
Một bệ miếu thờ cổ kính nằm ở ngay khu vực đã xảy ra thảm án Lệ Chi Viên
NGHI ÁN LỆ CHI VIÊN
Văn Bá
Năm 1980, UNESCO làm lễ truy niệm 600 năm sinh nhật của Nguyễn Trãi một danh nhân Việt Nam. Học giả uyên thâm, yêu nước chân thành, tận tụy với quốc dân, ông lại là nhà mưu lược đại tài, nhà ngoại giao lỗi lạc, nhà văn ưu tú, tiên phong dùng chữ nôm để làm thơ. Ông được đứng chung với các vĩ nhân thế giới từng tranh đấu cho nòi gíông, hòa bình và nhân loại.
Bị tru di tam tộc oan ức vì âm mưu thâm độc của gian thần, ông đựơc tẩy oan 22 năm sau, và hậu thế tôn thờ ông như một bực công thần.
Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi (1380-1442) sinh năm 1380 ở Thăng Long tại nhà ông ngoại là quan tư đồ Trần Nguyên Đán.
Thân Sinh Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long, gốc làng Nhị Khê tỉnh Hà Đông, thời nho sinh nổi tiếng văn hay chữ tốt, được quan tư đồ Trần Nguyên Đán mời dạy cho trưởng nữ Trần Thị Thái. Ứng Long dan díu với Thái, Thái có mang. Ứng Long sợ bỏ trốn. Trần Nguyên Đán gọi về tha tội và gả con cho. Sau Ứng Long đỗ Bảng Nhãn (1374) nhưng vì lỗi xưa thượng hoàng Trần Nghệ Tông không bổ quan, phải về Nhị Khê sống nghề dạy học.
Lên năm tuổi Nguyễn Trãi theo ông ngoại hưu trí về Côn Sơn, được ông chăm nom dạy dỗ. Năm năm sau ông ngoại qua đời Nguyễn Trãi về với cha tại làng Nhị Khê để tiếp tục kinh sử cùng ba em trai.
Lúc bấy giờ cơ nghiệp nhà Trần xiêu đổ. Năm 1400 Phụ Chính Lê Quí Ly truất phế vua Trần Thiếu Đế, mới ba tuổi, rồi tự xưng làm vua, niên hiệu là Hồ Quí Ly.
Khi nhà Hồ mở khoa thi Thái Học Sinh đầu tiên, Nguyễn Trãi vừa đúng hai mươi tuổi thi đỗ, được bổ chức chánh chưởng đài ngự sử. Năm 1402 Ứng Long đổi tên là Phi Khanh được nhà Hồ phong chức Hàn Lâm Học Sĩ.
Năm 1407 quân Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ, để xâm chiếm Viêt Nam.
Hồ Quí Ly bị thua. Cuối tháng sáu năm 1407 giặc Minh bắt được cha con Hồ Quí Ly và một số quan tướng trong đó có Phi Khanh, cha Nguyễn Trãi giải về Kim Lăng.
Nguyễn Trãi theo cha đến biên giới Việt Hoa, rồi tuân lời cha trở về nước lo trả thù nhà rửa nhục nước.
Năm 1417 Lê Lợi khởi nghiã, Nguyễn Trãi cùng em họ là Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn xin gia nhâp đoàn giải phóng.
Trần Nguyên Hãn dâng kiếm báu của nội tổ Trần Quang Khải, Nguyễn Trãi dâng « Bình Ngô sách ». Chủ trương đánh vào lòng người. Lê Lợi khen hay, dùng Nguyễn Trãi làm Hàn Lâm thừa chỉ lo việc thảo văn thư, chiếu hịch, tham dự bộ tham mưu và dùng Trần Nguyên Hãn làm quan võ.
Năm 1428, kháng chiến toàn thắng Nguyễn Trãi được phong tước Quan Phục Hầu, Trần Nguyên Hãn được thăng tả tướng.
Nhưng rồi đến lúc chim đã hết thì cung nỏ bỏ đi, muôn thú không còn thì chó săn bị ăn thịt, giặc tan hết thì công thần cũng chết.
Trần Nguyên Hãn bị vua Lê Lợi ra lịnh tự tử, ông nhảy xuống sông mà thác. Nguyễn Trãi bị giam một thời gian rồi được tha ra, về Côn Sơn ẩn dật.
Năm 1433, Lê Lợi mất, Lê Thái Tông lên nối ngôi lúc mới 11 tuổi. Nguyễn Trãi được gọi ra làm phụ chính, nhưng ít lâu nhận thấy nịnh thần gièm xiểm, triều đình rối loạn, ông trở về Côn Sơn.
Trong khi Nguyễn Trãi về Côn Sơn, Thị Lộ nàng hầu của Nguyễn Trãi, người rất am tường kinh sử, được phong « Lễ nghi Học sĩ », lưu lại tại kinh thành để dạy cung nữ và giảng sách cho vua, được vua ngày đêm kề cận tin dùng.
Năm 1442, vua Lê Thái Tông, vừa đúng 20 tuổi, đi duyệt binh ở Chí Linh, có Thị Lộ theo hầu. Lúc về nghỉ đêm ở trại vải gần Côn Sơn. Nửa đêm, nhà vua băng hà một cách đột ngột. Thị Lộ bị cáo là đã giết vua, bị án tử hình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc.
Từ xưa các nhà sử học đều cho là vua Lê Thái Tông vì quá ái ân với Thị Lộ tại Lệ Chi Viên từ trần vì «Thượng mã phong». Lúc bấy giờ nhà vua mới đúng hai mươi tuổi, Thị Lộ ba mươi.
Chứng « thượng mã phong » chết trên bụng người phụ nữ trong lúc làm tình, do nhiều cảm xúc gây ra bởi người phụ nữ quá đẹp, quá trẻ, mới lạ. Giây thần kinh giao cảm của người đàn ông xúc động quá sức, tim đập quá mạnh quá nhanh, rồi bị liệt ngừng đập.
Thị Lộ theo hầu vua Lê Thái Tông từ lúc vua mới mười một tuổi, giảng sách cho vua, và có lẽ là người đầu tiên chỉ dẫn nhà vua làm tình.
Tại Lệ Chi Viên lúc bấy giờ Thị Lộ chẳng còn mới lạ gì đối với vua Lê Thái Tông. Bà đã quá thì, không còn cái đẹp mơn mởn đào tơ của thiếu nữ đôi tám xuân xanh. Nhà vua dầu ái ân suốt đêm với Thị Lộ, chứng « thưọng mã phong » không thể xảy ra được.
***
Chúng ta hãy xem lại việc nầy từ đầu.
Vua Lê Thái Tông có người vợ đầu tiên là Dương Thị Bi, được phong Hoàng Hậu, sanh ra hoàng tử Nghi Dân được giữ ngôi Đông Cung thái tử. Ít lâu sau Dương Thị Bi và Nghi Dân bị truất phế.
Người vợ thứ nhì của Lê Thái Tông là Nguyễn Thị Anh, được phong Hoàng Hậu và đứa con bà, Hoàng tử Bang Cơ được lập Đông Cung thái tử. Cùng lúc ấy thứ phi Ngô Thị Ngọc Dao con thái úy Ngô Từ có thai. Điều sai lầm lớn của bà là khoe khắp nơi chiêm bao thấy Ngọc Hoàng sai một vị tiên xuống đầu thai vào bụng mình.
Lẽ dĩ nhiên Thị Anh sợ rằng một khi bà Ngọc Dao sanh quí tử sẽ chiếm ngôi thái tử của Bang Cơ, nên vu Ngọc Dao ngoại tình và dùng bùa ngải mê hoặc vua. Nguyễn Trãi, Thị Lộ đem Ngọc Dao giấu ở chùa Huy Vân. Vài tháng sau Ngọc Dao sanh ra một trai đặt tên là Tư Thành (vua Lê Thánh Tông sau nầy).
Để tránh khỏi Thị Anh mưu hại, Nguyễn Trãi, Thị Lộ đưa hai mẹ con bà Ngọc Dao ra An Bang (Quảng Ninh). Từ đấy Thị Anh thâm thù Nguyễn Trãi, Thị Lộ.
Thị Anh là người nhiều tham vọng, muốn đặt con mình là thái tử Bang Cơ lên ngôi Hoàng Thượng, sớm chừng nào hay chừng ấy, và bà sẽ nắm quyền nhiếp chánh. Ngôi Hoàng Hậu và thái tử rất mong manh. Nếu nhà vua gặp người thứ phi nào đẹp và khôn khéo hơn bà, thì bà sẽ bị truất phế như Dương Thị Bi, và luôn cả thái tử Bang Cơ.
Tham vọng và hiểm sâu như Thị Anh thì không hành động sát nhân nào mà bà từ thoái. Muốn đạt mục đích thì vua Lê Thái Tông phải bị hy sinh. Bà mượn tay hai thái giám hầu cận ám sát vua và sau đó bà cho thủ tiêu hai thái giám. Thế là ổn.
Về truyền thuyết rắn báo oán bà Thị Anh đã tìm ra được mưu thâm quỉ quyệt. Bắt Thị Lộ đóng cũi giải về kinh. Về đến nơi mở cũi ra chỉ thấy con rắn mãng xà. Vậy thì tiền thân Thị Lộ là mãng xà tinh. Thế là đủ bằng chứng rồi.
Giả thuyết nầy chúng tôi được đọc trong bài báo của bác sĩ Dương Tấn Tươi đăng trong tuần báo « Mới », xuất bản tại Saigon khoảng năm 1952.
Từ trước đến giờ các văn gia khi viết về Nguyễn Trãi, Thị Lộ, đều cho rằng Thị Lộ bị tra tấn cực kỳ dã man đã thú nhận hết tội lỗ. Với mưu mô thâm dôc của Thị Anh, thì chứng cớ đã rõ ràng, cần chi phải tra tấn.
Thảm kịch Nguyễn Trãi-Thị Lộ chúng tôi đã viết lại trong vở Lệ chi viên nghi án.
.
Comment