• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Về một quả ấn vàng của hoàng đế thời Nguyễn

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Về một quả ấn vàng của hoàng đế thời Nguyễn


    Về một quả ấn vàng của hoàng đế thời Nguyễn




    Ấn vàng của các Hoàng đế thời Nguyễn được gọi là Kim Bảo để phân biệt với Ngọc tỷ là ấn được làm bằng ngọc. Trong số hàng trăm quả Kim Bảo dừng với ý nghĩa quốc gia đại sự đó, có một quả ấn vàng "Ngự tiền chi bảo" mà tên tuổi của nó gắn liền với sự kiện trọng đại của nước Đại Nam cuối thế kỷ XIX.

    Năm 1802 khi mới lên ngôi Gia Long đã ra ngay sắc lệnh dùng vàng đúc ấn Bảo, Tỷ. Sử cũ còn ghi "Đức Hoàng khảo thế tổ Cao Hoàng đế ta dựng thành quy chế lập ra pháp luật trăm chế độ đều mới cả, ra sắc lệnh đúc các loại ấn như chế cáo chi bảo, Ngự tiền chi bảo, Mệnh đức chi bảọ.." (1). "Ngự tiền chi bảo" được đúc bằng vàng mười, núm hình rồng, mặt dấu làm theo khuôn hình bầu dục có kích thước 2,5 x 3cm, viền ngoài được khắc hoạ tiết rất đẹp. Điều đặc biệt ở đây là tất cả Kim Ngọc Bảo Tỷ đều khắc theo thể chữ triện ở mặt ấn, riêng "Ngự tiền chi bảo" mặt ấn lại khắc theo thể chữ Chân, nét khắc đậm nhạt như chữ viết trên giấy.


    Cũng như các Bảo Tỷ truyền quốc khác, "Ngự tiền chi bảo" tồn tại qua nhiều đời vua Nguyễn, từ Gia Long, Minh Mệnh tới vị Hoàng đế trẻ Hàm Nghi. Rất nhiều hình dấu "Ngự tiền chi bảo" gắn liền với những văn bản chữ Hán quan trọng của các vua nhà Nguyễn được lưu giữ cẩn trọng ở Văn phòng Nội các và những cơ quan đơn vị cao cấp khác. Nhưng rồi biến cố đã xảy ra bằng cuộc chiến giữa người Pháp và triều đình nhà Nguyễn. Năm 1885 Kinh đô Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi rời bỏ Kinh thành Huế và mang theo ấn "Ngự tiền chi bảo" và nhiều báu vật khác. Quả ấn vàng đã theo vua Hàm Nghi cùng đoàn quân kháng chiến từ Cam Lộ vượt Trường Sơn hiểm trở đến châu Mường Mahasay của đất Lào, rồi lại lặn lội qua đèo Quy Hợp về lại đất Việt để lập bản doanh ở vùng Hương Khê núi Ấu. Tại nơi đây chiếu Cần Vương và bao chỉ dụ có đóng dấu Ngự bảo được gửi đi khắp nơi, đã dấy động lòng dân và sĩ phu cả nước tinh thần ái quốc trung quân quyết tử chống giặc Pháp. Bên cạnh vua Hàm Nghi, tên tuổi của Lê Trực, Phan Đình Phùng, Tôn Thất Đạm... vẫn còn sống mãi, mấy năm ròng họ chiến đấu chống quân xâm lược chủ yếu không phải bằng khí giới và bằng khí phách tinh thần.


    Tại nơi rừng thẳm, lúc vua Hàm Nghi đóng dấu Ngự bảo lên chiếu Cần Vương thì ở Huế người Pháp và phái chủ hoà đã dựng Ưng Kỷ lên ngôi với niên hiệu Đồng Khánh. Việc làm đầu tiên của Đồng Khánh là cho chế tác ngay Bảo ấn để thay thế số ấn vàng bị Tôn Thất Thuyết mang đi. Sử cũ chép năm Đồng Khánh Ất Dậu (1885) "... Sai làm hai ấn Ngự tiền chi bảo và Văn lý mật sát..." (1). Bảo ấn "Ngự tiền chi bảo" trước đây đúc bằng vàng hình bầu dục, Đồng Khánh cho rằng nếu đúc theo khuôn cũ sẽ nhầm với ấn Ngự bảo mà Tôn Thất Thuyết đang giữ, nên mới sai làm "Ngự tiền chi bảo" mới theo hình bát giác và dùng chất liệu bằng ngà voi. Mấy tháng sau khi mọi việc đã yên ổn, Đồng Khánh sai lấy vàng đúc lại "Ngự tiền chi bảo", núm hình rồng, mặt dưới hình bát giác dài 8 phân 5 ly, rộng 7 phân 5 ly, khắc chữ chân phương như cũ.


    Cuối năm 1888 khi vua Hàm Nghi bị bắt, bên cạnh nhà vua chỉ có một ít quần áo cũ, một số tiền vàng tiền bạc, mảnh giấy ghi nơi chôn giấu vàng ở Huế và mấy thi thể đẫm máu của các bề tôi trung thành. Ngoài những thứ đó ra tuyệt nhiên quân Pháp không tìm thấy ấn Ngự tiền chi bảo đâu cả.


