• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

THÁNG TƯ MIÊN MAN TÙY BÚT

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • THÁNG TƯ MIÊN MAN TÙY BÚT

    .


    THÁNG TƯ MIÊN MAN TÙY BÚT

    Vũ Ngọc Tiến

    Giờ đã là giữa tháng 4/2010, sắp đến ngày tròn 35 năm đất nước thống nhất từ đỉnh cổng trời Hà Giang đến đất mũi Cà Mau. Cái giá phải trả cho sự kiện này không nhỏ: 1,1 triệu liệt sĩ, trong đó 500 ngàn người có mộ được quy tập đủ danh tính, 300 ngàn người phải chịu nằm dưới mộ vô danh và 300 ngàn người vẫn chưa tìm thấy hài cốt.

    Ở phía bên kia cuộc chiến, các con số tương đồng cũng đâu có thua kém và họ cũng là con dân nước Việt cả thôi!

    Là người viết văn, nhưng có thói quen điều tra xã hội học, ghi chép lại làm lưng vốn cho ngòi bút của mình nên trong đầu tôi miên man ám ảnh bởi những con số, trôi ra thành câu chữ trăn trở trên mặt giấy giữa tháng tư lịch sử này…

    Ba mươi lăm năm sau cuộc chiến, nếu tôi chen số "0" vào giữa sẽ là 305 ngàn ha rừng đầu nguồn ở 10 tỉnh biên giới đã được mấy ông quan đầu tỉnh tùy tiện cho nước ngoài thuê 50 năm mà giá thuê 1m2/năm chỉ đủ mua vài cọng rau muống thôi ư?

    Điều đáng để tôi trăn trở âu lo là trong đó có 240 ngàn ha rừng được cho các chủ doanh nghiệp nói tiếng Hoa, quốc tịch Trung Quốc, Đài loan, Malaysia "thuê đất trồng rừng" ở những vùng biên giới nhạy cảm!

    Tôi đã thử điều tra một dự án của họ ở mấy xã thuộc huyện Tràng Định- Lạng Sơn, chợt giật mình vì hình như nếu tôi không nhớ lầm thì gần 40 năm trước mình đã từng thăm dò quặng bauxite bằng phương pháp địa vật lý. Hay như một dự án trồng rừng khác ở Hà Giang, tôi ngờ rằng trong phạm vi mấy xã đó có những điểm triển vọng vàng sa khoáng.
    Nói đến rừng đầu nguồn, tôi lại liên tưởng đến vấn nạn xuất hiện tràn lan, vô tổ chức các công trình thủy điện vừa và nhỏ, không chỉ dẫn đến nguy cơ tàn phá rừng, hủy hoại môi sinh, xả lũ vô tội vạ ở Quảng Nam, Quảng Ngãi năm ngoái mà còn chiếm mất diện tích canh tác tốt nhất của đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc.
    Điều tra quanh thị trấn du lịch, nghỉ dưỡng Sa Pa, trong bán kính 30 km có tới 17 dự án thủy điện nhỏ? Ai cũng biết, địa điểm thiết kế lòng hồ thủy điện nhỏ lý tưởng là thung lũng giữa núi, đó cũng là nơi có ruộng trồng lúa vốn rất hiếm hoi của người Dao, Mông, Thái, Tày, Nùng…ở Tây bắc, Việt Bắc. Họ mất rừng, mất ruộng nên lũ lượt tha hương làm dân di cư tự do vào các tỉnh Tây Nguyên, bỗng chốc họ từ nạn nhân trở thành thủ phạm phá rừng vì buộc phải đốt rẫy làm nương ở nơi đất mới. Cái vòng luẩn quẩn phá rừng kia bao giờ chấm dứt? Câu hỏi này tôi đã từng đặt ra trong lọat 5 bài viết về Tam Nông trên báo Văn Nghệ Trẻ, nhân hội nghị Trung ương 7, khóa X họp vào giữa năm 2007, vẫn rơi vào im lặng.


    Tháng tư năm nay cũng vừa tròn 45 năm chiến thắng Hàm Rồng (3/4/1965- 3/4/2010). Không ai có thể phủ nhận đây là chiến thắng vĩ đại, oanh liệt nhất trong năm đầu tiên của cuộc chiến tranh đất đối không vô cùng ác liệt. Chỉ trong 2 ngày, trung đoàn pháo binh 228 đã cùng dân quân các làng Yên Vực, Nam Ngạn, Đông Sơn đã kiên cường bám trụ, bắn hạ 87 máy bay phản lực Mỹ, giữ được cây cầu Hàm Rồng nguyên vẹn. Tôi đã 2 lần đi làm phim về trận đánh này (2005 và 2010) nên hiểu rõ mất mát hy sinh ở đây suốt những năm chiến tranh cũng rất lớn.
    Trên diện tích khoảng 1 cây số vuông quanh của khu vực Hàm Rồng, người Mỹ đã trút xuống 20 vạn tấn bom, 8.000 người đã chết, 13.000 người bị thương vong.

