(Đây là 1 hồi ký rút ngắn có thật của người bạn cùng trường)
Date: Saturday, April 18, 2009, 5:57 AM
Thân gởi các Bạn:
Hai ngày nay nơi tôi ở đang có những cơn bão và sáng hôm nay trời rất là ảm đạm. Tôi cảm thấy áy-náy và hơi buồn trong lòng vì bài khúc quanh cuộc đời của tôi viết và đăng trong tháng Tư này. Nếu bài này có làm bạn nào buồn hoặc bất bình tôi thành thật xin lỗi các bạn. Bởi vì đó chỉ là một ký ức ngắn ngủi trong cuộc đời đã đi qua, để đến bây giờ nhận biết mình được may mắn hơn bao nhiêu những người khác.
Cám ơn tất cả các bạn đã đọc và chia sẻ. Cám ơn bác ĐK Hưng, NYC ”Giờ này anh ở đâu”, bác Hạnh bật mí hai bản nhạc tôi thâu lại năm (2001) làm kỷ niệm khi cháu lớn của tôi hát tặng chúng tôi A-25 năm (2001). Chính cháu vào năm 17 tuổi đã hỏi bà ngoại trước khi mất về: Thuyền nhân Việt Nam? Tại sao có nhiều người Việt Nam ở Mỹ? Bố mẹ cháu gặp nhau ở đâu?. Để không còn bí mật xin gởi cho các bác nghe gà (con) nhà hát.
Chúng tôi chưa về Việt Nam nhưng chắc chắn rằng sẽ về một ngày rất gần vì Quê Hương và Bạn Bè vẫn còn đó. Thân chúc tất cả các bạn và gia đình luôn được An-Bình và Hạnh-Phúc.
Cám Ơn Các Bạn,
Mùa hè 1972, tôi rời mái trường và biết mình sẽ không bao giờ trở lại. Từ buổi đó, những kỷ niệm với bạn bè và sân trường đã in sâu trong ký ức như tự bao giờ. Ra Nha Trang một thời gian với cuộc đời đổi thay và không bao lâu sau đó, những tin vui khi nghe có bạn được tuyển đi huấn luyện phi công ở Mỹ, nhưng cũng có tin buồn khi nghe bạn mình đã bị thương. Có lẽ vì vậy mà tôi có cảm tưởng như là đã xa mái trường lâu lắm rồi.
Bước vào đời tôi bỗng nhiên trở thành thầm lặng, để hòa mình với cuộc sống mới, với những người chung quanh. Có một kỷ niệm và cũng là một niềm vui trong đời lính, xin được chia xẻ với các bạn. Đó là bất chợt có người hỏi tôi học ở trường nào?. Câu hỏi này luôn làm tôi phải khựng lại trong giây phút! vì trong đầu óc lúc đó tôi lại có một câu hỏi: Hỏi để làm gì? Nhưng mỗi khi có dịp đọc lại tên trường Lasan Taberd, bỗng nhiên tôi được trở lại với mái trường trong khoảng khắc. Có lẽ tên trường đã tạo được những sự thân thiện hơn từ bạn hữu, hội đoàn và những người chung quanh.
Các bạn còn nhớ trong thời gian 1970-1975, dù còn dưới mái trường hay đã xa sân trường. Nhạc Phượng Hoàng có lẽ vẫn là một gạch nối liên kết tuổi trẻ chúng mình như là: Tôi muốn, Cười lên đi em ơi, Hãy ngước mặt nhìn đời, Hãy nhìn xuống chân…và trong những sinh hoạt cộng đồng: Sinh Viên Học Sinh, Hướng Đạo, Gia đình Phật Tử với những bái hát : Việt nam quê hương ngạo nghễ, Về với mẹ cha, Đường Việt nam, Nối vòng tay lớn, Hy vọng, Gia tài của mẹ, Đến với quê hương tôi… Trong mùa Giáng sinh 1972, xa Sàigòn, xa gia đình và bạn bè. Đêm văn nghệ Giáng sinh năm đó trong khung cảnh sao trời với sóng biển, được nghe hai bản nhạc Tình nghệ sĩ và Lệ đá từ một giọng hát mới lạ, đã làm tôi cảm nhận thấy mình bỗng gìa hơn, dạn dĩ hơn với cuộc sống thực tại.
Thế rồi tình hình biến động tháng 3-1975, tình thế trở nên căng thẳng, miền Trung nặng mùi khói súng. Dọc quốc lộ số-1 từ Nha Trang đến Thị xã Cam Ranh, bỗng trở thành Đại lộ di tản với những trại tỵ nạn cho đoàn người di tản từ miền Trung. Người càng ngày càng đông, mọi người cùng một tâm trạng. Không cửa không nhà, màn trời chiếu đất. Vì nhu cầu khẩn trương, tôi được giao trách nhiệm đi gíúp những trại tỵ nạn. Thấy những em nhỏ nằm ngủ co quắt dưới mái hiên trường, dưới gốc cây, làm tôi nhớ lại cảnh sau Tết Mậu Thân 1968. Năm đó trong bộ đồng phục Hướng Đạo Lasan Taberd, một số anh em tụ họp nhau để đi cứu trợ ở những trường học. Đầu tháng 4-1975, tình thế trở nên căng thẳng hơn. Những chuyến xe đò từ Sàigòn ra Nha Trang, Nha Trang – Sàigòn, bỗng nhiên vắng hẳn. Thay vào đó là những đoàn người di tản mỗi ngày một đông hơn, đủ mọi thành phần, tay bồng tay bế với mọi phương tiện di chuyển trên quốc lộ số-1 đi về hướng Nam. Khoảng 6 giờ chiều một ngày đầu tháng 4-1975. Khi đang phụ giúp để phân phối gạo cho những gia đình di tản trong trại tỵ nạn, được tin từ bạn hữu chúng tôi bàn giao cho người trại trưởng chiếc xe GMC vẫn còn đầy những bao gạo mới tiếp nhận. Chúng tôi phải cố gắng hết sức để tránh gây ra những sự hoang mang, khủng hoảng và xáo trộn. Vì chưa bao giờ chúng tôi chuyển giao nhu yếu phẩm cho trại trưởng như lần này.
Trời đã bắt đầu tối, chưa bao giờ tôi cảm thấy những cơn gió biển lạnh như vậy. Trong đầu óc lập đi lập lại: Đây là xe gạo cuối cùng!.. ngày mai sẽ không trở lại và không bao giờ trở lại! Ra khỏi trại tỵ nạn, màn đêm bao trùm chúng tôi và không một ai nói được lời nào. Trong tâm tư của mỗi người có một gia cảnh khác nhau, có những tâm trạng và những nỗi lo âu khác nhau. Đi được không bao xa, chúng tôi dừng lại bên lề quốc lộ số -1. Một bên là núi một bên là biển. Chúng tôi chia xẻ với nhau những gì nghe và thấy được. Tâm sự với nhau cho đến những điếu thuốc lá cuối cùng để rồi tạm biệt nhau. Bây giờ tôi cùng chung số phận với những người di tản buồn.
Đường về Sàigon thì quá xa, tất cả mọi phương tiện hầu như không còn. Tôi nghĩ đến gia đình cô Bắc kỳ nho nhỏ người bạn gái tôi yêu. Vì những chuyến bay Nha trang – Sàigòn đã bị gián đoạn và cắt đứt. Nên gia đình bạn gái tôi còn kẹt ở lại với bà mẹ, người chị cả và hai đứa cháu nhỏ. Trong đêm tối, tôi vội bước đến nhà người tôi yêu, nói qua tình thế biến động và hai ngày sau đó chúng tôi quyết định đi bộ theo đoàn người di tản về Sàigòn. Thấy bao nhiêu cảnh tượng kinh hoàng của chiến tranh, đôi tay có giới hạn, nhắm mắt mà bước đi. Có đêm ngủ nơi xứ đạo, có đêm ngủ dưới mái hiên chùa, những đêm ngủ bên lề quốc lộ… đến Phan-rí chúng tôi may mắn thuê đuợc ghe đánh cá về đến Long-Hải và ngày sau đó về đến Sàigòn. Tôi tạm chia tay với người yêu để về với gia đình.
Về Sàigòn được vài ngày tôi trình diện lại nhiệm sở. Tìm lại bạn hữu chỉ có một vài người vô đến Sàigòn. Mấy ngày cuối tháng 4-1975, biến động đột ngột căng thẳng. Sáng 30-4, tôi đi đến nhiệm sở từ sáng sớm, không khí ngợp ngạt mùi khói súng nhất là khi tôi cố vượt qua khu Thi Nghè đang dồn dập với những tiếng đạn pháo kích nổ vang rền. Cảnh tượng kinh hoàng với những đám khói mù mịt, cảnh những người bị thương than khóc kêu cứu ở trên đường. Tôi vội bỏ chiếc xe Honda để chạy qua cầu Thị Nghè về phía đài truyền hình và không bao lâu sau tôi đến nhiệm sở. Mọi người trầm lặng cho nhau những điếu thuốc lá và chờ nghe thông điệp của Tổng Thống VNCH qua máy phát thanh lúc 10 sáng (Tổng thống VNCH kêu gọi buông súng và bàn giao nhiệm sở).
10:30 sáng, mọi người ôm nhau trong nước mắt và bùi ngùi chia tay. Ra khỏi cổng trại, có người đi có người chạy. Đúng lúc này mọi người nhìn thấy chiếc xe thiết giáp T-54 đang ở trên đường và đang di chuyển ngược chiều với chúng tôi. Không hiểu vì lý do gì, tháp súng quay từ từ hướng về phiá những người đang hốt hoảng chạy bên đường? Phản ứng tự nhiên, mọi người chạy dồn lại núp phiá sau những cây me lớn ở bên đường và có người nằm xuống ngay bên lề đường. Tôi vội chạy ngay lại gốc cây me gần nhất nhưng cảm giác cho biết không an toàn, vì đã có quá nhiều người ẩn núp sau cây me. Mắt tôi vẫn nhìn theo chiếc xe thiếp giáp T-54, thấy rất gần và bất chợt thấy người lính tay súng AK-47 xuất hiện trên tháp súng. Tôi vội lăn và nằm xấp xuống đường lái xe (driveway) vô trước cổng trại (Vì di tản nên tôi mặc thường phục trong suốt những ngày ở Sàigòn).
Nhìn lên thấy chiếc xe T-54 di chuyển ngang qua trước mặt, và cảm giác đẫm ướt mồ hôi trên đầu, trên trán, mặt và cổ. Nhưng khi vuốt tay lên trán, rồi mặt, hai bàn tay tôi đẫm ướt máu. Đã bị thương!, cảm giác ướt đó không phải là mồ hôi. Bị thương ở đâu? Tôi vẫn nằm xấp và vội bấm những đầu ngón tay, vẫn còn cảm giác, tại sao không nghe tiếng súng nổ? Bị thương ở đâu?, và vẫn không có cảm giác đau? Thưa các bạn lúc đó tôi có cảm giác bình tĩnh một cách lạ thường. Mặt tôi ướt như tắm và cảm thấy sợ một mình vì đôi bàn tay đã đẫm ướt đỏ. Không biết tại sao tôi vẫn nằm xấp? và chỉ trong khoảng khắc ngắn ngủi tôi quay đầu lại nhìn về phía gốc cây me. Trước đó nhiều người lắm, bây giờ chung quanh đều vắng vẻ, Không tiếng súng nổ mà chỉ còn nghe tiếng dây xích của chiếc xe thiết giáp T-54 cọ xát ở trên đường. Nhìn về phía bờ tường, một người còn đứng bất động tôi vội nói: Tao còn sống, đó là người bạn hữu duy nhất còn đứng đó. Anh vội chạy lại khi nghe tiếng của tôi và chắc anh đã thấy rõ vết thương. Anh đến đỡ tôi ngồi dậy và nói: ngồi yên, mày bị thương ở sau đầu, máu nhiều lắm. Mày có đau không? Anh hỏi tôi. Lúc này mắt tôi bắt đầu mờ. Trên đường vật dụng, giầy vớ quân trang vất bỏ ngổn ngang. Anh vội nhặt những chiếc vớ nhà binh vất bên lề đường để làm băng cứu thương, cột lên đầu tôi cho máu bớt chảy. Anh dìu tôi đi từng đoạn đường, rồi để ngồi xuống. Lúc này trạng thái của tôi bắt đầu mệt với những cơn ói mửa, lưng dựa vào gốc cây và tôi nhận ra đối diện bên kia đường là Trung tâm Hội Việt Mỹ. Bỗng có tiếng gọi, cánh cổng sắt nhỏ mở ra và có người ngoắc chúng tôi vào. Đó là căn nhà mà tôi ngồi gần ở trước cửa. Có lẽ vì thương tâm và thấy những chiếc vớ băng ở trên đầu tôi ướt máu đỏ, nên ngay khi vô đến trong sân nhà, họ vội cắt ngay những chiếc vớ và băng lại bằng những lớp vải băng cứu thương. Tôi chỉ nghe nói: bị thương ở đầu đưa ngay vô nhà thương. Khi những chiếc vớ trên đầu được gỡ ra, tôi lại có những cảm giác đẫm ướt ở sau đầu. Tôi khẩn xin nước uống nhưng không được bao nhiêu, chỉ nghe những giọng nói : Đưa vô nhà thương ngay. Những tấm lòng bác ái thương người chỉ có thể làm được đến đây trong tình thế này là đã làm hết với tấm lòng của mình. Anh bạn lại dìu xốc tôi bước ra ngoài cánh cửa sắt và cảm giác miếng vải băng ở trên đầu tôi đã đẫm ướt đỏ.
Vì không sinh sống ở Sàigòn nên người bạn tôi không biết nhiều và có lẽ anh đã bình tĩnh hơn khi có người băng lại vết thương cho tôi. Anh hỏi nhỏ : nhà thương ở đâu? Tôi còn nhớ nói với anh: hỏi đường đi về ngã sáu, đường Lê văn Duyệt, với hy vọng tránh được đạn pháo kích và may có được người gíúp đỡ…. Không biết chuyện gì đã xẩy ra, giật mình anh đang vội kéo tôi ra khỏi chiếc xe đạp. Cả hai chúng tôi vừa té xe đạp!, chắc chắn anh đã có được chiếc xe đạp này ở bên đường từ lúc nào tôi không nhớ. Anh quá mệt hay tôi đã không còn đủ sức ôm lấy anh từ phía sau. Tôi có cảm giác ê-ẩm hết cả đầu nhưng không có đau nhức, và mắt nhìn rất là mờ. Chân tôi hầu như không còn cử động, cố gắng gượng lên cũng không được. Tâm trí có lúc thật là tỉnh nhưng có lúc chẳng biết gì. Tôi dựa vô tường nhà ở bên đường và nhìn thấy người ở chung quanh tôi rất là đông. Nhận ra đây là đường Lê Văn Duyệt và hai bên đường lúc này rất đông người đứng xem từng đoàn người võ trang với súng đạn đang đi bộ vô Sàigòn (MTGPMN).
Tiếng còi hụ của xe cứu thương mỗi lúc mỗi gần và chậm lại. Tôi chỉ thấy lờ mờ những người ở hai bên đường tụ họp rất đông và bao quanh chiếc xe. Với những tiếng nói chở họ đi, chở họ đi, không biết chở họ là ai?. Chiếc xe vẫn hụ còi và cố vượt qua. Bỗng nhiên hai cánh cửa sau xe mở tung ra, xe ngừng lại và tôi được nhiều người khiêng lên xe đặt nằm trên băng-ca, có những bàn tay đã nắm chặt lấy tay tôi trước khi cửa xe đóng lại. Xe bắt đầu chạy chỉ còn tôi, người bạn hữu duy nhất và người lái xe. Chợt thoáng tôi nhìn thấy hàng chữ lớn Thanh Vân, rạp chiếu bóng Thanh Vân. Tôi ra hiệu và nói nhỏ với người bạn, đường này đi: Bịnh Viện Vì Dân. Tôi thoáng nhớ vì lúc còn ở trong hướng đạo tôi đã đến Bịnh Viện Vì Dân. Hai người khiêng tôi vô để nằm dưới sàn nhà, chung quanh có rất nhiều người nằm và ngồi, vang dậy những tiếng than khóc. May mắn lúc này tôi ở trong trạng thái tỉnh, tuy mắt thì rất mờ, chân tay hầu như không cử động được. Chỉ có cảm giác ê-ẩm nặng ở trên đầu chứ không có cảm giác đau và ít lâu sau tôi nghe nói cho đi chiếu điện. Người bạn đặt tôi lên bàn chiếu điện, linh tính, tôi nói với anh hãy lấy cái bóp (ví) của tôi. Không có bao nhiêu tiền nhưng muốn anh hãy cầm để đi đường về với gia đình. Trước đó it ngày tôi có xin điạ chỉ của người yêu để viết thơ nếu tôi phải đi bổ xung đơn vị, mảnh giấy này còn ở trong cái bóp. Nên tôi nhờ anh cố gắng đến địa chỉ trong mảnh giấy và báo tin tôi đã bị thương. Đó là hy vọng cuối cùng của tôi.
Tôi đã mê nam bao lâu không nhớ. Chợt tỉnh lại vì tiếng rên la của người nằm sát bên cạnh. Cơ thể như bất động, một bên có người nằm còn bên kia tôi bị ép sát vô song sắt của thành giường. Trời tối không thấy gì hết.. ban đêm!…Tiếng kêu đau của người nằm bên cạnh làm tôi cũng cố gắng gọi người bạn tôi lúc này. Cất tiếng khó khăn không ra lời. Bỗng nhiên thấy có người đổ vô miệng tôi một muỗng nước. Anh đã tỉnh, anh có ai không? giọng nói của một phụ nữ. Tôi muốn nói nhưng miệng thì khô cứng lại, muốn xin thêm nước cũng không được. Cứ mỗi khi nghe tiếng than đau của người nằm bên cạnh thì sau đó tôi lại được một muỗng nước. Tôi tỉnh và nhớ lại lúc nằm ở trên bàn chiếu điện và nhờ anh bạn đi đến nhà của Linh, nguời tôi yêu.
Trời sáng từ bao giờ, người nằm bên cạnh tôi chắc đã đi về. Người phụ nữ đã cho tôi những muỗng nước cũng không còn. Nhìn lờ mờ, biết đây là căn phòng lớn có nhiều gường nằm. Tôi nắm chặt đôi bàn tay và cảm giác cánh tay tôi cử động rồi đến chân tôi di động được. Thấy có người bước đến, một người còn trẻ gìới thiệu là Bác sĩ. Anh chậm rãi đỡ tôi ngồi dậy và nói: nhà thương không còn nước biển để tiếp cho anh. Bác sĩ cho tôi hai viên thuốc và một tờ giấy nhỏ. Đưa ly nước anh nói tôi uống một viên, còn viên kia khi nào đau hãy uống và tờ giấy có ghi tên thuốc. Anh chính là người chiếu điện cho tôi bởi vì thấy tôi bị thương ở đầu. Anh nói tôi số may mắn và đưa coi tấm phim chụp. Tôi nhớ tấm phim chiếu điện rất nhỏ khoảng cỡ (2in x 2in). Tôi có thấy gì đâu, nên anh nói đầu đạn đã ghim sâu vô sau gáy của anh, rất là may mắn. Nhưng tình thế bây giờ không thể giải phẫu được và sương sọ có thể bị nức. Anh nói may mắn, với hy vọng phản ứng của cơ thể đầu đạn sẽ được đẩy ra từ từ. Anh cho biết sẽ bị những cơn đau đầu, máu chẩy nhiều nếu đầu đạn bị động và hy vọng tôi không bị nhiễm trùng. Anh nói tôi hãy cố gắng đi về với gia đình vì ở đây nhân viên y-tế và thuốc men đều thiếu không làm gì hơn được, nhiều người đã rời bịnh viện sáng nay. Tôi nhờ anh đỡ tôi ra khỏi gường và nếu có ai hỏi tên Long, đó là tôi. Ngồi tựa vô tường, khung cảnh im lặng chỉ còn ít người nằm trên gường. Nhìn thoáng lên đồng hồ treo trên tường tôi biết đã gần trưa. Tôi không thấy đói dù không có ăn gì suốt từ sáng hôm qua đến giờ. Trong đầu óc tôi lúc này chỉ có một hy vọng là cầu xin cho người bạn hữu tìm đến được điạ chỉ ghi trên mảnh giấy, hơặc gia đình đi tìm tôi.
Tôi bám vô tường để đi dần ra ngoài cửa, ngồì ở ngoài hành lang với sự mong chờ và hy vọng. Sự im lặng ngoài hành lang và khung cảnh vắng vẻ làm tôi bất chợt có những ý nghĩ thất vọng. Tôi cố gắng đi đến cuối hành lang để nghe và thấy được thêm hai bên. Ngồi lâu lắm có những bóng người qua lại nhưng mỗi khi đến gần, tất cả bỗng trở nên yên lặng đi qua. Mắt tôi nhìn không rõ cảnh vật chung quanh, có lẽ chẳng ai dám nhìn tôi vì vết băng trên đầu với những vết máu đọng trên mặt. Lại có người qua lại, tôi chỉ hy vọng có người hỏi để tôi xin được một chút nước uống. Nhưng những bóng người đi qua lại hoàn toàn im lặng, họ thấy tôi rõ hơn là tôi thấy họ. Sự thất vọng lại đến với tôi vì sức quá yếu và di chuyển lại khó khăn. Mắt tôi nhắm lại vì qúa mỏi, tôi cố ngồi dựa vô tường và chống hai tay cho vững để không bị gục xuống. Có lẽ vì quá mệt hay vì viên thuốc giảm đau làm tôi bất động. Nghe có tiếng chân qua lại rồi bỗng nhiên yên lặng. Bất chợt như có người đỡ tôi ngồi thẳng dậy và tôi nghe: Long!..Long!..Long! Linh đây… Giọng nói, tiếng gọi làm tôi bàng hoàng như mới thức tỉnh trong một cơn mê. Tôi mở mắt và xúc động khi nhìn thấy bóng dáng Linh người tôi yêu và người đứng bên cạnh là Mẹ của Linh…..người bạn hữu tôi đã đến được địa chỉ ghi trên mảnh giấy tối hôm trước báo tin và đã ra đi….
Ra khỏi bịnh viện, ngồi trên chiếc xe xích-lô máy, không khí ngoài trời làm tôi tỉnh hẳn lại biết đã quá 3 giờ chiều. Chiếc xe đi đến Ngã Ba Hàng Xanh không thể đi được nữa. Trên đường ngổn ngang với những quân trang, quân cụ, quân dụng của QĐVNCH. Chiếc xe không thể tiến hơn đuợc, Mẹ Linh và Linh đã phải dìu tôi trên quãng đường còn lại để về nhà của tôi …Gia đình tôi sẽ chờ qua đêm nay, nếu tôi không về thì ngày mai sẽ đi ra Long Hải. Bất ngờ trời vừa tối, cả nhà bàng hoàng khi thấy Mẹ của Linh và Linh dìu tôi vào nhà. Dự định đi ra Long Hải của Ba tôi phải đình hoãn lại một vài ngày và lần này cả hai gia đình cùng đi chung. Đến Long Hải, mẹ tôi và Linh đã cố gắng đi mua thêm những hộp thuốc giảm đau cho tôi, nhưng càng ngày càng khan hiếm. Tôi phải trốn ở trong nhà vì sợ bị lộ trong lúc này sẽ bất tiện cho mọi người. Như Bác sĩ đã nói, tôi đã bị chẩy máu nhiều lần vào ban đêm. Ba mẹ tôi nghĩ có thể tôi sẽ không qua được vì mất máu, nên Linh và những người em tôi luôn ở bên cạnh. Trong thời gian này bao nhiêu cảnh ..trăng sáng, trăng tối.. Ba tôi và người em bị bắt bỏ tù vì mua ghe vượt biên. Hai ngày sau ba tôi và người em được thả sau khi họ lấy ghe và hầu như mất tất cả. Đầy gian nan nguy hiểm, phần tôi càng ngày càng yếu vì mất máu, hai gia đình dự định về lại Sàigòn. May nắm, ba tôi lại quen được một người có ghe đánh cá rất nhỏ, tôi chỉ nhớ gọi máy ghe là máy (2-lốc?). Đã chuẩn bị trước, sáng sớm 11-5-1975, mọi người đi từng nhóm nhỏ từ từ xuống bến ghe. Riêng tôi phải đội chiếc nón lá cố gượng sức mà đi để tránh mọi sự để Ỷ, những đứa em tôi và Linh luôn đi gần để giúp đỡ. Mọi người chờ tôi tại bến ghe khá lâu vì tôi phải được đưa lên ghe trước. Ngay khi đến gần có hai người vội bỏ tôi vô thúng và đẩy đến ghe gần đó. Hai người thanh niên kéo tôi lên và để nằm ở giữa một bên là máy ghe và bên là thành ghe. Đó là một phòng rất nhỏ có mái che vừa đủ cho máy của ghe….
Những cơn gió lạnh và tiếng máy ghe sát bên, mùi nước biển với dầu cặn. Tiếng sóng biển bập bềnh đánh vô thành ghe, tôi mở mắt và không biết mình ngủ từ bao giờ. Nhìn về phiá cuối chân thấy thoáng mờ một bầu trời xanh. Thấy tôi mở mắt , Linh cho tôi một vài muỗng nước và tiếp cho tôi những sợi mì gói khô đã được bóp nhỏ. Ăn như vậy nhiều lần và cảm thấy khoẻ hơn. Tôi gắng ngồi dậy, bò ra phiá sau ghe. Nhờ gió biển và nước biển bắn lên tóe tung mỗi khi vượt sóng, tôi tỉnh hẳn lại, mắt nhìn thấy rõ dần và thấy phía trước ghe có rất nhiều người, Linh nói tổng cộng 42 người. Ba tôi, người em và anh tài công ngồi trên nóc phòng máy để điều khiển chiếc ghe. Linh và một vài đứa em của tôi cùng ngồi sau với tôi cho tới khi gặp được hai ghe đánh cá của ThaiLand bốn ngày sau.
May mắn được ghe đánh cá Thailand giúp đỡ và kéo ghe chúng tôi đến gần bờ, họ gỡ dây kéo và để chúng tôi tự đi vô. Đến gần lại được những chiếc ghe khác chỉ đến bên cạnh một công viên sát bờ. Khi đến gần công viên mọi người nhìn thấy dấu vẫy tay của những người trong công viên đang chạy ra và hô to: Việt nam!.. Việt nam!…. Chúng tôi lên bờ, đó là một công viên nhỏ ở gần bến ghe và không xa lắm là một căn cứ của Hải Quân Thailand. Tổng số người tỵ nạn bây giờ chưa đến 100 người và đây là trại Tỵ Nạn Songkhla trong những ngày đầu tiên. Qua hai ngày ở trong trại tôi cảm thấy khỏe hơn nhiều. Mắt tôi nhìn thấy rất rõ và những lớp băng ở trên đầu vẫn không dám gỡ ra vì những vết máu đã khô cứng. Có lẽ còn nhiều những vấn đề liên quan đến chính trị, nên giữa Hành Chánh dân sự cũng như căn cứ Hải Quân ThaiLand đều không muốn chịu trách nhiệm trực tiếp trại tỵ nạn trong lúc này. Mọi người ở trong công viên sống dưới những tấm vải, poncho mang đi từ Việt nam để làm lều, làm chòi che nắng che mưa, và những người dân Thái đem thức ăn vật dụng đến cho những người ở trong trại. Hai ngày sau những người Thái kéo ghe chúng tôi từ ngoài khơi trở lại. Họ đem đến cho chúng tôi những con cá lớn còn tươi và cho chúng tôi thêm những nhu yếu phẩm.
Trời gần sáng tôi chợt cảm giác như đang nằm trên một cái gối sũng ướt. Sự sợ hãi làm tôi choàng dậy, tay tôi lại ướt máu đỏ. Gia đình tôi lấy khăn quấn lên đầu và dìu tôi ra khỏi chỗ nằm để dựa vào gốc cây cho đến lúc trời sáng hẳn. Hai người lính Hải quân Thailand đến dìu tôi lên chiếc xe Jeep và không cho một người nào đi theo ra khỏi trại. Trong Ỷ nghĩ của mọi người là tôi sẽ được đưa vô nhà thương của Hải Quân ThaiLand để cấp cứu. Chiếc xe lái ra khỏi công viên rẽ đi một hướng khác xa căn cứ Hải Quân và đến nơi tôi đoán đây là một nhà thương nhỏ của Songkhla. Hai người dìu tôi vô trong, qua câu chuyện tôi chẳng hiểu gì! tay chỉ lên đầu của tôi và sau đó thấy có người đẩy chiếc xe lăn ra để tôi ngồi. Hai người lính Hải Quân ThaiLand bắt tay tôi tạm biệt! Người y-tá đẩy tôi vô trong một căn phòng nhỏ, chẳng biết phòng gì và giữa căn phòng là một bàn dài bằng gỗ. Thêm một người nữa bước vô đưa tôi ly nước và một viên thuốc. Sau đó hai người đỡ tôi nằm xấp lên bàn và cắt những miếng vải băng trên đầu. Tôi nắm chặt gồng cứng hai bàn tay vì họ đang cạo những mảng tóc cứng sau gáy của tôi. Có lẽ họ đã thấy được đầu đạn, tôi lại có những cảm giác đẫm ướt ở sau đầu, một người lấy tay đè lên còn người kia tôi thấy thoáng đi ra ngoài. Người y-tá trở lại với một người đàn ông, có lẽ là bác sĩ. Ông này xoay nhẹ đầu của tôi để sau đầu hướng thẳng lên trần nhà, một người y-tá giữ chặt hai chân còn người kia hai tay giữ đầu của tôi, lúc này hai bàn tay của tôi nắm ghì chặt vô hai cạnh bàn………(tôi gần như bị ngất cho đến lúc viên đạn được nậy lấy ra khỏi đầu)…. Y-tá đưa tôi vô nằm ở trong một phòng biệt lập và họ tiếp nước biển cho tôi. Qua đến chai thứ hai nhìn ra ngoài cửa thấy rất là tối, người tôi chợt có những cơn run lạnh lạ lùng không có mền để đắp, tôi kêu ú-ớ cũng chẳng có ai. Vì quá lạnh tôi rút mạnh cây kim tiếp nước biển ra khỏi cánh tay.
Mở mắt trời đã sáng, thấy cô y-tá đang đứng bên cạnh tay cầm cái kim và chỉ vào chai nước biển, tôi làm dấu hiệu chắc cô ta hiểu. Cô ta đi ra và trở lại với chiếc xe lăn, cô đỡ tôi ngồi xuống và đẩy qua căn phòng bên cạnh. Tại đây tôi được thay băng và mặt tôi được lau sạch những vết máu đọng. Ngoài cửa người lính hôm qua đã trở lại, anh đưa tôi ra chiếc xe Jeep đậu ở ngoài với người lái xe đang chờ. Nghe hai anh nói chuyện với nhau tôi cố gắng nhìn đường phố Songkhla. Thấy xe dừng sát lại trước cửa một tiệm ăn, hai anh đỡ tôi xuống xe và dìu tôi vô ngồi bàn ở phía bên trong. Tôi có được một ly café sữa nóng và một tô soup giống như phở, hai anh ra dấu cho tôi biết cứ ăn thong thả, có lẽ các anh biết tôi chưa ăn gì từ sáng ngày hôm qua đến giờ. Trở về trại, trong ánh mắt ân cần tôi bắt tay cám ơn hai anh, một người đưa vô bàn tay tôi một bao thuốc lá mới mua ở tiệm và vẫy tay chào. Tôi đưa tay chào như một người lính, hai anh đáp lại, cười và lái xe ra khỏi công viên.
Số người tỵ nạn trong công viên càng ngày càng đông, nhiều người phải ở ngay trên ghe. Ba tôi nói có lẽ mình lại phải đi vì được biết nhà cầm quyền Việt Nam muốn ThaiLand đóng cửa trại, và tất cả sẽ bị đưa về Việt Nam. Mọi người rất là hoang mang, đa số những gia đình quân nhân đều muốn rời Thailand. Từ lúc đầu đạn được lấy ra, tôi lại bị nhức đầu liên tục, mắt có lúc mờ và hay bị chóng mặt, những viên thuốc đau mang đi từ Việt nam uống đã gần hết. Linh và tôi tâm sự với nhau nhiều hơn, linh tính như có chuyện gì sắp xẩy đến cho hai đứa. Ở Songkhla đúng một tuần, vào một buổi chiều ba tôi và tôi ngồi nhìn ra biển. Ba tôi chậm rãi nói sáng sớm mai mình sẽ đi Singapore. Có tất cả sáu chiếc ghe và tổng cộng 200 người sẽ đi và một số người sẽ ở lại. Mấy ngày qua đã xin được nước uống, thực phẩm, dầu cặn của những người Thailand và Hải Quân. Cuộc hải trình này có thể kéo dài khoảng năm, sáu ngày. Ba tôi nói tiếp: trong sáu chiếc ghe, ghe mình đi vẫn là chiếc ghe nhỏ nhất và gia đình của Linh sẽ không đi…
Linh và tôi rất buồn, nhưng tôi hiểu vì hai bố mẹ gìa với hai người chị và ba đứa cháu còn quá nhỏ. Hải trình vượt biên mọi người đều mệt lả trên ghe và chưa hẳn cuộc hải trình này bảo đảm đến được nơi an toàn. Những chiếc ghe đã nổ máy, Linh xuống ghe với tôi từ sáng sớm để chia tay vĩnh biệt. Trong nước mắt biệt ly hầu như mọi người đều chia xẻ trong cảnh nỗi buồn của người tỵ nạn viễn xứ. Khi Linh bước lên bờ, tiếng còi hiệu của chiếc chiến hạm Hải Quân ThaiLand vang lên và những chiếc ghe theo sau để được dẫn ra khỏi vịnh Thailand. Ngoài khơi chiều hôm đó, còi hiệu lại vang lên nhiều lần và hải tốc của chiếc chiến hạm Hải Quân ThaiLand chậm hẳn lại, để sáu chiếc ghe treo cờ trắng SOS vượt qua, mọi người trên ghe đều vẫy tay để cám ơn những tấm lòng Bác Ái, thương tình cảnh của những người sau cuộc chiến…(trên biển Mã Lai đã bị những chiến đấu cơ bay sát trên đầu bắt dừng lại. Hài Quân Malaysia có trực thăng yểm trợ bao quanh đoàn ghe SOS. Sau những giờ nói chuyện họ đã cho đoàn ghe tiếp tục hài trình đến Singapore).
Năm ngày sau, trời gần tối xa xa có những ánh đèn lấp loé và trên ghe có tiếng nói: Singapore. Bỗng nhiên mắt tôi ướt và lại nghĩ đến Linh!… Đêm hôm đó sáu chiếc ghe phải thả neo và chung quanh là mấy chiếc Coast Guard của Singapore. Trong đêm họ kiểm soát ghe, đếm số người… cho nước uống… Sáng hôm sau, được biết trước đó vài ngày một chiếc tầu với khoảng 3000 người đã được tiếp tế thực phẩm và không được chấp nhận tỵ nạn tại Singapore. Trời càng sáng cảnh sáu chiếc ghe trông lại càng thảm thương trong hải cảng của Singapore. Bỗng có những tiếng reo, vỗ tay và nói Thủ Tướng LỶ Quang Diệu chấp nhận tỵ nạn. Đoàn ghe theo tầu hướng dẫn cập bến một đảo nhỏ và trên đảo nhìn tươi mát sạch sẽ với những hàng cây dừa xanh tươi, đối diện là hải cảng và thành phố Singapore. Đây là đảo St. Johns Island và đây là trại tỵ nạn Việt nam đầu tiên tại Singapore. Trên trại với những dẫy nhà tổ chức ngăn mắp như là một nhà thương đã có từ trước và được xịt thuốc mưỗi mỗi ngày. Sau này chúng tôi mới được biết đây là một trung tâm cai nghiện ma túy của Singapore. Trung tâm đóng cửa trước đó không lâu để chuẩn bị công trình xây cất Resort của Singapore. Những ngày trên đảo St. Johns Island tôi nhớ đến Linh rất nhiều. Có những chiều mưa buồn, tôi cảm thấy buồn hơn và biết đến bao giờ chúng tôi mới gặp lại nhau. Trong tay tôi mẫu tượng Đức Mẹ bằng dạ quang chỉ cao độ 2.5 in. mà Linh đã tặng tôi từ ngày hai đứa quen nhau. Mẫu tượng Đức Mẹ mà tôi đã mang theo trên khắp các nẻo đường. Và nay hình ảnh Mẹ Maria lại tỏa sáng ra trong đêm tối trên một hòn đảo nơi xứ lạ và tôi đã mãi xa người tôi yêu.
Tôi đến phòng Y tế để nói về vết thương trên đầu đang bị những cơn nhức đầu kịch liệt. Gặp được một anh ở cùng dẫy nhà, anh đã học đến năm thứ sáu tại Viện Y-Khoa Sàigòn. Sau khi nghe tôi nói anh đi gặp bác sĩ và tôi được đưa đến bệnh xá. Tóc ở phía sau đầu lại bị cạo, bác sĩ đã nhìn thấy vết thương. Theo như lời bác sĩ nói tôi cần phải cắt chỉ trong vòng một tháng và hy vọng tôi không bị nhiễm trùng, vì da đầu đã bị kéo nhúm lên như củ hành và được khâu thắt lại bằng chỉ..!.?.! Mỗi buổi sáng tôi phải đến bệnh xá để cắt từng mối chỉ một và cho đến lúc nhúm da này đứt hẳn. Trại tỵ nạn mỗi ngày một đông hơn, hầu như tất cả mọi dẫy nhà đều có người ở và được tin trại sẽ đóng cửa vào tháng 9-75. Một số đông gia đình đã đi Úc, Pháp. Gia đình tôi xin đi Úc, đơn xin bị bác bỏ luôn hai đợt xin tỵ nạn nhưng vẫn cố nuôi hy vọng. Giờ phút chót phái đoàn Mỹ đến trại phỏng vấn, trong trại còn dưới 100 gia đình đa số là quân nhân, tất cả được chấp nhận vô Mỹ. Cuối tháng 9-1975 gia đình tôi đến trại tỵ nạn Fort Chaffee, Arkansas.
Vài ngày sau, tôi xin gia nhập Red Cross để hướng dẫn những gia đình mới đến với hy vọng tìm lại Linh hoặc những người quen biết. Người nhập trại đến từ khắp nơi nhưng tôi chẳng quen biết ai. Hơn một tuần làm thiện nguyện ở Red Cross, những chuyến xe bus chở người tỵ nạn đến liên tục có lúc ngày lúc đêm. Ngày hôm đó sau những chuyến xe bus đến từ trưa, chúng tôi lại được thông báo sẽ có thêm những chuyến xe khác đến tối nay. Khoảng 10 giờ tối những chuyến xe bus đã tới, tôi vội chạy đến chiếc xe đầu tiên và hỏi từ đâu tới. Tôi nghe rõ có tiếng nói Songkhla, nhìn thoáng tôi không thấy có Linh và gia đình, ….
Tôi vội chạy đến chiếc xe bus kế tiếp và trong sự bàng hoàng của ánh mắt nhìn nhau, Linh và tôi đã gặp lại nhau!….
….Vài tuần sau đó nhà thờ Lutheran bảo trợ gia đình chúng tôi đi về thành phố Nebraska City, Nebraska, dân cư trên 5000 người, một thành phố nhỏ nằm cạnh dòng sông Missouri. Và gia đình của Linh được nhà thờ Baptist bảo trợ đi về St-Louis, Missouri.
Tháng 1-1976, ba mẹ chúng tôi nói chuyện với Mục sư nhà thờ Lutheran để chúng tôi làm đám cưói và xin làm phép cưới tại nhà thờ công giáo. Mục sư nhà thờ Lutheran rất là vui vẻ và đã tìm cho tôi một nhà thờ Baptist ở ngay Nebraska City, Nebraska, để bảo trợ giúp đỡ riêng cho tôi và Linh. Cả ba nhà thờ: Lutheran Church, Baptist Church và Mary Catholic Church đều chuẩn bị ngày lễ cưới cho chúng tôi. Cám ơn Thiên Chúa và Mẹ Maria, đã cho hai đứa tôi một ngày đẹp trời nắng ấm trong mùa Đông.
Ngày 7 tháng 2 năm 1976, trong thánh lễ ngày cưới tại Mary Catholic Church Nebraska City, với sự đồng tế của Mục sư Lutheran, Linh Mục và Mục Sư Baptist.
Sau ngày cưới có những buổi tiệc trà do nhà thờ tổ chức để chúc mừng một gia đình tỵ nạn mới. Để cám ơn những tấm lòng nhân ái, tôi mượn một cây đàn thùng đệm đàn cho Linh hát những nhạc phẩm của Lê Uyên & Phương, Trịnh Công Sơn, qua lời giới thiệu và dẫn giải của người em tôi. Mùa Giáng Sinh tha phương họp mặt 1976, tại Fremont, Nebraska, Linh và tôi cùng chia xẻ những nỗi buồn, những nỗi nhớ thương gia đình cách biệt ly tán của các anh chị em bạn hữu, Linh đã hát hai bản nhạc Tình nghệ sĩ và Lệ đá mà tôi đã được nghe Linh (Hoàng Yến) hát từ Giáng Sinh năm đó.
Date: Saturday, April 18, 2009, 5:57 AM
Thân gởi các Bạn:
Hai ngày nay nơi tôi ở đang có những cơn bão và sáng hôm nay trời rất là ảm đạm. Tôi cảm thấy áy-náy và hơi buồn trong lòng vì bài khúc quanh cuộc đời của tôi viết và đăng trong tháng Tư này. Nếu bài này có làm bạn nào buồn hoặc bất bình tôi thành thật xin lỗi các bạn. Bởi vì đó chỉ là một ký ức ngắn ngủi trong cuộc đời đã đi qua, để đến bây giờ nhận biết mình được may mắn hơn bao nhiêu những người khác.
Cám ơn tất cả các bạn đã đọc và chia sẻ. Cám ơn bác ĐK Hưng, NYC ”Giờ này anh ở đâu”, bác Hạnh bật mí hai bản nhạc tôi thâu lại năm (2001) làm kỷ niệm khi cháu lớn của tôi hát tặng chúng tôi A-25 năm (2001). Chính cháu vào năm 17 tuổi đã hỏi bà ngoại trước khi mất về: Thuyền nhân Việt Nam? Tại sao có nhiều người Việt Nam ở Mỹ? Bố mẹ cháu gặp nhau ở đâu?. Để không còn bí mật xin gởi cho các bác nghe gà (con) nhà hát.
Chúng tôi chưa về Việt Nam nhưng chắc chắn rằng sẽ về một ngày rất gần vì Quê Hương và Bạn Bè vẫn còn đó. Thân chúc tất cả các bạn và gia đình luôn được An-Bình và Hạnh-Phúc.
Cám Ơn Các Bạn,
[ame]http://www.esnips.com/doc/63bda198-9f9b-47a2-806c-826ae0799603/Un-piano-sur-la-mer[/ame]
Mùa hè 1972, tôi rời mái trường và biết mình sẽ không bao giờ trở lại. Từ buổi đó, những kỷ niệm với bạn bè và sân trường đã in sâu trong ký ức như tự bao giờ. Ra Nha Trang một thời gian với cuộc đời đổi thay và không bao lâu sau đó, những tin vui khi nghe có bạn được tuyển đi huấn luyện phi công ở Mỹ, nhưng cũng có tin buồn khi nghe bạn mình đã bị thương. Có lẽ vì vậy mà tôi có cảm tưởng như là đã xa mái trường lâu lắm rồi.
Bước vào đời tôi bỗng nhiên trở thành thầm lặng, để hòa mình với cuộc sống mới, với những người chung quanh. Có một kỷ niệm và cũng là một niềm vui trong đời lính, xin được chia xẻ với các bạn. Đó là bất chợt có người hỏi tôi học ở trường nào?. Câu hỏi này luôn làm tôi phải khựng lại trong giây phút! vì trong đầu óc lúc đó tôi lại có một câu hỏi: Hỏi để làm gì? Nhưng mỗi khi có dịp đọc lại tên trường Lasan Taberd, bỗng nhiên tôi được trở lại với mái trường trong khoảng khắc. Có lẽ tên trường đã tạo được những sự thân thiện hơn từ bạn hữu, hội đoàn và những người chung quanh.
Các bạn còn nhớ trong thời gian 1970-1975, dù còn dưới mái trường hay đã xa sân trường. Nhạc Phượng Hoàng có lẽ vẫn là một gạch nối liên kết tuổi trẻ chúng mình như là: Tôi muốn, Cười lên đi em ơi, Hãy ngước mặt nhìn đời, Hãy nhìn xuống chân…và trong những sinh hoạt cộng đồng: Sinh Viên Học Sinh, Hướng Đạo, Gia đình Phật Tử với những bái hát : Việt nam quê hương ngạo nghễ, Về với mẹ cha, Đường Việt nam, Nối vòng tay lớn, Hy vọng, Gia tài của mẹ, Đến với quê hương tôi… Trong mùa Giáng sinh 1972, xa Sàigòn, xa gia đình và bạn bè. Đêm văn nghệ Giáng sinh năm đó trong khung cảnh sao trời với sóng biển, được nghe hai bản nhạc Tình nghệ sĩ và Lệ đá từ một giọng hát mới lạ, đã làm tôi cảm nhận thấy mình bỗng gìa hơn, dạn dĩ hơn với cuộc sống thực tại.
Thế rồi tình hình biến động tháng 3-1975, tình thế trở nên căng thẳng, miền Trung nặng mùi khói súng. Dọc quốc lộ số-1 từ Nha Trang đến Thị xã Cam Ranh, bỗng trở thành Đại lộ di tản với những trại tỵ nạn cho đoàn người di tản từ miền Trung. Người càng ngày càng đông, mọi người cùng một tâm trạng. Không cửa không nhà, màn trời chiếu đất. Vì nhu cầu khẩn trương, tôi được giao trách nhiệm đi gíúp những trại tỵ nạn. Thấy những em nhỏ nằm ngủ co quắt dưới mái hiên trường, dưới gốc cây, làm tôi nhớ lại cảnh sau Tết Mậu Thân 1968. Năm đó trong bộ đồng phục Hướng Đạo Lasan Taberd, một số anh em tụ họp nhau để đi cứu trợ ở những trường học. Đầu tháng 4-1975, tình thế trở nên căng thẳng hơn. Những chuyến xe đò từ Sàigòn ra Nha Trang, Nha Trang – Sàigòn, bỗng nhiên vắng hẳn. Thay vào đó là những đoàn người di tản mỗi ngày một đông hơn, đủ mọi thành phần, tay bồng tay bế với mọi phương tiện di chuyển trên quốc lộ số-1 đi về hướng Nam. Khoảng 6 giờ chiều một ngày đầu tháng 4-1975. Khi đang phụ giúp để phân phối gạo cho những gia đình di tản trong trại tỵ nạn, được tin từ bạn hữu chúng tôi bàn giao cho người trại trưởng chiếc xe GMC vẫn còn đầy những bao gạo mới tiếp nhận. Chúng tôi phải cố gắng hết sức để tránh gây ra những sự hoang mang, khủng hoảng và xáo trộn. Vì chưa bao giờ chúng tôi chuyển giao nhu yếu phẩm cho trại trưởng như lần này.
Trời đã bắt đầu tối, chưa bao giờ tôi cảm thấy những cơn gió biển lạnh như vậy. Trong đầu óc lập đi lập lại: Đây là xe gạo cuối cùng!.. ngày mai sẽ không trở lại và không bao giờ trở lại! Ra khỏi trại tỵ nạn, màn đêm bao trùm chúng tôi và không một ai nói được lời nào. Trong tâm tư của mỗi người có một gia cảnh khác nhau, có những tâm trạng và những nỗi lo âu khác nhau. Đi được không bao xa, chúng tôi dừng lại bên lề quốc lộ số -1. Một bên là núi một bên là biển. Chúng tôi chia xẻ với nhau những gì nghe và thấy được. Tâm sự với nhau cho đến những điếu thuốc lá cuối cùng để rồi tạm biệt nhau. Bây giờ tôi cùng chung số phận với những người di tản buồn.
Đường về Sàigon thì quá xa, tất cả mọi phương tiện hầu như không còn. Tôi nghĩ đến gia đình cô Bắc kỳ nho nhỏ người bạn gái tôi yêu. Vì những chuyến bay Nha trang – Sàigòn đã bị gián đoạn và cắt đứt. Nên gia đình bạn gái tôi còn kẹt ở lại với bà mẹ, người chị cả và hai đứa cháu nhỏ. Trong đêm tối, tôi vội bước đến nhà người tôi yêu, nói qua tình thế biến động và hai ngày sau đó chúng tôi quyết định đi bộ theo đoàn người di tản về Sàigòn. Thấy bao nhiêu cảnh tượng kinh hoàng của chiến tranh, đôi tay có giới hạn, nhắm mắt mà bước đi. Có đêm ngủ nơi xứ đạo, có đêm ngủ dưới mái hiên chùa, những đêm ngủ bên lề quốc lộ… đến Phan-rí chúng tôi may mắn thuê đuợc ghe đánh cá về đến Long-Hải và ngày sau đó về đến Sàigòn. Tôi tạm chia tay với người yêu để về với gia đình.
Về Sàigòn được vài ngày tôi trình diện lại nhiệm sở. Tìm lại bạn hữu chỉ có một vài người vô đến Sàigòn. Mấy ngày cuối tháng 4-1975, biến động đột ngột căng thẳng. Sáng 30-4, tôi đi đến nhiệm sở từ sáng sớm, không khí ngợp ngạt mùi khói súng nhất là khi tôi cố vượt qua khu Thi Nghè đang dồn dập với những tiếng đạn pháo kích nổ vang rền. Cảnh tượng kinh hoàng với những đám khói mù mịt, cảnh những người bị thương than khóc kêu cứu ở trên đường. Tôi vội bỏ chiếc xe Honda để chạy qua cầu Thị Nghè về phía đài truyền hình và không bao lâu sau tôi đến nhiệm sở. Mọi người trầm lặng cho nhau những điếu thuốc lá và chờ nghe thông điệp của Tổng Thống VNCH qua máy phát thanh lúc 10 sáng (Tổng thống VNCH kêu gọi buông súng và bàn giao nhiệm sở).
10:30 sáng, mọi người ôm nhau trong nước mắt và bùi ngùi chia tay. Ra khỏi cổng trại, có người đi có người chạy. Đúng lúc này mọi người nhìn thấy chiếc xe thiết giáp T-54 đang ở trên đường và đang di chuyển ngược chiều với chúng tôi. Không hiểu vì lý do gì, tháp súng quay từ từ hướng về phiá những người đang hốt hoảng chạy bên đường? Phản ứng tự nhiên, mọi người chạy dồn lại núp phiá sau những cây me lớn ở bên đường và có người nằm xuống ngay bên lề đường. Tôi vội chạy ngay lại gốc cây me gần nhất nhưng cảm giác cho biết không an toàn, vì đã có quá nhiều người ẩn núp sau cây me. Mắt tôi vẫn nhìn theo chiếc xe thiếp giáp T-54, thấy rất gần và bất chợt thấy người lính tay súng AK-47 xuất hiện trên tháp súng. Tôi vội lăn và nằm xấp xuống đường lái xe (driveway) vô trước cổng trại (Vì di tản nên tôi mặc thường phục trong suốt những ngày ở Sàigòn).
Nhìn lên thấy chiếc xe T-54 di chuyển ngang qua trước mặt, và cảm giác đẫm ướt mồ hôi trên đầu, trên trán, mặt và cổ. Nhưng khi vuốt tay lên trán, rồi mặt, hai bàn tay tôi đẫm ướt máu. Đã bị thương!, cảm giác ướt đó không phải là mồ hôi. Bị thương ở đâu? Tôi vẫn nằm xấp và vội bấm những đầu ngón tay, vẫn còn cảm giác, tại sao không nghe tiếng súng nổ? Bị thương ở đâu?, và vẫn không có cảm giác đau? Thưa các bạn lúc đó tôi có cảm giác bình tĩnh một cách lạ thường. Mặt tôi ướt như tắm và cảm thấy sợ một mình vì đôi bàn tay đã đẫm ướt đỏ. Không biết tại sao tôi vẫn nằm xấp? và chỉ trong khoảng khắc ngắn ngủi tôi quay đầu lại nhìn về phía gốc cây me. Trước đó nhiều người lắm, bây giờ chung quanh đều vắng vẻ, Không tiếng súng nổ mà chỉ còn nghe tiếng dây xích của chiếc xe thiết giáp T-54 cọ xát ở trên đường. Nhìn về phía bờ tường, một người còn đứng bất động tôi vội nói: Tao còn sống, đó là người bạn hữu duy nhất còn đứng đó. Anh vội chạy lại khi nghe tiếng của tôi và chắc anh đã thấy rõ vết thương. Anh đến đỡ tôi ngồi dậy và nói: ngồi yên, mày bị thương ở sau đầu, máu nhiều lắm. Mày có đau không? Anh hỏi tôi. Lúc này mắt tôi bắt đầu mờ. Trên đường vật dụng, giầy vớ quân trang vất bỏ ngổn ngang. Anh vội nhặt những chiếc vớ nhà binh vất bên lề đường để làm băng cứu thương, cột lên đầu tôi cho máu bớt chảy. Anh dìu tôi đi từng đoạn đường, rồi để ngồi xuống. Lúc này trạng thái của tôi bắt đầu mệt với những cơn ói mửa, lưng dựa vào gốc cây và tôi nhận ra đối diện bên kia đường là Trung tâm Hội Việt Mỹ. Bỗng có tiếng gọi, cánh cổng sắt nhỏ mở ra và có người ngoắc chúng tôi vào. Đó là căn nhà mà tôi ngồi gần ở trước cửa. Có lẽ vì thương tâm và thấy những chiếc vớ băng ở trên đầu tôi ướt máu đỏ, nên ngay khi vô đến trong sân nhà, họ vội cắt ngay những chiếc vớ và băng lại bằng những lớp vải băng cứu thương. Tôi chỉ nghe nói: bị thương ở đầu đưa ngay vô nhà thương. Khi những chiếc vớ trên đầu được gỡ ra, tôi lại có những cảm giác đẫm ướt ở sau đầu. Tôi khẩn xin nước uống nhưng không được bao nhiêu, chỉ nghe những giọng nói : Đưa vô nhà thương ngay. Những tấm lòng bác ái thương người chỉ có thể làm được đến đây trong tình thế này là đã làm hết với tấm lòng của mình. Anh bạn lại dìu xốc tôi bước ra ngoài cánh cửa sắt và cảm giác miếng vải băng ở trên đầu tôi đã đẫm ướt đỏ.
Vì không sinh sống ở Sàigòn nên người bạn tôi không biết nhiều và có lẽ anh đã bình tĩnh hơn khi có người băng lại vết thương cho tôi. Anh hỏi nhỏ : nhà thương ở đâu? Tôi còn nhớ nói với anh: hỏi đường đi về ngã sáu, đường Lê văn Duyệt, với hy vọng tránh được đạn pháo kích và may có được người gíúp đỡ…. Không biết chuyện gì đã xẩy ra, giật mình anh đang vội kéo tôi ra khỏi chiếc xe đạp. Cả hai chúng tôi vừa té xe đạp!, chắc chắn anh đã có được chiếc xe đạp này ở bên đường từ lúc nào tôi không nhớ. Anh quá mệt hay tôi đã không còn đủ sức ôm lấy anh từ phía sau. Tôi có cảm giác ê-ẩm hết cả đầu nhưng không có đau nhức, và mắt nhìn rất là mờ. Chân tôi hầu như không còn cử động, cố gắng gượng lên cũng không được. Tâm trí có lúc thật là tỉnh nhưng có lúc chẳng biết gì. Tôi dựa vô tường nhà ở bên đường và nhìn thấy người ở chung quanh tôi rất là đông. Nhận ra đây là đường Lê Văn Duyệt và hai bên đường lúc này rất đông người đứng xem từng đoàn người võ trang với súng đạn đang đi bộ vô Sàigòn (MTGPMN).
Tiếng còi hụ của xe cứu thương mỗi lúc mỗi gần và chậm lại. Tôi chỉ thấy lờ mờ những người ở hai bên đường tụ họp rất đông và bao quanh chiếc xe. Với những tiếng nói chở họ đi, chở họ đi, không biết chở họ là ai?. Chiếc xe vẫn hụ còi và cố vượt qua. Bỗng nhiên hai cánh cửa sau xe mở tung ra, xe ngừng lại và tôi được nhiều người khiêng lên xe đặt nằm trên băng-ca, có những bàn tay đã nắm chặt lấy tay tôi trước khi cửa xe đóng lại. Xe bắt đầu chạy chỉ còn tôi, người bạn hữu duy nhất và người lái xe. Chợt thoáng tôi nhìn thấy hàng chữ lớn Thanh Vân, rạp chiếu bóng Thanh Vân. Tôi ra hiệu và nói nhỏ với người bạn, đường này đi: Bịnh Viện Vì Dân. Tôi thoáng nhớ vì lúc còn ở trong hướng đạo tôi đã đến Bịnh Viện Vì Dân. Hai người khiêng tôi vô để nằm dưới sàn nhà, chung quanh có rất nhiều người nằm và ngồi, vang dậy những tiếng than khóc. May mắn lúc này tôi ở trong trạng thái tỉnh, tuy mắt thì rất mờ, chân tay hầu như không cử động được. Chỉ có cảm giác ê-ẩm nặng ở trên đầu chứ không có cảm giác đau và ít lâu sau tôi nghe nói cho đi chiếu điện. Người bạn đặt tôi lên bàn chiếu điện, linh tính, tôi nói với anh hãy lấy cái bóp (ví) của tôi. Không có bao nhiêu tiền nhưng muốn anh hãy cầm để đi đường về với gia đình. Trước đó it ngày tôi có xin điạ chỉ của người yêu để viết thơ nếu tôi phải đi bổ xung đơn vị, mảnh giấy này còn ở trong cái bóp. Nên tôi nhờ anh cố gắng đến địa chỉ trong mảnh giấy và báo tin tôi đã bị thương. Đó là hy vọng cuối cùng của tôi.
Tôi đã mê nam bao lâu không nhớ. Chợt tỉnh lại vì tiếng rên la của người nằm sát bên cạnh. Cơ thể như bất động, một bên có người nằm còn bên kia tôi bị ép sát vô song sắt của thành giường. Trời tối không thấy gì hết.. ban đêm!…Tiếng kêu đau của người nằm bên cạnh làm tôi cũng cố gắng gọi người bạn tôi lúc này. Cất tiếng khó khăn không ra lời. Bỗng nhiên thấy có người đổ vô miệng tôi một muỗng nước. Anh đã tỉnh, anh có ai không? giọng nói của một phụ nữ. Tôi muốn nói nhưng miệng thì khô cứng lại, muốn xin thêm nước cũng không được. Cứ mỗi khi nghe tiếng than đau của người nằm bên cạnh thì sau đó tôi lại được một muỗng nước. Tôi tỉnh và nhớ lại lúc nằm ở trên bàn chiếu điện và nhờ anh bạn đi đến nhà của Linh, nguời tôi yêu.
Trời sáng từ bao giờ, người nằm bên cạnh tôi chắc đã đi về. Người phụ nữ đã cho tôi những muỗng nước cũng không còn. Nhìn lờ mờ, biết đây là căn phòng lớn có nhiều gường nằm. Tôi nắm chặt đôi bàn tay và cảm giác cánh tay tôi cử động rồi đến chân tôi di động được. Thấy có người bước đến, một người còn trẻ gìới thiệu là Bác sĩ. Anh chậm rãi đỡ tôi ngồi dậy và nói: nhà thương không còn nước biển để tiếp cho anh. Bác sĩ cho tôi hai viên thuốc và một tờ giấy nhỏ. Đưa ly nước anh nói tôi uống một viên, còn viên kia khi nào đau hãy uống và tờ giấy có ghi tên thuốc. Anh chính là người chiếu điện cho tôi bởi vì thấy tôi bị thương ở đầu. Anh nói tôi số may mắn và đưa coi tấm phim chụp. Tôi nhớ tấm phim chiếu điện rất nhỏ khoảng cỡ (2in x 2in). Tôi có thấy gì đâu, nên anh nói đầu đạn đã ghim sâu vô sau gáy của anh, rất là may mắn. Nhưng tình thế bây giờ không thể giải phẫu được và sương sọ có thể bị nức. Anh nói may mắn, với hy vọng phản ứng của cơ thể đầu đạn sẽ được đẩy ra từ từ. Anh cho biết sẽ bị những cơn đau đầu, máu chẩy nhiều nếu đầu đạn bị động và hy vọng tôi không bị nhiễm trùng. Anh nói tôi hãy cố gắng đi về với gia đình vì ở đây nhân viên y-tế và thuốc men đều thiếu không làm gì hơn được, nhiều người đã rời bịnh viện sáng nay. Tôi nhờ anh đỡ tôi ra khỏi gường và nếu có ai hỏi tên Long, đó là tôi. Ngồi tựa vô tường, khung cảnh im lặng chỉ còn ít người nằm trên gường. Nhìn thoáng lên đồng hồ treo trên tường tôi biết đã gần trưa. Tôi không thấy đói dù không có ăn gì suốt từ sáng hôm qua đến giờ. Trong đầu óc tôi lúc này chỉ có một hy vọng là cầu xin cho người bạn hữu tìm đến được điạ chỉ ghi trên mảnh giấy, hơặc gia đình đi tìm tôi.
Tôi bám vô tường để đi dần ra ngoài cửa, ngồì ở ngoài hành lang với sự mong chờ và hy vọng. Sự im lặng ngoài hành lang và khung cảnh vắng vẻ làm tôi bất chợt có những ý nghĩ thất vọng. Tôi cố gắng đi đến cuối hành lang để nghe và thấy được thêm hai bên. Ngồi lâu lắm có những bóng người qua lại nhưng mỗi khi đến gần, tất cả bỗng trở nên yên lặng đi qua. Mắt tôi nhìn không rõ cảnh vật chung quanh, có lẽ chẳng ai dám nhìn tôi vì vết băng trên đầu với những vết máu đọng trên mặt. Lại có người qua lại, tôi chỉ hy vọng có người hỏi để tôi xin được một chút nước uống. Nhưng những bóng người đi qua lại hoàn toàn im lặng, họ thấy tôi rõ hơn là tôi thấy họ. Sự thất vọng lại đến với tôi vì sức quá yếu và di chuyển lại khó khăn. Mắt tôi nhắm lại vì qúa mỏi, tôi cố ngồi dựa vô tường và chống hai tay cho vững để không bị gục xuống. Có lẽ vì quá mệt hay vì viên thuốc giảm đau làm tôi bất động. Nghe có tiếng chân qua lại rồi bỗng nhiên yên lặng. Bất chợt như có người đỡ tôi ngồi thẳng dậy và tôi nghe: Long!..Long!..Long! Linh đây… Giọng nói, tiếng gọi làm tôi bàng hoàng như mới thức tỉnh trong một cơn mê. Tôi mở mắt và xúc động khi nhìn thấy bóng dáng Linh người tôi yêu và người đứng bên cạnh là Mẹ của Linh…..người bạn hữu tôi đã đến được địa chỉ ghi trên mảnh giấy tối hôm trước báo tin và đã ra đi….
Ra khỏi bịnh viện, ngồi trên chiếc xe xích-lô máy, không khí ngoài trời làm tôi tỉnh hẳn lại biết đã quá 3 giờ chiều. Chiếc xe đi đến Ngã Ba Hàng Xanh không thể đi được nữa. Trên đường ngổn ngang với những quân trang, quân cụ, quân dụng của QĐVNCH. Chiếc xe không thể tiến hơn đuợc, Mẹ Linh và Linh đã phải dìu tôi trên quãng đường còn lại để về nhà của tôi …Gia đình tôi sẽ chờ qua đêm nay, nếu tôi không về thì ngày mai sẽ đi ra Long Hải. Bất ngờ trời vừa tối, cả nhà bàng hoàng khi thấy Mẹ của Linh và Linh dìu tôi vào nhà. Dự định đi ra Long Hải của Ba tôi phải đình hoãn lại một vài ngày và lần này cả hai gia đình cùng đi chung. Đến Long Hải, mẹ tôi và Linh đã cố gắng đi mua thêm những hộp thuốc giảm đau cho tôi, nhưng càng ngày càng khan hiếm. Tôi phải trốn ở trong nhà vì sợ bị lộ trong lúc này sẽ bất tiện cho mọi người. Như Bác sĩ đã nói, tôi đã bị chẩy máu nhiều lần vào ban đêm. Ba mẹ tôi nghĩ có thể tôi sẽ không qua được vì mất máu, nên Linh và những người em tôi luôn ở bên cạnh. Trong thời gian này bao nhiêu cảnh ..trăng sáng, trăng tối.. Ba tôi và người em bị bắt bỏ tù vì mua ghe vượt biên. Hai ngày sau ba tôi và người em được thả sau khi họ lấy ghe và hầu như mất tất cả. Đầy gian nan nguy hiểm, phần tôi càng ngày càng yếu vì mất máu, hai gia đình dự định về lại Sàigòn. May nắm, ba tôi lại quen được một người có ghe đánh cá rất nhỏ, tôi chỉ nhớ gọi máy ghe là máy (2-lốc?). Đã chuẩn bị trước, sáng sớm 11-5-1975, mọi người đi từng nhóm nhỏ từ từ xuống bến ghe. Riêng tôi phải đội chiếc nón lá cố gượng sức mà đi để tránh mọi sự để Ỷ, những đứa em tôi và Linh luôn đi gần để giúp đỡ. Mọi người chờ tôi tại bến ghe khá lâu vì tôi phải được đưa lên ghe trước. Ngay khi đến gần có hai người vội bỏ tôi vô thúng và đẩy đến ghe gần đó. Hai người thanh niên kéo tôi lên và để nằm ở giữa một bên là máy ghe và bên là thành ghe. Đó là một phòng rất nhỏ có mái che vừa đủ cho máy của ghe….
Những cơn gió lạnh và tiếng máy ghe sát bên, mùi nước biển với dầu cặn. Tiếng sóng biển bập bềnh đánh vô thành ghe, tôi mở mắt và không biết mình ngủ từ bao giờ. Nhìn về phiá cuối chân thấy thoáng mờ một bầu trời xanh. Thấy tôi mở mắt , Linh cho tôi một vài muỗng nước và tiếp cho tôi những sợi mì gói khô đã được bóp nhỏ. Ăn như vậy nhiều lần và cảm thấy khoẻ hơn. Tôi gắng ngồi dậy, bò ra phiá sau ghe. Nhờ gió biển và nước biển bắn lên tóe tung mỗi khi vượt sóng, tôi tỉnh hẳn lại, mắt nhìn thấy rõ dần và thấy phía trước ghe có rất nhiều người, Linh nói tổng cộng 42 người. Ba tôi, người em và anh tài công ngồi trên nóc phòng máy để điều khiển chiếc ghe. Linh và một vài đứa em của tôi cùng ngồi sau với tôi cho tới khi gặp được hai ghe đánh cá của ThaiLand bốn ngày sau.
May mắn được ghe đánh cá Thailand giúp đỡ và kéo ghe chúng tôi đến gần bờ, họ gỡ dây kéo và để chúng tôi tự đi vô. Đến gần lại được những chiếc ghe khác chỉ đến bên cạnh một công viên sát bờ. Khi đến gần công viên mọi người nhìn thấy dấu vẫy tay của những người trong công viên đang chạy ra và hô to: Việt nam!.. Việt nam!…. Chúng tôi lên bờ, đó là một công viên nhỏ ở gần bến ghe và không xa lắm là một căn cứ của Hải Quân Thailand. Tổng số người tỵ nạn bây giờ chưa đến 100 người và đây là trại Tỵ Nạn Songkhla trong những ngày đầu tiên. Qua hai ngày ở trong trại tôi cảm thấy khỏe hơn nhiều. Mắt tôi nhìn thấy rất rõ và những lớp băng ở trên đầu vẫn không dám gỡ ra vì những vết máu đã khô cứng. Có lẽ còn nhiều những vấn đề liên quan đến chính trị, nên giữa Hành Chánh dân sự cũng như căn cứ Hải Quân ThaiLand đều không muốn chịu trách nhiệm trực tiếp trại tỵ nạn trong lúc này. Mọi người ở trong công viên sống dưới những tấm vải, poncho mang đi từ Việt nam để làm lều, làm chòi che nắng che mưa, và những người dân Thái đem thức ăn vật dụng đến cho những người ở trong trại. Hai ngày sau những người Thái kéo ghe chúng tôi từ ngoài khơi trở lại. Họ đem đến cho chúng tôi những con cá lớn còn tươi và cho chúng tôi thêm những nhu yếu phẩm.
Trời gần sáng tôi chợt cảm giác như đang nằm trên một cái gối sũng ướt. Sự sợ hãi làm tôi choàng dậy, tay tôi lại ướt máu đỏ. Gia đình tôi lấy khăn quấn lên đầu và dìu tôi ra khỏi chỗ nằm để dựa vào gốc cây cho đến lúc trời sáng hẳn. Hai người lính Hải quân Thailand đến dìu tôi lên chiếc xe Jeep và không cho một người nào đi theo ra khỏi trại. Trong Ỷ nghĩ của mọi người là tôi sẽ được đưa vô nhà thương của Hải Quân ThaiLand để cấp cứu. Chiếc xe lái ra khỏi công viên rẽ đi một hướng khác xa căn cứ Hải Quân và đến nơi tôi đoán đây là một nhà thương nhỏ của Songkhla. Hai người dìu tôi vô trong, qua câu chuyện tôi chẳng hiểu gì! tay chỉ lên đầu của tôi và sau đó thấy có người đẩy chiếc xe lăn ra để tôi ngồi. Hai người lính Hải Quân ThaiLand bắt tay tôi tạm biệt! Người y-tá đẩy tôi vô trong một căn phòng nhỏ, chẳng biết phòng gì và giữa căn phòng là một bàn dài bằng gỗ. Thêm một người nữa bước vô đưa tôi ly nước và một viên thuốc. Sau đó hai người đỡ tôi nằm xấp lên bàn và cắt những miếng vải băng trên đầu. Tôi nắm chặt gồng cứng hai bàn tay vì họ đang cạo những mảng tóc cứng sau gáy của tôi. Có lẽ họ đã thấy được đầu đạn, tôi lại có những cảm giác đẫm ướt ở sau đầu, một người lấy tay đè lên còn người kia tôi thấy thoáng đi ra ngoài. Người y-tá trở lại với một người đàn ông, có lẽ là bác sĩ. Ông này xoay nhẹ đầu của tôi để sau đầu hướng thẳng lên trần nhà, một người y-tá giữ chặt hai chân còn người kia hai tay giữ đầu của tôi, lúc này hai bàn tay của tôi nắm ghì chặt vô hai cạnh bàn………(tôi gần như bị ngất cho đến lúc viên đạn được nậy lấy ra khỏi đầu)…. Y-tá đưa tôi vô nằm ở trong một phòng biệt lập và họ tiếp nước biển cho tôi. Qua đến chai thứ hai nhìn ra ngoài cửa thấy rất là tối, người tôi chợt có những cơn run lạnh lạ lùng không có mền để đắp, tôi kêu ú-ớ cũng chẳng có ai. Vì quá lạnh tôi rút mạnh cây kim tiếp nước biển ra khỏi cánh tay.
Mở mắt trời đã sáng, thấy cô y-tá đang đứng bên cạnh tay cầm cái kim và chỉ vào chai nước biển, tôi làm dấu hiệu chắc cô ta hiểu. Cô ta đi ra và trở lại với chiếc xe lăn, cô đỡ tôi ngồi xuống và đẩy qua căn phòng bên cạnh. Tại đây tôi được thay băng và mặt tôi được lau sạch những vết máu đọng. Ngoài cửa người lính hôm qua đã trở lại, anh đưa tôi ra chiếc xe Jeep đậu ở ngoài với người lái xe đang chờ. Nghe hai anh nói chuyện với nhau tôi cố gắng nhìn đường phố Songkhla. Thấy xe dừng sát lại trước cửa một tiệm ăn, hai anh đỡ tôi xuống xe và dìu tôi vô ngồi bàn ở phía bên trong. Tôi có được một ly café sữa nóng và một tô soup giống như phở, hai anh ra dấu cho tôi biết cứ ăn thong thả, có lẽ các anh biết tôi chưa ăn gì từ sáng ngày hôm qua đến giờ. Trở về trại, trong ánh mắt ân cần tôi bắt tay cám ơn hai anh, một người đưa vô bàn tay tôi một bao thuốc lá mới mua ở tiệm và vẫy tay chào. Tôi đưa tay chào như một người lính, hai anh đáp lại, cười và lái xe ra khỏi công viên.
Số người tỵ nạn trong công viên càng ngày càng đông, nhiều người phải ở ngay trên ghe. Ba tôi nói có lẽ mình lại phải đi vì được biết nhà cầm quyền Việt Nam muốn ThaiLand đóng cửa trại, và tất cả sẽ bị đưa về Việt Nam. Mọi người rất là hoang mang, đa số những gia đình quân nhân đều muốn rời Thailand. Từ lúc đầu đạn được lấy ra, tôi lại bị nhức đầu liên tục, mắt có lúc mờ và hay bị chóng mặt, những viên thuốc đau mang đi từ Việt nam uống đã gần hết. Linh và tôi tâm sự với nhau nhiều hơn, linh tính như có chuyện gì sắp xẩy đến cho hai đứa. Ở Songkhla đúng một tuần, vào một buổi chiều ba tôi và tôi ngồi nhìn ra biển. Ba tôi chậm rãi nói sáng sớm mai mình sẽ đi Singapore. Có tất cả sáu chiếc ghe và tổng cộng 200 người sẽ đi và một số người sẽ ở lại. Mấy ngày qua đã xin được nước uống, thực phẩm, dầu cặn của những người Thailand và Hải Quân. Cuộc hải trình này có thể kéo dài khoảng năm, sáu ngày. Ba tôi nói tiếp: trong sáu chiếc ghe, ghe mình đi vẫn là chiếc ghe nhỏ nhất và gia đình của Linh sẽ không đi…
Linh và tôi rất buồn, nhưng tôi hiểu vì hai bố mẹ gìa với hai người chị và ba đứa cháu còn quá nhỏ. Hải trình vượt biên mọi người đều mệt lả trên ghe và chưa hẳn cuộc hải trình này bảo đảm đến được nơi an toàn. Những chiếc ghe đã nổ máy, Linh xuống ghe với tôi từ sáng sớm để chia tay vĩnh biệt. Trong nước mắt biệt ly hầu như mọi người đều chia xẻ trong cảnh nỗi buồn của người tỵ nạn viễn xứ. Khi Linh bước lên bờ, tiếng còi hiệu của chiếc chiến hạm Hải Quân ThaiLand vang lên và những chiếc ghe theo sau để được dẫn ra khỏi vịnh Thailand. Ngoài khơi chiều hôm đó, còi hiệu lại vang lên nhiều lần và hải tốc của chiếc chiến hạm Hải Quân ThaiLand chậm hẳn lại, để sáu chiếc ghe treo cờ trắng SOS vượt qua, mọi người trên ghe đều vẫy tay để cám ơn những tấm lòng Bác Ái, thương tình cảnh của những người sau cuộc chiến…(trên biển Mã Lai đã bị những chiến đấu cơ bay sát trên đầu bắt dừng lại. Hài Quân Malaysia có trực thăng yểm trợ bao quanh đoàn ghe SOS. Sau những giờ nói chuyện họ đã cho đoàn ghe tiếp tục hài trình đến Singapore).
Năm ngày sau, trời gần tối xa xa có những ánh đèn lấp loé và trên ghe có tiếng nói: Singapore. Bỗng nhiên mắt tôi ướt và lại nghĩ đến Linh!… Đêm hôm đó sáu chiếc ghe phải thả neo và chung quanh là mấy chiếc Coast Guard của Singapore. Trong đêm họ kiểm soát ghe, đếm số người… cho nước uống… Sáng hôm sau, được biết trước đó vài ngày một chiếc tầu với khoảng 3000 người đã được tiếp tế thực phẩm và không được chấp nhận tỵ nạn tại Singapore. Trời càng sáng cảnh sáu chiếc ghe trông lại càng thảm thương trong hải cảng của Singapore. Bỗng có những tiếng reo, vỗ tay và nói Thủ Tướng LỶ Quang Diệu chấp nhận tỵ nạn. Đoàn ghe theo tầu hướng dẫn cập bến một đảo nhỏ và trên đảo nhìn tươi mát sạch sẽ với những hàng cây dừa xanh tươi, đối diện là hải cảng và thành phố Singapore. Đây là đảo St. Johns Island và đây là trại tỵ nạn Việt nam đầu tiên tại Singapore. Trên trại với những dẫy nhà tổ chức ngăn mắp như là một nhà thương đã có từ trước và được xịt thuốc mưỗi mỗi ngày. Sau này chúng tôi mới được biết đây là một trung tâm cai nghiện ma túy của Singapore. Trung tâm đóng cửa trước đó không lâu để chuẩn bị công trình xây cất Resort của Singapore. Những ngày trên đảo St. Johns Island tôi nhớ đến Linh rất nhiều. Có những chiều mưa buồn, tôi cảm thấy buồn hơn và biết đến bao giờ chúng tôi mới gặp lại nhau. Trong tay tôi mẫu tượng Đức Mẹ bằng dạ quang chỉ cao độ 2.5 in. mà Linh đã tặng tôi từ ngày hai đứa quen nhau. Mẫu tượng Đức Mẹ mà tôi đã mang theo trên khắp các nẻo đường. Và nay hình ảnh Mẹ Maria lại tỏa sáng ra trong đêm tối trên một hòn đảo nơi xứ lạ và tôi đã mãi xa người tôi yêu.
Tôi đến phòng Y tế để nói về vết thương trên đầu đang bị những cơn nhức đầu kịch liệt. Gặp được một anh ở cùng dẫy nhà, anh đã học đến năm thứ sáu tại Viện Y-Khoa Sàigòn. Sau khi nghe tôi nói anh đi gặp bác sĩ và tôi được đưa đến bệnh xá. Tóc ở phía sau đầu lại bị cạo, bác sĩ đã nhìn thấy vết thương. Theo như lời bác sĩ nói tôi cần phải cắt chỉ trong vòng một tháng và hy vọng tôi không bị nhiễm trùng, vì da đầu đã bị kéo nhúm lên như củ hành và được khâu thắt lại bằng chỉ..!.?.! Mỗi buổi sáng tôi phải đến bệnh xá để cắt từng mối chỉ một và cho đến lúc nhúm da này đứt hẳn. Trại tỵ nạn mỗi ngày một đông hơn, hầu như tất cả mọi dẫy nhà đều có người ở và được tin trại sẽ đóng cửa vào tháng 9-75. Một số đông gia đình đã đi Úc, Pháp. Gia đình tôi xin đi Úc, đơn xin bị bác bỏ luôn hai đợt xin tỵ nạn nhưng vẫn cố nuôi hy vọng. Giờ phút chót phái đoàn Mỹ đến trại phỏng vấn, trong trại còn dưới 100 gia đình đa số là quân nhân, tất cả được chấp nhận vô Mỹ. Cuối tháng 9-1975 gia đình tôi đến trại tỵ nạn Fort Chaffee, Arkansas.
Vài ngày sau, tôi xin gia nhập Red Cross để hướng dẫn những gia đình mới đến với hy vọng tìm lại Linh hoặc những người quen biết. Người nhập trại đến từ khắp nơi nhưng tôi chẳng quen biết ai. Hơn một tuần làm thiện nguyện ở Red Cross, những chuyến xe bus chở người tỵ nạn đến liên tục có lúc ngày lúc đêm. Ngày hôm đó sau những chuyến xe bus đến từ trưa, chúng tôi lại được thông báo sẽ có thêm những chuyến xe khác đến tối nay. Khoảng 10 giờ tối những chuyến xe bus đã tới, tôi vội chạy đến chiếc xe đầu tiên và hỏi từ đâu tới. Tôi nghe rõ có tiếng nói Songkhla, nhìn thoáng tôi không thấy có Linh và gia đình, ….
Tôi vội chạy đến chiếc xe bus kế tiếp và trong sự bàng hoàng của ánh mắt nhìn nhau, Linh và tôi đã gặp lại nhau!….
….Vài tuần sau đó nhà thờ Lutheran bảo trợ gia đình chúng tôi đi về thành phố Nebraska City, Nebraska, dân cư trên 5000 người, một thành phố nhỏ nằm cạnh dòng sông Missouri. Và gia đình của Linh được nhà thờ Baptist bảo trợ đi về St-Louis, Missouri.
Tháng 1-1976, ba mẹ chúng tôi nói chuyện với Mục sư nhà thờ Lutheran để chúng tôi làm đám cưói và xin làm phép cưới tại nhà thờ công giáo. Mục sư nhà thờ Lutheran rất là vui vẻ và đã tìm cho tôi một nhà thờ Baptist ở ngay Nebraska City, Nebraska, để bảo trợ giúp đỡ riêng cho tôi và Linh. Cả ba nhà thờ: Lutheran Church, Baptist Church và Mary Catholic Church đều chuẩn bị ngày lễ cưới cho chúng tôi. Cám ơn Thiên Chúa và Mẹ Maria, đã cho hai đứa tôi một ngày đẹp trời nắng ấm trong mùa Đông.
Ngày 7 tháng 2 năm 1976, trong thánh lễ ngày cưới tại Mary Catholic Church Nebraska City, với sự đồng tế của Mục sư Lutheran, Linh Mục và Mục Sư Baptist.
Sau ngày cưới có những buổi tiệc trà do nhà thờ tổ chức để chúc mừng một gia đình tỵ nạn mới. Để cám ơn những tấm lòng nhân ái, tôi mượn một cây đàn thùng đệm đàn cho Linh hát những nhạc phẩm của Lê Uyên & Phương, Trịnh Công Sơn, qua lời giới thiệu và dẫn giải của người em tôi. Mùa Giáng Sinh tha phương họp mặt 1976, tại Fremont, Nebraska, Linh và tôi cùng chia xẻ những nỗi buồn, những nỗi nhớ thương gia đình cách biệt ly tán của các anh chị em bạn hữu, Linh đã hát hai bản nhạc Tình nghệ sĩ và Lệ đá mà tôi đã được nghe Linh (Hoàng Yến) hát từ Giáng Sinh năm đó.