    Trở lại với Tôn Thất Thuyết, sau khi phong trào Cần Vương đã dấy lên mạnh mẽ, Thuyết quyết định sang phương Bắc cầu viện Thanh triều. Đội quân ở lại từ lúc Thuyết đi cho đến khi ngã xuống người cuối cùng, không ai còn trông thấy đâu nữa. Phải chăng Tôn Thất Thuyết đã mang theo Ấn Ngự bảo kia sang Trung Quốc với hy vọng lấy lại cơ đồ? để rồi không thành và ông phải nằm lại nơi đất khách quê người, bao bí mật và số phận quả ấn vàng đã theo ông xuống mồ tại đất Long Châu, Quảng Tây năm 1913.


    Ngày nay nếu ai muốn tìm lại dấu tích của "Ngự tiền chi bảo" xin mời đến Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Hà Nội. Trong các tập châu bản giấy đã ngả màu, chúng ta dễ dàng tìm ra dấu Ngự bảo xưa có hình bầu dục, nét chữ Hán chân phương với màu son đỏ thắm như màu máu không phai của các nghĩa sĩ Cần Vương năm nào.

    Just a moment...

    Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.
    Similar Threads
  • #2

    Ngôi làng cất giữ bảo vật vua Hàm Nghi



    Sau hơn một thế kỷ, người dân làng Phú Gia, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) vẫn trân trọng gìn giữ báu vật vua Hàm Nghi tặng, gồm 2 con voi bằng vàng, 1 con voi và 1 con nghê bằng đồng, 2 thanh bảo kiếm cùng 8 bộ mũ áo triều thần.

    Tương truyền vào năm 1885, khi vua chạy giặc tới đất Hương Khê, ngài được đức Thánh Mẫu báo mộng nên tránh được nhiều cuộc vây ráp. Nhằm ghi nhớ công ơn Thánh mẫu, vua phong tặng cho bà chức "Thượng đấng tối linh tôn thần"(một chức sắc lớn của thần linh), lập miếu thờ tự, đồng thời dâng bảo vật để nhân dân Phú Hòa thờ cúng Thánh mẫu.




    Đây là cố đạo Trần Văn Nhung, người trông giữ các bảo vật. Trong tay ông là một trong hai thanh bảo kiếm vua Hàm Nghi tặng.


    Kiếm lệnh vua ban cho người dân Phú Gia (Minh Chiến).



    Áo gấm của vua Hàm Nghi (Ảnh: Minh Chiến - Hương Khê).



    Thắt lưng của vua Hàm Nghi (Minh Chiến)







    Một trong những đạo sắc phong do vua Hàm Nghi để lại.









    Cặp voi vàng vua Hàm Nghi ban tặng dân Phú Gia (Minh Chiến).


    *******************************************



    Những chuyện lạ ở đất Phú Gia


    Bảy giờ tối dừng chân ở ngã ba thành phố Hà Tĩnh, hai bàn tay đi xe không đeo găng đã buốt cứng, ông chủ quán cơm bụi lắc đầu khi tôi hỏi đường về Phú Gia - Hương Khê: "Còn 40 cây số, đường đèo, vắng dân, nguy hiểm lắm". Lời ông chủ quán tốt bụng lại như thôi thúc bởi cảm giác hiểm trở lại là cái mà tôi đang đi tìm. Qua cầu Khe Giao bắt đầu hoang vắng, hơi rùng mình nhưng lại thỏa chí vô cùng. Nghe trọn vẹn tiếng gió rừng núi không hề có tạp âm động cơ và thỏa mãn vô chừng khi liên tưởng về ký ức vùng đất Hương Khê hơn một thế kỷ trước. Ngày Vua Hàm Nghi về xây thành Sơn Phòng vào tháng 6/1885 để bắt đầu cho sự nghiệp Cần Vương khi ông mới tròn 14 tuổi.


    Đạo chủ Lê Khắc Tùng trước bàn thờ Đức Hàm Nghi



    Cụ Lê Khắc Tùng, đạo chủ thứ 14 được dân làng tín nhiệm giao phó bảo quản các báu vật của vua Hàm Nghi tặng dân làng Phú Gia trước khi đức vua rời vào Rú Quạt (Quảng Bình) kháng chiến, dẫn tôi đứng giữa trung tâm thành Sơn Phòng khi hoàng hôn bắt đầu buông.



    Hơn 122 năm lịch sử đi qua, tòa thành đất rộng bốn mươi hai nghìn mét vuông chỉ còn lại dấu tích của những lũy đất cao không quá đầu người. Đất đá có lúc cũng không thể trơ gan cùng tuế nguyệt trong cõi nhân gian. Trong thành người ta đã trồng lúa và ngô từ nhiều năm trước. Hào nước sâu thuở xưa chỉ còn lại là những vũng nước đọng um tùm cỏ lác.

    Chưa ai lý giải chính xác tại sao vua Hàm Nghi và đại thần Tôn Thất Thuyết lại chọn địa điểm này xây thành kháng chiến nhưng khí chất địa linh thì vẫn tồn đến hôm nay. Phóng mắt qua những lũy đất thành Sơn Phòng, hậu thế vẫn cảm nhận rõ cái dáng thế thành trong thành giữa bốn bề rừng núi biên ải.

    Tương truyền, khi vua Hàm Nghi và quan, quân kháng chiến về Phú Gia, người dân trong vùng đã bỏ hết công việc đồng áng cùng quan quân tập trung xây lũy đắp thành cả ngày lẫn đêm. Chỉ trong vòng một tháng, tòa thành hình chữ nhật mỗi cạnh hơn 200 mét , chân rộng 9 mét, cao 7 mét có hào nước sâu 2 mét bao quanh đã hoàn thành. Thành có bốn cửa Đông, Tây, Nam, Bắc và phía trong có đầy đủ công trình phục vụ việc bố phòng. Nhưng chỉ khoảng 3 tháng sau, vua Hàm Nghi đã quyết định bỏ lại tòa thành này chỉ vì một điềm mộng.

    Những báu vật vua ban đã tồn tại trong lòng dân ở Phú Gia hơn 122 năm qua. Cái cách mà những người dân nơi đây lưu giữ, bảo tồn báu vật có lẽ cũng là độc nhất vô nhị ở Việt Nam.

    Bảo vật quốc gia trong nhà nông dân

    Phú Gia vẫn là một vùng thuần nông nghèo. Căn nhà đang lưu giữ bảo vật nằm ở rìa làng, sát ruộng lúa lại lụp xụp nghèo nàn hơn.



    Các bảo vật quý báu được cất giữ trong ngôi nhà đơn sơ như thế này

    Cụ Lê Khắc Tùng, khăn đóng áo dài rồi kính cẩn thắp lên bàn thờ Đức Hàm Nghi (người dân Phú Gia từ già đến trẻ đều gọi vua Hàm Nghi là “Đức Hàm Nghi”) nén hương xin phép cho tôi bấm máy. Bức chân dung Hàm Nghi lên ngôi và vào rừng kháng chiến khi mới mười bốn tuổi tóc búi phía sau và đôi mắt quắc thước của một chiến binh được vẽ trên vải bố dần phủ mờ khói hương trong ngôi nhà ba gian còn che phên nứa và rèm lá cọ. Một khoảng sân nhỏ trước bàn thờ vua được gia chủ rào kín và không một ai ngoài đạo chủ được bước chân vào mỗi lần làm lễ cúng vua. Gần 70 hiện vật vua ban được để trong một két sắt và hai cái tủ đứng ngay cạnh bàn thờ. Mỗi lần muốn mở tủ phải làm lễ cúng.

    Cụ Tùng kể rằng, ai trong làng được chọn lưu giữ báu vật vua ban và lập bàn thờ Đức vua là cả một niềm vinh dự truyền từ đời này qua đời khác. Gia đình cụ là đạo chủ thứ 14 trong làng có được niềm vinh hạnh ấy. Trong những năm đói khát trước đây, đã có lúc một tay trùm đồ cổ từ Thái Bình vào gạ đổi 2,5 tấn gạo để lấy cặp kiếm lệnh nhưng đã bị dân làng đuổi đi. Từ năm 1954 đến năm 1966, đề phòng mất trộm và chiến tranh tàn phá, một đạo chủ khác là cụ Trần Văn Dơn đã phải khoét rỗng cột nhà để cất giấu bảo vật.

    Chuyện kể rằng, vào đêm 20/9/1885, Hàm Nghi nằm chiêm bao thấy một nữ thần báo mộng: “Bọn bạch quỷ đang bao vây. Cần định liệu ngay!”. Tỉnh dậy toát mồ hôi, vua liền vời các bô lão trong làng Phú Gia vào hỏi chuyện thì biết người báo mộng cho mình chính là nữ thần đền Trầm Lâm trong vùng. Ngay sau đó, vua đã thiết triều giao cho Tôn Thất Thuyết cùng các đại thần vào đền làm lễ tạ ơn và sắc phong nữ thần là “Đức Thánh Mẫu Trầm Lâm kiêm Lục Quốc Thanh Y anh linh diệu ngọc linh ứng thiên thần” rồi rời khỏi thành Sơn Phòng vào Rú Quạt, một vùng rừng hiểm trở thuộc huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình tiếp tục kháng chiến. Quả nhiên, sau khi quan quân Hàm Nghi rút khỏi Sơn Phòng thì giặc Pháp kéo tới truy lùng ông.
    Cảm cái tình người vùng đất địa linh, trước khi lên đường, vua Hàm Nghi đã tặng cho dân làng Phú Gia một vi bố (màn vua nằm) bằng gấm có gắn 36 lục lạc đồng, 8 bộ áo mũ triều thần, 20 cờ lộng , 1 con voi bằng đồng, 2 con voi bằng vàng, một cặp kiếm lệnh và 37 đạo sắc phong của các vua triều Nguyễn. Trong các đạo sắc này có một đạo sắc của Hàm Nghi phong cho Hầu Công Kiến Quốc nguyên Huân Dương Chính tướng quân đề Hàm Nghi nguyên niên (Hàm Nghi năm thứ nhất, tháng 9 ngày 25) không có đại triện. Theo sử liệu thì có lẽ đây là đạo sắc duy nhất của vua Hàm Nghi phong thần ở nước ta.

    Suốt hơn trăm năm qua, ở vùng quê nghèo này đã tồn tại bao phủ một màn sương huyền thoại siêu linh, trở thành một hàng rào có uy lực vô hình giữ gìn báu vật. Đến nay người Phú Gia còn kể cho nhau nghe hàng ngày một câu chuyện nhuốm màu huyền tích rùng rợn: Hơn bảy mươi năm trước đây, một đạo chủ đã phạm húy để hai con trai mang một con voi vàng sang Lào đổi lấy 42 con trâu nhưng trên đường về đến dốc Chân Trụt (xã Hương Vĩnh ngày nay) thì một người đã bị trâu húc chết. Cùng lúc đó, vợ người con trai còn lại ở nhà đã bỏ con trai mới sinh vào nồi luộc chết mà không hề biết mình đang làm gì! Sức mạnh từ huyền thoại này đến nay vẫn không cũ ở Phú Gia. Và nếu tất cả các huyền thoại đều trở thành sức mạnh bảo tồn thì có lẽ ở đâu cũng rất cần.

    Sắc Xuân dậy lên tí tách trên cả một miền sơn cước. Trước đền Trầm Lâm, chín vị đạo chủ đất Phú Gia quây quần bên ấm chè xanh “cắm đũa” tiễn khách. Quẻ âm dương do đạo chủ Lê Khắc Tùng gieo thành công trong lần đầu tiên hứa hẹn một chuyến đi suôn sẻ cho người đến từ phương xa. Thượng điện đền Thánh Mẫu Trầm Lâm nghi ngút khói trầm lan tỏa. Hơn thế kỷ trước Người đã độ trì báo mộng cho Đức Hàm Nghi thoát nạn, giờ đây Thánh Mẫu linh thiêng lại hiển linh chở che cho miền biên ải này vững chãi. Vững chãi, son sắt như tình người, tình đất Phú Gia.


    .



    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 04-05-2010, 03:56 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      Vào tháng Tám năm 1945 Chính quyền mới CS đã thu giữ nhiều báu vật của nhà Nguyễn. Việc coi sóc chúng trong điều kiện chiến tranh là cả một kỳ công với nhiều chuyện vui buồn. Giờ đây, mong muốn được tận mắt chiêm ngưỡng những biểu tượng một thời của một triều đại đã đi vào quá vãng có lẽ cũng là một nhu cầu chính đáng...


      Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều Nguyễn
      Ấn tín quý dưới thời Nguyễn - Ảnh tư liệu



      Đổng lý văn phòng nội các Bảo Đại - Phạm Khắc Hòe ghi lại như sau: Chiều 27 và sáng 28 tháng 8 năm 1945, tôi cho kiểm kê lại các thứ tài sản trong Đại Nội để giao cho Chính quyền Cách mạng. Nói đến của công trong Đại nội lúc bấy giờ thì quý giá nhất là các đồ vật bằng châu báu ngọc ngà có tính lịch sử của các Vua Nguyễn. Các thứ này được cất trong một cái hầm lớn mé sau điện Cần Chánh. Hàng năm vào ngày 20 tháng Chạp Âm lịch, triều đình tiến hành lễ Phất Thức. Phất thức là mở hầm lấy tất cả các thức ra để kiểm điểm và quét bụi bặm lau chùi thật sạch rồi lại cất vào hầm khoá lại. Làm những việc này các quan từ nhị phẩm trở lên mới được dự lễ Phất thức và phải tự mình làm lấy mọi việc, đưa ra cất vào dọn dẹp lau chùi.
      Cho nên lần tổng kiểm kê cuối cùng này được tiến hành khá dễ dàng và tất cả các loại tài sản đều được giao lại đầy đủ cho chính quyền nhân dân và có giấy tờ minh bạch. Người thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời để kiểm nhận tài sản là ông Bộ trưởng Lê Văn Hiến. (Phạm Khắc Hòe. Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc- NXB Hà Nội 1983 - Tr 74). Lòng không khỏi chút bồi bồi ngó lại những dòng của ông Đổng lý văn phòng nội các Bảo Đại Phạm Khắc Hòe ghi về một sự kiện đã quá vãng.
      Lại một đoạn tiếp trong chính sử.
      Chiều ngày 30/8/1945, trên nền Đài Lầu Ngũ Phụng Ngọ Môn, trước mặt hơn 5 vạn dân thành Huế, vị Hoàng đế cuối cùng là Bảo Đại đã trao bộ ấn kiếm tượng trưng quyền lực vương triều cho đại diện chính quyền cách mạng CS.
      Sau này, đã có nhiều ý kiến cho rằng chiếc ấn đó là Đệ nhất bảo tỷ Hoàng đế chi bảo và cùng với nó là chiếc kiếm báu truyền từ đời Gia Long.
      Thay mặt Chính phủ Cách mạng CS, ông Trần Huy Liệu và nhà thơ Cù Huy Cận đã tiếp nhận ấn kiếm và gắn huy hiệu công dân nước Việt Nam DCCH cho cựu hoàng. Bộ ấn kiếm này ngay ngày hôm sau được đem ra Hà Nội để kịp có mặt trong Lễ Độc lập vào ngày 2/9/1945.
      Ấn cùng kiếm quý
      Chiếc ấn Đệ nhất bảo tỷ Hoàng đế chi bảo, mà về mãi sau này, nhà thơ Huy Cận từng thốt lên với hậu sinh trong đó có người viết bài này rằng khi ông Trần Huy Liệu nhận từ tay ông Bảo Đại trao lại cho ông Huy Cận, nhà thơ đã suýt ngã vì chiếc ấn nặng quá, dễ hơn một yến (10 kg) chứ không ít!
      Nhà thơ Huy Cận có lẽ đã không lầm?
      Trong số những tài liệu tin cậy hiện có đã biên rõ về chiếc ấn ấy như sau: ấn Hoàng đế chi bảo được đúc bằng vàng ròng vào ngày mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4 (tức ngày 15/3/1823). Đây là chiếc bảo ấn lớn và đẹp nhất của triều Nguyễn. Ấn hình vuông, quai ấn là một con rồng uốn khúc, đầu ngẩng cao, mắt nhìn thẳng về phía trước. Đỉnh đầu rồng khắc hình chữ vương; kỳ (vây lưng) dựng đứng; đuôi cũng dựng đứng, vây đuôi uốn cong về phía trước; 4 chân rồng đúc rõ 5 móng, tư thế chống chân xuống mặt ấn rất vững vàng.
      Mặt dưới của ấn khắc 4 chữ triện Hoàng đế chi bảo. Mặt trên của ấn, phía hai bên quai khắc nổi hai dòng chữ Minh Mạng tứ niên nhị nguyệt sơ tứ nhật cát thời chú tạo (đúc vào giờ tốt ngày mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4); Thập thành hoàng kim, trọng nhị bách thập lạng cửu tiền nhị phân (đúc bằng vàng, trọng lượng 280 lạng 9 chỉ 2 phân). Như vậy chiếc ấn suýt soát 281 lượng vàng, nếu tính 27 lượng tương đương 1kg, thì chiếc ấn này nặng khoảng 10,7kg.
      Về việc đúc chiếc bảo ấn này, sách Đại Nam thực lục (tập VI, bản dịch của Viện Sử học, Nxb KHXH-1963, trang 146) có ghi “Ngày Giáp Thìn đúc ấn Hoàng Đế chi bảo núm làm rồng cuốn hai tầng, vuông 3 tấc 2 phân, dày 5 phân, làm bằng vàng 10 tuổi, nặng 280 lượng 9 đồng 2 phân”.
      Hoàng đế chi bảo được chế tác (đúc) vào thời vua Minh Mạng, thời mà nước Việt mình lãnh thổ cương vực được mở rộng dài nhất được đổi quốc hiệu là Đại Nam. Vận nước hanh thông triều đình thì thịnh. Riêng vua thì chính phi, thứ phi cung tần mỹ nữ chưa rõ số nhưng khiêm tốn thôi, 142 người con cả thảy, trong đó 74 trai, 68 gái!
      Theo quy định của triều Nguyễn, ấn Hoàng đế chi bảo chỉ dùng khi “gặp khánh tiết ban ơn, đại xá thiên hạ cũng là các cáo dụ thân huân, đi tuần thú các nơi để xem xét các địa phương, mọi điển lễ long trọng ấy, và ban sắc, thư cho ngoại quốc”.
      Nếu đúng chiếc ấn mà Bảo Đại trao cho ông Trần Huy Liệu là Hoàng đế chi bảo thì kể từ khi đúc ra đến khi trao cho chính quyền Cách mạng, ấn Hoàng đế chi bảo đã có 122 tuổi.

      Ấn Khâm văn chi tỷ, thời Minh Mệnh năm thứ 8 (1827) trọng lượng 137 lạng vàng 10 Ảnh: TL


      Đang ở đâu?
      Chiếc ấn quý cùng thanh bảo kiếm ấy chắc chắn sẽ nằm trong kho báu nhà Nguyễn mà chính quyền mới có trách nhiệm bảo quản giữ gìn như vừa nói ở phần trên! Nhưng hóa ra chúng có một thân phận khá lạ lùng...
      Kho báu nhà Nguyễn từ Hà Nội được chuyển đến nơi an toàn một cách khẩn trương, nhưng sau đó bộ ấn kiếm đã bị bỏ quên tại một ngôi chùa ở mạn ngoại thành! Một điều ít ai ngờ là cuối những năm 50, quân Pháp đã triệt hạ cái làng ngoại thành ấy phá chùa lấy gạch xây bốt. Thế là phát lộ ra bộ ấn kiếm báu! Ngày 3/3/1952, quân Pháp đã tổ chức rùm beng một cái lễ trao ấn kiếm.
      Người nhận bộ ấn kiếm ấy là quốc trưởng chính phủ Bảo Đại thay vì vị thế Đại Nam Hoàng Đế! (Hiện Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế còn lưu giữ tấm ảnh ghi lại sự kiện này). Để lưu giữ chắc chắn các báu vật trong Hoàng tộc, ông Bảo Đại đưa bộ ấn kiếm ấy cho bà thứ phi Mộng Điệp mang sang bên Pháp trao cho hoàng hậu Nam Phương và hoàng tử Bảo Long. Bộ ấn kiếm yên hàn được đến thời điểm năm 1963 bà Nam Phương mất.
      Mặc dù được giữ cẩn mật tại nhà băng Châu Âu (Union des Banques Européennes) nhưng bộ ấn kiếm ấy đã không yên bởi mâu thuẫn dẫn đến kiện cáo giữa hai cha con ông Bảo Đại. Bởi ai cũng muốn sở hữu thứ quốc bảo ấy nên họ phải nhờ đến tòa án. Tòa phán, ấn thì cha giữ còn kiếm báu Gia Long thì con cầm. Nghe nói vì túng tiền hay lý do chi đó, vị hoàng tử này đã bán mất bộ kiếm báu còn chiếc ấn không rõ có phải là Hoàng đế chi bảo không, nhưng số phận cũng hẩm hiu không kém. Không phải châu về hợp phố mà lại về tay người đẹp Monique Baudot, người vợ mà ông Bảo Đại cưới năm 1982!
      Người coi sóc lũ báu vật Nhà Nguyễn
      Cách đây đã lâu, để tìm hiểu chiếc ấn Hoàng đế chi bảo và bộ kiếm báu có nằm trong bộ sưu tập của nhà nước mình không, tôi đã tìm tới cụ Đỗ Phạm Huyến nhà ở Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội.
      Căn nhà cổ của cụ Huyến hơn trăm năm trước đã là nhà thờ tổ một chi họ Đỗ. Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung (người có công trong việc sáng lập Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam) một thời gian dài đã ở đây cùng với ông bố. Cụ thân sinh Nguyễn Đỗ Cung là Nguyễn Đỗ Mục cùng nhóm giao du lẫn dịch thuật với cụ Nguyễn Văn Vĩnh. Bà cụ thân sinh Nguyễn Đỗ Cung là chị ruột cụ thân sinh ra ông. Nên ông với họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung là con cô con cậu. Lệ họ Đỗ là lấy họ mẹ làm tên lót.
      Nguyễn Đỗ Cung viết thư cho bạn là Văn Tiến Dũng... có thằng em là Đỗ Phạm Huyến ở làng Xuân Đỉnh. Năm 1943 nó đã tham gia Hội truyền bá Quốc ngữ. Năm 1944 tham gia hoạt động Việt Minh ngoại thành rồi sau toàn quốc kháng chiến thì ở khu 10 Phú Thọ làm công tác đoàn thể. Nhờ ông tìm hộ gửi nó vào Vệ quốc đoàn...

      Ấn Hoàng đế chi bảo (được coi là Bảo Đại trao cho ông Trần Huy Liệu ngày 30/8/1945) Ảnh: TL


      Được sự giới thiệu của ông Văn Tiến Dũng, Đỗ Phạm Huyến theo nghiệp binh đến khi giải phóng Thủ đô. Sau khi chuyển ngành về Bộ Văn hóa, thạo tiếng Pháp lại biết cả chữ Hán nên ông được chọn vào tổ tiếp quản nhà Viễn Đông bác cổ...
      Người ta dẫn ông xuống phố Hàng Chuối, nơi có một cơ sở của Bộ Tài chính đóng. Một khu biệt thự. Dưới biệt thự là một tầng hầm... Chật cứng khoảng mờ tối ấy là những hòm gỗ, thùng sắt...
      Tại đây ông Huyến mới được biết đó là những vật báu của Triều đình nhà Nguyễn mà chính quyền CS tiếp thu trước kia nay trên quyết định chuyển những báu vật này từ Bộ Tài chính sang nhà Viễn Đông bác cổ tức Bảo tàng Lịch sử bây giờ! Nhiệm vụ của ông Huyến và một người nữa là phải tiếp nhận cụ thể từng món một. Ông không biết những hòm những thùng này đây nằm dưới tầng hầm ở phố Hàng Chuối này bao lâu rồi nhưng các báu vật này từng được lưu giữ ở nhiều nơi trong cuộc kháng chiến trong đó có Liên khu V.
      Khoản đầu tiên là các loại ấn. Loại lớn có, nhưng phổ biến cỡ 10 kg (khi đó chưa có loại cân đặc biệt của Bộ Tài chính nên không thể đo chính xác được trọng lượng, chất lượng từng loại ấn một), loại nhỏ hơn 7 rồi 5, 3, 2 rồi 1 kg. Loại ấn bằng ngọc, những bích ngọc, bạch ngọc, thanh ngọc... được phân loại đánh số riêng. Bao nhiêu ấn mỗi loại, ông Huyến không nhớ hết nhưng mỗi ông vua, mỗi một hoàng tử hoàng hậu đều có ấn cho riêng mình.
      Thái hậu chi bửu, Hoàng tử chi bửu rồi Hoàng hậu chi bửu vv... Các thứ kim ấn hình thù kích cỡ khác nhau nhưng ông Huyến biết tất cả đều bằng vàng. Vàng 10, vàng 9 non hơn thì 8,5 tuổi. Trên có lưỡng long hoặc độc long để làm núm thứ thì màu nâu thứ thì nâu đen thứ vàng choé tất thảy mọi thứ đều được kê biên đánh số cẩn thận! Ngày nối ngày miệt mài đánh vật với những báu vật như thế, ông Huyến chả dám hé răng với ai nhiệm vụ của mình bởi đã được dặn dò trước!
      Kế đó là những đỉnh, chậu, bát, hộp, đồ thờ cúng trong đó có cành vàng lá ngọc. Và đặc biệt là những bộ kim sách. Việc tất tả bấn bíu nhưng ông Huyến vẫn bị ám ảnh bởi những hàng chữ nổi vuông thành sắc cạnh bằng vàng trên những tờ vàng lá nâu xỉn hoặc chói lói. Gáy của những cuốn kim sách ấy được đính lại bằng những khuyên cũng bằng vàng. Gia phả hoàng tộc. Những lời giáo huấn của vua. Đôi khi một bài thơ cổ hoặc thơ của người trong hoàng tộc...
      Hơn một tháng đằng đẵng bên những hòm châu báu như thế để tới cái ngày kiểm đếm xong bàn giao xong giữa hai bên. Những thùng báu vật được lặng lẽ chở đến một cái kho của Bảo tàng Lịch sử.
      Tai họa
      Đúng vào dịp Quốc khánh năm 1961, trên có quyết định trưng bày cuộc triển lãm tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam. Nhưng ngoài những người trong cuộc không ai có thể biết được một sự cố khủng khiếp đã xảy ra!
      Tại gian trưng bày, một sớm thu như thế, người phát hiện ra một cái ấn vàng mà ông Huyến nghe nói là của Nam Phương Hoàng hậu đã không cánh mà bay! Ông Huyến lúc này lại là người phụ trách phòng kiểm kê bảo quản của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam!
      Mặc cho những sự trần tình này khác nhưng ông vẫn bị đưa thẳng vào Hỏa Lò. Có lẽ cỡ trọng tội nên chỗ ông nằm thấy bản chính là gian cấm cố Hoàng Văn Thụ năm xưa. Ba tháng nằm trong đó... Bất chợt nửa đêm có khi về sáng hay giữa trưa ông Huyến bất thần được gọi đi cung. Ngoài những cuộc gọi hỏi liên miên, người ta cũng cho mời một số công an gác cổng một số sứ quán nước ngoài đến để nhận mặt ông với hy vọng mong manh biết đâu họ chợt có lần nào đó thấy ông đem cái ấn ấy bán cho người nước ngoài!?
      Ba tháng xà lim đặc biệt rồi tám tháng ở xà lim thường... Mười một tháng nằm xà lim cả thảy... Rồi ông được chuyển sang chế độ giam thường. Ông Huyến đếm tính từng ngày trong Hỏa Lò. Vậy là đã 23 tháng... Một sáng nọ người ta nhã nhặn mời ông về... nhà mình! Đã tóm được bọn ăn cắp. Gian trưng bày triển lãm báu vật, cửa giả tuềnh toàng nên ban đêm chúng mò vào dễ dàng. Có chủ đích ăn cắp ấn đâu mà định khoắng thứ khác nhưng chả có đành thử quơ đại một cái ấn nặng chịch mà chẳng biết nó là thứ chi! May mà chỉ một cái...
      Thời gian trong tù, ông Huyến không biết một vụ trộm thứ hai đã xảy ra cũng tại gian trưng bày sau vụ thứ nhất hơn nửa năm. Số là sau khi ẵm cái cục nặng chịch hình thù quái gở ấy ra, bọn trộm cho nó một nhát rồi nhiều nhát búa và mang một mảnh đem đi thử! Trời đất ơi, vàng! Vàng thật! Đợi một thời gian thấy êm êm bởi các nhà chức trách đã tóm được thủ phạm đã giam cứng trong Hoả Lò rồi và chắc chả có hướng điều tra nào khác nên chúng táo tợn mò vào một lần nữa. Hoà trong dòng người tham quan, một thằng đợi đến khi đóng cửa tót lên máng nước ém ở đấy.
      Đợi đến đêm thì ra tay. Chắc đợi lâu quá nên hắn thoải mái như ở nhà bèn làm ngay một bãi gần chỗ núp trước khi ẵm một cái ấn khác. Sáng hôm sau người nhà Bảo tàng hoảng tam tinh khi phát hiện vụ trộm. Chả lẽ ông Huyến từ Hỏa Lò độn thổ ra để thực thi vụ này? Nhưng chả khó khăn gì, người ta phát giác ra cái thứ khốn kiếp của thằng trộm kia... Chết cho hắn là mảnh giấy chùi là một lá thư! Lá thư? Chứ sao, thư của một người nhà ở quê gửi cho hắn... Bên an ninh tài thế, đã tìm được cái địa chỉ từ mảnh giấy nhòe nhoẹt bẩn thỉu ấy! Thằng cầm đầu cũng như đồng bọn bị tóm.
      Ông đang kể cái đoạn sau khi ra tù được ông Bộ trưởng Hoàng Minh Giám thân mời lên pha nước cho uống động viên an ủi... Ông Huyến được phục chức trưởng phòng như cũ cũng như giữ nguyên Đảng tịch. Tiền lương ông được truy lĩnh nhưng phải trừ vào số tiền cơm tù 23 tháng trong Hoả Lò!? Bây giờ ông Huyến nhớ lại đâu như mười mấy đồng một tháng...
      Ngó cái xương bả vai của ông khó nhọc lên xuống theo nhịp thở, tôi tưởng như nỗi nhọc nhằn của ông vào cái thời điểm chiến tranh Nam Bắc Việt Nam được trao nhiệm vụ đưa những báu vật ấy từ Bảo tàng Lịch sử sơ tán lên Việt Bắc. Trước khi đi lại phải kiểm kê lại bàn giao. Khi yên hàn đưa chúng về Hà Nội cũng thế. Việc trông coi bảo vệ đã có anh em bộ đội nhưng ông phải có trách nhiệm ở lỳ tại đó cùng với họ...
      Năm 1979, ông lại phải tháp tùng lũ báu vật ấy từ Bảo tàng Lịch sử theo một toa tàu đặc biệt để chuyển vào phía Nam ngộ nhỡ ngoài này xảy ra điều gì! Bình Trị Thiên khu Năm ra Hà Nội. Hà Nội Thái Nguyên. Thái Nguyên Hà Nội. Hà Nội thành phố Sài Gòn. Thành phố Sài Gòn- Hà Nội. Những hòm báu vật gập ghềnh bất trắc dằng dặc trên đường thiên lý ấy cấm có suy suyển đi tẹo nào cho đến khi ông Huyến về hưu năm 1992!
      Trước khi rời khu vườn và căn nhà u tịch, tôi được ông Huyến cho hay rằng chiếc ấn Hoàng đế chi bảo mà tôi mô tả tường tận hình dáng lẫn trọng lượng cùng bộ kiếm ấy hình như không có trong danh sách trong kho báu? Mà ông Huyến cho biết thêm, có một chiếc ấn được coi là lớn nhất đó là Sắc mệnh chi bảo đâu như trọng lượng mấy trăm lạng vàng thời vua Minh Mạng.
      Một vựng tập báu vật nhà Nguyễn, tại sao không?
      Bây giờ ngồi viết lại những dòng này thầm tiếc cho người đã hơn ba mươi năm góp phần giữ gìn coi sóc cho kho báu quốc gia mà không có diễm phúc được ngó lại một lần nữa lũ báu vật đã từng đổ mồ hôi và cả nước mắt để giữ gìn coi sóc? Cụ Đỗ Phạm Huyến nay đã là người thiên cổ...
      Ngồi mà thầm tiếc (bởi chỉ nghe chứ chưa thấy) khi giở cuốn Ấn Chương Việt Nam của TS Nguyễn Công Việt (GS Hà Văn Tấn đã nhận xét đây là công trình đầu tiên và không gì có thể so sánh được về lĩnh vực ấn chương học) khi ông viết những dòng đại loại như thế này.
      Để sánh với Đại Thanh, Minh Mệnh đổi quốc hiệu là Đại Nam; năm 1832 cho khắc con dấu bằng vàng mười (kim tỉ) Hoàng đế chi bảo, Sắc mệnh chi bảo, Trị lịch minh thời chi bảo... Sắc mệnh chi bảo dùng để đóng trên các văn bản phong tặng các nhân thần và sắc cáo cho các quan văn võ công thần, nặng tới 235 lượng vàng, phải có một võ quan khỏe mạnh giúp việc đóng dấu.
      Đó là kim tỉ lớn nhất. Mỗi loại ấn tỉ có công dụng khác nhau. Để đóng dấu trên những công văn cho người nước ngoài, Minh Mệnh dùng ngọc tỉ Đại Nam thiên tử chi tỉ, thể hiện rõ tư tưởng độc lập và tinh thần tự hào dân tộc. Còn ngọc tỉ quý và lớn nhất được chế tác vào đời vua Thiệu Trị thứ 6 (năm 1846) gọi là Đại Nam hoàng đế chi tỉ.
      Vân vân và vân vân...
      Nếu chưa làm được việc triển lãm rộng rãi, thiển nghĩ nên sớm có một vựng tập về kho báu nhà Nguyễn. Dám chắc những thứ như Sắc mệnh chi bảo cùng hàng chục món kim ngọc bảo tỷ trong kho báu quốc gia, ngoài cụ Huyến và một số nhà chức việc do có quan hệ công việc được quan chiêm lẫn được sờ vào hiện vật, tính tới thời điểm này có lẽ chỉ đếm trên đầu ngón tay!
      Vậy nên, sẽ như thế nào nếu một bộ vựng tập lần đầu tiên, tất cả các thứ kim ngọc bảo tỷ từ ấn vàng ấn ngọc, kim sách vv... của nhà Nguyễn được công bố?
      Không được sờ vào hiện vật nhưng nội những tấm ảnh chụp chi tiết hình dáng các loại ấn với những mặt trên, núm, mặt đế, dấu kiêm lời giới thiệu chi tiết... cũng mang lại cho người xem bao nhiêu là sắc thái biểu cảm! Với điều kiện, kỹ thuật in ấn như nước ngoài vẫn làm nhằm giới thiệu quảng bá rộng rãi sự độc đáo tinh khéo, hội đủ những giá trị nhân văn lịch sử về các giai đoạn thời kỳ nhà Nguyễn (hiện tại đối với xứ mình không khó) chắc chắn sẽ đáp ứng rộng rãi nhu cầu chính đáng của rất nhiều người!
      Mong rằng là tại sao chưa chứ chả phải tại sao không?
      Đã chỉnh sửa bởi M Mít Đặc; 05-05-2010, 08:24 PM.
      Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.

      Comment

      Working...
      X
      Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom