CON SỐ 4 KỲ BÍ
Tiền nhân ta thường nghiền ngẫm những hiện tượng quan trọng, lặp đi lặp lại trong cuộc sống để đánh giá, tổng kết và sắp hạng ưu tiên. Mục đích là để người đương thời và hậu thế noi theo, ứng dụng trong đời sống. Phần lớn những nhận xét đến nay vẫn còn giá trị, nhưng cũng có một số đã lỗi thời, theo biến chuyển của thời gian. Ngoài ra, dân gian thỉnh thoảng cũng tham gia ý kiến và sắp hạng với một tinh thần bông lơn, trào phúng. Có một điều thú vị là dân ta thường dùng con số 4 để sắp hạng những nhận định của mình. Cũng có lúc dùng các con số 2, 3, 5, 6, 7... nhưng ít hơn.
+ Nhận định về hiện tượng thiên nhiên
1. Về phương hướng có tứ phương : Ðông, Tây, Nam, Bắc.
2. Về thời tiết có tứ quí (hay tứ thời) : xuân, hạ, thu, đông.
3. Có 4 loại cây tiêu biểu cho 4 mùa : mai, lan, cúc, trúc.
4. Tứ hải. Thời xưa người Trung Hoa cho rằng 4 mặt chung quanh đất liền là biển cả. Thuở ấy, người xưa chưa biết Trái Ðất là một quả cầu tròn vĩ đại, gồm nhiều lục địa, bao quanh bởi nhiều biển, chứ không phải chỉ có 4 biển mà thôi. Cho nên họ nói, cả nước, thậm chí cả thiên hạ (tức là cả thế giới) đều là “tứ hải”. Do đó mới có các thành ngữ sau đây:
- Tứ hải giai huynh đệ : Trong bốn biển đều là anh em, tất cả loài người là đồng bào.
- Tứ hải vi gia : Bốn biển là nhà, nghĩa bóng là nói về con người giang hồ, đi phiêu lưu khắp đó đây, không ở nơi nào cố định.
+ Nhận định về hiện tượng xã hội
1. Về ngành nghề, theo quan niệm xưa, có 4 thứ hạng, gọi là tứ dân : sĩ, nông, công, thương. Vào thời đại quân chủ, có lúc chuyển thành sĩ, nông, công, binh. Người ta thường quý trọng kẻ sĩ, nhưng vào lúc mất mùa đói kém, thứ tự bị đảo lộn thành “Nhứt sĩ nhì nông/ Hết gạo chạy rong/ Nhứt nông nhì sĩ.”
2. Về nghệ thuật có 4 ngành : cầm, kỳ, thi, họa.
3. Về nghề lao động có : ngư, tiều, canh, mục. Tức là nghề đánh cá, nghề đốn củi, nghề làm ruộng, nghề chăn nuôi. Ngày nay, ta gọi là ngư nghiệp, lâm nghiệp, nông nghiệp (gồm cả trồng trọt và chăn nuôi).
4. Trong nghề nông có 4 yếu tố sau đây vẫn còn giá trị : Nhứt nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
5- Tứ thi. Bốn bộ sách được coi là kinh điển của Nho giáo : Ðại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử.
6- Tứ bảo. Bốn đồ vật quí báu của người trí thức : Giấy, bút (lông), mực, nghiên. Ngày nay, máy điện toán (computer) đã thay thế ba đồ vật ngày xưa (trừ giấy).
7- Tứ đại mỹ nhân: Trong lịch sử Trung Quốc có bốn người con gái được mệnh danh là tứ đại mỹ nhân (theo chữ Hán: 四大美人), tức là người phụ nữ có sắc đẹp làm khuynh đảo cả một đất nước, thay đổi cả lịch sử. Nhan sắc của họ được ca ngợi là "lạc nhạn" (chim nhạn sa xuống đất), "trầm ngư" (cá phải lặn sâu dưới nước), "bế nguyệt" (che lấp cả mặt trăng) và "tu hoa" (khiến hoa phải xấu hổ).
Theo thứ tự thời gian, bốn người đó là:
a-Đại mỹ nhân trầm ngư Tây Thi. Thời Xuân Thu, khoảng thế kỷ 7-thế kỷ 6 TCN.
b-Đại mỹ nhân lạc nhạn Chiêu Quân. Thời nhà Tây Hán, khoảng thế kỷ 1 TCN.
c-Đại mỹ nhân bế nguyệt Điêu Thuyền. Thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3.
d-Đại mỹ nhân tu hoa Dương Quý Phi. Thời nhà Đường, 719-756.
8- Tứ táng. Thời phong kiến có 4 cách an táng người chết : Thủy táng, hỏa táng, thổ táng, điểu táng. Trong đó có nghĩa là ném thi hài xuống sông, đốt thành tro, chôn dưới đất hay phơi cho chim ăn.
9- Tứ đại đồng đường. Cha, con, cháu, chít. Tuy nhiên đa số dân chúng tỏ ra khá xa lạ về cách sống này. Xưa kia, Việt Nam ta đã từng phải trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, bị ảnh hưởng sâu xa về văn hóa Trung Hoa, cho nên trong xã hội ngày nay, "nhị đại đồng đường" và "tam đại đồng đường" xem ra phổ biến hơn.
10- Tứ sắc là một trò chơi bài có 112 quân bài với 4 màu : xanh, vàng, đỏ, trắng.
11. Ngoài ra, trong sinh hoạt thời trước tại nước ta, có 4 việc mà ta nên cẩn thận, không nên tùy hứng sáp vô, vì hậu quả có thể đem lại nhiều phiền toái. Đó là “Ở đời có bốn cái ngu/ Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu”
+ Nhận định về con người
1. Ở Trung Quốc, vào thời quân chủ, người ta quan niệm về trách nhiệm của một công dân như sau : Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. (Trau dồi bản thân, lo việc gia đình, điều khiển đất nước, mang lại hòa bình cho nhân loại).
2. 4 mục tiêu đạo đức của con người, theo quan niệm xưa :
a- Ðối với phái nam : hiếu, đễ, trung, tín (thờ cha mẹ, trọng người lớn, hết lòng với nước, trọng lời hứa)
b- Ðối với phái nữ : Công, dung, ngôn, hạnh (Nữ công, nét mặt, nói năng, tánh nết).
3- Tứ duy. Bốn đạo đức xưa để duy trì lòng người : Lễ, nghĩa, liêm, sỉ.
4- Còn theo quan niệm của Phật giáo, lại có :
a- Tứ vô lượng tâm là tiêu chuẩn cho lối sống của người Phật tử : Từ, bi, hỉ, xả (Từ : tình thương, cứu khổ; Bi : thương xót, ban vui; Hỉ : vui mừng; Xả : bông bỏ, tha thứ)
b- Tứ diệu đế là 4 lẽ mậu nhiệm của Phật giáo : Sinh, khổ, diệt, đạo.
c- Tứ khổ là 4 cảnh khổ của đời người : sinh, lão, bịnh, tử.
5- Tứ bất tử.
a. Theo quan niệm duy tâm, có 4 hạng người bất tử : Thần, Tiên, Phật, Thánh.
b. Trong đời thường có 4 hạng người cũng được xem là bất tử, gồm người có đạo đức lớn; người có sự nghiệp lớn; người có tác phẩm văn học bất hủ lưu truyền lâu dài; người có công lao lớn
6- Tứ linh. Theo quan niệm xưa, có 4 con vật linh thiêng : long, lân, qui, phụng.
7- Tứ đổ tường. Bốn điều ham mê tai hại: Tửu, sắc, tài, khí (rượu, gái, đánh bạc, hút thuốc phiện hay chích xì ke, ngửi heroine)
8. Con người có 4 điều khác thường về diện mạo và ngoại hình : Nhứt lé, nhì lùn, tam hô, tứ móm
9- Tứ khoái: Đã là con người xem ra ai cũng có 4 khoái cảm:
“Cữu hạn phùng cam vũ
Tha hương ngộ cố tri
Ðộng phòng hoa chúc dạ
Kim bảng quải danh thì”.
Dịch nghĩa là: “Nắng lâu ngày gặp mưa ngọt, tức khổ lâu ngày gặp được sướng. Sống xa quê hương gặp bạn cũ. Ðêm tân hôn của vợ chồng. Tên được yết trên bảng vàng, tức bản đề tên các thí sinh đậu tiến sĩ trong thời đại khoa cử ngày xưa.”
Tiền nhân ta thường nghiền ngẫm những hiện tượng quan trọng, lặp đi lặp lại trong cuộc sống để đánh giá, tổng kết và sắp hạng ưu tiên. Mục đích là để người đương thời và hậu thế noi theo, ứng dụng trong đời sống. Phần lớn những nhận xét đến nay vẫn còn giá trị, nhưng cũng có một số đã lỗi thời, theo biến chuyển của thời gian. Ngoài ra, dân gian thỉnh thoảng cũng tham gia ý kiến và sắp hạng với một tinh thần bông lơn, trào phúng. Có một điều thú vị là dân ta thường dùng con số 4 để sắp hạng những nhận định của mình. Cũng có lúc dùng các con số 2, 3, 5, 6, 7... nhưng ít hơn.

+ Nhận định về hiện tượng thiên nhiên
1. Về phương hướng có tứ phương : Ðông, Tây, Nam, Bắc.
2. Về thời tiết có tứ quí (hay tứ thời) : xuân, hạ, thu, đông.
3. Có 4 loại cây tiêu biểu cho 4 mùa : mai, lan, cúc, trúc.
4. Tứ hải. Thời xưa người Trung Hoa cho rằng 4 mặt chung quanh đất liền là biển cả. Thuở ấy, người xưa chưa biết Trái Ðất là một quả cầu tròn vĩ đại, gồm nhiều lục địa, bao quanh bởi nhiều biển, chứ không phải chỉ có 4 biển mà thôi. Cho nên họ nói, cả nước, thậm chí cả thiên hạ (tức là cả thế giới) đều là “tứ hải”. Do đó mới có các thành ngữ sau đây:
- Tứ hải giai huynh đệ : Trong bốn biển đều là anh em, tất cả loài người là đồng bào.
- Tứ hải vi gia : Bốn biển là nhà, nghĩa bóng là nói về con người giang hồ, đi phiêu lưu khắp đó đây, không ở nơi nào cố định.
+ Nhận định về hiện tượng xã hội
1. Về ngành nghề, theo quan niệm xưa, có 4 thứ hạng, gọi là tứ dân : sĩ, nông, công, thương. Vào thời đại quân chủ, có lúc chuyển thành sĩ, nông, công, binh. Người ta thường quý trọng kẻ sĩ, nhưng vào lúc mất mùa đói kém, thứ tự bị đảo lộn thành “Nhứt sĩ nhì nông/ Hết gạo chạy rong/ Nhứt nông nhì sĩ.”
2. Về nghệ thuật có 4 ngành : cầm, kỳ, thi, họa.
3. Về nghề lao động có : ngư, tiều, canh, mục. Tức là nghề đánh cá, nghề đốn củi, nghề làm ruộng, nghề chăn nuôi. Ngày nay, ta gọi là ngư nghiệp, lâm nghiệp, nông nghiệp (gồm cả trồng trọt và chăn nuôi).
4. Trong nghề nông có 4 yếu tố sau đây vẫn còn giá trị : Nhứt nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
5- Tứ thi. Bốn bộ sách được coi là kinh điển của Nho giáo : Ðại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử.
6- Tứ bảo. Bốn đồ vật quí báu của người trí thức : Giấy, bút (lông), mực, nghiên. Ngày nay, máy điện toán (computer) đã thay thế ba đồ vật ngày xưa (trừ giấy).
7- Tứ đại mỹ nhân: Trong lịch sử Trung Quốc có bốn người con gái được mệnh danh là tứ đại mỹ nhân (theo chữ Hán: 四大美人), tức là người phụ nữ có sắc đẹp làm khuynh đảo cả một đất nước, thay đổi cả lịch sử. Nhan sắc của họ được ca ngợi là "lạc nhạn" (chim nhạn sa xuống đất), "trầm ngư" (cá phải lặn sâu dưới nước), "bế nguyệt" (che lấp cả mặt trăng) và "tu hoa" (khiến hoa phải xấu hổ).
Theo thứ tự thời gian, bốn người đó là:
a-Đại mỹ nhân trầm ngư Tây Thi. Thời Xuân Thu, khoảng thế kỷ 7-thế kỷ 6 TCN.
b-Đại mỹ nhân lạc nhạn Chiêu Quân. Thời nhà Tây Hán, khoảng thế kỷ 1 TCN.
c-Đại mỹ nhân bế nguyệt Điêu Thuyền. Thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3.
d-Đại mỹ nhân tu hoa Dương Quý Phi. Thời nhà Đường, 719-756.

8- Tứ táng. Thời phong kiến có 4 cách an táng người chết : Thủy táng, hỏa táng, thổ táng, điểu táng. Trong đó có nghĩa là ném thi hài xuống sông, đốt thành tro, chôn dưới đất hay phơi cho chim ăn.
9- Tứ đại đồng đường. Cha, con, cháu, chít. Tuy nhiên đa số dân chúng tỏ ra khá xa lạ về cách sống này. Xưa kia, Việt Nam ta đã từng phải trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, bị ảnh hưởng sâu xa về văn hóa Trung Hoa, cho nên trong xã hội ngày nay, "nhị đại đồng đường" và "tam đại đồng đường" xem ra phổ biến hơn.
10- Tứ sắc là một trò chơi bài có 112 quân bài với 4 màu : xanh, vàng, đỏ, trắng.

11. Ngoài ra, trong sinh hoạt thời trước tại nước ta, có 4 việc mà ta nên cẩn thận, không nên tùy hứng sáp vô, vì hậu quả có thể đem lại nhiều phiền toái. Đó là “Ở đời có bốn cái ngu/ Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu”
+ Nhận định về con người
1. Ở Trung Quốc, vào thời quân chủ, người ta quan niệm về trách nhiệm của một công dân như sau : Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. (Trau dồi bản thân, lo việc gia đình, điều khiển đất nước, mang lại hòa bình cho nhân loại).
2. 4 mục tiêu đạo đức của con người, theo quan niệm xưa :
a- Ðối với phái nam : hiếu, đễ, trung, tín (thờ cha mẹ, trọng người lớn, hết lòng với nước, trọng lời hứa)
b- Ðối với phái nữ : Công, dung, ngôn, hạnh (Nữ công, nét mặt, nói năng, tánh nết).
3- Tứ duy. Bốn đạo đức xưa để duy trì lòng người : Lễ, nghĩa, liêm, sỉ.
4- Còn theo quan niệm của Phật giáo, lại có :
a- Tứ vô lượng tâm là tiêu chuẩn cho lối sống của người Phật tử : Từ, bi, hỉ, xả (Từ : tình thương, cứu khổ; Bi : thương xót, ban vui; Hỉ : vui mừng; Xả : bông bỏ, tha thứ)
b- Tứ diệu đế là 4 lẽ mậu nhiệm của Phật giáo : Sinh, khổ, diệt, đạo.
c- Tứ khổ là 4 cảnh khổ của đời người : sinh, lão, bịnh, tử.
5- Tứ bất tử.
a. Theo quan niệm duy tâm, có 4 hạng người bất tử : Thần, Tiên, Phật, Thánh.
b. Trong đời thường có 4 hạng người cũng được xem là bất tử, gồm người có đạo đức lớn; người có sự nghiệp lớn; người có tác phẩm văn học bất hủ lưu truyền lâu dài; người có công lao lớn
6- Tứ linh. Theo quan niệm xưa, có 4 con vật linh thiêng : long, lân, qui, phụng.
7- Tứ đổ tường. Bốn điều ham mê tai hại: Tửu, sắc, tài, khí (rượu, gái, đánh bạc, hút thuốc phiện hay chích xì ke, ngửi heroine)
8. Con người có 4 điều khác thường về diện mạo và ngoại hình : Nhứt lé, nhì lùn, tam hô, tứ móm
9- Tứ khoái: Đã là con người xem ra ai cũng có 4 khoái cảm:
“Cữu hạn phùng cam vũ
Tha hương ngộ cố tri
Ðộng phòng hoa chúc dạ
Kim bảng quải danh thì”.
Dịch nghĩa là: “Nắng lâu ngày gặp mưa ngọt, tức khổ lâu ngày gặp được sướng. Sống xa quê hương gặp bạn cũ. Ðêm tân hôn của vợ chồng. Tên được yết trên bảng vàng, tức bản đề tên các thí sinh đậu tiến sĩ trong thời đại khoa cử ngày xưa.”