    Những con số ám ảnh tâm thức, xui khiến tôi năm 2005 đã cất công đi tìm nhân chứng lịch sử- ông Nguyễn Văn Bê, một trong số 13.000 người bị thương bên cây cầu Hàm Rồng. Ông Bê quê ở xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, nhưng vào lúc tôi đi tìm, ông đang cuốc đất thuê cho chủ trang trại trồng dứa ở ngoại vi thị xã Bỉm Sơn. Ông bị thương trong trận đánh ngày 3/4/1965. Một mảnh bom đã găm qua mũ sắt, chui vào đỉnh đầu, đến nay chỗ bị thương vẫn còn phập phồng mảng da đầu. Sau khi ra viện, xuất ngũ vài năm thì vết thương trên đầu mới tái phát, biến ông Bê thành người ngu ngơ, biết gì về các thủ tục vốn đã khá phiền phức để hưởng tiêu chuẩn thương binh.
    Tính đến thời điểm 2005 là vừa tròn 40 năm ông không hề được hưởng tiền trợ cấp. Trớ trêu ở chỗ chiếc mũ sắt có vết thủng trên đỉnh đầu của ông lại cũng được người ta đem trưng bày ở nhà Bảo tàng cách mạng tỉnh Thanh suốt 40 năm ấy, còn người thủng đầu, nghe thiên hạ đồn: "Ông muốn có sổ trợ cấp phải làm thủ tục "đầu tiên", không có thì nghỉ cho khỏe!" Chẳng biết 5 năm qua, sau lần gặp tôi, ông sống ra sao, đã được cấp sổ hay chết rồi vẫn còn ôm mối hận?

    Ngẫu nhiên tháng tư dương lịch hàng năm thường trùng hợp với dịp tết "Hàn thực" vào mồng 3 tháng 3 âm lịch. Người ta ăn đồ nguội như bánh trôi, bánh chay làm từ đêm trước để ngày tết không phải dùng đến ngọn lửa oan nghiệt từng thiêu đốt mẹ con Giới Tử Thôi thời chiến quốc. Trùng Nhĩ sau khi lên ngôi vua đã vô ơn, bạc đãi và hắt hủi các công thần khiến ông phải cõng mẹ trốn vào rừng ở ẩn. Vua sai người gọi không được bèn nghe lời nịnh thần, cho đốt rừng tất ông phải ra, nhưng ông cùng mẹ thà chết cháy chứ không chịu quay về nhìn mặt lũ bất nhân. Bởi thế, tết "Hàn thực" năm nay, ăn đĩa bánh trôi tôi lại nhớ tích xưa, ngậm ngùi thương ông Nguyễn Văn Bê, miên man suy ngẫm sự đời những năm hậu chiến.

    Có những con số người vô tâm thoạt nghe thấy dửng dưng, nhưng tôi thì không thể.

    Tài liệu thống kê gần đây cho tôi biết, 35 năm sau cuộc chiến, Việt Nam ta có:
    3,2 triệu người định cư ở gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ;
    500.000 người đi làm thuê ở 40 quốc gia;
    250.000 người đi lấy chồng nước ngoài, chủ yếu ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia;
    30.000 du học sinh ở châu Âu, châu Úc và Bắc Mỹ…
    Trong số 3,2 triệu người Việt định cư ở hải ngoại hiện nay, số ra đi trước ngày 30/4/1975, kể cả số di cư từ thời thuộc Pháp chỉ khoảng 1 triệu, số còn lại hơn 2 triệu người chủ yếu rời bỏ đất nước từ nửa cuối thập niên 70 và cả thập niên 80 của thế kỷ trước.

    Thế hệ chúng tôi "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, sao những người được chúng tôi giải phóng lại ào ào bỏ nước mà đi đông đến vậy?

    Đất nước qua 24 năm đổi mới, ta vẫn tự hào về tốc độ tăng trưởng ngọan mục trong 12 năm liền (1996- 2007). Thế nhưng chất lượng tăng trưởng thì sao? Cánh kéo phân hóa giàu nghèo giãn ra tới mức chỉ một nhúm người đi xe triệu đô, cưỡi máy bay riêng, ngủ biệt thự sang trọng, trong khi có nửa triệu người đi làm thuê kiếm sống ở xứ người và 250 ngàn cô gái hơ hớ tuổi xuân phải lấy chồng ngoại để có tiền cứu đói hay trả nợ cho gia đình.

    Trong cộng đồng 3,2 triệu người Việt hải ngoại, tôi biết có khoảng 300 ngàn chuyên gia cấp đại học và trên đại học, phần lớn đều tha thiết mong có cơ hội phụng sự Tổ quốc. Đó là nguồn nhân lực tuyệt vời cho công cuộc phát triển, sao các nhà quản lý trong nước lại ghẻ lạnh, hờ hững với họ?

    Tôi có thời gian làm Thư ký tòa sọan cho tạp chí Thế giới vi tính (PC World VN), một tạp chí hàng đầu về CNTT nên hiểu khá rõ nội tình vụ việc ông Trương Trọng Thi- người Pháp gốc Việt, nhà phát minh thuộc tốp tiên phong của thế giới về máy tính cá nhân và công nghệ vi xử lý, ngay từ năm 1973 đã có nguyện vọng hợp tác đầu tư với Nhà nước ta về lĩnh vực này và bị ghẻ lạnh ra sao.
    Cố GS Trần Lưu Chương sinh thời có lần tâm sự với tôi: "Hãy tưởng tượng ở thời điểm năm 1973, lúc châu Á và cả thế giới còn đang ở buổi bình minh của cuộc cách mạng tin học, nếu ta ủng hộ Trương Trọng Thi lập xưởng chế tạo PC và tổ chức nghiên cứu công nghệ vi xử lý thì Ấn Độ và Trung Quốc chỉ có nước chạy theo bái ta làm sư phụ, chứ đâu như bây giờ ta thua họ 10 năm phát triển công nghiệp phần cứng và gia công phần mềm xuất khẩu."
    Lại nữa, con số 30,000 du học sinh, nghiên cứu sinh Việt Nam đang ở Tây Âu và Bắc Mỹ là nguồn chất xám trẻ vô cùng quý giá, sao 70- 80% trong số họ không muốn về nước, đâu chỉ vì đãi ngộ thấp mà còn vì điều kiện làm việc, cơ hội thăng tiến bị cơ chế dị mọ trong nước kìm hãm?...

    Có tiếng gà gáy sáng cất lên thao thiết, chơi vơi, lạ hóa giữa không gian khu đô thị mới, chất ngất các tòa nhà chung cư cao tầng. Ông lão hàng xóm cùng tầng 11 của tôi bảo, ông nuôi chú gà tre Nam Bộ làm cảnh, cho nguôi nỗi nhớ làng quê Đông Anh bị giải tỏa làm sân "gôn", bứng ông cùng bà lão răng đen, vấn khăn mỏ quạ ra nhập hàng ngũ cư dân đô thị mới. Tiếng gà làm tôi liên tưởng đến buổi tọa đàm "Kê minh thập sách- minh triết trị quốc an dân" tại Hội trường tầng 3, nhà số 53 Nguyễn Du- Hà Nội vừa diễn ra hôm 15/4/2010.

    Hơn 600 năm trước, bà Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu đã dâng lên vua Trần Duệ Tông bản "Kê minh thập sách" gồm 10 điều phản biện và kiến nghị, hòng cứu đất nước ra khỏi khủng hoảng toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế. Mỗi lời của bà tới nay vẫn còn tươi rói màu xanh của cuộc sống, thiết thực với hiện tình đất nước, ngỡ như ta đang đọc một bản góp ý cho văn kiện Đại hội đảng CSVN lần thứ XI, ví dụ:

    "…Ba, ngăn chặn lũ lộng quyền để phòng chính sự sâu mọt.

    Bốn, thải loại bọn tham nhũng để trừ tệ đục khóet của dân.

    Năm, xin chấn hưng văn hóa giáo dục khiến ánh đuốc rực cùng mặt trời chiếu khắp.

    Sáu, xin cầu lời nói thẳng để cho cổng thành cùng đường ngôn luận rộng mở…"

    Tôi nhớ, trong buổi tọa đàm đó, khi anh GS Chu Hảo mời tôi lên phát biểu, tôi đã uống thuốc liều nêu ra hai ý hỏi lại các cử tọa cũng là hỏi chính lòng mình:
    Một là bản "Kê minh thập sách" có 6 điều thuộc về minh triết trị quốc an dân ngắn gọn, khúc triết và 4 điều thuộc về binh pháp, đọc lên ngỡ như binh pháp Tôn Tử hay Binh thư yếu lược của Hưng Đạo đại vương vậy. Bà Nguyễn Thị Bích Châu chỉ là cung phi, mồ côi từ nhỏ, vào cung tự học mà tỏa sáng nên chăng coi đây là sự cô đúc trí tuệ của nhiều bậc thức giả dân gian vào trong văn bản lưu truyền cho hậu thế, thông qua sự phát ngôn của nhân vật lịch sử đã hóa thánh trong lòng dân ở các đền thờ miền quê Nghệ Tĩnh?

    Hai là, phải chăng "Kê minh thập sách" tập hợp ý nguyện của dân chúng mà ra đời từ hệ quả tất yếu sau mấy chục năm chính sự suy đồi, vua tôi sa đọa? Thực tế lịch sử cho thấy nhà Trần sau hơn nửa thế kỷ lừng lẫy và 3 lần đánh thắng giặc Nguyên Mông, đến năm 1314 bắt đầu trượt dài trong sa đọa với sự lên ngôi của vua Trần Minh Tông. Ông vua này là con thứ, được vua cha cưng chiều đưa lên ngôi lúc mới 14 tuổi (SN 1300), chỉ ham ăn chơi, trác táng trong sự dung túng của thượng hoàng và sự o bế của lũ nịnh thần. Đến năm 1329, đang còn sung sức ở tuổi 29 Minh Tông đã vội lẩn tránh quốc sự, nhường ngôi cho vua Trần Hiến Tông mới lên 10 tuổi (SN 1319) để mình làm Thượng hoàng. Năm 1341, Hiến Tông chết lúc 22 tuổi, chưa kịp có con nên con thứ 10 của Minh Tông mới lên 5 tuổi (SN 1336) lên làm vua, hiệu là Trần Dụ Tông.
    Như vậy, từ năm 1314 đến 1369 là 55 năm triều đình mục nát, chính sự nhố nhăng như phường chèo nên năm 1369 một gã lưu manh Dương Nhật Lễ, con anh hề chèo gốc Hoa trong cung là Dương Khương cũng có thể cướp ngôi làm vua được 2 năm (1369- 1370).

    "Kê minh thập sách" dâng lên vua Trần Duệ Tông (1372- 1377), không được vua tiếp nhận nên năm 1400, nhà Trần mới mất về tay nhà Hồ, rồi cuối cùng nước cũng mất về tay giặc Minh ở phương Bắc.

    Phải chăng khi một chính thể kéo dài sự mục nát suốt mấy chục năm, quyền bính lọt vào tay lũ lưu manh hạ đẳng, chính sự nhố nhăng như phường chèo, lại khước từ minh triết Việt trong "Kê minh thập sách" thì họa diệt vong là tất yếu?

    Bài học lịch sử "Kê minh thập sách" cuối thời nhà Trần, nay nhân ngày giỗ thứ 633 bà Chính thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu, tôi bồi hồi ngẫm lại vẫn thấy còn nguyên giá trị giữa bầu trời thủ đô tháng tư năm 2010…


    Hà Nội 18/4/2010


    .
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 20-04-2010, 08:29 PM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    Bàn về cuốn “Trịnh Công Sơn- vết chân dã tràng” của Ban Mai

    .










    Bàn về cuốn “Trịnh Công Sơn- vết chân dã tràng” của Ban Mai

    Vũ Ngọc Tiến


    Ban Mai

    Tin UBND tỉnh Bình Định ngày 13/8/2009 ra quyết định cấm lưu hành cuốn “Trịnh Công Sơn- vết chân dã tràng” của Ban Mai làm sửng sốt giới văn học nghệ thuật cả nước về một văn bản trái luật và ngạo mạn kiểu “phép vua thua lệ làng”!
    Trái luật bởi ấn phẩm ra đời đúng theo trình tự của Luật Xuất bản, còn nội dung trình bầy kết quả nghiên cứu về một nhạc sĩ thiên tài, danh nhân văn hóa được cả nước mến mộ, thế giới ghi nhận.
    Ngạo mạn bởi Nxb Lao Động thuộc Trung ương quản lý, nội dung ấn phẩm là luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ, được Hội đồng các GS, PGS thẩm định kỹ càng, mấy ông quan chức hàng tỉnh sao không nhớ câu ngạn ngữ “Sơn ăn tùy mặt, ma bắt tùy người”? Lại có luồng dư luận coi lệnh cấm chỉ như ném vào hư không, bắt gió đuổi mây bởi sách đã in, nộp lưu chiểu Quý IV/2008, phát hành rộng rãi trên cả nước thì một tỉnh lẻ miền Trung làm sao thu hồi?
    Lệnh cấm sách sao dường như không nhằm vào sách mà nhằm vào người viết sách, trong bối cảnh nội bộ Hội VHNT Bình Định tổ chức đang nát như tương, nhân tình rối như canh hẹ trước kỳ đại hội?... Song dư luận vẫn chỉ là dư luận. Lời nói gió bay. Ta hãy thử tìm hiểu trong cuốn “Trịnh Công Sơn- vết chân dã tràng” tác giả Ban Mai viết gì?

    Lướt qua cuốn sách
    Cuốn “Trịnh Công Sơn- vết chân dã tràng” của tác giả Ban Mai, (tên thật Nguyễn Thị Thanh Thúy), Thạc sĩ, giảng viên ĐH Quy Nhơn. Sách do Nxb Lao Động phối hợp với Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông- Tây ấn hành theo Quyết định xuất bản số523- QĐLK/LĐ ngày 22/8/2008 và giấy XNĐKKHXB/CXB số 38-133/LĐ ngày 22/8/2008. Sách in xong nộp lưu chiểu vào Quý IV/2008.
    Bìa trình bày của họa sĩ Văn Sáng khá đẹp trong sự giản dị, tao nhã. Hai mảng màu tương phản, bố cục chữ và những nét vẽ chấm phá minh họa khơi gợi cho ta cảm nhận về chiều sâu văn hóa, triết lý vô thường của người nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh. Ở trang lót bìa cuối sách chỉ ghi mấy lời giới thiệu rất vắn tắt của Nxb Lao Động:
    Tác giả tập chuyên luận Trịnh Công Sơn- vết chân dã tràng tái hiện cuộc hành trình làm người và thế giới nghệ thuật của Trịnh Công Sơn, qua những phân tích, soi chiếu vào hệ thống ca từ của ông, giúp người đọc có được cái nhìn khách quan, thấu đáo hơn về Nhạc Trịnh, một hiện tượng văn hóa Việt Nam hiện đại…”
    Sách dày 472 trang, chia hai phần chuyên luận và phụ lục. Phần chuyên luận, Trịnh Công Sơn- vết chân dã tràng ngắn gọn (trang 17-142) gồm các chương:
    Quá trình nghiên cứu
    - TCS tiếng hát dã tràng
    - Vết chân dã tràng ngàn năm in dấu
    - TCS và chiến tranh Việt Nam
    -TCS người tình cuộc sống
    -TCS người ca thơ
    -Kết luận và tài liệu tham khảo.
    Theo lời giới thiệu của GS Nguyễn Đình Chú (ĐH Sư phạm Hà Nội) ở đầu sách, phần này vốn là luận văn tốt nghiệp cao học của tác giả, với tên đề tài được Ban Mai chọn là “Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn”. Ông nhận xét: “Đây là vấn đề cốt lõi trong nội dung ca từ của Nhạc Trịnh. Do đó, nhiều bậc thầy, bậc đàn anh đi trước đã nói tới và nói đến nhiều điều rất hay, nhưng chưa có điều kiện nói hết. Ban Mai với yêu cầu một luận văn Thạc sĩ dĩ nhiên trên cơ sở tiếp thu thành quả của người đi trước, phải có sự phát triển, nâng cao bằng những phương pháp khoa học khác nữa mà kết quả đã được ghi nhận.”
    Ở phần phụ lục (trang 143-471) bao gồm: Danh mục các tập nhạc TCS, danh mục các ca khúc TCS và đặc biệt là nội dung ca từ của 242 ca khúc do tác giả Ban Mai dày công sưu tầm, chỉnh lý và lựa chọn đưa vào sách. Đây là kết quả của quá trình lao động kiên trì, cực nhọc, say sưa, nghiêm cẩn của chị cần được tôn vinh bởi lâu nay, người yêu Nhạc Trịnh không mấy ai có cơ hội tiếp cận đầy đủ gia tài đồ sộ của người nhạc sĩ tài hoa đã quá cố. Tôi đọc lướt qua 242 ca khúc được chị chỉnh lý, công bố nội dung ca từ chợt có nhận xét, dường như chị đã thanh lọc bớt đi nhiều ca khúc có ca từ “nhậy cảm” chăng? Không nói đến con số 300, 500 hay 800 ca khúc theo lời đồn đại của công chúng, nhưng tại thời điểm ra sách, Ban Mai biết rất rõ 288 ca khúc được ông Phạm Văn Đỉnh (người Việt tại Pháp) công bố trên mạng Internet.

    Và những cảm nhận của một người yêu Nhạc Trịnh
    Tôi đọc cuốn “Trịnh Công Sơn- vết chân dã tràng” lần đầu vào dịp tết Kỷ Sửu. Ngày xuân, sau giờ khai bút, được đọc cuốn sách nghiên cứu có văn phong mềm mại, lời văn khúc triết, kiến giải tường minh của một cây bút nữ cũng thấy nhẹ lòng, đọng lại trong tôi ít nhiều ấn tượng đẹp về tác giả Ban Mai. Nay nghe tin sách bị cấm lưu hành, có cái gì thôi thúc tôi đọc kỹ lại phần chuyên luận (trang 17-142) trong sách của chị.
    Công bằng mà nói, Ban Mai đã chọn một đề tài khó cho luận văn thạc sĩ của mình, bởi đối tượng nghiên cứu là Trịnh Công Sơn thân phận khá phức tạp, lại quá nổi tiếng, được nhiều người suy tôn là nhạc sĩ viết tình ca hay nhất thế kỷ XX của Việt Nam. Và vì thế đã có quá nhiều người viết về con người và sự nghiệp âm nhạc đồ sộ của ông. Là người đi sau, Ban Mai chắc phải dũng cảm, tin ở bản lĩnh của mình. Chị chọn hướng nghiên cứu đột phá vào ca từ của Trịnh Công Sơn, chú ý đến tính triết học của nó, trong mối tương quan nhân quả với hoàn cảnh cá nhân, gia đình, xã hội, bầu khí quyển triết học, các trào lưu chính trị… Tình yêu Nhạc Trịnh từ thủa bé thơ kết hợp với cảm quan mỹ học hiện đại và việc sử dụng các phương pháp xếp chồng văn bản của Charles Mauron, phương pháp liên văn bản do Mikhail Bakhtin khởi sướng… là chìa khóa giúp chị mở vỉa quặng ngôn ngữ trong mỏ ca từ Trịnh Công Sơn.
    Đi sâu vào nội dung chuyên luận, ngoại trừ chương I, Quá trình nghiên cứu là yêu cầu bắt buộc của luận văn Thạc sĩ, các chương còn lại đều có dấu ấn riêng về sự đóng góp của tác giả ở mức độ khác nhau, với tư cách nhà nghiên cứu ca từ Nhạc Trịnh. Theo thiển nghĩ của tôi, có 3 chương không có nhiều khám phá, phát hiện mới lạ về Nhạc Trịnh là: Chương II, TCS- Tiếng hát dã tràng (trang 28- 41), lược thuật quá trình làm người, hành trình sáng tạo đan quyện vào nhau trong con người nghệ sĩ họ Trịnh. Chương III, Vết chân dã tràng ngàn năm in dấu (trang 42-51), nói về sức lan tỏa và ảnh hưởng của Nhạc Trịnh trong cộng đồng trước và sau năm 1975; dù khác nhau tuổi tác, học vấn, vị thế xã hội hay đối lập nhau về chủ thuyết, khuynh hướng chính trị thì người nghe vẫn yêu Nhạc Trịnh theo cách cảm của riêng mình. Chương V, TCS- người tình của cuộc sống (trang 69-98), nói về biên độ rộng lớn của tình yêu, sự dấn thân và triết lý vô thường trong ca từ Nhạc Trịnh.
    Nhìn chung, đóng góp của tác giả Ban Mai trong 3 chương nói trên chủ yếu là công phu sưu tầm nhân chứng và sự kiện lịch sử, sự hệ thống hóa và chắt lọc tinh hoa của những người viết trước. Nhờ đó, người đọc có được hiểu biết khá đầy đủ về con người Trịnh Công Sơn, cùng sự toàn mỹ về gia tài âm nhạc đồ sộ của ông. Nói như vậy không có nghĩa ở 3 chương này Ban Mai chỉ thụ động trong đánh giá Nhạc Trịnh. Khi so sánh văn bản Thơ Mới của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử… với văn bản ca từ Trịnh Công Sơn, chị vẫn chủ động đưa ra nhận xét riêng, khá tinh tế, sâu sắc mà những người viết trước chưa đề cập đến: “ Tuy nhiên, ở đây ta thấy Thơ Mới luôn níu kéo thời gian, luôn muốn quay về quá khứ nên “chắn nẻo xuân sang”. Còn Trịnh Công Sơn cũng buồn, cũng tiếc nuối thời gian, nhưng ông hiểu đó là quy luật muôn đời của tạo hóa nên chấp nhận chứ không níu kéo, cùng hòa vào thiên nhiên để “chăn gió mưa sang”. Những ca khúc viết về thân phận con người của Trịnh Công Sơn trước sự sống cái chết và nỗi tàn phai cũng chỉ là đi tìm cái hữu hạn của kiếp sống. Sự hiện diện của mỗi số phận bắt buộc phải đi qua một khoảng thời gian nào đó, do định mệnh an bài và cái không gian vô định phải nhận diện. Theo nhà Phật, đó là nhân quả, là luân hồi, là sự sinh trưởng không ngơi nghỉ và biến hóa vô cùng để phát triển, tạo nên cái “nghiệp” cho số phận.” (trang 76). Song có lẽ những kiến giải độc lập, sáng tạo và phát hiện riêng mới của Ban Mai về Nhạc Trịnh nói chung, ca từ Nhạc Trịnh nói riêng nằm tập trung nhiều ở chương IV và chương VI.
    Trước hết nói về chương VI, TCS- người ca thơ (trang 99-133). Đây là cái lõi của chuyên luận, là hướng tiếp cận chủ đạo và mục tiêu vươn tới của tác giả Ban Mai nên ngòi bút của chị khá họat và sắc. Mở đầu chương VI, Ban Mai tóm lược hệ thống lý luận về ca từ khá tinh gọn, chịu ảnh hưởng nhiều của GS Dương Viết Á. Nhưng chị vẫn có phát kiến riêng mới về mối quan hệ giữa các thành tố: âm nhạc, ngôn ngữ, bài thơ, lời ca. Đó là mối quan hệ tương đồng, tương sinh, tương hỗ, song không thoát ly tính dị biệt giữa lời ca với bài thơ. Từ cơ sở lý thuyết này, tác giả soi dọi vào ca từ Trịnh Công Sơn, đưa ra nhiều kiến giải tường minh, lý thú.
    Nửa thế kỷ qua, nhiều nhạc sĩ, nhà nghiên cứu đều thống nhất chung một nhận định rằng, ca từ Trịnh Công Sơn là những thi phẩm kiệt tác ông viết ra để hát. Ngay cái tiêu đề của chương VI, Ban Mai cũng mượn lời của Văn Cao-cây đại thụ của âm nhạc VN thời tiền chiến: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người ca thơ bởi ở Sơn , nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ.” Bởi thế, nhiều người công nhận ông là nhà thơ lớn, thậm chí là “Nguyễn Du của thế kỷ XX”. Song trước Ban Mai, chưa ai tổng hợp ca từ Trịnh Công Sơn theo các thể loại thơ: 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, lục bát và thơ tự do, ca dao, tục ngữ. (trang 107-110). Vấn đề tưởng đơn giản, nhưng nó chứng minh nhà thơ viết nhạc họ Trịnh đã rất giỏi chọn thể loại thơ cho từng ca khúc phù hợp với chủ đề, đối tượng mà ông phản ánh sao cho nhuần nhuyễn âm luật nhất. Phát kiến thứ hai về sự lạ hóa ca từ, tuy trước đó đã có nhiều người bàn tới (Bửu Ý, Bùi Vĩnh Phúc…), nhưng chị là người trình bày kỹ, đầy đủ nhất về cách cắt chữ cuối câu, thêm chữ thuần Việt vào sau động từ, danh từ và ( trang 117-125) đặc việt là phần trình bầy phương pháp Điệp. Ban Mai đã đưa ra dẫn chứng đầy thuyết phục các thủ pháp điệp ngữ cách quãng, điệp ngữ vòng tròn, điệp câu với tần số đậm đặc trong 2 bài “Cát bụi” và “Bống ơi” (trang 114-115), khiến tôi không khỏi cúi rạp mình trước thiên tài thơ và âm nhạc Trịnh Công Sơn. Có thể nói hai phát kiến của tác giả Ban Mai giúp ta hiểu sâu hơn về “thương hiệu” Nhạc Trịnh lừng lững trong bầu trời âm nhạc Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, dù trước chị mọi người đã nghĩ hoặc nói đến, nhưng không trọn vẹn.
    Chương IV, TCS và chiến tranh Việt Nam (trang 52- 68), tôi chọn đề cập sau cùng bởi tính nhậy cảm mà những người như ông Nguyễn Hoàn đã lợi dụng để bài xích cuốn sách và UBND tỉnh Bình Định ra quyết định cấm lưu hành! Không phải ngẫu nhiên nước Mỹ gọi Trịnh Công Sơn là một Bob Dylan của người Việt và năm 2004, ông qua đời đã 3 năm vẫn được trao “Giải thưởng âm nhạc hòa bình thế giới” (WPMA). Trước Ban Mai, năm 1991, cô Yoshi Michiko (Nhật) đã làm luận văn Thạc sĩ tại Pháp về đề tài “Những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn”. Nhạc phản chiến của Trịnh công Sơn có sức lan tỏa ra thế giới bởi ông không đứng về phe nào trong cuộc chiến. Ông đứng về phe CON NGƯỜI. Trái tim ông thuộc về nhân loại. Ban Mai với tư cách nhà nghiên cứu ca từ Nhạc Trịnh, chị phải khách quan và trung thực với lịch sử.
    Trong chương V, Ban Mai có quyền nhắc lại những sự kiện sau năm 1975, Trịnh Công Sơn có giai đọan bị nghi ngờ, hắt hủi, thậm chí bôi nhọ là có thật, nhân chứng vẫn còn sống và họat động. Chị cũng có quyền ca ngợi bài hát “Cho một người nằm xuống”, nhạc sĩ viết tặng một sĩ quan Cộng hòa Lưu Kim Cương thay cho bất cứ ai chết trận trong cuộc chiến ở cả hai phía…
    Tôi tin đông đảo bạn đọc thông cảm và ủng hộ lời chị viết ở cuối chương IV: “Cho đến ngày nay, sau hơn 30 năm kết thúc chiến tranh, nhìn lại những chặng đường thăng trầm của đất nước, có lẽ đã đến lúc chúng ta dũng cảm nhìn nhận lại cuộc chiến đã qua và thân phận các ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn” (trang 68).

    Lời kết
    Gấp cuốn “Trịnh Công Sơn- vết chân dã tràng” của Ban Mai lại, tôi trộm nghĩ, tác giả có thể có vài thiếu sót về học thuật, bạn đọc sẽ công tâm đánh giá, nhưng toàn bộ tác phẩm là khách quan, trung thực, ít nhiều có đóng góp cho nền học thuật nước nhà. Có thể người ra quyết định cấm lưu hành chưa chắc đã đọc hoặc chỉ đọc lướt qua. Tôi ngờ rằng có ai đó trong giới văn học nghệ thuật tỉnh Bình Định đã ác ý thổi phồng mặt nhậy cảm của chương V mà tham mưu cho “Sếp” lớn trên tỉnh chăng? Hy vọng công luận và các cơ quan hữu trách ở Trung ương sẽ trả lại sự công bằng cho tác giả- tác phẩm…

    Hà Nội 16/8.2009
    VNT



    **********************


    Tập nhạc

    Phạm văn Đỉnh sưu tầm và ghi chú, cuối 2002; sửa chữa và bổ sung, 2/2004.

    Tập nhạc sắp theo thứ tự thời gian xuất bản, với các chi tiết cần thiết, trong chừng mực biết được (nxb, năm phát hành, bìa, phụ bản, lời tựa, khổ in, vv...), chỗ có đánh dấu hỏi là chưa biết chính xác, cần các bạn khẳng định hay sửa đổi. Tựa bài hát chép theo thứ tự in trong tập nhạc; trong những lần tái bản, thứ tự có thể ít nhiều thay đổi.

    Thư mục tập nhạc này, tức nhiên chưa hoàn chỉnh và đầy đủ. Mong các bạn góp phần sửa sai và bổ sung. Đa tạ. Điện thư cho tác giả.



    01 - Ca khúc Trịnh Công Sơn
    An tiêm, 1967, in lần thứ 2, 18x18 cm, giá 80 đồng




    02 - (Những) Tình khúc Trịnh Công Sơn
    An tiêm, 1967, in lần thứ 2, 18x18 cm, giá 80 đồng



    03 - Ca khúc da vàng
    An tiêm, 1967, in lần thứ 2, 18x18 cm, giá 80 đồng.



    04 - Kinh Việt Nam
    Nhân Bản, 1968, 18x18 cm, in 7 500 cuốn



    05 - Ca khúc da vàng 2
    Nhân Bản, 1969, 18x18 cm, tái bản lần thứ 5, in 10 000 cuốn



    06 - Ta phải thấy mặt trời
    Nhân Bản, 1969 , 18x18 cm, in 7 000 cuốn



    07 - Như cánh vạc bay
    Nhân Bản, 1972, 18x18 cm



    08 - Cỏ xót xa đưa
    Nhân Bản, 1972, 18x18cm



    09 - Khói trời mênh mông
    Nhân Bản, 1972, 18x18cm



    10 - Tự tình khúc
    Nhân Bản, 1972, 18x18cm, ấn hành lần thứ nhất, 10 000 cuốn



    11 - Phụ khúc da vàng
    Nhân Bản, 1972, 18x18cm



    12 - Lời đất đá cũ
    Nhân Bản, 1973, 18x18cm



    13 - Nhân danh Việt nam
    Không biết có xuất bản không ?



    14 - Một cõi đi về
    Nxb Hội âm nhạc TP.HCM, 1989, 19x19cm, chỉ in lụa 100 bản



    15 - Em còn nhớ hay em đã quên
    Nxb Trẻ, 1991, in 3000 cuốn, 19x19cm, lời nhạc chép tay



    16 - Cho con
    Nxb Sóng Nhạc, 1991, chép tay lời và nhạc, 10x19cm



    17 - Lời của dòng sông
    Nxb Trẻ, 1992, in 5000 cuốn, lời chép tay, 19x19cm



    18 - Khói trời mênh mông 2
    Nxb Văn nghệ, TP HCM, 1992, in 3000 cuốn, 19x19cm



    19 - Bên đời hiu quạnh
    Nxb Nhân Bản, 1993, 25x25 cm, in 3 000 cuốn



    20 - Trong nỗi đau tình cờ
    Nxb Nhân Bản, 1993, 25x25 cm, in 3 000 cuốn



    21 - Thuở ấy mưa hồng
    Nxb Nhân Bản, 1993, 25x25 cm, in 3 000 cuốn



    22 - Những bài ca không năm tháng
    Nxb Âm Nhạc, 1998, 25x25cm, 3000 cuốn



    23 - Những bài ca không năm tháng
    Nxb Âm Nhạc, 1998, 25x25cm, in lần thứ tư, 3000 cuốn



    24 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 1
    Văn nghệ tp HCM, 1999, 14,5x20,5cm, in 1000 cuốn, giá bán 6500 VNĐ



    25 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 2
    Văn nghệ tp HCM, 1999, 14,5x20,5cm, in 1000 cuốn, giá bán 6500 VNĐ



    26 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 3
    Văn nghệ tp HCM, 1999, 14,5x20,5cm, in 1000 cuốn, giá bán 6500 VNĐ



    27 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 4
    Văn nghệ tp HCM, 1999, 14,5x20,5cm, in 1000 cuốn, giá bán 6500 VNĐ



    28 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 5
    Văn nghệ tp HCM, 1999, 14,5x20,5cm, in 1000 cuốn, giá bán 6500 VNĐ



    29 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 6
    Văn nghệ tp HCM, 1999, 14,5x20,5cm, in 1000 cuốn, giá bán 6500 VNĐ


    .
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 23-04-2010, 07:27 PM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    Working...
    X
    Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom