, làm vẻ vang dân Việt!
Thanh An
Nói đến đền thờ Cửa Ông thì đa phần những người sinh trưởng ở miền Bắc đều biết đến. Ngôi đền Cửa Ông nằm trên đỉnh đồi về phía Đông Bắc thị trấn Cửa Ông, thuộc khu Hồng Quảng cũ (tên mới là tỉnh Quảng Ninh). Cửa đền nhìn ra vịnh Hạ Long, bên trái đền kề với núi Cô Tiên, bên phải kề sát biển. Phía sau đền là thị trấn Cửa Ông với dân số khoảng 3 vạn người.
Ngôi đền này được xây cất từ thế kỷ thứ 13 với lối kiến trúc cổ, thờ Trần Quốc Tảng, con trai thứ ba của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Sử đền ghi lại: Khu vực này trước đây là rừng thiêng nước độc và cũng là nơi cư ngụ của những băng đảng thổ phỉ chuyên nghề cướp bóc, trấn lột và hãm hiếp nhân dân các vùng lân cận. Để bình yên giang sơn về mọi mặt, vua đã cử Trần Quốc Tảng dẫn đầu một đạo quân đến trấn thủ biên cương và dẹp loạn. Trong vòng gần 2 năm, ông đã bình yên được khu vực. Ngay sau đó, dân chúng kéo đến lập ấp và sinh sống mỗi ngày một đông đức. Được ba năm sau khi dẹp loạn thì ông tạ thế. Để nhớ đến công ơn Người, dân chúng đã lập đền thờ ngay từ thời đó. Tục truyền sau khi lập đền thờ xong, cứ vào ngày mồng một và ngày rằm, sau khi rung chuông gỏ mõ thì có hai con hổ về chầu trước cửa đền đợi hưởng lộc, chủ yếu là thịt lợn.
Mặc dù hàng thế kỷ đã qua, cùng với nhiều cuộc chiến xảy ra trên đất nước, ngôi đền Cửa Ông vẫn giữ được nguyên bản kiến trúc văn hóa cổ xưa. Trước và sau đền vẫn còn những gốc cổ thụ to hàng hai người ôm không xuể. Chung quanh đều được bao bọc bởi những hàng tre xanh tươi lẫn với tre ngà vàng óng. Đây chính là loại tre lấy từ làng Phù Đổng mà lịch sử đã ghi nhận Thánh Gióng dùng thay gậy sắt bị gẫy trong lúc đánh đuổi giặc Ân. Nơi đây quanh năm rì rầm sóng biển, lồng lộn mây trời, chim kêu vượn hú, núi non trùng điệp. Thỉnh thoảng lại vọng lên tiếng kẽo kẹt của bụi tre, khóm trúc như bản trường ca không dứt. Phong cảnh thật hài hòa, tạo nên một bức tranh sơn thủy hữu tình.
Hàng năm cứ vào cuối tháng hai đầu tháng ba dương lịch, lúc trời vào xuân, mưa phùn bay bay như bụi phấn, hoa đào còn khoe sắc, mặt vịnh Hạ Long phẳng lặng như gương, mây nước nhạt nhòa, biển trời hòa sắc thì nam thanh nữ tú và khách hành hương đua nhau trẩy hội. Từng đoàn từng đoàn người xuôi về Cửa Ông. Khách ở khắp nơi đổ tới. Có những người từ miền Nam xa xôi đi mất năm bảy ngày đường để kịp đến dâng hương vào ngày mở hội.
NGUYỄN AN TỔNG CÔNG TRÌNH SƯ CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG CỐ CUNG Ở BẮC KINH
Ai đã một lần đến thăm Bắc Kinh, thủ đô Trung Quốc, hẳn không thể nào quên thắng cảnh di tích lịch sử nổi tiếng Cố Cung (tên cũ là Tử Cấm Thành). Toàn thể kiến trúc này còn được bảo tồn khá hoàn chỉnh, là trung tâm tiêu biểu của chế độ phong kiến chuyên chế lớn và lâu dài bậc nhất thế giới, nơi từng có 24 đời hoàng đế trị vì.
Khởi công xây từ năm Vĩnh Lạc (nhà Minh) thứ 4 (1406) đến năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420) thì hoàn tất. Cố Cung tính đến này đã 6 thế kỷ. Theo thời gian, hai triều Minh và Thanh đã nhiều phen trùng tu, mở rộng nhưng vẫn giữ nguyên bố cục buổi ban đầu với diện tích rộng hơn 72 nghìn mét vuôg (1087 mẫu tàu) và hơn chín nghìn ngôi nhà, diện tích khoảng 150 nghìn mét vuông, chung quanh là tường thành cao hơn 10 mét, có sông đào bảo vệ (hộ thành hà) rộng 52 mét, thể hiện truyền thống ưu tú và phong cách độc đáo của kiến trúc cổ Trung Quốc. Công trình này từng huy động đến mười vạn thợ và hàng triệu phu dịch.
Lưỡng cung Tam Điện là cụm kiến trúc lớn nhất của Cố Cung gồm hai cung Càn Thanh và Khôn Ninh, ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái và Cẩn Than. Ba điện này năm 1421 bị sét thiêu rụi, đến năm 1559-1562 xây dựng lại, đổi tên là Hoàng Cực, Trung Cực và Kiến Cực. Đến năm 1645 lại đổi tên là Thái Hòa, Trung Hòa và Bảo Hòa.
Sau khi vào Trung Nguyên, nhà Mãn Thanh vẫn giữ nguyên chế độ cung khuyết của nhà Minh, bởi thế Cố Cung nhà Thanh cũng chính là Cố Cung nhà Minh.
Người thiết kế và chỉ đạo công trình xây dựng như vậy xứng đáng được suy tôn là một công trình sư vĩ đại. Điều thú vị là theo tài liệu khảo sát của các nhà sử học, vị kiến trúc sư ấy chính là một người Việt Nam(Giao Chỉ) tên là Nguyễn An.
Sử sách nhà Minh biết đến hai Nguyễn An, cả hai đều là người Giao Chỉ, một làm thợ sau thăng làm Phó Sứ ở Văn Tư Uyển, và một làm thái giám, còn có tên là A Lưu. Chính Nguyễn An thứ hai này là người thiết kế và chỉ đạo xây dựng Cố Cung ở Bắc Kinh dưới hai triều vua Minh: Vĩnh Lạc và Chính Thống. Có thể nói, tất cả các công trình mộc lớn ở Bắc Kinh đều do một tay Nguyễn An A Lưu chỉ huy kiến tạo và ông đã trọn đời cống hiến tinh lực cho kiến trúc này. Nguyễn An A Lưu đến Trung Quốc vào khoảng đời vua Vĩnh Lạc, khi Trương Phụ bình định Giao Châu, bắt những thanh thiếu niên tuấn tú của Giao Châu đem về nước. Nguyễn An ở trong số đó. Lúc đến Nam Kinh ông còn là một cậu bé, đến năm Vĩnh Lạc thứ tư, mới hai mươi mấy tuổi, đã đảm đương một công trình trọng đại như vậy.
Sử sách Trung Quốc (Minh Sử, quyển 304, Anh Tông, Chính Thống Thực Lục quyển 54, quyển 84, quyển 91, quyển 130, Thụy Đông Nhật Ký của Diệp Thịnh đời Minh) cho biết về ông: “Một tay chỉ vạch, hình thể đâu ra đấy”.
Về sau, điều khiển trị thủy ở các sông Tái Dương, Thu Lịch, ông tự tay khiên sọt, cầm xẻng cùng dân chia sẻ những lao dịch nặng nhọc. Ông cũng từng trong coi vận tải đường thủy từ Thống Châu đến Nam Kinh. Vùng Trương Thu (Sơn Đông) Hoàng Hà vỡ đê, hàn mãi không được, triều đình lại phái ông đi trị thủy. Năm Canh Thái thứ bảy (1456), ông mất trên đường đi, thọ hơn 60 tuổi. Công lao như vậy, nhưng ông sống rất thanh bạch, trước lúc chết, ông còn hiến tất cả tiền bạc được triều đình ban thưởng mà ông dành dụm được (sử ghi rõ, năm Chính Thống thứ sáu, tháng mười ngày Kỷ Sửu, ông được lĩnh thưởng 50 lượng vàng nhân khánh thành Lưỡng cung Tam điện).
Có thể nói, nơi kiến trúc sư Nguyễn An có sự kết hợp của một trí tuệ thiên tài và một đạo đức cao thượng.
Trải qua bao nhiêu năm, nhờ sự trao đổi văn hóa và mở rộng thông tin giữa các nước, chúng ta mới biết người Việt đã lưu lại dấu vết của mình ở khắp nơi, và làm nên nhiều chuyện lớn lao mà người bản xứ vị tất đã làm nổi.
Ngày nay trên thế giới, hiện tượng “Nguyễn An” đang nở rộ. Người Việt có mặt khắp nơi, đóng góp đủ loại kỳ công trong các lãnh vực không gian, khoa học, kỹ thuật, làm vẻ vang dân Việt!