• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Chất Thơ Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim Dung

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Chất Thơ Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim Dung




    Đưa thơ vào trong tiểu thuyết, cho tiểu thuyết có chất lãng mạn nhằm tạo thi hứng cho cả người viết lẫn người đọc là đặc điểm cố hữu của 300 tiểu thuyết chương hồi thời Minh - Thanh. Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần có trên vài trăm bài thơ và khi thực hiện phim Hồng Lâu Mộng, các nghệ sĩ Bắc Kinh đã biến những bài thơ này thành nhạc từ - một dạng nhạc phủ - được hát lên, làm giàu thêm chất liệu nghệ thuật cho tác phẩm điện ảnh. Nhà văn Kim Dung đã kế thừa phong cách đưa thơ vào tác phẩm tiểu thuyết như các nhà văn tiền bối mặc dù tiểu thuyết chương hồi của ông là tân văn tiểu thuyết. ở chừng mực nào đó, Kim Dung là một nhà thơ thực sự; ông đã viết cả vài trăm bài thơ, đặc biệt là thơ Thiền tông. Những bài thơ này chưa được in ra; người đời chỉ biết ông là nhà văn chứ chưa hề hiểu được ông còn là một nhà thơ. Chúng ta cũng lưu ý rằng ông nội Kim Dung đã từng làm tri huyện huyện Đơn Dương, Triết Giang và là một nhà thơ khá nổi tiếng cuối đời Thanh với thi tập Hải Ninh Sát Thị Sao Thị. Có lẽ âm vang củ a truyền thống tiểu thuyết Minh - Thanh, âm vang của truyền thống gia đình đã khiến Kim Dung mạnh dạn đưa thơ vào tiểu thuyết võ hiệp, làm cho những tác phẩm văn xuôi củ a ông mênh mang một màu thi ca lãng mạn, trữ tình.


    Có những tác phẩm của kim Dung lấy thơ làm nguồn cảm hứng chủ yếu. Đó là trường hợp bộ Hiệp Khách Hành, gồm 12 quyển. Hiệp Khách Hành là tựa đề một bài thơ dài của nhà thơ Lý Bạch, một trong Đường - Tống bát đại gia mà lịch sử văn học Trung Quốc rất đỗi tự hào. Thơ Lý Bạch có nhiều thể tài: Diễm ca (ca ngợi cái đẹp), Túy ca (viết trong lúc say), Biệt ca (viết lúc chia tay nhau), Biên tái ca (viết về cuộc đời chinh chiến), Tình ca (ca ngợi tình yêu), Hành ca (ca ngợi chuyện giang hồ mạo hiểm),... Hiệp Khách Hành là một bài thơ ngũ ngôn, thuộc thể Hành ca, ca ngợi Ngụy Vô kỵ, tức Lăng Tín Quân, công tử của nước Ngụy và 2 hiệp khách - Hầu Doanh, người giữ cửa Di Môn cùng Chu Hợi, anh hàng thịt. Hai người đã có công giúp Tín Lăng Quân đưa quân sang cứu nước Triệu, bảo vệ Hàm Đan, chống lại quân Tần thời Chiến quốc.
    Triệu khách mạn hồ anh
    Ngô câu sương tuyết minh
    Ngân yên chiếu bạch mã
    Táp nạp như lưu tinh...
    Đi vào trong tiểu thuyết Kim Dung, cả bài thơ Hiệp Khách Hành vẫn được giữ nguyên nhưng nó không còn là một bài thơ nữa. Nó chính là một pho võ công mà ai có tấm lòng chân chất nhất, ít cơ tâm nhất mới nhận ra được. Con người đó là một chàng trai không hề biết chữ: Thạch Phá Thiên tức Cẩu Tạp Chủng. Anh cóc cần bài thơ nói lên ý nghĩa gì, câu thơ biểu đạt điều gì. Anh chỉ nhìn nét chữ. Ví dụ chữ Hành gồm 6 nét thì anh khám phá ra sáu thế võ tương ứng với 6 nét đó chứ không cần biết Hành là đi hay chạy. Anh cứ lẳng lặng khám phá tự dạng như thế cho đến chữ cuối cùng và đắc thủ một môn thần công, điều mà có những người bỏ ra mấy chục năm vẫn không khám phá được. Kim Dung gọi đó là lối trước ý. Lục Mạch Thần Kiếm Truyện mênh mang một không khí lãng mạn, trữ tình của thơ. Đó là những câu thơ của Kim Dung làm ra để ca ngợi hoa trà, một quốc hoa của nước Đại Lý:
    Thanh quần ngọc diện như tương thức
    Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai
    (Quần xanh, vóc ngọc tuồng quen mặt
    Tháng chín, hoa trà rợp lối đi)
    Hoặc:
    Xuân câu thủy động trà hoa bạch
    Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng
    (Giòng xuân nước gợn hoa trà trắng
    Non hạ mây trôi trái vải hồng).
    Đó là những câu thơ do chính Kim Dung làm ra nhưng được gắn vào cho những nhân vật của mình, để các nhân vật tỏ tình trước tình nhân. Thí dụ Trấn Nam vương gia Đoàn Chính Thuần, một con người phong tình rất mực, thường "nói" với các tình nhân Vương phu nhân và Tu la đao Tần Hồng Miên. Với Vương phu nhân, một người rất yêu hoa, Đoàn Chính Thuần đọc:
    Dưới khóm mẫu đơn đành bỏ mạng
    Chết làm quỷ sứ cũng oai phong
    Với Tần Hồng Miên, một người chuyên phóng Tu la đao, Đoàn Chính Thuần chỉ "biên tập" hai chữ mẫu đơn:
    Dưới lưỡi Tu la đành bỏ mạng
    Chết làm quỷ sứ cũng oai phong
    Thi ca, từ phú không thể tách rời với thi pháp. Trong những ngày sống chung với Nguyễn Tinh Trúc, Đoàn Chính Thuần đã chép tặng bà này bài Sầm Viên Xuân, một bài từ danh tiếng:
    Sóng thu dường điểm mực
    Tóc phượng rủ bên tai
    Dung nhan tuấn nhã
    Vẻ thiên nhiên càng ngắm càng tươi
    Cách hoa nhìn bóng dáng
    Vằng vặc ánh sao thưa
    Ngồi tựa lan can ngắm
    Mặt hồ gươm phẳng lặng như tờ ...
    Bao giờ quên được
    Hình ảnh lúc chia phôi
    Khăn là ướt đẫm
    Ly biệt đôi đàng dòng lệ rơi.
    Đoàn Chính Thuần là một vương gia phong nhã, có riêng một thư pháp. Chính nhờ đó, Tiêu Phong đã đối chiếu nét chữ trên bài từ với nét chữ của một nhân vật ẩn danh được gọi là "Thủ lĩnh đại ca" trong lá thư viết về truyện giết cha ông ngoài Nhạn Môn Quan và biết Đoàn Chính Thuần không phải là người chủ mưu vụ giết cha mình.
    Thơ luôn gắn liền với tình yêu, đặc biệt là những mối tình dang dở. Gần như Kim Dung tôn trọng triệt để mô thức đó... Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ Ký, Lệnh Hồ Xung và Nhạc Linh San thương yêu nhau. Rồi một người thứ ba - Lâm Bình Chi - hiện ra và Nhạc Linh San say mê Lâm Bình Chi, phụ rẫy mối tình của Lệnh Hồ Xung. Nàng lấy Lâm Bình Chi khi Lâm Bình Chi đã thự thiến bộ phân sinh dục (dẫn đao tự cung) để luyện Tịch Tà kiếm phổ. Biết chồng mình không còn là đàn ông nữa, Nhạc Linh San đau đớn nhớ thương chàng Lệnh Hồ Xung. Cô đã đề lên trên tấm vải một bài thơ của danh sĩ Lý Thương ẩn, mượn thơ người để biểu đạt tâm trạng của mình:
    Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử
    Xương trắng thành tro hận chửa tan.
    Ngày Nhạc Linh San chết đi, Lệnh Hồ Xung trở về núi Hoa Sơn. Anh vào căn phòng riêng của Nhạc Linh San và đọc được hai câu thơ ấy, biết được tâm trạng Nhạc Linh San và cảm thấy thương yêu cô gái bất hạnh hơn bao giờ hết.
    Cũng trong Tiếu Ngạo Giang Hồ Ký, ta đọc được những câu thơ bình dân khá nổi tiếng của người Trung Hoa. Gần như bọn giang hồ hào sĩ thường lấy những câu thơ nầy làm câu cửa miệng, đọc lên trong những tình huống thích hợp. Thí dụ khi chia tay nhau họ đọc:
    Thanh sơn bích thủy
    Hậu hội hữu kỳ
    (Non xanh trơ đó
    Nước biếc vẫn đây
    Còn ngày gặp gỡ)
    Hay khi khuyên ai xuống tay giết một người, họ thường đọc hai câu thơ:
    Tiểu lượng phi quân tử
    Vô độc bất trượng phu
    (Lượng nhỏ chẳng thành người quân tử
    Không độc sao nên đấng trượng phu)
    Những câu thơ thông tục, đặt đúng vào vị trí trong văn cảnh, đã làm tác phẩm tăng thêm chất văn học.
    Thơ luôn gắn liền với kinh điển của các tôn giáo, bang hội. Trong kinh của Báo hỏa giáo Ba Tư, có đến trên 100 bài thơ của Nga Mạc, đã được nhà thơ Quách Mạt Nhược dịch ra bản Quan thoại. Kim Dung đã khéo léo sử dụng một bài thơ ngắn nói về số phận con người, gắn bài thơ đó vào thân phận Tiểu Siêu, cô gái lai Ba Tư - Trung Hoa trong ỷ Thiên Đồ Long Ký. Tiểu Siêu thương yêu Trương Vô Kỵ nhưng không hề nói lên lòng thương yêu đó. Cô chỉ vẫn thường hát cho anh nghe:
    Lai như lưu thủy hề, thệ như phong
    Bất tri hà xứ lại hề, hà sở chung
    Chỉ có 17 chữ nhưng bài thơ cực kỳ hàm súc. Tôi xin tạm dịch:
    Chợt đến như dòng nước chảy
    Rồi tàn như gió thoảng mau
    Chẳng biết từ nơi nào đến
    Và chẳng biết tàn nơi đâu
    Cho đến khi Tiểu Siêu hôn Trương Vô Kỵ, từ biệt anh để trở về Ba Tư, Trương Vô Kỵ mới khám phá ra ý nghĩa của tình yêu nằm trong lời kinh Bái hỏa giáo. Cuộc đời con người ngắn ngủi thì tình yêu cũng thế; cũng Lai như lưu thủy hề, thệ như phong và bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung. Tôi cho đoạn Tiểu Siêu chia tay Trương Vô Kỵ trên biển là đoạn hay nhất, giàu chất thơ nhất trong cả 11 pho tiểu thuyết đồ sộ của Kim Dung.
    Thơ chính là Đạo. Kim Dung muốn bạn đọc của mình nhận ra điều ấỵ. Ông đã để cho những nhân vật của mình xuất khẩu thành thơ, ngôn từ đơn giản nhưng ý tứ - cái Đạo bên trong - lại rất bao la, thâm diệu. Thí dụ như bài thơ của nhà sư Trí Quan đọc cho kiều phong khi nghe Kiều Phong lên núi thiên thai, chùa Chỉ Quán, yết kiến ông và hỏi tha (m gốc gác của mình . Tự thâm tâm, Kiều Phong rất xấu hổ, rất đau đớn vì mình là người Khất Đan; mình không thuộc dân tộc Hán. Nhà sư Trí Quan đã giải quyết mối ưu tư nội tại của Kiều Phong bằng một bài thơ mang chất thiền mênh mông:
    Khất Đan với Hán nhân
    Bất luận giả hay chân
    Ân oán cùng vinh nhục
    Không hơn đám bụi trần
    Kim Dung đã đẩy tiểu thuyết của mình đi đến bờ cõi bao la của triết học. Và tùy trình độ nhận thức, cảm thụ; các nhân vật của ông ngộ hay không ngộ vấn đề. Tất nhiên, bài thơ như thế này rất gần gũi với con người, không đến nỗi bí hiểm như những công án của Thiền tông.
    Trong 11 pho tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, thơ Trung Hoa và thơ của Kim Dung xuất hiện đều đặn. Nó trung hòa với tính chất sắt máu của cuộc đấu tranh chánh - tà, thể hiện cái hồn của văn học tiểu thuyết chương hồi truyền thống. Nó kết hợp với thư pháp (phép viết chữ), hình thành nên những pho võ công cho phán quan bút, kiếm pháp, chưởng pháp. Nó làm nên tố chất lãng mạn cho tình yêu, chất triết lý cho tôn giáo, chất trí tuệ cho đời sống. Đưa thơ vào truyện kiếm hiệp như ông quả là thủ pháp của một nhà văn cao cường. Có thể nói, Kim Dung đã vượt xa những bậc tiền bối của mình trong hệ tiểu thuyết chương hồi Minh Thanh. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi Kim Dung là một nhà thơ có tài và tài năng của ông thực sự phát triển rực rỡ khi người tình Hạ Mộng ra đi khỏi vòng tay ông.


    Vũ Đức Sao Biển
    Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.
    Similar Threads
  • #2



    Kim Dung giữa đời tôi là bộ biên khảo của Vũ Đức Sao Biển về tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, được viết từ năm 1993.


    Bộ sách đã được Nhà xuất bản Trẻ in và tái bản đến lần thứ ba. Sách gồm 5 tập:
    Kiều Phong - Khát vọng của tự do,
    Thiên hạ đệ nhất mỹ nhân,
    Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo,
    Thanh kiếm và cây đàn
    Nhân vật Kim Dung nhìn qua lăng kính pháp luật.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      RƯỢU TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

      RƯỢU TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

      (Vũ Đức Sao Biển )
      .
      Chắc hẳn những bạn đọc tác phẩm Kim Dung đều đồng ý rằng đoạn tửu luận của Tổ Thiên Thu trong Tiếu Ngạo Giang Hồ Ký là đoạn gây sảng khoái nhất. Với đoạn văn này, Kim Dung đã nâng nghệ thuật uống rượu lên thành một thứ đạo : tửu đạo - và với cách diễn đạt tài tình, dàn cảnh oái ăm, Kim Dung đã thực sự cuốn hút người đọc. Tổ Thiên thu biết được Lệnh Hồ Xung, người yêu của Thánh cô Nhậm Doanh Doanh, đang bị bệnh mất hết công lực. Anh ta bèn ăn cắp Tục mệnh bát hoàn (8 viên thuốc duy trì mạng sống) của một người bạn thân là Lão Đầu Tử, hòa vào rượu để dẫn dụ cho Lệnh Hồ Xung uống.

      Nguyên Lão Đầu Tử đã bỏ ra 18 năm để ăn cắp những kỳ trân, dược vật trên thế gian, chế ra 8 hoàn thuốc thuần âm, chữa trị chứng "Tiên thiên bất túc" (một dạng suy dinh dưỡng) cho con gái mình là Tiểu Di. Trong khi đó, bệnh của Lệnh Hồ Xung thuộc trạng thái khí âm hàn. Cho nên, đem thuốc thuần âm cho kẻ dư khí âm hàn uống khác nào sông Trường Giang nước đã đầy, lại được tháo nước hồ Bàn Dương, hồ Động Đình đưa vào cho nước thêm đầy lên, hóa ra càng thêm hại. Tổ Thiên Thu biết Lệnh Hồ Xung là người khảng khái, không chịu uống thuốc ăn cắp nên y bày đặt ra chuyện tửu luận, kích thích tinh thần Lệnh Hồ Xung. Theo y, bậc danh sĩ phải biết uống từng thứ rượu với từng thứ chung riêng : rượu bồ đào uống chung dạ quang; rượu trúc diệp thanh phải uống chén Dương chi bạch ngọc mà phải Dương chi bạch ngọc đời Bắc Tống; rượu trắng phải uống trong sừng trâu, lấy mùi tanh của sừng chế ngự mùi men nồng của rượu; rượu bách thảo mỹ tửu được chế với 100 thứ hoa cỏ thơm, phải được uống với chung bằng trúc để thơm hơn...Y nói một hơi 8 thứ rượu và móc trong bọc ra 8 thứ chén, rót rượu vào mời Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung tức khí, nuốt sạch 8 chén rượu; có chén thum thủm mùi cá ươn, có chén cay sè, có chén rào rạt như ngàn dao đâm vào cổ họng...Thiện ý của Tổ Thiên Thu là cứu người, vì hắn dốt nát về y lý hóa ra làm hại người.




      Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung xây dựng nhân vật Lệnh Hồ Xung, đại đệ tử phái Hoa Sơn, là một chàng du tử lãng mạn, quý rượu hơn tính mạng mình.

      Trong khi uống rượu, các nhân vật của Kim Dung thờng thể hiện phẩm cách người đối ẩm với mình. Đoạn uống rượu đẹp nhất và khiến cho người đọc kinh ngạc nhất là đọan Điền Bá Quang mời rượu Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung bị sư phụ phạt giam 3 năm trên đỉnh Ngọc Nữ Phong để ăn năn, sám hối. Biết bạn rất nhớ rượu, Điền Bá Quang đã vượt 6 000 dặm về tới kinh đô Lạc Dương, vào trong hoàng cung của vua Tống ăn cắp 2 hũ Thiệu Hưng nữ nhi hồng. Thấy trong hầm rượu của hoàng cung còn đến mấy ngàn hũ Thiệu Hưng, Điền Bá Quang phóng cước đá bể tất cả để "bọn vua quan không còn được uống thứ rượu quý này nữa", vì trên đời này "chỉ còn Điền mỗ với Lệnh Hồ huynh đệ mới xứng đáng được uống nó mà thôi". Tuy nhiên, gánh 2 hũ rượu lên Ngọc Nữ Phong là chuyện dễ, mà được đối ẩm với Lệnh Hồ Xung là chuyện cực kỳ khó vì Điền Bá Quang vốn rất sợ sư phụ của Lệnh Hồ Xung là Nhạc Bất Quần. Hắn bèn nghĩ cách điệu hổ ly sơn. Nhạc Bất Quần lầm mưu xuống núi đi tìm Điền Bá Quang. Thế là hắn ung dung lên Ngọc Nữ Phong đối ẩm với Lệnh Hồ Xung.

      Nhà Nho có câu :"Bậc quân tử lấy văn kết bạn" (quân tử dĩ văn hội hữu). Kim Dung đã mượn chén rượu cho những nhân vật võ lâm của mình giao kết với nhau. Trong tình bạn hay trong tình yêu, chén rượu vẫn làm vai trò của cơ duyên hội ngộ.



      Đọc Lục Mạch Thần Kiếm, ta thấy cuộc hội ngộ giữa Kiều Phong, bang chúa Cái Bang và Đoàn Dự, vương tử nước Đại Lý, là cuộc hội ngộ trong hơng rượu nồng. Thoát ra khỏi cảnh giam cầm ở Thái Hồ, Đoàn Dự tìm đến một quán rượu ngoài thành Vô Tích thì bắt gặp :"Một đại hán mắt sáng như điện, trạc ngoài 30, thân thể cao lớn, mặc áo vải màu tro, phục sức sơ sài, mộc mạc" đang ngồi độc ẩm. Đoàn Dự nhận định :"Đây chắc chắn là hào khách của Yên, Triệu; Giang Nam quyết không thể có nhân vật thế này". Ngoại hình Kiều Phong đã khiến Đoàn Dự kính ngưỡng, bèn mời Kiều Phong uống rượu. Kiều Phong gọi tất cả 30 cân rượu (khoảng 18 lít) và đề nghị Đoàn Dự uống bằng bát lớn. Đoàn Dự nào biết uống rượu, cho nên uống xong bát đầu tiên, anh đã muốn gục xuống tại chỗ. Kiều Phong chỉ nhìn anh mà tủm tỉm cười. Đến đây thì Kim Dung "cứu" nhân vật của mình. Vốn Đoàn Dự đã học được tuyệt kỹ Lục mạch thần kiếm, quy khí lực vào huyệt Đan điền rồi vận công phóng kiếm khí vô hình ra 6 ngón tay. Từ kiếm khí, Kim Dung cho phép nhân vật của mình phóng ra ...kiếm tửu. Đoàn Dự nạp hết số rượu vừa uống vào huyệt Đại truy, rồi dẫn rượu đi qua các huyệt Thiên tôn, Kiên chân, Tiểu hải, Chi chính, Dưỡng lão, Dương cốc, Hậu thoát và "phóng" rượu ra nơi ngón Thiếu trạch (ngón út). Từ cuộc đấu rượu hi hữu đó, họ nhận ra phẩm chất của nhau và kết nghĩa anh em.

      Rượu nối kết tình bạn và cũng chính rượu tạo ra hào khí. Trong Lục Mạch Thần Kiếm, có đoạn nhà sư Hư Trúc, cung chủ cung Linh Thứu, bái kết Kiều Phong làm đại ca trước mặt quần hùng Trung Nguyên khi Kiều Phong đang bị quần hùng vây hãm. Từ nước Khất Đan, Kiều Phong dẫn 18 tên lính trung thành gọi là Yên vân thập bát kỵ, mang theo 36 da dê đựng rượu quay về chùa Thiếu Lâm, tỉnh Hồ Nam. Nơi đây, anh bị quần hùng vây hãm. Trong cảnh nguy nan, bỗng dưng Đoàn Dự xuất hiện. Hai anh em đang bưng rượu lên uống thì một nhà sư xấu xí trong đội ngũ chùa Thiếu Lâm chạy ra: "Đại ca với tam đệ uống rượu sao không gọi ta ?". Nhà sư đó là Hư Trúc. Hư Trúc đã kết nghĩa với Đoàn Dự nhưng chưa được bái kiến Kiều Phong. Mặc dù quy luật giới tửu (cấm rượu) của chùa Thiếu Lâm rất khắt khe nhưng khi đã thấy đại ca và tam đệ uống rượu để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu, Hư Trúc cũng nổi hào khí, muốn uống rượu trước mặt quần hùng để chia sẻ với hai người anh em những hoạn nạn sẽ xảy ra. Và quả nhiên bầu rượu nghĩa tình đó đã làm nên đại sự. Kiều Phong chế ngự được kẻ đại ác Du Thản Chi, vươn tay xách cổ Cô Tô Mộ Dung Phục như người ta xách một con gà mái. Đoàn Dự sử dụng 6 thế Lục mạch Thần kiếm đánh cho Mộ Dung Phục thất điên bát đảo, làm phơi bày toàn bộ âm mưu đen tối của nhà Mộ Dung. Hư Trúc vận Bắc minh chân khí, biến những giọt rượu của đại ca thành băng làm một thứ Sinh tử phù cấy vào người gã đại ác Đinh Xuân Thu, chế ngự và sanh cầm gã. Bọn Yên vân thập bát kỵ, mỗi người một túi rượu, phanh cổ áo để lộ ra hình tượng con chó sói được xăm trên ngực của dân tộc Khất Đan, hú lên những tiếng hoang dã và ngửa cổ uống rượu, thể hiện quyết tâm cũng liều chết với chủ tướng Kiều Phong.




      Nhưng rượu trong tác phẩm võ hiệp của Kim Dung không chỉ uống trong lúc đoàn viên, mà còn được uống trong khi lâm biệt đầy máu và nước mắt. Từ khi biết mình là người Khất Đan, Kiều Phong chỉ mong tìm về bên kia Nhạn môn quan để suốt đời săn chồn đuổi thỏ, tuyệt không dính dấp đến giới võ lâm Trung Quốc nữa. Nhưng hoàn cảnh đã bó buộc ông phải cứu lấy cô bé A Châu, và ông đã bế nàng tới Tụ hiền trang ra mắt Tiết Mộ Hoa, nhờ viên thần y này giúp đỡ. Hóa ra KIều Phong đã tự dấn thân vào chốn hung hiểm : quần hùng Trung Nguyên đang họp nhau tại Tụ hiền Trang để bàn kế sách diệt ông, loài Liêu cẩu man rợ! Kiều Phong nhìn những kẻ đang vây hãm mình. Họ là những anh em ruột thịt của ông ngày trước ở Cái Bang, là những bạn bè tốt của ông thuộc các võ phái Trung Quốc, là những người mà ông cha bao giờ có ý niệm thù hằn, căm ghét. Nhưng cuộc diện giữa Tụ hiền trang lúc đó là một mất một còn, là ta sống thì người chết. Kiều Phong đã đề nghị anh em Du Ký, Du Câu - chủ nhân Tụ hiền trang - cho xin mấy vò rượu. Ông rót rượu ra bát lớn, mời anh em Cái bang uống trước để nói lời cuối cùng, dứt tình đoạn nghĩa. Ông uống rượu với bạn bè các môn phái mỗi người một bát. Có kẻ bưng tô rượu dứt tình với Kiều Phong mà nước mắt tuôn rơi. Rồi sau đó, Kiều Phong đại khai sát giới, tìm con đường sống riêng cho mình, chạy về bên kia ải Nhạn môn quan nghìn trùng xa cách.



      Có trường hợp uống rượu tưởng như chia biệt lại hóa ra đoàn viên. Đó là trường hợp uống rượu kỳ cục của Cẩu Tạp Chủng (Thạch Phá Thiên), một thiếu niên ngây thơ, trong trắng tr ư ớc hai ông anh kết nghĩa đầy mưu mô xảo quyệt là Trương Tam và Lý Tứ. Trương Tam, Lý Tứ thật ra chỉ là tên giả mạo; họ chính là hai sứ giả Thưởng Thiện và Phạt ác của đảo Long Mộc ngoài biển Đông. Trương Tam, Lý Tứ cũng giả vờ kết nghĩa với Thạch Phá Thiên, cũng thề đồng sinh đồng tử, nhưng trong bụng hai lão chỉ muốn chàng thiếu niên này chết đi cho khuất mắt. Trương Tam có bầu rượu dương cương, Lý Tứ có bầu rượu âm nhu, mỗi lão tự uống bầu rượu của mình và lão này rất sợ bầu rượu của lão kia. Kết nghĩa xong, chàng thiếu niên Thạch Phá Thiên đề nghị uống rượu. Thạch Phá Thiên ngây ngô, xin được uống hai thứ rượu trong dủ hai bầu. Trương Tam, Lý Tứ cả mừng vì đinh ninh thế nào thằng nhỏ này cũng chết tươi vì hai thứ rượu. Một lần nữa, Kim Dung lại "cứu nhân vật" ngây thơ, trong trắng của mình. Thạch Phá Thiên đã từng ngộ kỳ duyên, con người chàng ta dung hòa được cả hai loại chất độc dương cương và âm nhu. Cho nên uống rượu xong, chẳng những chàng trai trẻ không chết mà công lực còn tăng tiến. Trương Tam, Lý Tứ hối hận và xấu hổ vô cùng. Từ tình bạn giả trá, họ đã đổi ra tình bạn chân thành. Cẩu Tạp Chủng trở thành người em tốt của Thưởng Thiện và Phạt ác. Đó là chương uống rượu thú vị nhất trong toàn bộ bộ truyện Hiệp Khách Hành.



      Rượu trong truyện võ hiệp Kim Dung còn làm nên tình yêu lứa đôi, giàu chất thơ lãng mạn. Có những lứa đôi gặp gỡ lần đầu tiên qua chén rượu và tình yêu bắt nguồn từ đó.



      Trong ỷ Thiên Đồ Long Ký, Trương Thúy Sơn làm quen với Hân Tố Tố qua chén rượu trên con thuyền nhỏ đậu giữa lòng Thái Hồ. Trương Vô Kỵ cũng gặp gỡ và yêu quận chúa Triệu Minh qua chén rượu. Đoạn giàu chất thơ nhất của ỷ Thiên Đồ Long Ký là đoạn Triệu Minh nhớ Vô Kỵ, tìm lên tửu lâu và ngồi đúng vào cái bàn mà hai người đã từng ngồi đối ẩm. Thiếu vắng Vô Kỵ, cô cũng gọi bình rượu, thức ăn, hai cái chén, hai đôi đũa, hai chung rượu. Cô rót rượu ra đủ hai chung, uống một chung và nước mắt rơi. Đúng lúc đó thì Trương Vô Kỵ xuất hiện. Và họ tìm lại được hơi ấm tình yêu trong chung rượu đối ẩm.



      Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lệnh Hồ Xung thường đối ẩm với người yêu là Doanh Doanh. Một nhân vật khác, Lam Phượng Hoàng, giáo chủ Ngũ độc giáo Vân Nam, cũng rất say đắm Lệnh Hồ Xung. Cô mang vò rượu Ngũ Long mỹ tửu, trong đó có ngâm năm thứ trùng độc, từ Vân Nam đến Giang Nam để chữa bệnh cho Lệnh Hồ Xung. Cảm xúc tấm thịnh tình đó, Lệnh Hồ Xung đã uống rượu cho cô vui lòng. Tác giả Kim Dung đã để cho Lam Phượng Hoàng hôn Lệnh Hồ Xung trước mặt mọi người, kể cả sư phụ của Lệnh Hồ Xung là Nhạc Bất Quần. Trong con mắt của Lam Phượng Hoàng, kẻ biết uống rượu của cô mới là người tốt.



      Trong Lục Mạch Thần Kiếm, mỗi khi trở về Nhạn môn quan, Kiều Phong nhớ A Châu là tìm đến chung rượu giải sầu. Đoạn đẹp nhất trong mối tình hai người là đoạn Kiều Phong ngồi nghe A Châu tâm sự : "Đại ca ơi, tiểu nữ nguyện suốt đời đi theo đại ca về Nhạn môn quan săn chồn đuổi thỏ, sống cuộc đời ung dung khoái lạc". Nghe cô bé tâm sự, Kiều Phong cao hứng. Trong cái quán nghèo ngoài biên giới không có một giọt rượu, ông cũng giả vờ nâng cái chén không lên, ngửa cổ ra như đang thực sự Thưởng thức men rượu nồng.

      Trong Thần Điêu Hiệp Lữ, có cô bé Quách Tường, 16 tuổi, say mê người anh họ mình là Thần điêu đại hiệp Duơng Qua. Mặc dù Dương Qua chạy theo hình bóng của sư phụ là Tiểu Long Nữ, không nghĩ đến mối tình si của Quách Tường, Quách Tường vẫn vượt ngàn dặm ra đi tìm anh. Trong túi hành trang của cô bé, luôn luôn có một bầu rượu. Cô chỉ có mỗi ước mong : cùng Dương Qua đối ẩm. Nhưng ước mong đó không bao giờ thành hiện thực. Quách Tường lên núi đi tu, trở thành sư tổ phái Nga Mi.

      Những lứa đôi yêu nhau của tác phẩm Kim Dung uống rượu như ta uống cà phê. Họ gặp nhau là mời nhau chén rượu, trang trọng, cung kính. Không có ai uống rượu đến nỗi quần áo xốc xếch, ong bớm lả lơi. Chén rượu trong tình yêu của tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung mang theo tính cách đạo đức mặc dù khung cảnh uống rượu lãng mạn vô kể : uống trong quán khuya vắng người, uống trong căn phòng chỉ có hai người, giữa đêm mùa dông tuyết rơi lả tả; uống trên con thuyền nhỏ chơi vơi giữa đêm trăng trên dòng Trường Giang mông mênh.

      Nhân vật Tiêu Tương Dạ Vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn trong Tiếu Ngạo Giang Hồ luôn luôn gắn liền tâm hồn mình với chén rượu. Kim Dung mô tả Mạc Đại :"Tớng mạo tiên sinh điêu linh cổ quái, lúc nào cũng như ba phần tỉnh, bảy phần say". Mạc Đại có cây dao cầm rất cũ kỹ, trong cây dao cầm lại giắt một lưỡi kiếm mỏng như lá lúa. Tiên sinh xuất hiện dưới chân núi Hành sơn, trong quán rượu đầy ấn tượng. Quần hùng gồm chín gã, uống chín chung rượu, đang ngồi nghị luận rằng võ công Mạc Đại còn kém thua sư đệ mình là Lưu Chính Phong vì Lưu Chính Phong đánh ra một đường kiếm là đứt đầu bảy con chim nhạn. Lúc đang nói chuyện cao hứng thì một ông già gầy gò đi đến, nghéo cổ nhìn các hán tử và bảo: "Các người nói thúi lắm!". Rồi bỗng dưng, các gã hán tử chỉ thấy trước mắt hoa lên một cái như có một luồng ánh sáng lấp lánh. Ông già gầy gò bỏ đi, tiếng đàn tình tang xa dần. Một cơn gió nhẹ thổi qua trên bàn ruợu, chín cái miệng chén bị cắt đứt lìa lần lợt rơi xuống mặt bàn, vỡ tan. Hóa ra kẻ lam lũ ấy là Mạc Đại tiên sinh. Ông già say ấy rút kiếm khi nào, chém chín miệng chén khi nào, đút kiếm vào đáy cây dao cầm khi nào, không ai nhìn rõ được. Chỉ với một đường kiếm tiện đứt chín miệng chung rượu thì bảy đầu chim nhạn phỏng có là bao! Rõ ràng, trong đoạn này có hai thứ rượu : một thứ rượu say sinh nói bậy của chín hán tử và một thứ rượu cực kỳ tỉnh táo của Mạc Đại tiên sinh

      Rượu trong truyện võ hiệp của Kim Dung cũng biến thành một thứ võ khí. Trong Lục Mạch Thần Kiếm, bọn Di Bà Bà của cung Linh Thứu tung bì rượu lên thành thế Mãn thiên hoa vũ (ma hoa đầy trời) cho chủ nhân mình là Hư Trúc dùng Bắc minh chân khí hóa rượu thành băng, khống chế địch thủ. Rượu được dùng để pha độc được, trừng trị những anh háo sắc. Vợ của Mã Đại Nguyên là Ôn Thị tư tình với Đoàn Chính Thuần, em ruột nhà vua nước Đại Lý. Giận Chính Thuần lòng dạ lang chạ, Ôn Thị đã pha bình Mê xuân tửu dụ cho Đoàn Chính Thuần uống, rồi trói lại và bắt đầu... cắn từng miếng thịt của Đoàn Chính Thuần để trả thù.

      Trong Lộc Đỉnh Ký, Vi Tiểu Bảo đã biết dùng Mê xuân tửu từ thuở bé. Mẹ của y là Vi Xuân Phương, làm điếm trong thành Dương Châu đã từng pha thuốc mê vào rượu cho bọn làng chơi uống, để trấn lột tiền tài vật dụng. Đắc thủ được bài học lưu manh đó khi làm quan lớn ở Bắc Kinh, Vi Tiểu Bảo cũng pha chế những bình Mê xuân tửu để hãm hại, vu cáo những kẻ thù của mình. Từ rượu độc, Vi Tiểu Bảo nghĩ ra những trò đầu độc khác tệ hại hơn và tất nhiên mực độ lưu manh hạ cấp cao hơn. Rượu trợ lực cho những màn tác oai, tác quái của bọn quan lại triều Thanh. Để hành hạ Trịnh Khắc Sảng, kẻ tình địch ngày trước của mình, Vi Tiểu Bảo đã cho tiền để bọn thị vệ dưới quyền uống rượu thoải mái. Uống xong, chúng kéo qua tư dinh Trịnh Khắc Sảng, đòi nợ cho "bá tước" Vi Tiểu Bảo. Chúng đập phá nhà cửa, tài sản, lăng nhục Trịnh Khắc Sảng và vợ con, bắt cóc, giết người rồi vu cáo...

      Đọc tác phẩm Kim Dung, ta biết được người Trung Quốc có nhiều thứ rượu danh tiếng : Thiệu Hưng Nữ nhi hồng, Thiệu Hưng Trạng nguyên hồng, Trúc diệp thanh, Mai quế lộ, Bách thảo tửu, Biên tái tửu, Hầu nhi tửu, Bồ đào tửu, Ngũ gia bì, Kim tước tửu... Đọc Kim Dung, ta mới biết được phong cách uống rượu của người Trung Quốc: rượu thường được hâm nóng trước khi uống, nhất là vào mùa đông. Thỉnh thoảng, trong vài tình huống đặc biệt, khi công nghiệp làm nước đá chưa ra đời, tác giả đã để cho nhân vật mình làm ra băng để uống rượu.

      Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, có đoạn Lệnh Hồ Xung cùng Hướng Vấn Thiên tìm về Cô Mai sơn trang ở Giang Nam gặp gỡ Giang Nam tứ hữu. Để mời rượu Lệnh Hồ Xung giữa mùa hè nóng bức, Đan Thanh tiên sinh đã nhờ anh mình là Hắc Bạch Tử dùng Hàn băng chưởng hóa nước thành ra nước đá ướp lạnh rượu bồ đào Thổ Lỗ Phồn!

      Đọc Kim Dung, ta mới biết được những cách uống rượu khác nhau.

      Đối ẩm là hai người uống, thường là tình nhân hoặc bạn hữu thân thiết.

      Độc ẩm là uống một mình, trong lòng đang lo nghĩ hoặc tưởng nhớ.

      Cộng ẩm hay Quần ẩm là một nhóm người cùng uống với nhau.

      Loạn ẩm là một đám đông cùng uống.

      Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, đoạn loạn ẩm hay nhất là đoạn bọn tà ma ngoại đạo thết tiệc Lệnh Hồ Xung để lấy lòng Thánh cô Doanh Doanh. Thương nhau, quý nhau, người ta mới tặng rượu. Quần hào Cái bang Trung Quốc, tuy là đi ăn mày, đáng lẽ chỉ xin cơm, thì người ta còn xin cả rượu nữa. Chén rượu của Kim Dung đã làm cho những nhân vật của ông nổi tiếng. Hồng Thất Công nổi tiếng chuyên uống rượu với thịt chó. Kiều Phong nhờ rượu mới phát huy được thần oai, càng uống càng mạnh, càng tỉnh táo. Hư Trúc nhờ uống rượu mà tìm ra được cô vợ sắc nước hương trời : công chúa Văn Nghi của nước Tây Hạ. Thạch Phá Thiên nhờ uống hai thứ rượu độc mà hóa giải được sự xung đột của âm dương nhị khí, đạt đến mức thượng thừa trong võ học... ở chừng mực nào đó, Kim Dung đã nghĩ đến câu cổ thi :

      Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch
      Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh

      Xưa nay thánh hiền đều lặng lẽ
      Chỉ người uống rượu mới còn danh
      (Lý Bạch)

      Tác phẩm của Kim Dung tràn đầy rượu và ruợu. Trừ những nhà sư, các nhân vật của ông ít nhiều đều biết đến chén rượu. Rượu làm nên sự hưng phấn cho cuộc đấu tranh chống cái ác, biểu dương cái thiện và lẽ công bằng ở đời.


      Uống rượu nhiều tất có tình trạng say rượu xảy ra. Những người say trong tác phẩm Kim Dung cũng say một cách tử tế. Trong những hội loạn ẩm, họ xai quyền thách đố nhau hoặc cãi cọ chửi bới. Duy nhất trong muời bốn bộ truyện, có một nhân vật say rượu phạm vào tội đại ác, trở thành một thứ tửu tặc. Nhân vật đó là Thành Khôn, sư phụ của Tạ Tốn. Trong ỷ Thiên Đồ Long Ký, Thành Khôn say rượu, đã làm nhục và giết hại vợ con của đồ đệ mình. Y lẻn vào chùa Thiếu Lâm làm một nhà tu giả mạo dưới pháp danh Viên Chân. Kẻ tửu tặc ấy đã bị tìm ra, bị trừng trị nhưng rồi cuối cùng cũng được tha thứ.

      Rượu trong truyện võ hiệp Kim Dung khác xa với rượu ở miền Viễn Tây Mỹ trong phim cao bồi, khác xa với rượu trong các hộp đêm trên toàn thế giới và cũng khác xa với "rượu" trong các quán bia ôm. Rượu trong truyện Kim Dung thể hiện triết lý nhân sinh gần gủi cuộc sống. Nó làm nên tình yêu, tình bạn, hận thù, sự tha thứ, mối hoài cảm, niềm hối tiếc.

      (hết bài RƯỢU TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG)


      .

      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      • #4

        CHÓ TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

        ..::~Trích dẫn nguyên văn bởi CONHAKO View Post




        (hết bài RƯỢU TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG)


        .
        TIẾP ĐẾN LÀ... CHÓ TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

        Tiểu thuyết của nhà văn Kim Dung (Trung Quốc) là tiểu thuyết võ hiệp, đáng lẽ chẳng liên hệ gì đến chó mèo cả. Ấy vậy mà trong tác phẩm của mình, ông lại dành cho con chó khá nhiều tình cảm mới là điều lạ.

        Tác phẩm Hiệp khách hành nói về cuộc đời của cậu bé Cẩu Tạp Chủng. Cẩu tạp chủng có nghĩa là chó lộn giống. Nguyên là cậu cũng có cha mẹ đàng hoàng tử tế nhưng một người phụ nữ ghen với mẹ cậu, đã bắt cậu về nuôi từ khi mới 3 tháng tuổi. Bà đặt tên cho cậu là Cẩu Tạp Chủng để khi nhớ tới mẹ cậu, bà kêu tên cậu... chửi cho đỡ buồn.

        Mãi đến khi lớn lên, cậu bé mới hiểu mình tên là Thạch Phá Thiên, con của Thạch Thanh và Mẫn Nhu ở Giang Nam. Tuy cái tên rất xấu, nhưng Cẩu Tạp Chủng đã thể hiện phong cách của một người anh hùng đúng nghĩa, khác xa với người anh ruột của cậu, vốn có tên Thạch Trung Ngọc cực đẹp nhưng hành vi lại rất xấu xa.

        Cùng đi theo Cẩu Tạp Chủng là một con chó lông vàng thông minh, trung thành tên là A Hoàng. Hiệp khách hành là một tác phẩm vinh danh loài chó, chỉ tiếc loài chó không biết đọc chữ! Ở vài tác phẩm khác, hình ảnh con chó cũng hiện ra. Chàng trai Trương Vô Kỵ mới 14 tuổi, lên Thiên Sơn, đã bị bầy chó săn của Chu Cửu Chân rượt cắn.

        Tác phẩm Ỷ thiên đồ long ký gọi đây là bầy ác cẩu (chó dữ). Trong tác phẩm Bích huyết kiếm, Kim Dung còn tả cảnh hàng vạn con chó... sói (lang), rượt đuổi các con mồi trên sa mạc Hoàng Thổ dưới núi Thiên Sơn. Chó sói... cũng là chó vậy, chẳng qua là chúng chưa được thuần hóa mà thôi.

        Có chó, tất phải có chuyện ăn thịt chó. Tuy tiểu thuyết của Kim Dung chưa tập trung được nhiều thịt chó như ở chợ Ông Tạ, nhưng nhiều nhân vật của ông rất khoái món thịt chó. Trong Thiên long bát bộ, có nhà sư Tam Tĩnh vi phạm giới luật, ăn thịt chó uống rượu đế đàng hoàng. Nhân vật Hồng Thất Công trong Xạ điêu anh hùng truyện là một ông trùm ăn thịt chó.

        Trong Ỷ thiên đồ long ký cũng có chuyện quân Mông Cổ canh gác Đại Đô (Bắc Kinh), nấu nồi thịt chó, hơi thơm bay ngất trời xanh. Nhân vật Phạm Dao - Quang minh hữu sứ của Minh giáo đã đến bốc một cục ăn trước, nhân đó đổ thuốc Thập hương nhuyễn cân tán vào nồi thịt chó để đầu độc cả bọn, rồi tìm thuốc giải cứu quần hùng Trung Quốc.

        Trong Tiếu ngạo giang hồ, Điền Bá Quang bày đặt vu cáo Định Dật sư thái uống rượu ăn thịt chó khiến cô Nghi Lâm phải cãi lại: “Dù ngươi có rình mò thì cũng không bao giờ thấy sư phụ ta ăn thịt chó uống rượu đâu!”. Chiêu thức võ công cũng mang tên con chó đàng hoàng. Phong Ba Ác (trong Thiên long bát bộ) đấu võ với Trần trưởng lão của Cái Bang, đã há miệng... cắn họ Trần một miếng.

        Bao Bất Đồng - cùng phe Phong Ba Ác - gọi đó là thế “Lã Đồng Tân giảo cẩu” (Lã Đồng Tân cắn chó). Làm gì có chiêu thức kỳ quái này, chỉ có chiêu thức “Cẩu giảo Lã Đồng Tân” (chó cắn Lã Đồng Tân). Thế nhưng vì không nỡ gọi đồng bọn mình là chó nên Bao Bất Đồng đã đảo ngược lại.

        Cũng trong Thiên long bát bộ, Mộ Dung Phục đánh té sấp địch thủ của mình là Đoàn Dự. Hắn giễu cợt Đoàn Dự đang sử dụng chiêu “Ác cẩu ngật xí” (chó dữ táp phân). Đoàn Dự nổi nóng, đã dùng Lục mạch thần kiếm đánh cho hắn té đái vãi phân. Bọn hào sĩ giang hồ Cái Bang chuyên đi xin ăn, nên rất ghét con chó. Mỗi người phải cầm theo một cây gậy để xua chó.

        Từ đó, Kim Dung đặt ra một pho võ công gọi là “Đả cẩu bổng pháp” (phép dùng gậy đánh chó). Theo ông, loại võ công này rất cao cường, gồm 72 đòn thế, chỉ sử dụng một cây gậy trúc mà chống được quyền, chưởng, đao, kiếm... Tất nhiên, “cẩu” ở đây không còn là con chó nữa mà nó là kẻ thù địch, kẻ tàn bạo, quân xâm lược.

        ViệtBáo.Com
        Đã chỉnh sửa bởi M Mít Đặc; 11-05-2010, 04:29 PM.
        Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.

        Comment

        • #5

          KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

          TIẾP ĐẾN LÀ... TÌNH YÊU TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG ....





          TÌNH YÊU TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

          Tuy tên gọi là tiểu thuyết võ hiệp nhưng bản chất những tác phẩm của Kim Dung là tình yêu đôi lứa nồng thắm. Chính tình yêu đã làm nên tính cách nhân bản và khiến cho hàng tỉ người say mê tác phẩm của Kim Dung.

          Một cách khái quát, Kim Dung đã xây dựng những cặp nhân vật hoặc những cụm nhân vật rồi tạo điều kiện cho họ gặp gỡ hiểu biết và yêu nhau. Ông đã rất tinh tế để cho các nhân vật chính phái yêu tà phái, bạch đạo yêu hắc đạo để tạo nên những mâu thuẫn chiều dọc xuyên suốt chiều dài của tác phẩm và những mâu thuẫn chiều sâu trong tâm hồn của từng nhân vật.

          Điều đặc biệt là những nhân vật nữ của ông thường rất đẹp, rất thông minh, xuất thân từ Ma giáo hoặc ít nhất cũng mang “một chút tà khí trong người”. Đó là những cặp và những cụm nhân vật Lệnh Hồ Xung - Nhậm Doanh Doanh (Tiếu ngạo giang hồ), Trương Thuý Sơn – Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ - Triệu Minh – Chu Chỉ Nhược – Hân Ly - Tiểu Siêu (Ỷ thiên Đồ long ký); Kiều Phong – A Châu, Đoàn Dự - Vương Ngọc Yến - Mộc Uyển Thanh – Chung Linh, Du Thản Chi – A Tử, Hư Trúc – Văn Nghi công chúa (Thiên Long bát bộ), Thạch Phá Thiên – A Tú (Hiệp khách hành), Quách Tĩnh – Hoàng Dung – Hoa Tranh công chúa (Xạ điêu anh hùng truyện), Dương Qua - Tiểu Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ)...

          Những mối tình được được Kim Dung dựng lên là những mối tình thật trong sáng và do vậy, thật đẹp. Tác phẩm Kim Dung lấy bối cảnh lịch sử từ đầu đời Thanh trở về trước (trước thế kỷ XVII), khi mà tư duy phong kiến và nguyên tắc lễ giáo của đạo Nho đang giữ vai trò độc tôn chi phối toàn bộ những sinh hoạt xã hội. Cho nên, những nhân vật của Kim Dung yêu trong sự cho phép của những tư duy và nguyên tắc ấy. Thế nhưng, tính chất lãng mạn - một thuộc tính không thể thiếu trong yêu đương – thì rất phong phú.

          Những nhân vật của Kim Dung đã yêu theo phong cách của võ lâm. trước hết, họ đánh nhau, sau đó hiểu nhau rồi mới yêu nhau. Hân Tố Tố, một nữ ma đầu, con gái Bạch mi ưng vương, đã dùng Văn tu châm (kim râu muỗi) không chế Trương Thuý Sơn phái Võ Đang, rồi sau đó mới yêu Trương. Triệu Minh, con gái Như Nam vương triều Nguyên lưa TRương Vô Kỵ lọt xuống hầm sâu rồi sau đó mới yêu Vô Kỵ (Ỷ thiên Đồ long ký). Mộc Uyển Thanh đã đánh cho Đoàn Dự thừa chết thiếu sống, sau đó mới nhận Đoàn Dự làm lang quân (Thiên Long bát bộ). Ở một chừng mực nào đó, các nâhn vật này vượt qua hàng rào của nghi thức phong kiến và ràng buộc giáo điều của lễ giáo: họ tự quyết định tình yêu của mình và cảm thấy hạnh phúc khi được lựa chọn như vậy.

          Tình yêu được mô tả trong tác phẩm võ hiệp Kim Dung mang tính phấn đấu rất cao. Các nhân vật vượt lên hoàn cảnh, vượt qua những sự chống đối để bảo vệ tình yêu của mình. Trương Thúy Sơn cưới Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ bỏ hết sự nghiệp đi theo Triệu Minh, Nhậm Doanh Doanh lang thang qua ngàn trùng để bảo vệ Lệnh Hồ Xung, A Châu vượt ngàn dặm ra Nhạn Môn Quan để chờ đợi Kiều Phong... là những chuyện tình đẹp.

          Tình yêu được mô tả trong tác phẩm Kim Dung luôn luôn kinh qua một quá trình hy sinh vô tận. Trương Thúy Sơn vì vợ mà tự tử khiến cho Tố Tố cũng tự vẫn để giữ gìn danh tiết, xứng đáng với chồng. Triệu Minh từ bỏ cha và anh ruột để ra đi cùng Trương Vô Kỵ. Tiểu Siêu về Ba Tư, lên ngôi Thánh nữ Minh giáo mà lòng đau như cắt, cảm thấy cuộc đời hoàn toàn vô vị vì cô chỉ muốn suốt đời hầu hạ cho Vô Kỵ thay áo, chải đầu. Doanh Doanh cõng tình lang Lệnh Hồ Xung lên núi Thiếu Thất, chịu để phái Thiếu Lâm cầm tù mình đổi lấy lời hứa của Phương Chứng đại sư nhận chữa thương cho Lệnh Hồ Xung. Kim Dung đã thực sự biến tác phẩm võ hiệp của mình trở thành những bản tình ca tươi đẹp. Những bản tình ca ấy hoá giải được biên giới của chánh – tà, hắc - bạch, hận – thù. Chúng bành trướng cảm xúc cho người đọc khi đọc tác phẩm.

          Kim Dung đã tạo ra được những nhân vật si tình kinh điển, những “giáo chủ” của đạo tình, hoặc là yêu, hoặc là chết. Vương tử Đoàn Dự suốt đời lẽo đẽo đi theo Vương Ngọc Yến chỉ để cho lúc nàng nguy nan là ghé vai cõng nàng chạy trốn. Du Thản Chi chịu bịt chiếc lồng sắt vào đầu, làm một tên Thiết Sửu giúp vui cho A Tử chỉ để được ngắm khuôn mặt thiên kiều bá mị nhưng tràn đầy ác độc của cô. Mỹ đao vương Hồ Dật Chi say mê Trân Viên Viên, hầu thiếp của Bình Tây vương Ngô Tam Quế đến nỗi chịu hóa thân thành một kẻ làm vườn, tưới rau trong mấy chục năm để được lén nhìn Trần. Truyện võ hiệp của Kim Dung đã xây dựng thành công những chàng si tình bậc nhất thiên hạ, xứng đáng đoạt huy chương vàng trong lịch sử tiểu thuyết cổ kim.




          Người ta còn tìm thấy trong tác phẩm tiểu thuyết của ông những tình yêu ngang trái, rất người, thoát ra khỏi khuôn mẫu cho phép của lễ giáo phong kiến Trung Quốc. Đó là Tiểu Long Nữ sư phụ, một cô gái trong sáng bị kẻ tà dâm cưỡng bức, yêu say mê đồ đệ Dương Qua. Đó là Kỷ Hiểu Phù, vợ chưa cưới của Hân Lợi Hanh phái Võ Đang, đã thất thân và đã yêu một ma đâu của Minh giáo là Dương Tiêu. Sinh ra một đứa con gái, Hiểu Phù đã can đảm đặt tên cho con là Dương Bất Hối (không hối hận). Đó là Hồng phu nhân, vợ của giáo chủ Thần long giáo và A Kha, một thiếu nữ mất hết trinh tiết, đã trở thành vợ của Vi Tiểu Bảo.

          Tiểu Thuyết của Kim Dung cũng đặt ra những trường hợp sa đoạ tình dục hết sức quái dị. Đó là Kiến Ninh công chúa, em gái vua Khang Hy, đã sa ngã với Vi Tiểu Bảo, một gã thái giám giả mạo, từ năm 14 tuổi. Kiến Ninh chỉ muốn được Vi Tiểu Bảo trói cột, đánh đập cho vỡ da toá máu mới được thấy lạc thú của trao thân. Cá biệt, có trường hợp của Đông Phương Bất Bại, giáo chủ Ma giáo, luyện Quỳ hoa bảo điển phải “dẫn đao tự cung”, trở thành kẻ ái nam ái nữ, quan hệ “yêu đương” với gã bộ hạ là Dương Liên Đình. Khi xây dựng những nhân vật, những loại “tình yêu” này, ông đã nghiên cứu rất kỹ những biểu hiện của tính cuồng dâm và đồng tính luyến ái.

          Tác phẩm của Kim Dung có những đoạn nói đến tình yêu thật đẹp. Những nhân vật của ông không bao giờ thốt ra miệng chữ yêu nhưng tình yêu của họ nồng nàn trong ánh mắt, trong hành động và trong trái tim. Đó là A Châu trở về Nhạn Môn Quan chờ Kiều Phong để suốt đời “theo đại gia cùng đi săn chồn đuổi thỏ”. Đó là Tiểu Siêu chia tay với Trương Vô Kỵ trên biển “về Ba Tư, đừng nói lên ngôi thánh nữ, dẫu có làm đến nữ hoàng đi nữa mà xa công tử thì cuộc đời cũng rất vô vị”. Đó là Nhậm Doanh Doanh bắn tin cho giới ma đầu trên giang hồ phải giết ngay Lệnh Hồ Xung vì “ta muốn ngươi ở mãi bên ta để ta chở che, bảo vệ”. Đó là Triệu Mẫn với Trương Vô Kỵ: “Lông mày thiếp đã nhạt màu rồi. Công tử kẻ lại giùm cho thiếp đi”. Những lời tỏ tình mang đầy tính ẩn dụ và biểu tượng như thế khiến tác phẩm vừa sâu, vừa không dung tục.




          Một điểm khác cũng đáng bàn đến là trong tác phẩm của Kim Dung vẫn có những tình yêu trá nguỵ. Nhạc Linh San bỏ Lệnh Hồ Xung để làm vợ gã ái nam ái nữ Lâm Bình Chi bởi mưu đồ chiếm pho Tịch tà kiếm phổ của Nhạc Bất Quần. Chu Chỉ Nhược đánh lừa hứa hôn với Trương Vô Kỵ để đánh cắp bộ Cửu âm chân kinh theo di huấn của sư phụ là Duyệt Tuyệt sư thái. Nhưng tuổi trẻ của Nhạc Linh San, Chu Chỉ Nhược không nghĩ ra được sự trá nguỵ ấy. Phần trá nguỵ, âm mưu thuộc về sự sắp đặt của những người lớn, người thầy, người cha.

          Đọc tác phẩm của Kim Dung, người ta khám phá ra cái đẹp của tình yêu. So với những tác giả cùng thời, tình yêu trong tiều thuyết võ hiệp của ông trong sáng, lành mạnh. Thông qua tình yêu, ông giáo dục cho con người cái mỹ cảm về đạo đức. Nói rằng tác phẩm võ hiệp, thật ra chỉ là một cách nói. Chính tình yêu đã làm nên cái hồn, sự sống cho tiểu thuyết võ hiệp. Mỗi tác phẩm của ông ra đời trở thành một bức thông điệp ngọt ngào cho tình yêu lứa đôi.


          .
          Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 12-05-2010, 01:46 AM.
          ----------------------------

          Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

          Comment

          • #6

            KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

            .

            TÌNH DỤC TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

            Trong ngôn ngữ Trung Hoa, chữ Dâm (淫) được viết với bộ Thuỷ, có nghĩa là ham mê sắc dục quá độ. Dâm được coi là một cái gì đó rất tự nhiên đối với xã hội phong kiến Trung Hoa: vua được toàn quyền có nhiều phi tần, quan lại và nhà giàu có quyền cưới nhiều thê thiếp. Người phụ nữ trở thành món đồ chơi, phương tiện giải trí của người đàn ông. Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung phản ánh về xã hội phong kiến Trung Hoa nhưng cái nhìn của ông đối với thói dâm đãng nói riêng và tình dục nói chung là một cái nhìn nghiêm túc và nghiêm khắc.

            Tác phẩm Kim Dung xây dựng khá nhiều những nhân vật dâm đãng chuyên lợi dụng tình dục. Và ông đã dành những hình phạt nặng nề theo luật giang hồ để trừng trị những loại nhân vật đó.

            Trong Tiếu ngạo giang hồ, nhân vật dâm đãng là Điền Bá Quang. Hắn vừa là tên cướp, vừa là dâm tặc, khinh công rất giỏi và đao pháp rất nhanh. Hắn có ngoại hiệu đúng 14 chữ: Giang dương đại đạo, thái hoa dâm tặc, vạn lý độc hành khoái đao Điền Bá Quang. Nhà sư Bất Giới đã trừng trị hắn: xuyên tụ tiễn vào bộ phận sinh dục và buộc hắn cạo đầu làm sư với pháp hiệu Bất Khả Bất Giới (không thể không cấm). Chính nhờ hình phạt đó mà Điền Bá Quang bỏ được con đường tà dâm, trở thành người tử tế.

            Trong Xạ điêu anh hùng truyện, nhân vật dâm đãng là Âu Dương công từ. Hắn là cháu của Tây độc Âu Dương Phong, từ Tây Vực xuống Trung Nguyên, võ công cao cường, chuyên hãm hại lương gia phụ nữ. Da mặt hắn lúc nào cũng trắng bệt! Nhưng Âu Dương công tử tà môn vẫn chưa nguy hiểm bằng Doãn Chí Bình chính phái. Doãn Chí Bình là đệ tử hàng thứ ba của phái Toàn Chân. Hắn đi ngang qua núi Chung Nam thì gặp ngay lúc Tiểu Long Nữ phái Cổ Mộ đang thoát y để luyện võ công trong Ngọc Nữ tâm kinh. Thế là hắn quên mất môn quy, điểm huyệt cô gái, lấy áo đạo bào phủ lên mặt cô và đưa cô vào bụi rậm. Tiểu Long Nữ cứ ngỡ đó là Dương Qua, người học trò thân yêu của mình. Doãn Chí Bình ăn mắm mà Dương Qua khát nước!

            Kim Dung nói về những hoạt động tình dục, điều mà người ta cho là dung tục, với một bút pháp tinh tế và trang nhã. Chính vì thế mà trong lần trở về thăm và nhận hàm Tiến sĩ danh dự Đại học Bắc Kinh - Đại nhã chi đường của trung Quốc- vào tháng 1-1995, người ta đã mạnh dạn bàn đến cái nhã, cái tục và ca ngợi Kim Dung là một nhà văn thanh nhã từ văn phong đến nội dung. Khi nói đến những hoạt động tình dục, Kim Dung không bao giờ mô tả. Ông chỉ thuật lại bằng một vài câu ngắn gọn và dành phần suy nghĩ, đánh giá tình hình cho độc giả.

            Trong Liên thành quyết, Kim Dung xây dựng nhân vật Huyết đao lão tổ từ Tây Tạng xuống như một nhân vật dâm ác hạng nhất. Trong những chương đầu, cái nhìn của Kim Dung về nhân vật này rất nghiêm khắc, phản ánh quan điểm dân tộc hẹp hòi của ông đối với những con người ngoài Hán tộc. Huyết đao lão tổ nhận Địch Vân làm đệ tử. Mọi người gọi Địch Vân là tiểu dâm tặc. Nhưng hai thầy trò Địch Vân chẳng hề có một hành động dâm dật với ai, ngược lại Địch Vân còn là một chính nhân quân tử.

            Nếu Huyết đạo lão tổ là tên “dâm tặc” già nhất thì trong Hiệp khách hành, Thạch Trung Ngọc là tên dâm tặc trẻ nhất. Khi được gửi lên phái Tuyết Sơn học, gã thiếu niên 15 tuổi đó đã có hành vi cưỡng bức cô bé A Tú, con của sư phục mình khiến cô bé phải nhảy xuống lũng sâu để tự bảo vệ tiết sạch giá trong. Thạch Trung Ngọc có đứa em song sinh rất giống mình là Thạch Phá Thiên, thường chỉ được gọi với cái tên Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống). Khi Cẩu Tạp Chủng xuất hiện, mọi người phái Tuyết Sơn đều tưởng là Thạch Trung Ngọc nên muốn giết cậu. Chỉ có đôi mắt ngây thơ của A Tú mới nhìn ra được “vị đại ca hiền lành này không phải là tên tiểu tặc đó”. Ấy vậy mà Cẩu Tạp Chủng cũng bị mọi người chửi mấy trăm lần là “tiểu dâm tặc”.

            Nhưng trong 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, nhân vật dâm đãng số một phải thuộc về Vi Tiểu Bảo (Lộc Đỉnh ký). Xuất thân trong kỹ viện thành Dương Châu, ngay từ nhỏ, Vi Tiểu Bảo đã quen với cảnh ong bướm lả lơi giữa đám khách làng chơi và các kỹ nữ. Cơ duyên đã đưa hắn lên Bắc Kinh, làm thái giám giả mạo trong cung nhà Thanh. Mới 13 tuổi đầu, hắn đã ôm Mộc Kiếm Bình, quận chúa Mộc vương phủ Vân Nam và chớt nhả với Phương Di, lớn hơn hắn 2 tuổi; 15 tuổi, hắn quan hệ thân xác với công chúa Kiến Ninh; 18 tuổi trôi giạt sang Nga, hắn quan hệ với công chúa Tô Phi Á (Sophia), con gái Sa hoàng! Từ thái giám, hắn lên Đô thống Hoàng kỳ, Khâm sai đại thần, Bá tước rồi Công tước. Trong một lần đi công cán về thành Dương Châu, hắn quan hệ một hơi với 4 người phụ nữ: Tô Thuyên (vợ giáo chủ Thần long giáo Hồng An Thông), A Kha (nghi là con gái của Ngô Tam Quế và Trần Viên Viên), Song Nhi (nữ tì), Tăng Nhu (Thiên địa hội). Rồi hắn ăn ở luôn với cả 4 người trên, lấy luôn cả Kiến Ninh, Phương Di, Mộc Kiếm Bình. Suốt đời Vi Tiểu Bảo chỉ biết có tình dục, không hề biết đến tình yêu chân thật là gì. Kim Dung đã không cho hắn có được niềm hạnh phúc được yêu của Vi Tiểu Bảo. Hôm hắn trở lại Dương Châu thăm mẹ dẫn theo một đoàn thê thiếp, Vi Xuân Phương phải thầm khen con trai mình có mắt.

            Trong tác phẩm Kim Dung, không thiếu những lời thoá mạ: dâm tặc, rùa đen, chó lộn giống... Ông đứng trên quan điểm của một nhà nhân bản để nhận xét, đánh giá những hành vi tình dục của các nhân vật do chính mình tạo ra. Ông phán xét họ một cách nghiêm khắc - tất nhiên là với cái nghiêm khắc của một nhà văn chứ không phải một quan toà. Ông để cho những nhân vật dâm đãng tự rước lấy sự trừng phạt công mình của cuộc sống (trừ Vi Tiểu Bảo!).

            Cá biệt, có một trường hợp mở đầu bằng hành vi cưỡng bức nhưng kết thúc bằng tình cảm tốt đẹp. Đó là Dương Tiêu (Tả sứ Minh giáo) đã bắt cóc và cưỡng bức Kỷ Hiểu Phù (đệ tử phái Nga Mi). Hiểu Phù sinh ra đứa con gái, đặt tên là Dương Bất Hối để tỏ ý không hề hối hận vì đã thất thân với Dương Tiêu. Diệt Tuyệt sư thái, sư phụ của Kỷ Hiểu Phù, vì vậy đã giết Hiểu Phù. Dương Tiêu ở vậy nuôi con, không cưới vợ nữa để giữ mãi hình bóng của người phụ nữ từng là nạn nhân của anh ta.

            Người ta thường nói: “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén” để chỉ những quan hệ tất yếu nam nữ trong những hoàn cảnh thuận lợi. Câu nói đầy tính ẩn dụ đấy không thể có trong tác phẩm Kim Dung. Nhiều lứa đôi trong tác phẩm của ông thương nhau, sống với nhau một nơi nhưng trai vẫn giữ được phong độ người quân tử, gái vẫn giữ được tiết sạch giá trong. Đó là Vô Kỵ - Triệu Minh - Chỉ Nhược - Tiểu Siêu, Trương Thuý Sơn – Hân Tố Tố, Lệnh Hồ Xung – Doanh Doanh, Quách Tĩnh – Hoàng Dung, Đoàn Dự - Mộc Uyển Thanh – Vương Ngọc Yến – Chung Linh, Hồ Phỉ - Viên Tử Y, Thạch Phá Thiên – A Tú, Địch Vân - Thủy Phương, Kiều Phong – A Châu. Họ đều rất trẻ, sống giang hồ phiêu bạt nhưng vẫn tôn trọng chữ Lễ, biết yêu say đắm, có thèm khát nhưng không vượt quá giới hạn của tình yêu. Có những lứa đôi thành vợ thành chồng, có lứa đôi ly tán nhưng tựu trung, họ đã sống thật đẹp và yêu thật đẹp. Tôi cho rằng đây là một khía cạnh rất đạo đức trong tác phầm Kim Dung. Nó đem lại cho người đọc - nhất là bạn đọc trẻ - những nhận thức đúng đắn về tình yêu và tình dục, giúp con người vươn lên để sống đúng nghĩa với khái niệm con người.


            .
            Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 12-05-2010, 07:02 PM.
            ----------------------------

            Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

            Comment

            • #7

              SAU KHI HẾT MỤC TÌNH YÊU _ TÌNH DỤC TRONG TIỂU THUYẾT KIM DUNG...
              PHẦN KẾ ĐẾN LÀ MỤC THƯ PHÁP....

              THƯ PHÁP

              Kim Dung trong tác phẩm Ỷ Thiên Ðồ Long Ký, mô tả Trương Thuý Sơn viết hai mươi bốn chữ trên vách đá cho chúng ta thấy cái tung hoành, phóng dật của phép viết chữ Hán của một thư giạ

              Trương Thúy Sơn nói: Tôi không muốn tỉ thí binh khí với tiền bối, chỉ thi viết vài chữ thôi. Nói xong, chàng chậm rãi đi đến gần vách đá nơi ngọn núi ở phía bên trái, hít một hơi dài, hai chân nhún một cái, phóng mình nhảy lên. Võ công của phái Võ Ðương vốn dĩ đứng vào bậc nhất thiên hạ, lúc này lại là lúc gặp phải hiểm nguy sống chết, lẽ nào lại không hết sức ra tay? Thân hình tung lên khoảng hơn một trượng, lập tức chàng sử dụng công phu tuyệt kỹ Thê Vân Túng, chân phải đạp vào vách núi một cái, mượn sức, lại vọt lên hai trượng nữa. Phán quan bút trong tay nhắm thẳng vào mặt đá, xoẹt xoẹt xoẹt mấy tiếng, đã viết xong chữ "võ". Một chữ vừa viết xong, thân hình chàng như muốn rơi xuống.

              Trương Thúy Sơn uốn mình tay trái vung chiếc ngân câu, đã trúng một chỗ nhô ra trên vách, chiếc móc chịu cả sức nặng đong đưa. Tay phải lại tiếp tục viết chữ "lâm". Hai chữ này, mỗi nét mỗi gạch, đều do Trương Tam Phong đêm khuya suy nghĩ đắn đo mà sáng tạo ra, bên trong bao hàm cương nhu, âm dương, tinh thần khí thế, phải nói là đạt đến cao điểm công phu của phái Võ Ðương. Tuy Trương Thúy Sơn công lực còn non, nét bút hằn vào đá chưa sâu mấy nhưng hai chữ rồng bay phượng múa, bút lực hùng kiện, tưởng như dùng khoái kiếm trường thương đục thành.

              Viết hai chữ xong, chàng viết tiếp chữ "chí", chữ "tôn". Càng viết càng nhanh, chỉ thấy đá vụn lả tả rơi xuống, tưởng như linh xà uốn khúc, trông như mãnh thú vươn mình, khoảnh khắc đã xong hai mươi bốn chữ. Việc khắc chữ lên vách đá có khác gì hính ảnh trong thơ Lý Bạch:

              Tiêu phong sậu vũ kinh táp táp,
              Lạc hoa phi tuyết hà mang mang.
              Khởi lai hướng bích bất đình thủ,
              Nhất hàng sổ tự đại như đẩu.
              Hoảng hoảng như văn quỉ thần kinh,
              Thời thời chỉ kiến long xà tẩu.
              Tả bàn hữu túc như kinh lôi,
              Trạng đồng Sở Hán tương công chiến.


              (Gió rít mưa sa rơi lộp bộp,
              Hoa rơi tuyết thổi rét căm căm.
              Trên vách viết ra không ngừng lại,
              Một hàng chữ to bằng cái đấu.
              Bàng hoàng nghe tựa quỉ thần kinh,
              Ðâu đâu cũng thấy rồng rắn lượn,
              Quét phải, uốn trái như sấm chớp,
              Khác gì Sở Hán đang giao tranh)


              Trương Thúy Sơn viết đến nét cuối của chữ "phong" rồi, cả ngân câu lẫn thiết bút cùng đẩy mạnh vào vách núi, uốn mình rơi xuống đất, nhẹ nhàng khéo léo làm sao đứng ngay bên cạnh Ân Tố Tố. Tạ Tốn chăm chăm nhìn ba hàng đại tự trên vách núi một lúc thật lâu, không nói một lời. Sau cùng y thở dài một tiếng: Tôi không viết nổi, xin chịu thua.


              ên biết là từ "võ lâm chí tôn" cho đến "thùy dữ tranh phong" tổng cộng hai mươi bốn chữ, vốn do Trương Tam Phong ý đáo thần hội, suy đi nghĩ lại mà sáng chế ra, đều do ở bút ý. Một nét ngang, một nét dọc, một cái chấm, một cái phảy, đều là toàn do dung hợp những gì tinh diệu nhất của võ công. Giá như chính Trương Tam Phong đến đây, nhưng trước chưa qua một đêm cùng cực suy nghĩ, ắt cũng không có được cái tâm cảnh như thế. Ví dù có suy nghĩ hồi lâu, muốn viết hai mươi bốn chữ lên vách núi, cũng không thể nào đạt được trình độ xuất thần nhập hóa như thế này. Tạ Tốn có biết đâu nguyên do bên trong, tưởng rằng vì việc bảo đao Ðồ Long trước mắt phát khởi tranh chấp, Trương Thúy Sơn lập tức tự ý viết ra ba hàng chữ mà từ lâu cố lão vẫn truyền. Thực ra, ngoài hai mươi bốn chữ này nếu bảo Trương Thúy Sơn viết những chữ khác, so sánh nét bút yếu mạnh, nông sâu sẽ thấy khác xa ngay.
              Đã chỉnh sửa bởi M Mít Đặc; 12-05-2010, 03:24 PM.
              Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.

              Comment

              • #8

                KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

                SAU KHI HẾT MỤC THƯ PHÁP TRONG TIỂU THUYẾT KIM DUNG...
                PHẦN KẾ ĐẾN LÀ MỤC Y HỌC ....


                Y HỌC TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG



                Khát vọng sống lâu, mạnh khỏe không chỉ là khát vọng riêng của người Trung Quốc mà còn là của toàn thể nhân loại. Trung Quốc là đất nước có một nền y học cổ truyền rất thâm hậu và những hoạt động y học cổ truyền của đất nước này đã hình thành khái niệm Đông y.
                Hơn 1.800 năm trước, danh y Hoa Đà đã có những công trình nghiên cứu y học thời danh, trong đó có nguyên tắc luyện khí công gọi là Ngũ thú khí công (hay Ngũ cầm hí), mô phỏng chiêu thức hoạt động của loài cọp, gấu, nai, khỉ và hạc (Hổ hí, Hùng hí, Lộc hí, Hầu hí, Hạc hí). Quan điểm cơ bản của Hoa Đà có thể tóm tắt là mô phỏng hoạt động của năm động vật trên, hít làm không khí thanh lương vào phổi và nạp xuống Đan điền, vận dụng vào từng bộ phận trên cơ thể, giúp con người khỏe mạnh. Võ học thấy rằng sức mạnh đó có thể dùng để chế ngự được kẻ khác. Có thể nói, truyện võ hiệp Kim Dung cũng tràn đầy kiến thức y học.

                Đọc truyện võ hiệp Kim Dung, người ta thường bắt gặp hai khái niệm nội công và ngoại công. Nội công là tiềm lực, sức mạnh bên trong của hào khác giang hồ. Ngoại công là chiêu thức, quyền cước bên ngoài. Kẻ có nội công cao, theo Kim Dung mô tả, là kẻ hái một chiếc lá, bẻ một bông hoa cũng có thể sát thương địch thủ. Kẻ có ngoại công cao thì thái dương huyệt gồ cao, khi vũ lộng tay chân, gân cốt nổi lên, các khớp xương kêu răng rắc. Nội công là cái gốc, ngoại công là cái ngọn. Luôn luôn kẻ có nội công cao là kẻ hơn người.

                Trong 12 bộ tiểu thuyết, có trường hợp cá biệt Kim Dung để cho ngoại công thắng nội công. Nhạc bất quần, sư phụ Lệnh Hồ Xung, chưởng môn phái Hoa Sơn theo phe Khí tông (lấy khí làm chủ). Y dạy Lệnh Hồ Xung rằng phải vận khí trước rồi mới phóng chiêu thức ra sau, mỗi chiêu thức đều có thuớc tấc, bộ vị nhất định. Khi Lệnh Hồ Xung tình cờ gặp thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương theo phe Kiếm tông (lấy kiếm thức làm chủ), đang ẩn cư trong hang núi Hoa Sơn thì Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung rằng chỉ cần kiếm chiêu liên miên bất tuyệt, đánh ra theo ý muốn của mình như nước chảy mây trôi là đã khắc chế được địch thủ. Lệnh Hồ Xung đã lĩnh hội được phép sử kiếm ý (ý nghĩ đến đâu, kiếm phóng ra đến đó) chứ không sử kiếm chiêu và gọi đó là biện pháp “liệu địch tiên cơ” (ra tay, chiếm thời cơ trước kẻ địch). Và rõ ràng, phương pháp Kiếm tông đã thắng Khí tông: Lệnh Hồ Xung mất hết công lực vẫn đánh ra một chiêu, đâm mù mắt 15 kẻ địch hùng mạnh (Tiếu ngạo giang hồ).

                Các khái niệm nội công, ngoại công, chiêu thức - đầu tiên là khái niệm y học chứ không phải của võ học. Trong mỗi bộ sách của mình, Kim Dung thường xây dựng một hoặc vài ba nhân vật thầy thuốc. Những thầy thuốc này được gọi rất trang trọng: danh y, thần y. Bên cạnh thứ thuốc cứu người, Kim Dung còn xây dựng những nhân vật chuyên đánh thuốc độc, đầu độc kẻ khác. Quan điểm của ông rất mới lạ: thuốc độc cũng là một dạng thuốc cần thiết phải dùng đến. Trong Tiếu ngạo giang hồ, người ta gặp Sát nhân danh y Bình Nhứt Chỉ. Cả ngoại hiệu và tên của người này cũng rất lạ lùng: thầy thuốc nổi tiếng (danh y) nhưng cứu một người thì phải giết một người (sát nhân) và khi cứu người hay giết người, đều chỉ dùng đến một ngón tay (bình nhứt chỉ).
                Bên cạnh Bình Nhứt Chỉ, Tiếu ngạo giang hồ cũng có một độc vương. Đó là Lam Phượng Hoàng, cô gái người Miêu Cương, giáo chủ Ngũ độc giáo Vân Nam. Tài năng của Bình Nhứt Chỉ hay đến nỗi mới bắt mạch Lệnh Hồ Xung đã biết Lệnh Hồ Xung được uống rượu và truyền máu của bọn Ngũ độc giáo!
                Trong Thiên Long bát bộ, người ta gặp Thần y Tiết Mộ Hoa. Đối lập với Tiết Mộ Hoa chuyên cứu người là một tay độc vương dễ sợ chuyên đầu độc người. Đó là Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu, giáo chủ Tinh Tú phái. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, có hai danh y là Điệp cốc y tiên Hồ Thanh Ngưu và vợ là Vương Nạn Cô. Hai vợ chồng kình chống nhau bằng cách Hồ Thanh Ngưu chữa thương cho thân chủ ban ngày thì ban đêm, Vương Nạn Cô lén đến đầu độc cho thân chủ bệnh trở lại.

                Tác phẩm võ hiệp Kim Dung đã đề cập đến những phương pháp y học, biện pháp chữa bệnh lâm sáng mà ngày nay, nhân loại vẫn đang thực hiện. Trong cách truyền máu, Kim Dung đã mô tả phương pháp dùng đỉa hút máu để tiếp máu ấy qua cho người bệnh. Đó là đoạn Lam Phượng Hoàng cùng các nữ đệ tử Ngũ độc giáo tiếp máu cho Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ). Chỉ có một điều đáng tiếc là y lý của Lam Phượng Hoàng còn non nớt nên đã đem máu thuần âm của phái nữ truyền vào cho một nguời bệnh dư khí âm hàn như Lệnh Hồ Xung.

                Truyện võ hiệp Kim Dung còn đề cập đến việc dùng thuốc. Thuốc cổ truyền Trung Hoa gồm cao (thuốc dán), đơn (hay thang, thuốc thang), huờn (hay hoàn, thuốc viên), tán (thuốc bột). Những nhân vật của Kim Dung đã dùng thuốc cứu chữa cho bệnh nhân của mình: Trương Vô Kỵ ra toa, cắt thuốc thang cho Thường Ngộ Xuân (Ỷ thiên Đồ long ký); bọn bàng môn tả đạo ăn cắp thuốc cho Lệnh Hồ Xung lại bắt 7 vị thầy thuốc đến coi bệnh cho chàng (Tiếu ngạo giang hồ).

                Truyện võ hiệp Kim Dung cũng nói nhiều đến chuyện dùng nội công chữa thương cho những người bị chấn thương vì nội công. Trong trường hợp này, nội công của người thầy thuốc phải cao hơn hoặc tương đương với nội công của người bị thương thì động tác chữa thương mới thực hiện được. Như Trương Vô Kỵ dùng Tiên thiên Cửu dương công chữa trị cho trương Tam Phong, Hân Thiên Chính và bọn quần hào trên Quang Minh Đỉnh; Bình Nhứt Chỉ vỗ Bách hội huyệt truyền nội công chữa cho Đào Thực Tiên, Bất Giới hoà thượng trút công lực chữa trị cho Lệnh Hồ Xung.

                Triết học Trung Hoa cổ phân biệt rất rõ khái niệm Lưỡng nghi (hai mặt Âm – Dương). Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái dương, Thái âm, Thiếu dương, Thiếu âm), Tứ tượng sinh Bát quái (Càn, Khảm, Chấn, Tốn, Cấn, Ly, Khôn, Đoài). Võ công cũng như y học trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đều triệt để dựa trên nền tảng triết học ấy. Nội công dương cương và tính năng dương cương hoàn toàn mâu thuẫn với nội công âm nhu và tính năng âm nhu. Cho nên, trong Tiếu ngạo giang hồ, Tổ Thiên Thu ăn cắp Tục mệnh bát hoàn của Lão Đấu Tử dùng cho con gái là Bất Tử, bọn Lam Phượng Hoàng truyền máu của các cô gái Miêu cương để cứu chữa cho Lệnh Hồ Xung là sai nguyên tắc y học (và cả triết học nữa). Chính Bình Nhứt Chỉ khi cầm tay Lệnh Hồ Xung chẩn mạch đã khám phá ra lập tức tình trạng pha trộn âm dương trong con người Lệnh Hồ Xung. Lão lại khám phá ra thêm rằng thân chủ của mình bạc nhược tinh thần, bị tình yêu hành hạ, bị rượu làm cho con người hô héo. Lão chửi toáng lên: “Mẹ cha nó! Thật là nát bét đến năm bảy tầng. Người thật là con người chẳng ra gì”. Nếu Lệnh Hồ Xung không phải là người yêu của Thánh cô Doanh Doanh, nếu không phải đích thân Doanh Doanh mời lão đến chữa thương cho Lệnh Hồ Xung thì lão đã tát cho Lệnh Hồ Xung mấy cái ra trò vì đã uống thuốc tào lao, nhận máu của bọn Lam Phượng Hoàng, mất hết nội công mà còn nát rượu và bạc nhược tinh thần vì gái!

                Thế nhưng, thỉnh thoảng âm dương cũng có thể hoà hợp nhau trong một con người. Đó là trường hợp của Thạch Phá Thiên (Hiệp khách hành), uống hai thứ rượu âm dương của Trương Tam và Lý Tứ. Truyện của Kim Dung cũng mô tả tình trạng dùng lý trí chống lại cơn khao khát tình dục. Người Trung Hoa gọi động tính giao giữa nam nữ là âm dương hoà hợp. Chính vì vậy, để phá thanh danh của hoàng gia Đại Lý, Thanh bào khách Đoàn Diên Khánh đã buộc thế tử Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh (nghi là em cùng cha khác mẹ với Đoàn Dự), uống một loại thuốc kích dục cực mạnh là Âm dương hòa hợp tán. Mộc Uyển thanh không đủ công lực, cơn khát khao tình dục nổi lên nhưng Đoàn Dự vốn là người học đạo Nho, vẫn giữ được lý trí sáng suốt, không thể loạn luân với cô em gái.

                Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung đã đề cập đến các động tác chấn thương chỉnh hình. Dư Đại Nham phái Võ Đang bị Kim Cương chỉ đánh gãy hết các khớp xương phải nằm thoi thóp 20 năm (Ỷ thiên Đồ long ký). Trương Vô Kỵ học được y thuật của Hồ Thanh Ngưu, xin phép Dư Đại Nham gõ vỡ hết các khớp xương để dán thuốc cao chỉnh hình trở lại. Trong truyện này cũng nói đến một ca chấn thương sọ não kỳ lạ. Tống Thanh Thư mưu phản môn phái, bị tứ sư thúc là Dư Liên Châu dùng Thái cực quyền phái Võ Đang đánh vỡ xương sọ. Trương Vô Kỵ nhận chữa bệnh cho bệnh nhân này. Anh điểm huyệt để gây mê, cạo hết tóc, ráp lại xương sọ rồi băng bó. Sau này, Thanh Thư chết vì bị Trương Tam Phong trừng trị nhưng sách võ hịêp vẫn còn để lại một ca chữa chấn thương sọ não khá thú vị.

                Thế nhưng, dù y học có tài giỏi đến đâu, y thuật có thâm hậu đến đâu, người ta vẫn đầu hàng những trường hợp bệnh cấp tính, đặc biệt là bệnh vì trúng chất kịch độc. Trong trường hợp đó, Kim Dung sử dụng biện pháp cuối cùng: chặt bỏ. Lộc Đỉnh ký có đoạn thuật chuyện bọn Lạt ma Tang Kết từ Tây Tạng xuống Trrung Quốc, truy đuổi Cửu Nạn sư thái và Vi Tiểu Bảo để lấy cho được bộ Tứ thập nhị chương kinh. Vi Tiểu Bảo chống không lại, đã nghĩ cách đầu độc Tang Kết bằng một chất kịch độc trong Hoàng cung Thanh triều mà y vẫn thường mang theo bên người: Hoá thi phấn. Y nhúng nước cho Tứ thập nhị chương kinh ướt đi rồi rắc hóa thi phấn vào đó. Quyển kinh đã bị nhiễm độc: những ngón tay dùng để giở các tờ kinh bị ướt nhanh chóng bị nhiễm độc, cụt đi và chảy thành nước vàng. Tang Kết nhanh trí chặt bỏ cánh tay của mình mới toàn mạng sống. Trong Thiên Long bát bộ có đoạn Thần Nông bang chúa Tư Không Huyền bị rắn độc cắn, phải chặt bỏ cánh tay.

                Muốn ngăn nọc độc vào tim phổi
                Tráng sĩ già gan chặt cánh tay
                (Kim Dung)

                Truyện võ hiệp Kim Dung đề cập đến khá nhiều động tác phong tỏa huyệt đạo. Muốn phong tỏa huyệt đạo, người học võ phải hiểu toàn bộ hệ thống huyệt đạo con người, phải nhả vào huyệt đạo bao nhiêu kình lực mới đủ sức phong tỏa. Phong tỏa huyệt đạo nhằm khắc chế một địch thủ, nhằm chữa thương cho một người, giúp người đó tránh được cảm giác đau đớn hoặc giảm cảm giác đau đớn. Phong tỏa huyệt đạo còn nhằm ngăn chặn quá trình nhiễm độc, an tĩnh và trấn định thần kinh. Những nhân vật của Kim Dung đã sử dụng thủ pháp châm cứu để phong tỏa huyệt đạo như vậy. Hồ Thanh Ngưu, Trương Vô Kỵ đã dùng gai, dùng tăm tre thay cho kim sắt, châm cứu cho bệnh bệnh nhân. Từ vị trí các huyệt đạo của y học, Kim Dung đã mô tả những đòn thế đánh vào các huyệt đạo để giải khai tình trạng bị phong tỏa, để gây những chấn thương trầm trọng cho địch thủ. Thí dụ các huyệt Đan điền, Thái Dương, Bách hội là những trọng huyệt. Đánh vào đúng những huyệt này có thể làm đối thủ chết hoặc bị thương nặng.

                Tác phẩm kiếm hiệp của Kim Dung cũng đề cập đến động tác đả thông huyệt đạo, giúp người luyện võ thăng tiến công lực, đốt giai đoạn trong quá trình rèn luyện để đạt nhanh tới mức thượng thừa. Ông thường nói đến những nhân vật đã được đả thông hai trọng đểm Sinh Tử huyền quan, hoặc Kỳ kinh bát mạch nhưng trong trường hợp của nhà sư trẻ Hư Trúc được Vô Nhai Tử đả thông kinh mạch và truyền cho nội lực thượng thừa.

                Tác phẩm võ hiệp Kim Dung cũng phác thảo những ca phẫu thuật hy hữu. Đào Thực Tiên bị kiếm đâm lòi ruột được Bình Nhứt Chỉ khâu vết thương. Trương Vô Kỵ trên Tuyết Sơn mổ vết thương cho con vượn già, tìm được bộ Cửu dương chân kinh. Các nhân vật của Kim Dung thường thông thạo cách băng bó, sát trừng, giữ vệ sinh cho những người bị ngoại thương.

                Vượt xa những tác phẩm đương đại, Kim Dung cũng thường hay đề cập đến cách luyện độc và dùng độc bởi vì thuốc độc cũng là thuốc. Có kẻ tự nguyện luyện độc như Hân Ly (Ỷ thiên Đồ long ký) luyện môn Thiên châu tuyệt hộ thủ bằng cách cho loài nhện chúa (châu) cực độc hút máu bàn tay của mình và truyền vào đôi tay mình chất kịch độc của loài nhện. Với cách luyện này, nếu thành công, hơi thở của Hân Ly sẽ thơm như mùi hoa lan (?) và khi cô chộp vào địch thủ nào thì dẫu địch thủ ấy có sống được thì cũng không thể sinh con đẻ cái được nữa (tuyệt hộ).

                Du Thản Chi (Thiên Long bát bộ) đã bị băng tàm trùng độc do nhà sư Tam Tỉnh mang từ Tây Vực về truyền hết chất âm hàn vào người. May mà hắn không chết vì trước đó hắn đã học... trật bộ Dịch Cân Kinh Thiếu Lâm khiến toàn bộ kinh mạch trong người bị đảo lộn. Với nội công âm hàn, hắn chỉ khẽ vỗ vào địch thủ một chiêu cũng khiến cho địch thủ lên cơn rét và biến thành nước đá (!).

                Có luyện độc tất có dùng độc. Một cách dùng độc khá hy hữu nhưng cũng rất mới lạ của cung Linh Thứu là cấy Sinh tử phù vào người đối thủ. Hư trúc, dưới chân núi chùa Thiếu Lâm, đã dùng Bắc minh chân khí hoá những giọt rượu của đệ tử tạt lên không gian thành những miếng băng nhỏ, cấy vào những trọng huyệt của Đinh Xuân Thu, khắc chế lão ma đầu này phải quy thuận. Nói theo y học hiện đại, đó là phương pháp cấy một chất kháng nguyên vào người bệnh nhân và khi kháng nguyên phát tác thì bệnh nhân chỉ còn biết đến năn nỉ thầy thuốc chữa trị.
                Trong Lộc Đỉnh ký, những nhân vật dùng độc khá nhiều. Hải lão công dùng Hủ cốt tán (thuốc làm nát xương dần dần) bỏ vào trà cho Vi Tiểu Bảo uống. Giáo chủ Thần long giáo Hồng An Thông dùng Độc long dịch cân hoàn cho thuộc hạ uống. Giáo chủ Ma giáo Đông Phương Bất bại (Tiếu ngạo giang hồ) lại cho bọn thuộc hạ uống Tam thi não thần đan. Tên thuốc thì rất hay nhưng là thuốc độc, uống vào phải trung thành (hoặc giả bộ trung thành) với người cho uống. Nếu có hành vi chống đối, tất không có thuốc giải, phải chịu nhận cái chết thảm thương.

                Kim Dung cũng mô tả những thủ pháp đánh độc dược rất tinh tế, đẵc biệt ở dạng thuốc bột. Thuốc bột được bôi lên quan tài (Liên thành quyết), được phủ trong khăn mặt, được hoà vào rượu, trộn vào thức ăn, được rải bay trong gió.

                Công lực là tiềm lực võ thuật của từng cá nhân, không thể đem cho người khác được. Nhưng tiểu thuyết gia Kim Dung cực kỳ lãng mạn: ông cứ cho các nhân vật của mình đem công lực cho kẻ khác. Chính vì vậy, Nhậm Ngã Hành, giáo chủ Ma giáo, đã hút công lực kẻ khác bằng thủ pháp Hấp tinh đại pháp. Đào cốc lục tiên và Bất Giới hoà thượng đem công lực truyền cho Lệnh Hồ Xung. Đoàn Dự hút công lực của các đệ tử Huỳnh Mi Tăng, biến tất cả thành những người võ công tàn phế.
                Càng lãng mạn hơn nữa, Kim Dung cho phép thủ pháp xoá hẳn công lực của một người khác, tu theo một môn phái khác để truyền công lực mới vào. Đó là Vô Nhai Tử xoá hết công lực Thiếu Lâm của Hư Trúc và truyền công lực của phái Tiêu Dao vào, biến nhà sư trở thành đại biểu của phái Tiêu Dao!

                Huyệt đạo trong cơ thể con người thường ở vào những vị trí cố định, ai cũng như ai. nhưng với trí tưởng tượng phong phú của Kim Dung, theo tình huống đưa đẩy câu chuyện, ông đã để cho những nhân vật cá biệt của mình luyện tập sai phương pháp; huyệt đạo không còn ở đúng chỗ cũ nữa. Đó là trường hợp của Du Thản Chi (Thiên Long bát bộ) luyện sai Dịch cân kinh Thiếu Lâm, của Âu Dương Phong (Xạ điêu anh hùng truyện) luyện sai Cửu âm chân kinh đến nỗi xuống đời phải đi bằng tay, chúc đầu xuống đất.

                Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung cũng đề cập đến những vị thuốc mà thường là thuốc quý dùng trong y học. Đọc Thiên Long bát bộ, ta thật sự xúc động khi Tiêu Phong đánh quá tay A Tử, hối hận vì hành động thiếu anh hùng của mình, đã bồng cô ra cùng Đông Bắc Trung Quốc kiếm nhân sâm, tay gấu chữa bệnh cho cô. Tác phẩm của ông cũng từng đề cập đến Linh chi thảo (cỏ linh chi) hoặc Thiên niên Tuyết liên tử (hạt sen ngàn năm trên đất tuyết) có giá trị hồi dương. Cũng trong Thiên Long bát bộ, Đoàn Dự nuốt lộn con nhái đỏ Mãng cổ chu cáp mà trở thành người có nội công đệ nhất.

                Vị thuốc nằm trong toa thuốc. Tuy nhiên, có những toa thuốc mang ý nghĩa ẩn dụ một cách tuyệt vời mà các thầy lang bình thường chưa chắc khám phá được, Như toa thuốc mà Hồ Thanh Ngưu ra cho Trương Vô Kỵ: Phòng phong, Độc hoạt, Đương quy, Xuyên sơn giáp, uống vào canh ba. Cậu bé Trương Vô Kỵ 15 tuổi đọc toa thuốc này, hoàn toàn hoài nghi về cách ra toa bừa bãi với các vị thuốc phổ thông của Hồ Thanh Ngưu. Nhưng trí thông minh đã giúp cậu hiểu ra nghĩa ẩn dụ nằm trong những vị thuốc bình thường: coi chừng (Phòng phong), đi một mình (độc hoạt), quay về (Đương quy), bằng cách đi ngang qua núi (Xuyên sơn giáp). Hồ Thanh Ngưu đang lúc lâm nguy, muốn cứu Trương Vô Kỵ nên ra toa thuốc bảo chàng trốn đi vào lúc canh ba ra khỏi Hồ điệp cốc ngay!

                Tôi xin nhắc sơ lược đến hai chữ “tình yêu” khá lạ lùng của Kiến Ninh công chúa (Lộc Đỉnh ký) và cặp Đông Phương Bất Bại – Dương Liên Đình (Tiếu ngạo giang hồ). Nếu nhìn dưới nhãn quan y học thì các nhân vật vừa nói ít nhiều đã bị chứng bệnh tâm thần và Kim Dung đã mô tả cho chúng ta (chứ không bình luận) về trạng thái bệnh lý của họ. Kiến Ninh công chúa, cô bé mới 14 tuổi, là một nhân vật bị chứng khổ dâm (Masochisme). Chứng khổ dâm được định nghĩa là “trạng thái mà trong đó chủ thể chỉ tìm thấy được khoái lạc tình dục qua sự đau đớn về thân xác” (Perversion dans laquelle le sujet recherche le plaisir sexuel dans la douleur physique – Petit Larousse). Kiến Ninh công chúa chỉ thực sự tìm thấy khoái lạc khi thái giám giả hiệu Vi Tiểu Bảo bóp cổ, đánh đập, lấy dao rạch, lấy dây quất vào người cô trước khi chăn gối. Còn Đông Phương Bất Bại đã tự thiến để luyện Quỳ hoa bảo điển (một tên gọi khác của Tịch tà kiếm phổ) nên thành ái nam ái nữ. Y chỉ tìm thấy được khoái lạc tình dục khi có Dương Liên Đình, một nhân vật tốt tướng đẹp trai, ăn mặc xa hoa như một nhà hào phú. Khi bị bốn cường địch là Nhận Ngã Hành, Hướng Vân Thiên, Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung bao vây, y chỉ cần chống đỡ bằng một cây kim thêu mà đã đâm Ngã Hành mù một mắt. Phải đến lúc Doanh Doanh hành hạ Dương Liên Đình, Đông Phương Bất Bại nhìn thấy và đau đớn, mới chịu thua và chết dưới tay sát thủ của Nhậm Ngã Hành.

                Võ học luôn kết hợp chặt chẽ với y học. Môn phái nào trong võ hiệp Kim Dung cũng biết dùng thuốc, chữa thương, nuôi nấng và chăm sóc người bị thương. Tất cả đều dựa trên y thuật cổ truyền của người Trung Hoa và do vậy, những điều mà Kim Dung điễn đạt đều có cơ sở khoa học. Thỉnh thoảng, trong vài bộ tiểu thuyết của ông cũng có những điều phi khoa học hoặc không được khoa học hiện đại kiểm chứng như chuyện thay đổi công lực, đả thông hai huyệt Nhâm D(ốc. Người ta có thể hoài nghi các giả thuyết đó. Nhưng ai cấm được sự hư cấu, vốn là tình thần và nguyên tắc của sáng tạo tiểu thuyết? Ai cấm được nhà văn diễn đạt một cách lãng mạn, vượt ra ngoài quy luật thông thường của cuộc sống.

                Một điều rõ ràng là Kim Dung chỉ viết tiểu thuyết chứ không hề viết sách nghiên cứu về y học Trung Hoa. Nhưng dù là nhà tiểu thuyết, rõ ràng ông đã nghiên cứu kỹ lĩnh vực y học của dân tộc ông để dung nạp một cách hài hoà với lĩnh vực võ học. tạo ra nhưng kiến thức y học phong phú cho tác phẩm và đem lại hứng thú cho người đọc. Kiến thức y học cũng như võ học ấy được xây dựng trên nền tảng kiến thức triết học Trung Hoa. Tất cả khởi đi với âm dương và cùng trở về trong cái lẽ huyền diệu của âm dương.



                .
                ----------------------------

                Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                Comment

                • #9

                  Các tuyệt kỹ trong truyện Kim Dung

                  Các tuyệt kỹ trong truyện Kim Dung

                  Nghe đâu trong giới Võ lâm đã tương truyền rằng : Ai đọc được hết bộ truyện Kim Dung sẽ là đại cao thủ trong giới game online. Chém gió lúc ấy đã coi như bậc anh hùng, xuất ngôn cửu đỉnh, được trọng vọng vô cùng. Có thể nói, thời gian cầy game còn thiếu, huống chi là ngồi đọc hết trọn bộ sách này. Biết chắc không thể giới thiệu hết các bộ truyện của Kim Dung. Nhưng sẽ giới thiệu những tuyệt học, bí kíp võ công. Để các game thủ phần nào hiểu được những tuyệt học này trong khi chơi game.



                  Tác giả Kim Dung


                  Hấp tinh đại pháp (Tiếu ngạo giang hồ)
                  Trong giang hồ, có lẽ không có môn võ công nào khiến các bậc anh hùng vừa khiếp sợ vừa khinh bỉ bằng môn Hấp tinh đại pháp. Các loại võ công thông thường thì giết chết hoặc đả thương đối phương, nhưng Hấp tinh đại pháp lại là môn hấp thụ nội công của đối thủ, lấy của địch làm của mình, nói thẳng ra là ăn cắp nội công của địch thủ. Tưởng tượng xem bạn là một cao thủ võ lâm, luyện tập mấy chục năm trời dầm mưa dãi nắng, khổ cực trăm bề để có được nội công thượng thặng nhưng tất cả biến mất sau vài phút chỉ bằng một cái chạm tay vào người. Ghê gớm thay! Môn võ công này được Nhậm Ngã Hành - giáo chủ Triêu Dương thần giáo - sáng chế. Cơ bản của các môn nội công khác là tập trung chân khí tại đan điền, nguyên khí càng đầy rẫy thì nội công càng cao siêu. Nhưng Hấp Tinh Đại Pháp thì ngược lại. Môn võ công này biến huyệt Đan điền thành một dạng "hố đen" thu hút nội công của đối thủ rồi phát tán vào những huyệt ở Nhâm mạch. Khi cần phát thủ thì lại tập trung lại tại huyệt Đan điền rồi phát ra. Tuy nhiên môn võ công này không được toàn bích, bởi lẽ càng hút được nhiều nội công thì các loại nội công lại không giống nhau, không thể dung hoà được, dẫn đến tình trạng các môn nội công khác nhau oánh nhau trong người khiến người luyện tập đau đớn khôn tả mà chết. Nhậm Ngã Hành một đời võ công cái thế, mưu trí cao siêu song cũng bỏ mạng bởi chính môn võ công của mình. Chỉ có một thuốc chữa chính là Dịch Cân Kinh của Thiếu Lâm, hoà giải công phu Hấp Tinh Đại Pháp, sau này Lệnh Hồ Xung đã được Phương Chứng đại sư truyền thụ, hoá giải hoàn toàn.


                  Dịch Cân Kinh (Tiếu ngạo giang hồ & Thiên Long Bát Bộ)
                  "...Dịch Cân Kinh tương truyền do Đạt Ma lão tổ diện bích chín năm mà sáng chế ra, Thiền nông nhị tổ Tuệ Khả nhặt được dưới chân tường nơi lão tổ diện bích. Tuệ Khả đại sư nguyên pháp danh là Thần Quang, người thành Lạc Dương, thông suốt Khổng học và Lão học từ thuở nhỏ. Hồi Đạt Ma lão tổ còn trụ trì ở bản tự, Thần Quang đại sư lên chùa xin thụ giáo thêm. Đạt Ma thấy những điều sở học của đại sư phức tạp mà đại sư ỷ mình thông minh, khó giác ngộ thiền lý nên cự tuyệt không muốn thu nhận, Thần Quang đại sư năn nỉ mãi, thuỷ chung vẫn không được nhập môn. Thần Quang đại sư thấy mình năn nỉ cách nào Đạt Ma lão tổ vẫn không chấp thuận liền vung kiếm lên tự chặt đứt cánh tay trái. Đạt Ma lão tổ thấy Thần Quang thành khẩn như vậy mới thu làm đệ tử và đổi pháp hiệu là Tuệ Khả. Sau đại sư được lão tổ truyền chức làm Thiền Tôn pháp thống. Đời Tuỳ có nhà sư được phong Thiền Tôn phổ giác đại sư chính là vị này.



                  Đạt Ma lão tổ


                  Tuệ Khả nhị tổ lượm được "Dịch Cân Kinh" viết bằng chữ Phạn nghĩa lý rất uyên thâm. Khi lượm được di kinh thì Đạt Ma lão tổ đã viên tịch rồi cho nên không hỏi ai được. Nhị tổ nghĩ rằng Đạt Ma lão tổ diện bích chín năm mới lưu lại cuốn kinh này thì dù kinh văn sơ sài, song nhất định không phải chuyện tầm thường. Thế rồi ngài đeo kinh lên lưng đi khắp danh sơn thắng cảnh tìm kiếm cao tăng để nhờ giải thích. Nhưng hồi đó nhị tổ đã là một vị cao tăng đắc đạo đương thời, khổ tâm suy nghĩ còn chưa hiểu được. Vậy thì việc tìm kiếm một bậc diệu pháp cao thâm hơn Nhị tổ lại càng khó khăn, Vì thế mà hơn hai mươi năm những điều bí ẩn trong kinh văn thuỷ chung vẫn không sao hiểu được. Một hôm Nhị tổ gặp tuyệt đại pháp duyên được cùng một nhà sư Thiên Trúc pháp hiệu là Ban Thích Mật Đế trụ trì ở núi Nga My tỉnh Tứ Xuyên đàm luận Phật học rất ý nguyện tâm đầu. Nhị tổ liền lấy "Dịch Cân Kinh" ra để cùng Ban Thích Mật Đế nghiên cứu. Hai vị cao tăng ở trên đỉnh núi Nga My suy luận trong muời chín ngày mới hiểu hết. Nhưng Ban Thích chỉ là một vị cao tăng về Thiên Tôn Phật học. Mãi đến mười hai năm sau, Nhị tổ trên đường đi Trường An gặp một chàng tinh thông võ nghệ. Nhị tổ cùng y đàm luân ba ngày ba đêm mới thấu đạt được đến hổ ảo diệu về "Dịch Cân Kinh". Chàng thanh niên đó là một vị khai quốc đại công thần Đường triệu tên gọi Lý Tĩnh. Sau Tĩnh phò tá vua Thái Tôn bình định rợ Đột Huyết ra ngoài làm tướng soái, vào triều làm tướng quốc, được phong chức Vệ Công. Sở dĩ Lý Vệ Công lập được kỳ công tuyệt thế cũng một phần nhờ ở pho kinh này mà thành.

                  "Dịch Cân Kinh tuyệt diệu ở chỗ bao quát các mạch lạc con người, liên hệ với tinh thần ngũ tạng. Khắp mà không tan, đi mà không dứt. Khí ở trong sinh, huyết ở ngoài thân. Luyện được kinh rồi thì tâm động là nội lực tự phát huy như nước triều dâng. Luyện Dịch Cân Kinh khác nào bơi thuyền trên sóng dữ , đợt sóng dâng lên hạ xuống thì thuyền lúc cao lúc thấp, cần chi phải dùng sức..."

                  Theo Phương Chứng đại sư Thiếu Lâm tự thì Dịch Cân Kinh là môn luyện tập nội công chí tôn vô thượng, bởi lẽ nội công đã luyện thành thì có thế tuỳ tâm mà phát động. Địch yếu hay địch mạnh ta đều có thế dễ dàng biến đổi để mà dành phần hơn như con thuyền trên nước, sóng dâng thì thuyền dâng theo. Lệnh Hồ Xung vì luyện Hấp Tinh Đại Pháp và trong người có nhiều luồng khí dị chủng, ngay cả danh y Bình Nhất Chỉ cũng đành bó tay nhưng Dịch cân Kinh thì có thể dung hoà chúng, như các nhánh sông đổ về một dòng. Tuy nhiên trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, ta không thấy mặt mũi Dịch Cân Kinh mà chỉ qua Phương Chứng đại sư truyền lại khẩu quyết cho Lệnh Hồ Xung mà luyện tập.

                  Trong Thiên Long bát bộ, tương truyền Dịch Cân Kinh và Lục Mạch Thần Kiếm là hai pho võ công ngang nhau, thiên hạ vô địch, một về nội công, một về ngoại gia. Dịch Cân Kinh xuất hiện là lúc A Châu giả trang vào chùa Thiếu Lâm trộm chân kinh làm quà mừng thọ Mộ Dung Phục, chẳng may bị dính một chưởng Kim Cang, tuy giảm bớt mấy thành do Kiều Phong ném tấm gương đồng che chở nhưng cũng khiến y suýt mất mạng. Nguyên sư đệ của Cưu Ma Trí là Ba La Tinh, Triết La Tinh đột nhập vào Thiếu Lâm trộm kinh mà bị giam giữ mấy chục năm (mấy ông sư ác gớm, bây giừ tội trộm cắp cũng đâu tới mấy chục năm). Sau này, khi A Châu chết, Dịch Cân Kinh cũng theo Tiêu Phong qua Liêu quốc, và bị đánh rơi, Du Thản Chi nhặt được. Dịch Cân Kinh là một quyển sách bằng giấy dầu mỏng không thấm của Thiên Trúc , trên có các hình vẽ các nhà sư trong các tư thế luyện công kì lạ (rất giống với Yoga) và các đường xanh đỏ là các đường khí vận hành trong người. Du Thản Chi vì bị trúng độc của con Băng Tầm mà luyện thành Dịch cân Kinh và Hàn Băng độc chưởng. Tuy nhiên Dương Trang Chủ chỉ dựa vào đồ hình để luyện nên không hiểu được đạo lý nhà Phật bên trong. Sau này, trên Thiếu Lâm có vị đại sư già trông coi Tàng Kinh Các là người thông tuệ, tinh thông Phật pháp đã giảng giải về Dịch Cân Kinh: Dịch Cân Kinh là môn nội công của phái Thiếu Lâm dùng để luyện tập cơ thể cường tráng, tinh thần minh mẫn. Thiếu Lâm có 72 tuyệt kỹ nhưng muốn luyện các môn tuyệt kỹ đó đến độ tinh vi, ảo diệu thì phải có căn cơ nội công Dịch Cân Kinh, thì khi đạt trình độ thượng thặng mới không tổn hại cơ thể. Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác vì ko hiểu đạo lý đó mà mang thương tích, sau nhờ đại sư cứu chữa, quy y đầu Phật. Dịch Cân Kinh cuối cùng lại quay trở về Tàng Kinh Các, tiếp tục bị "đóng bụi" với thời gian.

                  Bích hải triều sinh khúc
                  Cùng với Lạc Anh thần kiếm chưởng là hai môn tuyệt kỹ đắc ý nhất của Đông Tà Hoàng Dược Sư, đảo chúa Đào Hoa Đảo. Đây là một khúc nhạc được tấu bằng ngọc tiêu kèm với nội lực thâm hậu vô song, tấn công vào định lực của đối phương, làm cho đối thủ tâm thần hoảng loạn, như điên như cuồng, không thể kìm chế được bản thân, nếu càng cố vận lực chống đỡ càng dễ dẫn đến tẩu hoả nhập ma. Khúc tiêu này mô tả biển cả mênh mông, vạn dặm phẳng lỳ, xa xa sóng biển từ từ tiến tới, càng gần càng mau, sau cùng thì cuồn cuộn dâng lên, sóng trắng như núi nối nhau, mà trong làn sóng thì cá nhảy kình bơi, trên mặt biển thì gió thổi âu bay, lại thêm yêu ma quỉ mị, quái vật giỡn sóng, thoắt thì núi băng trôi tới, thoắt thì biển nóng như sôi, biến đổi đủ vành, mà sau khi triều lui thì mặt nước phẳng lặng như gương, dưới đáy biển lại là những dòng nước chảy ngầm rất xiết, trong chốn không có tiếng động hàm chứa sự hung hiểm, càng khiến người nghe khúc nhạc này bất giác rơi vào chỗ mai phục, càng không thể đề phòng...Sau Hoàng Dược Sư bị bọn Bành Liên Hổ, Sa Thông Thiên lừa rằng con gái ông là Hoàng Dung đã chết, ông đau buồn bẻ ngọc tiêu đi, tuy sau này có thay bằng thiết tiêu nhưng từ đó không còn thấy khúc Bích hải triều sinh vang lên nữa.

                  Kiếm của Độc Cô Cầu Bại



                  Tử Vi kiếm

                  Kiếm ma Độc Cô Cầu Bại chính là người sở hữu những thanh kiếm quý báu bậc nhất trong tác phẩm Kim Dung.
                  Trong tác phẩm Thần Điêu Hiệp Lữ, Dương Qua vô tình bắt gặp con quái xà quấn chặt lấy con thần điêu. Vốn có ác cảm với loài rắn đã giết hại mẹ mình, Dương Qua dùng thanh Quân tử kiếm của Cổ Mộ phái, vốn chém sắt như chém bùn chém vào người con quái xà. Không ngờ thanh kiếm bị mẻ mấy khúc, và sau đó gẫy đôi. Thì ra thanh kiếm này năm xưa Độc Cô đã lỡ tay dùng để chém chết một người hào kiệt. Coi là vật bất tường, ông bỏ thanh kiếm vào "kiếm mộ". Con quái xà vì lý do nào đã nuốt phải thanh kiếm của Độc Cô Cầu Bại, thanh Tử Vi kiếm. Dù vô cùng sắc bén và cứng - nhưng thanh kiếm lại dẻo nên có thể luồn theo người con quái xà, không chọc đứt người nó.

                  Thanh Tử Vi kiếm vốn theo Kiếm ma lăn lộn giang hồ suốt bao năm tìm một địch thủ mà không toại nguyện. Vị tiền bối này liền ẩn cư, lấy thanh kiếm làm vợ, thần Điêu làm bạn, để vài chục năm sau có Dương Qua là một truyền nhân xuất sắc. Oan trái thay, cũng chính vì thanh bảo kiếm sắc bén có một không hai này mà Dương Qua bỏ lại một cánh tay nơi thành Tương Dương. Quách Phù trong cơn xuẩn động đã rút thanh Tử Vi kiếm chém Dương Qua. Thanh Thục nữ kiếm cũng không chống nổi sự bén ngọt của thanh Tử Vi, Dương Qua mất đi cánh tay... Âu là duyên số, vật bất tường ấy đã làm Dương Qua mất đi cánh tay.

                  Dương Qua rời thành Tương Dương và gặp lại con Thần Điêu của Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại. Dương Qua đã đến được nơi ở xưa của Độc Cô và tìm được kiếm mộ của người. Thanh thứ nhất chính là Tử Vi. Thanh thứ hai là thanh Huyền Thiết Kiếm, dài ba thước mà nặng tới sáu mươi cân. Lưỡi kiếm tròn mà không sắc, Độc Cô đã dùng để chu du thiên hạ năm bốn mươi tuổi. Thanh Kiếm này rèn bằng kim loại đặc biệt, cứng rắn vô song. Thanh kiếm bị thất lạc ở Tuyệt Tình Cốc, nhưng sau đó đã tìm lại được và Quách Tỉnh đã dùng chất liệu thanh huyền Thiết Kiếm đúc nên thanh Ỷ thiên kiếm và Đồ Long đao, cất giấu Võ mục di thư và Cửu âm chân kinh - mãi trăm năm sau mới xuất hiện và gây chấn động giang hồ (Ỷ thiên Đồ long ký). (sau này hai thanh Ỷ thiên và Đồ long chặt vào nhau vỡ ra để lấy bí kíp, Trương Vô Kỵ phải dùng đến thanh lệnh bài của Bái Hỏa giáo Ba Tư để làm kẹp, hàn lại mới không bị chảy ở nhiệt độ cao như vậy).

                  Còn thanh gươm lợi hại nhất, khi kiếm đạo của Độc Cô Cầu Bại đã đạt đến mức thượng thừa lại là thanh kiếm bằng gỗ. Theo Độc Cô tiền bối, khi ấy vạn vật cỏ cây đều có thể trở thành kiếm được. Mộc kiếm nếu luyện thành tinh thuần sẽ không có thanh gương nào chống nổi nó.

                  Nói cách khác, dẫu báu kiếm quan trọng, nhưng "người sử kiếm chứ chẳng phải kiếm sử người"...

                  Ám nhiên tiêu hồn chưởng




                  Do Thần điêu đại hiệp Dương Quá sáng tạo nên trong quãng thời gian chờ đợi Tiểu Long Nữ. Vốn dĩ Dương Quá bị mất một cánh tay, bất lợi hơn người khác ở chỗ chiêu thức khó biến hóa bằng; song lại có cơ duyên luyện công trong hải triều nên có lợi thế về công lực. Môn Ám nhiên tiêu hồn chưởng do vậy hoàn toàn dựa vào nội lực thâm hậu, không quan trọng những biến hóa chiêu số.

                  Ám nhiên tiêu hồn chưởng vốn lấy ý trong câu:

                  "Ám nhiên tiêu hồn giả
                  Duy biệt nhi kỷ hỹ"

                  trong bài "Biệt phú" của Giang Yên. Ám nhiên tiêu hồn chưởng gồm có tổng cộng 17 chiêu:




                  1. Tâm kinh nhục khiêu
                  2. Khởi nhân ưu thiên
                  3. Đà nê đới thủy
                  4. Vô trung sinh hữu
                  5. Bồi hồi không cốc
                  6. Lực bất tòng tâm
                  7. Hành thi tẩu nhục
                  8. Đảo hành nghịch thi
                  9. Phế tẩm vong thực
                  10. Cô hình chích ảnh
                  11. Ẩm hận thôn thanh
                  12. Lục thần bất an
                  13. Cùng đồ mạt lộ
                  14. Diệp vô nhân sắc
                  15. Tưởng nhập phi phi
                  16. Ngai nhược mộng kê
                  17. Ngọc Nữ tâm kinh
                  Được Lâm Triều Anh sáng tác để khắc chế võ công Toàn Chân giáo và ghi trong ngôi Hoạt tử nhân mộ, căn phòng khắc bộ tâm kinh thậm chí tương phản hoàn toàn với căn phòng luyện võ của Vương Trùng Dương.
                  Thuở thiếu thời Lâm Triêu Anh từng luyến ái Vương Trùng Dương nhưng Vương Trùng Dương không đáp lại tình yêu đó bởi muốn giành trọn đời mình để kháng Kim. Lâm Triều Anh vì đó đâm u uẩn, hận Trùng Dương hận luôn Toàn Chân giáo do ông sáng lập; viết nên bộ Ngọc Nữ Tâm Kinh khắc chế võ công Toàn Chân giáo.

                  Bộ Ngọc nữ tâm kinh đa phần là kiếm pháp, nhưng không có kiếm pháp khắc chế quyền cước Toàn Chân phái.
                  Võ công này phải có hai người cùng luyện ,trợ giúp lẫn nhau.Chia làm ba bước:

                  Bước 1: luyện thành các môn võ công của phái Cổ Mộ.

                  Bước 2: luyện võ công phái Toàn Chân.

                  Bước 3: luyện võ công ghi trong Ngọc Nữ tâm kinh để khắc chế võ công phái Toàn Chân.

                  Nội công Ngọc Nữ tâm kinh đi từ bàng môn tả đạo chiếm thượng phong, khi luyện công, hơi nóng toàn thân bốc lên ngùn ngụt, cần tập ở nơi thoáng mát và rộng rãi, cởi bỏ hết quần áo mà tập, để cho hơi nóng phát tán, không đọng lại chút nào trên cơ thể, nếu không sẽ tích tụ bên trong, nhẹ thì gây trọng bệnh,nặng thì làm chết người. Lúc luyện, hai người phải dùng nội lực đạo dẫn phòng hộ cho nhau, nếu không sẽ tẩu hoả nhập ma.
                  Ngọc nữ tâm kinh gồm chín đoạn hành công, đơn số hành công là Âm tiến, còn song số là Dương thoái. Dương thoái có thể dùng lúc nào tuỳ ý, còn Âm tiến phải liền một mạch.
                  Lâm Triêu Anh sáng tạo Ngọc Nữ tâm kinh để chống phái Toàn Chân, nhưng tình ý với Vương Trùng Dương thì không thay đổi, khi viết đến chương cuối, bà tưởng tượng được cùng Vương Trùng Dương chống địch, một người sử dụng võ công phái Toàn Chân, một người sử dụng Ngọc nữ tâm kinh, tạo thành Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp. Song kiếm tung hoành là khách, kề vai đánh địch mới là chủ, mỗi chiêu thức đều phối hợp nhau, chiếu cố nhau, tình ý triền miên tha thiết.

                  Người sử dụng Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp:
                  Nếu một đôi nam nữ không là tình lữ thì sẽ không lĩnh hội được những chỗ tinh diệu của nó, tâm linh không thể hoà thông với nhau; nếu hai người liên thủ là bằng hữu, sẽ quá khách sáo; nếu là kẻ trên người dưới, sẽ khó tránh dựa dẫm vào nhau; nếu là phu phụ, thì tuy tốt, nhưng hai bên lại quá ư đắm đuối, e lệ thẹn thùng, nửa gần nửa xa, tâm linh vẫn có chỗ chênh lệch.
                  Sau này, Tiểu Long Nữ được Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông truyền thụ võ công Song Thủ Hổ Bác cũng sử được Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp rất lợi hại


                  Cửu Âm chân kinh
                  Do Hoàng Thường vào núi viết nên, gồm cả phần nội công và chiêu thức có oai lực phi thường, có liên quan mật thiết đến cuộc đời của bao tôn sư võ học: Vương Trùng Dương tranh được pho bí kíp này sau khi chiến thắng trong kì Hoa Sơn luận kiếm, chia pho kinh thành hai phần nội công và ngoại thức, đồng thời cũng tốn phí bao tâm tư để ngăn không cho nó lọt vào tay những kẻ lòng dạ độc ác như Tây Độc...Hoàng Dược Sư đánh đuổi hết các đệ tử của mình khỏi đảo Đào Hoa, Âu Dương Phong trăm mưu ngàn kế chiếm đoạt để cuối đời tẩu hỏa nhập ma, hóa điên loạn, Châu Bá Thông bị cầm thù mười mấy năm, Đoàn hoàng gia xuống tóc tu hành...

                  Hồng Thất Công trúng chất độc của loài quái xà trên thanh trượng của Âu Dương Phong, mất hết công lực một đời, có lẽ sẽ trở thành một lão già vô dụng nếu không có phần yếu quyết Cửu Âm chân kinh giúp hồi phục... Nam đế vì trị bệnh cho Hoàng Dung cũng hao tốn nguyên khí trầm trọng, nếu không nhờ Cửu Âm chân kinh cũng chẳng thể nào kịp góp mặt trong kì Kiếm luận thứ hai... Quách Tỉnh, Dương Qua đều có nội lực cao thâm bởi được luyện môn thần công này...
                  Sau này Chu Chỉ Nhược kế nhiệm Diệt Tuyệt sư thái và lấy được Cửu âm chân kinh dấu trong Ỷ thiên kiếm, luyện và trở thành cao thủ.




                  Y Viên Viên trong vai Chu Chỉ Nhược



                  Cửu Dương chân kinh
                  Như một nửa còn lại của Cửu Âm chân kinh, một môn chí dương một môn chí âm. Cửu Dương chân kinh do Đạt Ma tổ sư Thiếu Lâm viết nên. Giác Viễn đại sư chỉ luyện môn chân kinh này mười năm với mục đích khỏe mạnh gân cốt mà được một kỳ tài võ học là tổ sư Võ Đang Trương Tam Phong liệt vào hàng nội lực cao khôn cùng, ngang với Quách Tỉnh... Trương Vô Kỵ về sau cũng lấy nội công chí dương của môn thần công này làm nền tảng vững chắc để vừa trục chất hàn độc, vừa làm bệ đỡ tuyệt vời để nhanh chóng đạt được tầng thứ bảy của Càn Khôn Đại Na Di, môn võ mà giáo chủ đời trước Dương Đính Thiên chỉ luyện đến tầng thứ tư đã trở thành thiên hạ đệ nhất nhân...

                  Ba người Vô Sắc thiền sư, Quách Tương, Trương Quân Bảo cùng nghe Giác Viễn truyền thụ Cửu Dương chân kinh. Mức giác ngộ của ba người không giống nhau. Vô Sắc võ công cao hơn cả. Quách Tương là ái nữ của Quách Tĩnh và Hoàng Dung, võ công uyên bác hơn cả. Trương Quân Bảo chưa có sở học gì, thành ra sở học lại tinh thuần hơn cả. Vậy, Vô Sắc được chữ "cao", Quách Tương được chữ "bác", Trương Quân Bảo được chữ "thuần", sau này đều thành những danh sư võ học. Trong đó, Quách Tương sáng lập Nga My, Trương Quân Bảo sáng lập Võ Đang (Trương Tam Phong), là những danh môn của võ lâm Trung Nguyên. Mới hay Cửu Dương chân kinh uy lực vô ngần.

                  Thật ra, Cửu Dương Chân Kinh có phải do Đạt Ma Tổ Sư viết hay không thì còn phải xem lại, bởi vì, xét theo thời điểm ấy, trình độ tiếng Hán của Tổ Sư thuộc hàng... amateur, khó có thể viết nên những câu kinh thông tuệ mẫn tiệp, hàm ý sâu sắc như trong truyện được ( trích lời Trương Tam Phong ). Đồng thời Cửu Dương chân kinh khác hẳn với những võ công Thiếu Lâm, mà gần với võ công Đạo gia hơn. Nên nhớ 2 bộ chân kinh thượng thừa của phái Thiếu Lâm là Dịch Cân và Tẩy Tuỷ đều được viết vào thời gian này và đều viết bằng tiếng Phạn (trong Thiên long Bát Bộ)... Có giả thuyết cho rằng các nhà sư đời sau đã viết nên bộ kinh này và giấu nó vào trong cuốn Lăng Già Kinh ở Tàng Kinh Các . Giả thuyết này xem ra có lý hơn .

                  Càn khôn đại na di
                  Môn võ công trấn sơn của Minh giáo. Môn thần công này gồm tất cả bảy tầng. Vị cao nhân của Minh giáo Ba Tư khi xưa thực sự cũng chỉ luyện và hiểu đến phần thứ sáu. Tâm pháp tầng thứ bảy thực ra do ông dùng trí tưởng tượng, sự thông minh của mình mà suy luận, biến hóa, sáng tạo nên. Môn thần công này cực kỳ khó luyện. Giáo chủ đời thứ 33 của Minh giáo là Dương Đính Thiên chỉ luyện được đến tầng thứ tư đã trở thành vô địch. Trương Vô Kỵ nhờ có căn bản của Cửu Dương thần công mà luyện được gần hết tầng thứ bảy, chỉ thiếu muời chín câu cuối cùng. Tuy nhiên mười chín câu ấy chính là phần sai lệch mà vị cao nhân năm xưa tưởng tượng ra. Trương Vô Kỵ biết ngưng đúng, "tri túc bất nhục" thành ra không bị cái họa tẩu hỏa nhập ma, đứt kinh mạch vì nội công sai lệch.

                  Tâm pháp của Càn khôn đại na di được ghi trên mảnh da dê (mà sau này Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu tìm được dưới đường hầm Minh giáo); còn phần chiêu thức lại được ghi trên tám tấm thẻ Thánh hỏa lệnh của các sứ giả Minh giáo Ba Tư. Đạo lý căn bản của Càn khôn đại na di là làm thế nào để vận dụng tối đa sức lực mà con người có được. Bình thường sức người tiềm ẩn, không ai biết. Đến khi gặp những lúc bất ngờ như cháy nhà mới thấy sức người trói gà không chặt có thê bưng đồ nghìn cân. Tuy nhiên muốn luyện công, càng lên tầng cao càng cần phải có công lực mạnh, nếu không sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Nhiều giáo chủ Minhgiáo không hiểu đạo lý này nên đã tự hủy mình

                  Hàng Long Thập Bát Chưởng , còn gọi là Giáng Long Thập Bát Chưởng



                  Giáng long thập bát chưởng


                  Môn võ công trấn bang của Cái Bang. Sau đây là tên 15 chiêu của Giáng Long Thập Bát Chưởng, tên 3 chiêu còn lại sẽ được bổ sung sau:

                  1 . Kháng Long Hữu Hối
                  2 . Kiến Long Tại Điền
                  3 . Phi Long Tại Thiên
                  4 . Quần Long Vô Thủ
                  5 . Bàn Long Thực Nhật
                  6 . Song Long Xuất Hải
                  7 . Long Chiến Ư Dã
                  8 . Lợi Thiệp Đại Xuyên
                  9 . Đột Như Kì Lai
                  10. Hoặc Dược Tại Uyên
                  11. Lý Sương Băng Chí
                  12 . Hồng Tàm Ư Lục
                  13 . Chấn Kinh Bách Lý
                  14 . Thần Long Bãi Vĩ
                  15 . Tiềm Long Hốt Dụng

                  Theo Kim Dung, bộ chưởng pháp này là võ công chí cương của thiên hạ, bao đời Bang Chủ Cái Bang nhờ nó mà thành danh giang hồ, uy lực tuỳ theo người sử dụng. Những cao thủ về môn chưởng pháp này có thể kể là Tiêu Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh. Tiếc thay, từ sau thời Anh Hùng Xạ Điêu, vật đổi sao dời, Hàng Long Chưởng cũng theo đó mà thất truyền cùng với sự suy vi của Cái Bang, đến thời Gia Luật Tề thì chắc không học nổi toàn bộ, Quách đại hiệp đành phải gửi gắm hi vọng vào hậu thế trong thanh Ỷ Thiên kiếm... Nhớ lại sau này bang chủ Cái Bang Sử Hoả Long chỉ tập thành có muời hai chiêu mà tiếc cho Tiêu Phong một thân anh hùng lại vùi thây nơi hiểm địa ..

                  Đả cẩu bổng pháp
                  Công nhận là ông tổ sư khai môn lập phái của Cái Bang thật lạ, một mặt sử dụng tên một con linh vật, Rồng, để đặt tên cho chưởng pháp (Hàng Long thập bát chưởng) mặt khác sử dụng tên một con vật tầm thường, Cẩu, để gọi môn Bổng Pháp chí bảo trấn bang...

                  Như ta đã biết, Đả Cẩu Bổng Pháp gắn liền với cây Đả Cẩu Bổng danh lừng thiên hạ, tương truyền tất cả các Bang Chủ Cái Bang khi tiếp nhiệm trọng trách đều được Bang Chủ tiền nhiệm dạy cho môn võ công thần diệu này. Nhưng có lẽ ít ai biết được hình dáng thực sự của cây Đả cẩu Bổng . Nó dài ba thước lẻ bảy ****, thẳng, làm bằng trúc. Còn Đả Cẩu Bổng của Bang Chủ thì làm bằng Lục ngọc , có màu xanh như trúc vậy. Một cây gậy tầm thường như vậy nhưng lại có quyền lực tối cao, có thể sai khiến hàng vạn vạn Bang Chúng dưới quyền.

                  Tiếp theo là bàn về Đả Cẩu Bổng Pháp , lộ Bổng Pháp này gồm ba mươi sáu chiêu, chia theo 8 chữ khẩu quyết : buộc, đập, trói, đâm, khều, dẫn, khoá, xoay. Tuỳ tình hình địch thủ và gia số võ công mà sử dụng một trong tám chữ khẩu quyết này là có thể khắc địch chế thắng. Điểm lợi hại của Bổng Pháp này là người võ công kém hơn khi đụng đối thủ mạnh cũng có thể chiến thắng nổi, chiêu thức Bổng Pháp biến ảo tinh diệu tuyệt kì. Tiếc là Kim Dung tiên sinh chỉ nhắc sơ qua vài chiêu: Ngao Khẩu Đoạt Trượng (dùng cướp gậy) , Áp Thiên Cẩu Bối (khẩu quyết chữ Khoá), Bổng Đả Song Khuyển (chữ Đập), Bát Thảo Tầm Xà (chữ Đâm) , Lục Phản Cẩu Điện ( chữ Đâm ) , Bát Cẩu Triều Thiên ( chữ Khoá ) ...

                  Hiệp Khách Hành:
                  Là võ công của Thạch Phá Thiên học được ở cái đảo Long Mộc. Môn võ này gọi là Thiên Thai Huyền Kinh, được chép bằng khoa đẩu cổ văn, tức dạng văn tự cổ nhìn giống như những con nòng nọc đang bơi.
                  Vì môn võ này mà hai vị Long Mộc đảo chủ cứ mỗi mười hai năm lại sai người lên đất liền vời những bậc chưởng môn hay tôn sư võ học, kiến thức mênh mông như biển để lên đảo luận bàn về pho thần công tuyệt đỉnh này. Bốn mươi năm rồi mà mỗi ngày lại có thêm những cách hiểu khác nhau về môn thần công này. Các vị chưởng môn, tôn sư ấy bị môn võ mê hoặc đến mức ở lỳ trên đảo, chưa tìm ra yếu quyết là chưa về đất liền, khiến những người ở lại đều tưởng họ đã qua đời.





                  Thạch Phá Thiên không biết chữ, nên khi nhìn những chữ chép trên vách chỉ hình dung ra những con nòng nọc đang chuyển động, giống như hồi thơ ấu hay nhìn nòng nọc bơi trong vũng nước. Vì vậy mà lại lĩnh hội được yếu quyết: dáng nòng nọc chuyển động ứng với cách vận chân khí đến từng huyệt đạo trong cơ thể. Nhờ chữ duyên ấy mà chàng trai này đã luyện được môn thần công có một không hai này.

                  Gồm tất cả hai mươi bốn môn võ công tuyệt thế,Thạch Phá Thiên luyện được trở thành vô địch thiên hạ một thời. Nguyên bí kíp Hiệp Khách Hành này là dựa vào bài thơ nổi tiếng Hiệp Khách Hành của ông Lý Bạch đời Đường, không có gì là bí ẩn, chỉ có kiểu viết như những con nòng nọc là bí quyết luyện võ công mà thôi. Hiệp Khách Hành nguyên văn như sau:

                  Triệu khách mạn hồ anh
                  Ngô câu sương tuyết minh
                  Ngân yên chiếu bạch mã
                  Táp đạp như lưu tinh
                  Thập bộ sát nhất nhân
                  Thiên lí bất lưu hành
                  Sự liễu phất y khứ
                  Thâm tàng thân dữ danh
                  Nhàn quá Tín Lăng ẩm
                  Thát kiếm tất tiền hoành
                  Tương chá đạm Chu Hợi
                  Trì trường khuyến Hầu Doanh
                  Tam bôi thổ nhiên nặc
                  Ngũ nhạc đảo vi khinh
                  Nhãn hoa nhĩ nhiệt hốt
                  Ý khí tố nghê sinh
                  Cứu Triệu huy kim chuỳ
                  Hàm Đan tiên chấn kinh
                  THiên thu nhị tráng sĩ
                  Hiên hách Đại Lương thành
                  Túng tử hiệp cốt hương
                  Bất tàm thế thượng anh
                  Thuỳ năng thư các hạ
                  Bạch thủ Thái Huyền Kinh

                  Độc Cô Cửu Kiếm:




                  Là môn võ công tuyệt thế có lai lịch, xuất xứ rất không rõ ràng. Tương truyền (theo như Phong Thanh Dương lão tiền bối nói với Lệnh Hồ Xung ở hậu động phái Hoa Sơn) Độc Cô Kiếm là tuyệt học lừng danh thiên hạ một thời của danh kiếm Độc Cô Cầu Bại. Nhưng lạ ở chỗ vị tiền bối này xuất hiện một lần vào thời Tương Dương thành dưới dạng bí kíp võ công chỉ dạy cho Thần Điêu Đại Hiệp Dương Quá và tuyệt không hề có Độc Cô Cửu Kiếm nào ở đây . Trong khi đó , tiến vào bối cảnh chính của Tiếu Ngạo Giang Hồ, Độc Cô Kiếm lại xuất hiện cùng với Phong Thanh Dương. Tuy nhiên cũng cần nhắc luôn, ngoài Phong lão tiền bối ra, trong giang hồ hình như chưa ai từng nghe đến tên môn kiếm pháp tuyệt thế này cả.

                  Bây giờ ta nói về phần chính yếu : Kiếm Quyết .
                  Như ta đã biết , Độc Cô Cửu Kiếm gồm có chín thức kiếm : Tổng Quyết Thức, Phá Kiếm Thức, Phá Đao Thức, Phá Thương Thức, Phá Sách Thức, Phá Tiên Thức, Phá Tiễn Thức, Phá Chưởng Thức, Phá Khí Thức... Mặc dù chia ra thành chín thức kiếm như vậy, tựu chung nó cũng có một nguyên lý: Dĩ vô chiêu thắng hữu chiêu, được thể hiện qua lời nói của Phong lão tiền bối :"Người sử kiếm chứ không phải kiếm sử người", "Sử kiếm cần kiếm ý chứ không phải kiếm chiêu, kiếm pháp liên miên bất tuyệt như nước chảy mây trôi", "Độc Cô Cửu Kiếm, có công không thủ ".

                  Nhất Dương chỉ




                  Một môn chỉ pháp lợi hại bậc nhất thiên hạ, được khai sinh bởi Đoàn gia nước Đại Lý. Tương truyền họ Đoàn giành được thiên hạ phần lớn là nhờ môn công phu điểm huyệt kì bí này, bao đời chỉ truyền cho con cháu, không hề ngoại truyền.

                  Môn võ công này còn lợi hại ở chỗ ko những giết người mà trái lại còn có thể cứu người (Đoàn Chính Minh dùng chỉ lực dẫn nội lực trong người Đoàn Dự tán vào hai huyệt Thiện Trung, Khí Hải ; Đoàn Nam Đế đả thông kì kinh bát mạch cho Hoàng Dung cũng nhờ vào tuyệt kĩ này). Nhất Dương Chỉ có thể phóng ra cách không hoặc có thể điểm trực tiếp vào huyệt đạo của địch thủ hay có thể thi triển qua tuyệt kĩ cách vật truyền kình (Đoàn Diên Khánh dùng Nhất Dương Chỉ qua cây trúc trượng). Có điều ít ai rõ được là Nhất Dương Chỉ gồm sáu tầng công lực , hình như ngoài Khô Vinh đại sư Thiên Long tự ra, chưa có ai luyện đến tột cùng của sáu tầng công lực này, kể cả trụ trì Thiên Long tự là Thiên Tướng.

                  Lục Mạch Thần Kiếm






                  Được ghi trên trục gỗ là Lục Mạch thần kiếm kinh, bảo vật trấn tự của Thiên Long Tự, là pháp yếu võ công tối cao của họ Đoàn nước Đại Lý, cần phải có nội công cao mới luyện được, ai không đủ nội công thì có thể chia ra sáu người có nội công thâm hậu và phải ngang nhau mà luyện sáu loại kiếm khí. Lục Mạch thần kiếm kinh ghi trên một quyển trục trong đó có sáu tấm hình đàn ông khoả thân, trên có ghi rõ các huyệt đạo, các đường kinh mạch; muốn ra chiêu phải có ý niệm trước sau đó mới thúc đẩy nội lực ra ngón tay.

                  Theo lời Khô Vinh đại sư, Lục Mạch kiếm là môn công phu bá đạo, nguy hiểm tột cùng, phát ra chỉ để cứu người nên chỉ truyền cho xuất gia đệ tử nhà họ Đoàn, còn tục gia đệ tử phải tự tập luyện.




                  Đúng như tên gọi, Lục Mạch Thần Kiếm gồm sáu đạo kiếm khí, phát ra từ sáu ngón của hai bàn tay, trong đó một ngón trỏ tay phải và toàn bộ bàn tay trái. Cuốn đồ phổ cất giữ bí kíp này mang tên là Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đã bị Khô Vinh đại sư dùng Nhất Dương Chỉ đốt đi nên có lẽ môn tuyệt thế thần công này thất truyền từ đó. Cách dẫn khí vận kình của Lục Mạch Kiếm tương tự như Nhất Dương chỉ, có điều từ đầu ngón tay phóng ra không phải là chỉ kình mà là vô hình kiếm khí sắc bén vô cùng, cướp mạng sống trong chớp mắt. Chính vì Đoàn Dự ko luyện Nhất Dương chỉ nên chàng mới gặp khó khăn khổ sở khi thi triển môn võ công này, từng được người đời ca ngợi là Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm . So với phép đánh đơn kiếm hay song kiếm thì Lục Mạch Kiếm bá đạo hơn nhiều vì nó cho phép người sử dụng đánh sáu loại kiếm cùng một lúc, phạm vi tấn công vừa lớn lại vừa mạnh, thần tốc ko ai bì kịp. Ta có thể thấy Đoàn Dự khi phát huy kiếm pháp này, kiếm khí bao phủ một vùng rộng khoảng một trượng vuông, ko ai có thể xâm nhập vào vòng kiếm mà chàng tạo ra được. Uy lực của môn Thần công này quả thật thiên hạ ít thấy.

                  Bây giờ ta luận tiếp về sáu mạch kiếm ...
                  Sáu mạch kiếm của Lục Mạch là : Thiếu Xung - ngón trỏ trái, Trung Xung - ngón giữa trái, Quan Xung - ngón vô danh trái, Thiếu Trạch - ngón út trái, Thiếu Thương - ngón cái trái, và Thương Dương - ngón trỏ phải. Như ta đã biết, mỗi mạch kiếm pháp thiên về một loại kiếm khác nhau, tỷ như Thiếu Xung là mạch kiếm thiên về biến chiêu mạnh mẽ; Trung Xung là mạch kiếm hỗ trợ tấn công; Quan Xung, lấy cái vụng về thắng cái tinh xảo; Thiếu Trạch, nhìn tưởng yếu ớt vô lực nhưng thực chất thiên về độc hiểm; Thương Dương, linh hoạt nhất trong bộ sáu kiếm pháp là kiếm pháp chủ công; Thiếu Thương, kiếm pháp có uy lực mạnh mẽ nhất, loáng thoáng vài nét vạch nang vẽ dọc nhưng mạnh mẽ khôn lường, là kiếm pháp khắc địch chế thắng khi đối đầu cường địch.

                  Nhìn trận pháp mà sáu nhà sư Thiên Long Tự thể hiện khi đối đầu cùng Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí, ta có thể thấy rõ phần nào uy lực khủng khiếp của môn võ công này. Đó là khi sáu người, mỗi người sử dụng một loại kiếm, nếu chỉ có một người dùng hết cả sáu loại kiếm, hẳn uy lực còn ghê gớm hơn rất nhiều ...



                  Song Thủ Hỗ Bác



                  Do lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông bị giam mười lăm năm trên Đào Hoa Đảo nghĩ ra. Nguyên võ công này dịch nghĩa đen tức là hai tay đánh lẫn nhau. Nguyên Châu Bá Thông tính tình tinh nghịch từ nhỏ, không bao giờ chịu ngồi yên một chỗ, lại là người mê thích võ công đến quên cả tính mạng, tuy nhiên tâm hồn ông ta thuần phác như đứa trẻ lên ba. Nghĩ ra môn võ này dĩ nhiên rất kỳ quái, người luyện võ Song thủ hỗ bác phải điều khiển được cả hai tay theo những ý nghĩ riêng biệt. Bài tập vỡ lòng của môn võ này là một tay vẽ hình tròn và một tay vẽ hình vuông (cùng một lúc). Đến khi quen rồi thì hai tay có thể sử dụng hai môn võ công khác nhau, tuy công lực không tăng nhưng về chiêu số chiếm tiện nghi rất nhiều, ví dụ như, tay phải dùng Không Minh Quyền, tay trái dùng Giáng Long Thập Bát chưởng, kẻ địch lúc đó có lợi hại đến đâu cũng hoang mang không biết đường nào mà né tránh, tựa như hai cao thủ tuyệt đỉnh đang cùng ra chiêu, thật là lợi hại.

                  Ban đầu, Châu Bá Thông không nghĩ rằng môn võ này ( thực ra phải gọi là bí quyết luyện võ công) có thể khắc địch chế thắng mà chỉ để cho hai tay đánh nhau làm trò tiêu khiển mà thôi. Nhưng sau cũng nhờ có Quách Tỉnh lạc vào, bày trò vui tám người đánh nhau mới tìm ra cái bí quyết này, thật là thiên hạ vô song, vì hai ông Châu Bá Thông mà cùng ra chiêu thì quả thật lúc đó thiên hạ không ai chống nổi.

                  Về sau có Tiểu Long Nữ cũng luyện được bí quyết này, đem song kiếm hợp bích tung hoành thiên hạ, đánh cho tên Đại Luân Minh Vương quốc sư Mông Cổ chạy toé khói. Bí quyết này đến nay không biết có người nào luyện được không, nhưng theo khoa học thì đây là hiện tượng hai bán cầu não cùng làm việc riêng biệt, khiến cho tay chân có thể tuỳ ý sử dụng theo mục đích khác nhau...thật là lợi hại.


                  Tịch tà kiếm pháp
                  Đây là môn kiếm pháp nguy hiểm nhất trong Kim Dung truyện và có lẽ trong tất cả các truyện kiếm hiệp mà MB từng đọc, môn này sở dĩ cực kì khó luyện bởi vì cửa ải đầu tiên vô cùng hung hiểm, nếu ko vượt được ải này thì khi luyện công dương khí xâm nhập, sẽ chết do tẩu hoả nhập ma ... Nhưng khi luyện thành thì uy lực vô cùng kinh khủng, ko cần phải nói .

                  Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, Tịch Tà Kiếm Phổ chính là nguyên nhân để bao nhiêu võ lâm cao thủ, bang hội, môn phái tranh giành chém giết lẫn nhau, là nguyên nhân khiến cho gia đình Lâm Bình Chi tan cửa nát nhà, khiến cho phái Hoa Sơn chia năm xẻ bảy, có thể nói tác phẩm này của tiên sinh được xây dựng xung quanh quyển kiếm phổ này ... Vậy lai lịch của nó ra sao ???

                  Tương truyền vào thời Minh sơ, sau thời của Chu Nguyên Chương khai quốc khoảng 50 - 70 năm, một vị thái giám hậu cung đã khai sinh bộ kiếm pháp này (nguyên tên là Quỳ Hoa Bảo Điển), chỉ để dành riêng cho thái giám luyện tập (lí do gì chắc các vị đã biết),có vài thuyết khác lại cho rằng người viết bộ kiếm pháp này là của Nguỵ Trung Hiền thời Minh Mạt. Thuyết này ko đáng tin lắm, vì xét theo thời điểm của bộ Tiếu Ngạo thì việc nhà Thanh nhập quan hình như chưa xảy ra. Bộ kiếm phổ này ko biết tại sao lại lưu lạc ra ngoài giang hồ, đến tay trụ trì Thiếu Lâm Phúc Kiến là Hồng Diệp Thiền Sư, nghe nói hình như ông này cố thử luyện võ công chép trong kiếm phổ nhưng ko thành công (có lẽ vì ko tuân theo bước đầu tiên), Hồng Diệp buồn bực sinh bệnh mà chết, tuy nhiên trước đó có hai vị tiền bối phái Hoa Sơn là Nhạc Túc, Thái Tử Phong tới chơi, xem lén mỗi người nửa cuốn rồi về viết lại. Nhưng khổ nỗi đầu Ngô mình Sở, ko khớp với nhau, từ đó hục hặc gây bất hoà, mối rạn nứt nội bộ Hoa Sơn bắt đấu từ đó, hai phe Kiếm Tông, Khí Tông cũng từ đó chia ra.Hồng Diệp nghe tin, hai đệ tử đắc ý của mình là Độ Nguyên thiền sư tới Hoa Sơn thu kiếm phổ, ông này lòng trần chưa dứt, tới Hoa Sơn lại được hai vị cao thủ kia mang kiếm phổ ra thỉnh giáo, khoái quá, nhớ lại, thêm thắt chi tiết, rồi hoàn tục, trốn khỏi Thiếu Lâm. Lập ra Phước Oai Tiêu Cục lừng lẫy giang hồ với bảy mươi hai đường Tịch Tà Kiếm Pháp, cái tên Tịch Tà từ đây mà ra ... Đáng hận là môn võ công này lại ko thể truyền cho con cháu, vì sợ tuyệt tự nên từ từ suy vi mất, Độ Nguyên (lúc này đổi tên là Lâm Viễn Đồ), chép lên áo cà sa, giấu trên xà nhà, hi vọng sau này con cháu sẽ phục hưng kiếm pháp kì môn của Lâm gia này ...

                  Quay lại với Hoa Sơn Phái, lúc này bộ Quỳ Hoa Bảo Điển lưu lại vốn ko đầy đủ nên hai huynh đệ Nhạc, Thái sinh ra bất hoà, chia bè rẽ phái, Ma giáo sai người đến cướp Bảo Điển. Hoa Sơn lực bạc thế cô, ko giữ nổi bí kíp, để lọt vào tay Ma giáo. Sau này Nhậm Ngã Hành đem truyền lại cho Đông Phương Bất Bại, khai sinh ra một quái vật của võ học đương đại đệ nhất võ công thiên hạ ...

                  Vậy thực chất của môn kiếm pháp kì bí này là thế nào? Tịch Tà kiếm gồm bảy mươi hai đường, biến hoá kì ảo, thực chất dựa vào tốc độ phi thường, công kích đối phương lúc chưa kịp đề phòng để thủ thắng, điều này ta có thể thấy qua thân pháp kì ảo của Đông Phương Bất Bại, nhanh đến ko thể tưởng tượng được, thật xứng đáng tám chữ Nhật xuất đông phương, duy ngã bất bại, dùng cây kim thêu chống ba tay đại cao thủ đương thời mà vẫn ung dung khí khái ... Có lẽ tốc độ đó có được một phần nhờ vào bí quyết " dẫn đao tự cung , võ lâm xưng hùng " của môn võ này ...



                  ***


                  Tiếu Ngạo Giang Hồ




                  Đáng lẽ không nên đưa vào mục từ điển võ thuật này, nhưng đây là điệu nhạc du dương, kỳ ảo, cung đàn điệu sáo của khúc nhạc này xuyên suốt toàn bộ tác phẩm Tiếu Ngạo Giang Hồ, một tuyệt tác kiếm hiệp, ( với cả nếu bỏ đi thì quả thật có thiếu sót).

                  Tên đầy đủ là Tiếu Ngạo Giang Hồ chi khúc, nguyên là cầm tiêu hợp tấu do hai người bạn thâm giao tri kỷ là Lưu Chính Phong của Hành Sơn, thuộc Ngũ Nhạc Kiếm Phái, và Khúc Dương trưởng lão của Ma Giáo mất mấy chục năm công lực và tâm huyết sáng tác ra. Khúc nhạc này có hai phần: Cầm phổ và Tiêu phổ.

                  Cầm Phổ: tức là phần nhạc điệu cho đàn cầm, nguyên là Khúc Dương trưởng lão lấy từ điệu Quảng Lăng tán, một khúc nhạc cực hay thời cổ. Tương truyền rằng đời Tấn có ông Kê Khang biết khúc nhạc này, nhưng sau Kê Khang bị Chung Hội dèm pha, bị Tư Mã Chiêu giết chết, trước lúc chết có nói rằng : "Quảng Lăng tán từ nay không còn nữa". Nhưng thực ra, Quảng Lăng tán do người đời cổ làm ra, truyền lại cho Kê Khang. Lúc ấy, Khúc Dương trưởng lão mới đi đào các ngôi mộ thời trước Tấn để tìm bằng được Quảng Lăng tán này, đào được hai mươi chín ngôi mộ, đến ngôi mộ của Thái Ung thì tìm thấy ! Dựa vào Quảng Lăng tán mà sáng tác ra Cầm phổ cho Tiếu Ngạo Giang hồ.

                  Tiêu Phổ: Do Lưu Chính Phong dựa vào tài năng âm nhạc tuyệt vời của mình để sáng tác ra.

                  Hai người Lưu, Khúc tuy Chính, Tà khác nhau nhưng lại như là Bá Nha, Tử Kỳ, lấy âm nhạc để hiểu tấm lòng nhau, quả là tri âm trên thiên hạ. Khúc Tiếu Ngạo một khi tấu lên đến lúc lâm ly tuyệt mỹ thì bách điểu ly tan, trăm hoa rơi rụng, tựa như tiếng lòng u uất, lại có lúc trong sáng vui tươi, có khi như sấm ran chớp giật lại có khi như suối thở hiền hoà...thật là một khúc nhạc có một không hai. Chỉ có hai người thật hiểu tấm lòng nhau, khi tấu lên mới có thể diễn tả được hết ý nghĩa của khúc Tiếu Ngạo này.

                  Về sau, tên lãng tử Lệnh Hồ Xung của phái Hoa Sơn và Thánh Cô Nhậm Doanh Doanh trong Ma Giáo thành một đôi trời sinh, cơ duyên khéo gặp, lại học được khúc nhạc này. Hai người hợp tấu, cầm tiêu hài hoà, tạo nên một đoạn đường trong sáng thanh bình trên chốn Giang hồ hiểm ác. Đáng để người đời ngưỡng mộ...

















                  ***
                  Còn thanh gươm lợi hại nhất, khi kiếm đạo của Độc Cô Cầu Bại đã đạt đến mức thượng thừa lại là thanh kiếm bằng gỗ. Theo Độc Cô tiền bối, khi ấy vạn vật cỏ cây đều có thể trở thành kiếm được. Mộc kiếm nếu luyện thành tinh thuần sẽ không có thanh gươm nào chống nổi nó.


                  đoạn truyện này trong TĐĐH làm khổ tuổi nhỏ của ta - ta cứ tưởng thiệt - cứ mơ về " nó "!!! CO
                  Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 15-06-2010, 07:06 PM.
                  ----------------------------

                  Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                  Comment

                  • #10

                    Sau mục Các tuyệt kỹ trong truyện Kim Dung

                    Tiếp đến là bàn về Kiều Phong

                    Kiều Phong

                    Trong 12 bộ võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung, tôi yêu nhất bộ Lục mạch thần kiếm truyện. Trong 795 nhân vật của Lục mạch thần kiếm truyện, tôi yêu nhất nhân vật Tiêu Phong (tức Kiều Phong), người anh hùng Khiết Đạn Và trong cả chục ngàn nhân vật do Kim Dung dựng lên, tôi chọn Kiều Phong như một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng. Văn chương tiểu thuyết không phải là văn chương báo chí. Một tác phẩm tiểu thuyết ra đời là nhằm gởi đến người đọc một thông điệp. Các thông điệp ấy đôi khi ẩn tàng đâu đó trong tác phẩm đến nỗi một người đọc với thái độ lơ là của khách qua đường không thể nhận ra nó. "ý tại ngôn ngoại" luôn luôn là một thực tế trong sáng tạo văn học. Tôi yêu tác phẩm Kim Dung vì yếu tố "ý tại ngôn ngoại" phong phú. Tất cả tư duy của những nhân vật lớn trong tác phẩm Kim Dung đều tập trung vào 3 định đề: cuộc sống, tình yêu và cái chết. Kiều Phong là một nhân vật lớn như vậy.

                    Tác giả Kim Dung không vội vàng đẩy Kiều Phong ra đầu truyện. Khộng Trong 5 cuốn đầu của Lục Mạch thần kiếm truyện, ta chỉ gặp hình ảnh của một anh nho sinh trẻ Đoàn Dự, vương tử nước Đại Lý, một tay dại gái si tình bị bắt cóc đưa từ Đại Lý xuống Giang Nạm Phải đợi đến cuốn thứ 6, theo gót chân du tử của Đoàn Dự, ta mới bắt gặp một “Hán tử thô hào, mặt vuông tai lớn”, tuổi trạc 30, đôi mắt sắc như dao, ngồi uống rượu chịu trên tửu lâu bên thành Vô Tích. Thoáng nhìn nhân vật đó, Đoàn Dự đã nhận định: “Hán tử này nhất định là tráng sĩ của đất Yên, Triệu. Miệt Giang Nam quyết không thể có được nhân vật như thế này”. Nhận định ban đầu của nho sinh trẻ thật chuẩn xác. Con người thô hào ấy chính là Kiều Phong, bang chúa Cái bạng

                    Kiều Phong đang độ tuổi 30, cái tuổi phát triển rực rỡ nhất của đời người; lại làm Bang chúa cái bang, một bang hội lớn nhất võ lâm Trung quốc. Với cương vị đó, gã hán tử mặt vuông tai lớn phải hành động rất cẩn trọng, rất chín chắn vì một quyết định, nhận định vội vàng của ông sẽ dẫn đến sai lầm, liên hệ đến mối nguy vong của hàng triệu hào khách võ lâm Trung quốc. Ngay đến khi ra đòn đánh nhau với kẻ địch, Kiều Phong cũng tính toán sao cho chỉ đánh một đòn mà khống chế được ngay đối thủ. Phía trong con người thô hào ấy ẩn tàng một bộ óc thông minh và những tính toán chuẩn xác.

                    Người anh hùng Kiều Phong luôn luôn tự hào mình thuộc dòng dõi Hán tộc. Làm bang chúa Cái bang, ông chỉ có một mơ ước: tiêu diệt quan xâm lăng Khiết Đanh mà ông thường gọi bằng cái tên kinh bỉ “bọn Liêu cẩu”, chống lại quân Tây Hạ, giữ gìn hào bình cho người Hán, bảo vệ sự trọng vẹn của võ lâm Trung Hoạ Và chính niềm mơ ước đó đã trở thành bi kịch trong đời Kiều Phọng

                    Một nhóm đệ tử Cái bang, dưới sự chỉ huy của Thập phương tú tài Toàn Quan Thanh và Ôn thị, vợ của phó bang chúa Mã Đại Nguyên (đã chết), nổi lên chống lại Kiều Phong nhằm thoả mãn tham vọng về quyền lực và trả thù bằng cách tố cáo ông giết Mã Đại Nguyên và là người Khất Đạn

                    Sự thật, Kiều Phong đúng là người Khất Đan, nhưng câu chuyện ấy đã trôi qua 30 năm, chẳng ai muốn nhắc đến nữa, bởi Kiều Phong đã được Hán hoá từ thể chất đến tinh thần. Khi biết mình là người Khất Đan, ông đành phải rời bỏ chức vụ Bang chúa Cái bang ra đi và cảm thấy nhục nhã vì mình mang dòng máu Khất Đạn Cuộc sống đưa đẩy khiến ông làm quen và kết bạn với A Châu, một cô gái Trung Quốc dịu dàng. A Châu trở thành tình yêu, lẽ sống, người bạn tri âm của Kiều Phọng A Châu đã khuyên ông: "Làm người Khất Đan thì có gì là xấu xả Làm người Trung Quốc thì có gì là cao quý? Người Khất Đan hay người Trung Quốc thì vẫn có kẻ tốt, người xấu, đại gia buồn phiền làm chi". Chính lời nói đó đã giúp Tiêu Phong nhận ra quan điểm dân tộc hẹp hòi của mình bấy lâu nạy Và sự tiến bộ trong quan điểm dân tộc của Tiêu Phong chính là sự tiến bộ trong quan điểm dân tộc của Kim Dụng

                    Khát vọng tự do của Kiều Phong thể hiện rất rõ khi ông bàn với A Châu rằng làm xong vài việc ở Trung quốc, ông sẽ đưa nàng về Nhạn Môn Quan săn tròn đuổi thỏ, sống đời ung dung khoái hoạt. Thế nhưng, một bi kịch khác xảy ra với đời ông làm tiêu tan khát vọng ấy: ông lỡ xuống tay đánh chết A Châu, đánh chết tình yêu và nguồn sống của chính mình. Trước khi nhắm mắt, A châu nhờ ông chăm sóc, bảo vệ cho A Tử, em gái của nàng, thế là từ đó bên cạnh một Tiêu Phong thẳng thắn, anh hùng lại có thêm một A Tử lưu manh, giảo hoạt; cả hai đi kèm nhau như bóng với hình, cuộc đời thật lắm nỗi hoạt kệ

                    Đúng là Kiều Phong đã đưa A Tử về bên kia Nhạn Môn Quan săn chồn đuổi thỏ và chữa bệnh cho cộ Nhờ vào một sự tình cơ, ông cứu được Gia Luật Hồng Cơ, hoàng đế Đại Liệu Thế là từ một Hán tử thô hào, một tên Liêu cẩu man rợ, Tiêu Phong thoắt trở thành nguyên soái, nắm trong tay sức mạnh quân sự của một vương quốc khả dĩ đối địch với triều Tống.

                    Ông vẫn nhớ ơn người Trung quốc, nơi ông đã lớn lên, được học hành, trở thành con người. Và ông chủ trương không gây hấn với Trung quốc, sống hoà bình cho trăm họ an cư lạc nghiệp. Nhưng Gia Luật Hồng Cơ thì không nghĩ vậy Mong muốn đánh vào Lạc Dương để bắt sống hôn quân Triệu Hú (Tống Thần Tôn), Gia Luật Hòng Cơ ra lệnh cho Tiêu phong tiến đánh Trung quốc.

                    Cách từ chối hay nhất là của Kiều Phong là treo ấn trả lại cho Đại Liêu hoàng đế và cùng A Tử trốn đị Mưu kế ấy bị Hồng Cơ khám phá được. Hồng Cơ ra lệnh ba 't Tiêu Phong giam giữ. Nguồn tin Tiêu Phong bị bắt giữ vì chống lệnh hành quân, mưu cầu hoà bình cho trăm họ khiến quần hùng Trung Quốc nhận ra được bản chất thật thà, trung hậu, tốt đẹp của Tiêu Phọng Họ huy động lực lượng Cái Bang, cung Linh Thứu và nước Đại Lý vượt qua Nhạn Môn Quan để giải thoát cho Tiêu Phọng Họ đưa ông về đến Nhạn Môn Quan thì cửa thành không mở vì truy binh Khất Đan đã áp sát chân thành. Hư Trúc và Đoàn Dự bắt sống Gia Luật Hồng Cơ trước trận và buộc Hồng Cơ chuộc mạng bằng một lời hứa vĩnh viễn không bao giờ đưa quân Liêu xâm lăng Trung Quốc. Nhận được lời hứa đó, Tiều Phong coi là một hạnh phúc. Ông sử dụng quyền tự do cuối cùng của mình: tự tử trước Nhạn Môn Quan để tạ tội với Gia Luật Hồng Cợ

                    Cuộc sống bao la, đất đai vạn dặm nhưng Tiêu Phong không tìm ra được chỗ để quay về. Về với Trung Quốc ử ông chỉ là một tên chó Liêu mọi rợ. Về với Liêu quốc ử Ông chỉ là bề tôi bất trung, đã chống lệnh vua lại làm cho nhà vua mất mặt trước ba quận Về mặt tinh thần, A Châu chết rồi, tâm hồn ông không còn nơi nương tựa nữa. Đoàn Dự có thể yêu một lúc năm, sáu người thiếu nữ nhưng Kiều Phong chỉ yêu có mỗi một A Chậu Còn quyền lực, chức vụ, danh vọng không phải là nơi nương tựa. Kiều Phong đi tìm tự dọ Ông đành chọn giải pháp cuối cùng - tự tử - để hoàn thành khát vọng tự do của chính mình. ở chừng mực nào đó, cái chết của Kiều Phong là biểu hiện của nghĩa hư vô cực đoan nhưng nếu ta đi cùng với ông trong suốt Lục Mạch thần kiếm truyện củ a Kinh Dung thì ta mới thấy được giải pháp đó là con đường tất yếu.

                    A Tử đui mù đành bồng lấy Kiều Phong và cùng với ông rớt xuống vực sâu muôn trượng. Mấy mươi năm trước, cha ông đã bồng mẹ ông nhảy xuống nơi ấy.. Mấy mươi năm sạu một cô bé gọi ông là tỷ phu (anh rể) bồng ông nhả y xuống. Sự trùng hợp của lịch sử sao mà bi thương đến vậy!

                    Tiêu Phong tức Kiều Phong là một nhân vật sống nhất trong những nhân vật sống, là một nhân vật có vấn đề nhất trong những nhân vật có vấn đề của Kim Dụng Có thể nói Kim Dung rất thành công khi xây dựng nhân vật Tiêu Phong - người anh hùng Khất Đan trong sáng, tiêu biểu cho những cái đẹp của con người. Và rõ ràng, Kim Dung nói với chúng ta rằng cái đẹp nhất khó có thể tồn tại giữa đời lăng xăng bát nháo này.. Cái đẹp nhất phải chết. Chỉ còn lại trên đời cái tầm thường vớ vẩn, những loài cỏ đuôi chó, những điều không đẹp mấy.

                    Hoặc giả, giải quyết cho cái đẹp nhất chết đi cũng là một cách hướng con người luôn nuôi khát vọng đi tìm cái đẹp?



                    Vũ Đức Sao Biển - Kim Dung Giữa Đời Tôi
                    Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.

                    Comment

                    • #11

                      ÂM NHẠC TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

                      Sau... Kiều Phong... Tiếp đến là Âm nhạc :


                      ÂM NHẠC TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

                      Kim Dung quan niệm âm nhạc cũng như một thứ võ công, có thể giúp người ta dưỡng thương, chữa bệnh, mê hoặc và khắc chế địch thủ. Trên một đất nước Trung Hoa rộng lớn, đa chủng tộc và sắc tộc, nhiều loại hình âm nhạc đã ra đời và hình thành. Trong những tác phẩm võ hiệp của mình, Kim Dung đã dành cho âm nhạc một vị trí quan trọng. Âm nhạc có ở khắp mọi nơi. Trong tác phẩm võ hiệp của ông, ta bắt gặp "cái vỏ" là sự đấu tranh của võ lâm đầy đau thương, sắt máu nhưng "cái ruột" chính là tâm hồn nghệ sĩ khoáng dật, thanh thoát...

                      Có những tác phẩm mà âm nhạc như một sợi chỉ xuyên suốt, trở thành cốt lõi, chi phối toàn bộ và tạo nên cái hồn cho tác phẩm. Đó là trường hợp của Tiếu ngạo giang hồ. Tác phẩm này lấy chủ đề từ một bản nhạc cầm tiêu hợp tấu giữa bạch đạo và hắc đạo, giữa chính và tà. Đó là bản nhạc hợp soạn giữa hai người nghệ sĩ, hai nhân vật võ lâm tiêu biểu: Lưu Chính Phong, sư đệ của chưởng môn phái Hành Sơn và Khúc Dương, trưởng lão của Triêu Dương thần giáo. Vốn xưa, họ là hai người đứng ở hai thái cực, hai thế lực đối nghịch với nhau, coi nhau là cừu hận. Nhưng rồi âm nhạc đã nối kết tình bạn của Lưu-Khúc lại và người này nhìn ra bản chất nghệ sĩ tài hoa của người kia. Khúc Tiếu Ngạo giang hồ ra đời như kết quả của hai tâm hồn đồng thanh, đồng điệu và đồng cảm, một khúc nhạc có khả năng hoá giải sự khác biệt giữa hắc và bạch.



                      Lưu Chính Phong và Khúc Dương, một cầm một tiêu, đã hoà tấu bản này đạt tới đỉnh cao nhất của âm nhạc "khoan hoà trung chính, khi mau sầm sập, khi khoan thai, chỗ trầm lắng, chỗ cao vút", tương thông tâm ý. Lưu Chính Phong ăn mừng thọ 60 tuổi, muốn rửa tay gác kiếm để tìm những tháng ngày ung dung tự tại giữa một đời đấu tranh trá ngụy. Thế nhưng, phái Tung Sơn mà lãnh tụ là Tả Lãnh Thiền đã huy động hết lực lượng của Hoa Sơn, Hằng Sơn, Thái Sơn nhằm ngăn cản hành động của Lưu Chính Phong, vu cáo rằng "Lưu Chính Phong kết bạn tà ma", buộc Lưu Chính Phong phải tìm cách giết Khúc Dương, chặt đứt mối quan hệ với Triêu Dương thần giáo. Không đồng ý với cách sống bán bạn cầu vinh, Lưu Chính Phong đã chịu một thảm kịch đau đớn: nhà tan người chết, bản thân bị trọng thương. Khúc Dương nhanh tay cứu bạn, đưa bạn chạy về dưới núi Hành Sơn. Nơi đây, hai đại cao thủ đã hợp tấu lần sau cùng trước khi qua đời rồi trao bản nhạc cho đệ tử phái Hoa Sơn là Lệnh Hồ Xung.

                      Phải chăng khát vọng Tiếu Ngạo giang hồ là không bao giờ có thể thực hiện được giữa một cuộc sống đầy đua tranh, thù hận, chia rẽ và bạo lực? Cầm bản đàn của hai bậc tiền bối, Lệnh Hồ Xung phiêu bạt giang hồ, thân danh tàn tạ, bị khinh miệt, bị đánh, bị vũ nhục, bị vu cáo. Người ta cứ đinh ninh rằng đó là một loại bí lục võ công thượng thặng! Lệnh Hồ Xung gặp nàng Doanh Doanh trong ngõ Lục Trúc thành Lạc Dương, ngỏ hết nỗi đau thương của đời mình, trong đó có niềm đau về mối tình đầu tan vỡ. Doanh Doanh đã dạy cho Lệnh Hồ Xung khúc đàn Thanh tâm phổ thiện trú để duy trì mạng sống. Âm nhạc trở thành một liều thuốc chữa bệnh tâm thần, tạo nên sự hưng phấn, đem lại nguồn sống cho Lệnh Hồ Xung.

                      Đoạn dễ thương nhất của Tiếu ngạo giang hồ là đoạn Doanh Doanh đàn Thanh Tâm Phổ Thiện Trú ru cho Lệnh Hồ Xung ngủ. Cuối cùng, âm nhạc cũng không đủ tác dụng vực dậy một tâm hồn đau thương trong một thể xác đã suy tàn, nàng đành cõng tình lang lên chùa Thiếu Lâm, chịu bị cầm tù để tình lang được chữa trị. Kết thúc Tiếu ngạo giang hồ là một kết thúc thật đẹp. Lệnh Hồ Xung chữa được thương thế, cùng Doanh Doanh hợp tấu bản Tiếu ngạo giang hồ, sống cuộc đời thanh bình, hạnh phúc.

                      Tiếu ngạo giang hồ đưa ra một luận điểm triết lý sâu sắc: con người sinh ra không thể sống một mình, cũng không thể sống hai mình khi tâm ý chẳng tương thông. Khát vọng của Tiếu ngạo giang hồ chính là tình thương yêu con người đằm thắm. Sự giao hoà âm nhạc tạo nên giao hoà tình yêu và chỉ có tình yêu chân chính mới đạt đến hạnh phúc làm người.

                      Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta bắt gặp một loại hình âm nhạc khác - âm nhạc lang thang của chưởng môn phái Hành Sơn Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh. Với vóc dáng "điêu linh cổ quái", người chưởng môn ấy từ chối quyền lực và danh vọng, mang một cây dao cầm trong có dấu một thanh kiếm mỏng như lá lúa, vui chơi bốn biển năm hồ. Kiếm để trừ diệt kẻ ác, dao cầm để di dưỡng tâm hồn. Mạc Đại tiên sinh chính là hình tượng mà Nam Hoa Kinh của Trang Tử thường mơ ước: "Khi cao lên 9000 dặm, nương mây cỡi gió mà bay". Tiếc thay, ông ta chưa đạt được phong cách thần tiên thoát tục đó bởi cái khúc Tiêu Tương dạ vũ mà tiên sinh thường hay hát là một "bài ca buồn bã có đi mà không có lại". Tiếng hát của tiên sinh là tiếng hát lênh đênh trong ảo ảnh sương khói và suốt đời, tiên sinh chỉ là một nghệ sĩ lang thang. Mạc Đại là nhà du ca lớn nhất trong Tiếu ngạo giang hồ và trong toàn bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, một thứ thần tiên bị đọa phải nhập thể và nhập thế. Nếu Doanh Doanh chơi nhạc thính phòng thì âm nhạc của Mạc Đại là nhạc du ca.

                      Nhưng Tiếu ngạo giang hồ không phải chỉ có chừng đó dạng âm nhạc. Tiếu ngạo giang hồ còn có khúc "Sơn ca Phúc Kiến" của Lâm Bình Chi mang về núi Hoa Sơn dạy cho Nhạc Linh San hát. "Chị em lên núi hái chè", câu sơn ca đó làm tan hồn nát ruột Lệnh Hồ Xung vì mỗi khi Nhạc Linh San hát lên, anh biết nàng ta đang nghĩ tới Lâm Bình Chi và phụ rẫy mối tình đầu của mình.

                      Tiếu ngạo giang hồ còn có một bài ca rất buồn cười mà bọn giáo chúng Triêu Dương thần giáo đồng thanh hợp ca để tâng bốc Nhậm Ngã Hành khi lão vừa chiếm lại được ngôi giáo chủ: "Thánh giáo văn thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, thiên thu trường trị, nhất thống giang hồ. Bọn thuộc hạ đưa lời cung nghinh thánh giáo chủ thương sinh trạch bị, ơn khắp lê dân..." Nguyên cái loại "âm nhạc" này phát xuất từ thời giáo chủ Đông Phương Bất Bại. Khi Đông Phương Bất Bại trở thành "tất bại", bọn giáo chúng Triêu Dương thần giáo mới dùng nó để ca ngợi Nhậm Ngã Hành. Cả ngàn người cùng há miệng hò ca chấn động cả lỗ tai người nghe! Thứ "âm nhạc" này bị coi là nhạc sến!

                      Trong bộ Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung đã để cho âm nhạc xuất hiện trước tiên với nhân vật Côn Lôn tam thánh Hà Túc Đạo. Hà Túc Đạo tuổi ngoài 40, khuôn mặt xương xương, giỏi kiếm, giỏi cờ, giỏi đàn, được xưng tụng là tam thánh, từ Côn Lôn xuống Trung Nguyên.
                      Ông ta có một khúc đàn tuyệt vời, có thể sai khiến trăm chim tụ họp về nhảy múa, ca hót gọi là Không sơn điểu ngữ. Cô bé Quách Tương, 19 tuổi, đi tìm Dương Qua, đã gặp người trung niên tài hoa Hà Túc Đạo ngoài rừng chùa Thiếu Lâm, được nghe khúc Bách điểu triều phụng và tiếng muôn chim ca hót. Hình ảnh trong sáng, tươi đẹp của cô đã in ngay vào trong tâm hồn chàng nghệ sĩ trung niên.

                      Hôm sau, khi chiến đấu với ba cao thủ Thiếu Lâm Tây Vực trước sự chứng kiến của Quách Tương, Hà Túc Đạo chỉ dùng đến một tay, tay còn lại vận Cách không chỉ phóng vào cây dao cầm đang để dưới đất, mời Quách Tương nghe bản nhạc mình mới sáng tác tặng cô. Kiếm chưởng thì sát phạt sắt máu, tiếng đàn lại lãng mạn xuân tình, u uất thương nhớ. Cái công phu phân ý của Hà Túc Đạo quả thật hy hữu! Cô bé Quách Tương thơ ngây nghe hết cung đàn, cảm động và đỏ mặt vì biết Hà Túc Đạo đang dùng âm nhạc tỏ tình với mình. Thế nhưng mối tình của Hà Túc Đạo cũng chẳng tới đâu. Hà Túc Đạo đánh thua sư Giác Viễn, hổ thẹn chạy về núi Côn Lôn. Quách Tương yêu Dương Qua mà tìm nhau không gặp, lên núi Nga My đi tu, mở ra phái Nga My. Âm nhạc của Hà Túc Đạo cũng "có đi mà không có lại". Nó trở thành bài biệt ca của tình yêu.

                      Nhưng âm nhạc hay nhất, đẹp nhất, mang giá trị nhân bản cao nhất vẫn là bài Hoả ca của giáo chúng Minh giáo (tức Bái Hoả giáo), truyền từ Ba Tư (tên cũ: Perse - thời ấy chưa gọi Iran) sang Trung Quốc. Đây là bài ca được hát trên Quang Minh Đỉnh khi quần hùng Trung Quốc bao vây quần hùng Minh giáo, vu cáo họ là tà giáo, có ý muốn đuổi tận diệt. Theo tác giả Kim Dung, bài Hoả ca lấy từ thơ của nhà thơ lớn Ba Tư Omar Khayam, có những câu được dịch thoát ra như thế này:

                      Đốt tàn thân xác của ta
                      Ngọn lửa thánh bốc cháy lên đỏ rực
                      Sống đã chẳng có chi là hạnh phúc
                      Thì chết đi nào có khổ đau gì.
                      Vì thiện lương, ta trừ cái ác
                      Nẻo quang minh cứ vậy mà đi
                      Hỷ, Lạc, Sầu, Bi xin gởi về cát bụi
                      Tội nghiệp thay người đời hoạn nạn lắm khi.

                      Giữa cảnh đang bị cường địch bao vây, giáo chúng Minh giáo vẫn ung dung tự tại hát lên bài Hoả ca dâng lên đức Giáo chủ Minh Tôn Di Lạc, bày tỏ tấm lòng của mình với cuộc đời và thể hiện khí phách hiên ngang trước cái chết. Trương Vô Kỵ đã nghe được bài ca đó và nhận ra rằng Minh giáo là một đạo nhân bản, rằng những lời kết án Minh giáo là bàng môn tả đạo là những lời xuyên tạc, rằng việc chống lại người Minh giáo là hành động phi nhân. Và chàng đã xả thân cứu quần hùng Minh giáo, nguyện hiến tấm thân vì trăm họ để cho giáo chúng Minh giáo được sống. Chàng được Minh giáo Trung Hoa bầu lên làm giáo chủ, huy động các lực lượng Minh giáo chống lại quân Nguyên, giành lại được giang sơn từ giống nòi di tộc.

                      Chu Nguyên Chương lên ngôi cũng còn biết nhớ nguồn gốc của mình xuất thân từ Minh giáo nên đặt đế hiệu là Minh Thành Tổ. Người Minh giáo mặc áo đạo bào trắng, trước ngực áo có vẽ ngọn lửa đỏ, gặp nhau chào bằng hai bàn tay chắp lại thành hình ngọn lửa. Và thánh ca của họ chính là bài Hoả ca, bài mang một giá trị nhân bản, nhân đạo tuyệt vời.

                      Trong Thiên Long bát bộ, âm nhạc mới phong phú làm sao. Trước hết, người ta dễ nhận ra bài ca "chiến thắng" ê a của bọn lính Khất Đan sau những cuộc "hành quân" qua thảo nguyên ngoài ải Nhạn Môn Quan. Bọn chúng bắt đàn bà, giết trẻ em, tước đoạt tài vật của những gia đình lương dân Trung Quốc. Ấy thế mà chúng vẫn hát được!

                      Cũng trong bộ truyện này, người đọc thật sự cảm thấy thú vị với bài ca bợ đít của bọn đệ tử phái Tinh Tú nhằm ca ngợi Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu. Mỗi khi Đinh Xuân Thu xuất hiện hay lâm trận, bọn đệ tử đồng thanh hát:

                      Tinh Tú lão tiên
                      Danh lừng Trung thổ
                      Oai lực vô biên
                      Đánh đâu thắng đó

                      Nhân vật Bao Bất Đồng, một thuộc hạ của Cô Tô Mộ Dung Phục đã làm cho phái Tinh Tú mắc lỡm khi cất giọng solo bài này dưới chân núi Thiếu Thất để bọn Tinh Tú “hợp ca” theo:

                      Tinh Tú lão tiên
                      Danh lừng Trung thổ
                      Oai lực vô biên
                      ...Thối hơn rắm chó

                      Đem “rắm chó” vào trong bài ca để “hướng dẫn” bọn đề đệ Tinh Tú hát theo làm trò cười cho thiên hạ, cách phê phán thói nịnh của Kim Dung vừa bình dân, vừa bác học hết chỗ nói.

                      Nói đến âm nhạc trong Thiên Long bát bộ, ta không thể quên hai nhân vật quái dị trong nhóm Hàm Cốc bát hữu (tám người bạn ở Hàm Cốc) là Cầm điên Khang Quảng Lăng và Hí mê Lý Quỹ Lỗi. Cầm điên Khang Quảng Lăng đánh địch bằng cây dao cầm. Nghe tiếng đàn của lão, trái tim người ta nhảy loạn lên, đầu óc trở thành u mê, hồ đồ. Tiếng đàn của lão thoạt đông, thoạt tây; khi trên, khi dưới khiến người ta tưởng khinh công của lão xuất thần nhập hoá. Nhạc sĩ Khang Quảng Lăng này rất hồ đồ. Lão tin rằng tiếng đàn của lão có thể làm người chết sống lại: "Vậy mộ của Huyền Khổ đại sư chôn ở đâu ? Dẫn ta đến mau, ta đàn cho đại sư nghe một khúc, không chừng đại sư có thể sống lại (?)". Ngược lại với Khang Quảng Lăng, nhân vật Lý Quý Lỗi là một con hát. Anh ta vừa đánh, vừa hát bội, thậm chí khi bị đánh gãy chân, thay vì rên la, anh ta lại mở miệng hát (!). Hai nhân vật chơi nhạc trong Hàm Cốc bát hữu là hai con người hồn nhiên như trẻ con. Họ xuất hiện rất ngắn nhưng để lại ấn tượng rất sâu trong lòng người đọc.

                      Trong Thiên Long bát bộ, người ta còn nghe bài ca "Xin cơm" của anh em Cái bang, một bài hát không dùng vào việc xin cơm thông thường mà để kết Đả cẩu trận, khắc chế địch nhân hung hãn.

                      Khi viết về âm nhạc, kiến thức âm nhạc của Kim Dung tiên sinh cũng rất tinh tường và phong phú. Trong Lộc Đỉnh ký, ông đã trích lại bài ca của danh sĩ Ngô Mai Thôn nói về Trần Viên Viên - một danh kỹ cuối Minh đầu Thanh, người tình của Lý Sấm và Bình Tây Vương Ngô Tam Quế. Trần Viên Viên được mô tả "mặt đẹp như Quan Âm", sống một cuộc đời đau thương chìm nổi đúng như định đề cổ điển của văn học "hồng nhan đa truân". Tất cả những đau thương đó đều được đúc kết thành Viên Viên khúc. Khi đi tu, Viên Viên vẫn hát khúc ca Ngô Mai Thôn viết cho mình với cây dao cầm. Ngô Tam Quế nghe được vài chục câu, Mỹ đao vương Hồ Dật Chi nghe được dăm ba câu. Chỉ có Vi Tiểu Bảo, một kẻ chẳng hiểu âm nhạc là gì, lại có hồng phước nghe được trọn bài. Viên Viên khúc nghe thật buồn bã, đúng là một bài ca mất nước chẳng khác gì Hậu đình hoa của Lý Hậu chủ trong thơ Đỗ Mục:

                      Thương nữ bất tri vong quốc hận
                      Cách giang do xướng Hậu đình hoa
                      (Con hát biết đâu hờn vong quốc
                      Bên sông còn hát Hậu đình hoa)

                      Lộc Đỉnh ký còn có một loại "âm nhạc" ngộ nghĩnh khác: những bài ca nịnh bợ của bọn Thần Long giáo. Đó là những bài ca mang tính chất tự kỷ ám thị dùng trong lúc đánh nhau, đã được Kim Dung viết với một giọng văn thô thiển, phù hợp với "trình độ" của bọn giáo chúng ngu muội:

                      Hồng giáo chủ thần thông quảng đại
                      Giáo chúng ta đánh bại khắp nơi
                      Địch nhân thấy bóng chạy tơi bời
                      Cứng rắn cũng tan tành xác pháo
                      Hồng giáo chủ ra oai sấm sét
                      Chúng đô nhi sức mạnh phi thường
                      Ta một người trăm địch khôn đương
                      Địch hàng vạn trăm quân đủ thắng
                      Hồng giáo chủ thần kinh như điện
                      Chiếu nhãn quang ra khắp muôn phương....

                      Những bài hát như vậy mang tính kinh điển, khẩu hiệu, quê muội, tự nó đã nói lên được kiểu lừa bịp trá ngụy của những tà giáo thứ thiệt. Cái hay của Kim Dung là ông chỉ mô tả sự kiện, tường thuật vấn đề không bình luận. Nhưng thông qua sự kiện, vấn đề, người đọc nhận biết được ý đồ của ông, hiểu được ông muốn nói lên điều gì. Bài ca tập thể lạ lùng của giáo chúng Thần long giáo sau đây khiến người ta nghĩ đến “bài ca” của các tiểu tướng Hồng vệ binh ở Trung Quốc trong thời kỳ Cách mạng văn hóa:

                      Bảo huấn của giáo chủ
                      Thời khắc ghi tronglòng
                      Lập công và thắng địch
                      Trường thọ với non sông.

                      Trong truyện võ hiệp của Kim Dung, âm nhạc xuất hiện khắp mọi nơi trên đất nước Trung Hoa rộng lớn. Trong Phi hồ ngoại truyện, ta nghe được tiếng hát vùng Sơn Đông - Triết Giang của tiểu anh hùng Hồ Phỉ. Trong Xạ điêu anh hùng truyện, ta nghe được khúc sáo ma quái, nhiếp hồn của Đông tà Hoàng Dược Sư. Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta nghe được tiếng hát của dân tộc Miêu Cương của giáo chủ Ngũ Độc giáo Vân Nam Lam Phượng Hoàng.

                      Trong Lộc Đỉnh ký, ta nghe được bài ca Trầm Giang hùng tráng trích từ tác phẩm dân ca Đào hoa phiến, ca ngợi cái chết anh hùng của nhà yêu nước Sử Các Bộ, người chịu hy sinh để giành lại đất nước trong bàn tay di tộc. Nhưng không phải ai cũng có thể hát được khúc Trầm Giang. Đi trên sông Liễu Giang giữa đêm mưa gió, cả mấy chục người mà chỉ có Trần Cận Nam - Tổng đường chủ của Thiên Địa hội - và Ngô Lục Kỳ - đường chủ Hồng Thuận đường của Thiên địa hội - mới đủ công lực cất lên tiếng hát át cả tiếng cuồng phong sậu vũ:

                      Đầy lòng phẫn nộ ngỏ cùng ai
                      Giọt lệ già nua dạ ái hoài
                      Trong chốn cô thành mong cứu viện
                      Tàn quân huyết chiến luống bi ai
                      Đoái trông cố quốc lòng đau xót
                      Trùng vây không nỗi vượt ra ngoài
                      Trường giang một dải ba ngàn dặm
                      Nỡ để về tay kẻ khác loàị..

                      Và:

                      Non nước ngàn thu để tiếng truyền
                      Đau lòng huyết lệ khắp Tây Xuyên...

                      Trong Thiên Long bát bộ, ta nghe được tiếng hát bài ca "Hái sen ở Giang Nam" (Giang Nam khả thái liên) hoà với tiếng đàn hồ cầm thánh thót của cô gái đẹp A Bích tại Yến tử ổ, Giang Nam:

                      Giang Nam khả thái liên
                      Liên điệp hà điền điền
                      Ngư hý liên điệp đông
                      Ngư hý liên điệp tây...
                      (Giang Nam ta hãy hái sen
                      Lá sen dày khít mọc chen thành đồng
                      Cá đùa bên lá sen phía đông
                      Cá đùa bên lá sen phía tây...)

                      Nhưng tiếng hát đẹp nhất, mang nặng tính chất triết lý nhất là vẫn là tiếng hát của Tiểu SIêu, cô gái lai người Ba Tư. Tiểu Siêu là cô bé 16 tuổi, được mẹ là Đại Y Ty đưa vào "nằm vùng" trong Minh giáo Trung Quốc, len lỏi lên Quang Minh Đỉnh để tìm cách đánh cắp bộ thần công Đại nã di tâm pháp. Cô trở thành con hầu của giáo chủ Trương Vô Kỵ và thầm yêu trộm nhớ Trương Vô Kỵ. Nhưng cô đã tiên cảm được rằng mối tình đó không đến đâu, số phận của cô không biết sẽ trôi dạt về đâu. Nỗi u oán đó biểu hiện lên trong những khi cô hát cho giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ nghe. Lời ca nguyên là 1 trong 101 bài thơ của Nga Mạc (Omar Khayam) - thi hào Ba Tư đã được Quách Mạt Nhược dịch qua tiếng Quan Thoại. Triết lý trong lời ca là cái khát vọng cắt nghĩa cho được những vấn đề gần gũi nhất của con người: cuộc sống, tình yêu và cái chết:

                      Lai như lưu thủy hề thệ như phong

                      Bất tri hà xứ lai hề hà sở chung

                      (Chợt đến như giòng sông nước chảy

                      Thoắt tan như gió qua mau

                      Chẳng biết từ đâu mà đến

                      Cũng chẳng biết về nơi đâu)

                      Bài ca này là một bài thánh ca của Bái hỏa giáo Ba Tư và tiếng hát cuối cùng là tiếng hát của Hân Ly trong cơn mê sảng trước khi chết trên một hải đảo vùng Đông Bắc Trung Quốc.

                      Trong lịch sử văn minh Trung Quốc, không có biên giới giữa Thi và Ca. Trường phái thơ Đường đã dung nạp một cách tự nhiên âm nhạc vào thi ca; biến phong cách này trở thành truyền thống:

                      Sở thanh phong địch ly đình vãn
                      Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần

                      Hoặc:

                      Khương địch hà tu oán Dương liễu?
                      Xuân phong bất độ Ngọc môn quan

                      Kim Dung đã đưa âm nhạc vào tiểu thuyết đúng như truyền thống của Đường thi nhưng lãnh vực phản ánh của ông rộng hơn và mức độ phản ánh sâu sắc hơn. Âm nhạc đó hoá giải được tính chất đấu tranh gay gắt, phức tạp của bản chất truyện võ hiệp. Nó làm nên cái hồn tính lãng mạn cho tiểu thuyết võ hiệp, đem lại chất hài hước vui nhộn cho tiểu thuyết võ hiệp. Nói là âm nhạc, nhưng nó chính là võ công, là công phu, là y đạo, và đồng thời là phương thức biểu lộ tình yêu. Ngay chính trong cách dung nạp này, Kim Dung đã chứng tỏ được rằng ông là bậc thầy trong kỹ thuật viết tiểu thuyết. Đọc Kim Dung là lắng nghe chất âm nhạc trong tiểu thuyết của Kim Dung, nhờ âm nhạc, người ta thấy được niềm tin, dù trong đau thương hay trong hạnh phúc.



                      ***

                      Lai như lưu thuỷ hề
                      Thệ như thê phong hề
                      Bất tri hà xứ lai hề
                      Bất tri hà sở chung hề .

                      來 如 流 水 兮
                      逝 如 淒 風 兮
                      不 知 何 處 來 兮
                      不 知 何 所 終 兮

                      .Quách Mạt Nhược
                      Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 15-06-2010, 11:00 PM.
                      ----------------------------

                      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                      Comment

                      • #12

                        Chất hài trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung

                        Chất hài trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung

                        Trước nay, văn học thế giới đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm của các bậc thầy hài hước. Đưa nụ cười vào văn chương, tạo ra sự hứng thú cho người đọc đã có từ những vở kịch của Molière (Pháp), Azit Neshin (Thổ Nhĩ Kỳ), Slavemir Mrojek (Ba Lan). Và trong thời đại chúng ta, tiếng cười có nhiều trong các tờ báo chuyên hài hước, các tiểu phẩm trào phúng, châm biếm. Văn học Trung Quốc cũng đã trước bạ tên tuổi của các bậc thầy cười: Ngô Thừa Ân với siêu phẩm Tây Du Ký, Lỗ Tấn với tác phẩm A.Q Chính Truyện. Trên nền tảng cái cười Trung Quốc, Kim Dung tiên sinh cũng đưa nụ cười vào văn chương của ông, dù văn chương đó ở phạm trù văn chương kiếm hiệp.

                        Những tình huống trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung luôn luôn sôi động với tính chất đấu tranh, bạo lực, mưu toan, thủ đoạn. Vậy thì việc đưa tiếng cười vào trong những tình huống này quả là một điều khó thực hiện nhất là giữ làm sao cho chất cười đó không phá vỡ cái tổng thể của khái niệm võ hiệp tiểu thuyết. Kim Dung đã làm được việc đó với ngòi bút khéo léo của một bậc thầy và trong 12 bộ võ hiệp tiểu thuyết của ông, chất hài hước đã được dàn trải khắp các chương tạo ra niềm hứng thú cho độc giả.

                        Trong tác phẩm của ông, có những nhân vật khá hài hước về ngoại diện, tâm hồn thật trẻ thơ và hành sự rất tếu. Với bộ Xạ điêu anh hùng truyện, ta bắt gặp một nhân vật đáng yêu như vậy: Lão ngoan đồng Châu Bá Thông. Châu Bá Thông là nhân vật số 2 của phái Toàn Chân, sư đệ của Vương Trùng Dương, dưới tay có cả một đám sư điệt già nua cổ thụ nhưng tâm hồn ông vẫn là tâm hồn của một đứa bé ngây thơ, trong sáng. Ngay ngoại hiệu Lão ngoan đồng (ông già mà chơi như con nít) cũng đủ để mô tả đặc điểm tính cách nhân vật Châu Bá Thông. Theo sư huynh Vương Trùng Dương sang hoàng cung nước Đại Lý, Châu Bá Thông đã quan hệ tình dục với một cung phi của hoàng gia, đẻ ra một đứa con nhưng nuôi không được. Châu Bá Thông là một cao thủ, suốt đời chẳng biết sợ hãi ai nhưng mỗi khi nghe đến tên nàng cung phi đã lỡ thất thân với mình là ông ta chạy dài. Suốt đời Châu Bá Thông chuyên làm những việc cổ quái. Ngay đến môn võ công ông tự suy nghĩ ra cũng có cái tên kỳ dị không kém: Song thủ hỗ bác (hai tay vừa giúp nhau vừa đánh nhau). Đó là kết quả của một cách phân ý thật lý tưởng: tay trái vẽ hình vuông, tay mặt vẽ hình tròn cùng một lúc, sao cho vuông ra vuông, tròn ra tròn. Chỉ có Châu Bá Thông là làm được việc ấy và luyện thành công kỹ thuật Song thủ hỗ bác. Võ công ông ta đạt đến trình độ kinh người nhng chẳng hề giết chóc ai, hãm hại ai. Mỗi khi ông ta xuất hiện là tình huống trở nên vui nhộn.

                        Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta gặp rất nhiều nhân vật hài hước. Đó là Lệnh Hồ Xung, đại đệ tử phái Hoa Sơn, một nhân vật được mô tả là "lãng tử vô hạnh, thanh danh tàn tạ". Phái Hoa Sơn nổi tiếng về sự nghiêm khắc giữ gìn thanh quy giới luật nhưng khi cao hứng lên, Lệnh Hồ Xung sẵn sàng bỏ tất cả ra sau gáy. Anh đánh bạc với bọn du thủ, uống rượu xai quyền cùng anh em giang hồ hào sĩ, đánh cho bọn đệ tử Thanh Thành phải "thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn" (chổng đít ra sau tan tác như nhạn rơi bãi cát). Bị mụ ni cô - vợ của Bất Giới hoà thượng, má của ni cô Nghi Lâm - cạo đầu và suýt bị thiến vì từ chối tình yêu của Nghi Lâm, Lệnh Hồ Xung đã trả thù" hết sức ngộ nghĩnh. Anh hướng dẫn cho Bất Giới đại sư cách điểm huyệt mụ, đưa mụ vào khách sạn và... cởi quần áo mụ ra làm sao mụ không còn chạy thoát khỏi tay Bất Giới. Học được kinh nghiệm quái chiêu đó, Bất Giới đã quỳ xuống lạy Lệnh Hồ Xung, xưng tụng là Lệnh Hồ sư phụ, thậm chí là Lệnh Hồ gia gia!

                        Bất Giới hoà thượng cũng là nhân vật hài hước số một. Lỡ yêu một ni cô, ông ta cũng cạo đầu đi tu. Nhưng quy luật của Phật gia có ngũ giới cấm, trong đó có cấm tà dâm, mà mục đích của Bất Giới là đi tu để ăn ở cho được với người ni cô đó. Ông ta tự đặt cho mình ngoại hiệu là Bất Giới (chẳng cấm cản gì ráo), đã lấy được ni cô và đẻ ra Nghi Lâm. Nghi Lâm cũng đi tu, làm ni cô của phái Hằng Sơn. Cô thầm yêu trộm nhớ Lệnh Hồ Xung, ân nhân đã cứu mình ra khỏi tay dâm tặc Điền Bá Quang. Thế là Bất Giới phải đi tìm Lệnh Hồ Xung, ép buộc anh làm nhà sư để cưới Nghi Lâm vì trên đời này "chỉ có ông sư là cưới được bà vãi". Đối với Điền Bá Quang, Bất Giới trừng trị thẳng tay: cạo đầu buộc làm sư, đặt pháp hiệu là Bất Khả Bất Giới (không thể không cấm được), buộc Điền Bá Quang tôn Nghi Lâm làm sư phụ rồi buộc Điền Bá Quang làm mai "sư phụ" mình với Lệnh Hồ Xung.

                        Tuy nhiên, nói đến tiếng cười trong Tiếu ngạo giang hồ, người đọc vẫn nhớ đến Đào cốc lục tiên nhiều nhất. Đó là 6 anh em, tên là Đào Hoa Tiên, Đào Chi Tiên, Đào Điệp Tiên, Đào Thực Tiên, Đào Cán Tiên, Đào Căn Tiên. Họ gồm đủ hoa, nhánh, lá, cành, gốc, rễ nhưng bị cái tội hồ đồ, không phân biệt được ai là lão tam; ai là lão tứ ! Võ công cao cường, tâm ý tương thông, họ không sợ bất kỳ địch thủ nào trên đời. Suốt ngày họ đánh nhau, văng tục, cãi lộn.. Mà cái kiếu cãi lộn của anh em nhà họ Đào cũng rất hoạt kê, càng cãi câu truyện càng rối rắm. Nhìn dưới khía cạnh triết lý, Đào Cốc lục tiên chính là những nhà luận lý học hình thức (logique formelle) của phương Đông. Đào Cốc lục tiên mồm năm miệng mười, suốt ngày chỉ nói, nói và nói; đến vua nhà Tống cũng không cấm họ im miệng được.

                        Nhưng có một người duy nhất có thể buộc họ câm miệng. Đó là Sát nhân danh y Bình Nhứt Chỉ. Bình Nhứt Chỉ có lệ cứu được một người là ra lệnh cho người đó hoặc anh em người đó đi giết một người khác. Trong một lần Đào Thực Tiên bị trọng thương, bọn ngũ tiên bèn khiêng đến cho Bình Nhứt Chỉ chữa nhưng miệng vẫn nói thiên hô bách sát. Bình Nhứt Chỉ quát một tiếng im là năm lão im ngay bởi vì nếu không im, Bình Nhứt Chỉ sẽ buộc bọn tiên giết tên Đào Thực Tiên! Khi Lệnh Hồ Xung được đưa lên gò Ngũ Bá Cương, Bình Nhứt Chỉ thú nhận rằng không thể chữa thương cho chàng được. Bọn Đào Cốc lục tiên bèn trả thù, đặt ra câu hỏi: "Cứu một người thì giết một người. Nay không cứu được người thì giết ai?" Chính cái luận lý học hình thức của bọn lục tiên đã khiến Bình Nhứt Chỉ tự suy nghĩ và cuối cùng, tự vận kinh mạch cho đứt, chết đi để xứng với ngoại hiệu Sát nhân danh y!

                        Lệnh Hồ Xung, Bất Giới hoà thượng, Bất Khả Bất Giới Điền Bá Quang, Đào cốc lục tiên là cái trục hài hước của Tiếu ngạo giang hồ. Chung quanh cái trục đó còn có nhiều nhân vật hài hước khác như Hướng Vân Thiên, Quang minh tả sứ của Triêu Dương thần giáo; Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn; bọn quần ni phái Hằng Sơn; bọn giang hồ thảo khấu 36 động 72 đảo... góp thêm tiếng cười cho tác phẩm. Vì thế, Tiếu ngạo giang hồ tràn đầy tiếng cười lạc quan, ngay trong những tình huống bi thương nhất.

                        Chất hài hước trong kiếm hiệp Kim Dung thường xuất hiện trong những tình huống nghịch lý, thoạt tiên thì có vẻ kỳ quái nhưng đọc kỹ thấy thú vị vô cùng. Ta có thể tìm ra một hồi như vậy trong bộ Hiệp khách hành. Phái Tuyết Sơn có nội biến, bọn Tiêu Tự Lệ, Thành Tự Học, Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến bắt giam chưởng môn rồi quay ra đánh nhau để dành chức chưởng môn. Ai cũng tự khoe khoang võ công mình cao cường và họ đánh nhau với những chiêu thức độc ác nhất, tinh vi nhất. Giữa khung cảnh như vậy thì Trương Tam và Lý Tứ, hai sứ giả của đảo Mộc Long đến phát thiếp mời chưởng môn phái Tuyết Sơn đi ăn Lạp bát cúc ngoài biển Đông. Mà "ăn lạp bát cúc" có nghĩa là ra đi không có ngày về. Cả bọn Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến, Tiêu Tự Lệ, Thành Tự Học sợ quá, chẳng ai muốn tranh cái chức chưởng môn nữa. Trương Tam và Lý Tứ bó buộc bọn họ phải đấu võ cho phân thắng bại để xác định chưởng môn. Thế là anh nào anh nấy chỉ đấu cầu thua, thậm chí còn đưa tay chân của mình vào đao kiếm địch thủ để được bị thương và dĩ nhiên, càng bị thương nặng càng tốt. Trận đấu có kiếm bay, có máu chảy nhưng chất hài hước của bốn nhân vật cầu thua lại hoá giải được chất sắt máu kia và làm cho chương tiểu thuyết cực kỳ sống động, thú vị.

                        Trong truyện võ hiệp của Kim Dung, có những nụ cười rất nóng và có những nụ cười rất lạnh. Cười nóng là cười ha hả, cười đau cả ruột, mọi người cùng cười kể cả độc giả. Trong Thiên Long bát bộ, mỗi khi Tinh Tú hải lão ma Đinh Xuân Thu và bọn đệ tử của lão xuất hiện thì tiếng cười nóng lại rộ lên. Ấy bởi vì với phái Tinh Tú, thói nịnh là một thứ võ công hàng đầu so với những thứ võ công khác trên đời. Đã có những tên đệ tử phái Tinh Tú đem sư phụ Đinh Xuân Thu của mình so sánh với Đức Khổng Tử và kết luận Đức Khổng Tử thua Đinh Xuân Thu vì Khổng Tử không có võ công. Giá mà Đức Khổng Tử sống dậy, đọc được những dòng này, chắc hẳn ngài cũng phải bật cười khoan khoái. Ngược lại với cười nóng là cười lạnh, buồn mà cười, thương mà cười. Đó là mối tình của Du Thản Chi với A Tử.

                        Đoàn A Tử là cô bé ác độc, đệ tử của Đinh Xuân Thu, bắt được Du Thản Chi để hành hạ cho thoả tính tàn bạo. Cô đã ra lệnh đánh Du Thản Chi thừa sống thiếu chết rồi nướng cái lồng sắt đỏ chụp vào đầu y, biến y thành tên Thiết sửu giải trí cho cô. Nhưng oái ăm thay, ngay từ cái nhìn đầu tiên, Du Thản Chi đã say mê tấm dung nhan mỹ miều của A Tử. Hắn có thể hứng chịu cả trăm ngàn đau khổ để được nhìn thấy A Tử nở một nụ cười. Đôi mắt hắn long lên căm hờn khi có ai hướng về phía A Tử một cái nhìn thiện cảm. Hắn có một pho võ công rất kỳ bí là hàn khí của Kim tầm trùng độc làm nội công và đồ hình của Dịch Cân Kinh làm chiêu thức. Hắn đánh ai một chưởng thì người đó hoá thành băng tuyết ngay. A Tử đui hai mắt, không còn nhìn thấy gì trên đời. Thế là Du Thản Chi đi nhờ người ta tháo cái lồng sắt ra khỏi đầu mình và khuôn mặt của hắn trở thành khuôn mặt dị dạng của quỷ sứ. Hắn kiếm một cái khăn trùm đầu, tìm về với A Tử và tự đổi giọng nói, xưng mình là Trang Tụ Hiền; dẫn cô bé chu du giang hồ, khoe với cô rằng mình là kỳ nam tử, đẹp như Phan An, Tống Ngọc! Rõ ràng là khi có mặt A Tử, hắn đã đánh cho nhiều người thất điên bát đảo nên A Tử hết lòng tin cậy. Chính vì để bảo vệ bí mật cho những lời khoe khoang khoác lác đó, hắn đã phải năn nỉ nhiều người khen hộ hắn anh tuấn, đẹp trai để vừa lòng A Tử. Cái hài hước khi xây dựng cặp nhân vật A Tử - Du Thản Chi của Kim Dung tràn đầy nước mắt, bảo cười cũng được mà bảo khóc cũng không sai. Đó cũng là chất hài hước của Lỗ Tấn trong A.Q Chính Truyện khi A.Q được đưa ra pháp trường!

                        Được cười với những nhân vật của Kim Dung thật là một điều sảng khoái. Cái sảng khoái đó nằm trong những diễn tiến ngộ nghĩnh của câu chuyện, khiến người ta không tin cũng phải tin. Một thí dụ sinh động nhất là chuyện tuyển phu của công chúa Văn Nghi nước Tây Hạ. Công chúa Văn Nghi đã từng bị Thiên Sơn Đồng Mỗ bắt, cởi trần truồng và đem vào hầm nước đá tối thui cho nằm cạnh nhà sư Hư Trúc. Mục đích của Đồng Mỗ là phá giới Hư Trúc và quả nhiên, nhà sư trẻ đã không thoát qua khỏi vòng trần luỵ. Lòng anh vừa đau khổ nhưng cũng vừa cảm thấy hạnh phúc. Và suốt đời anh vẫn nhớ người trong mộng nhưng không biết nàng tên là gì, ở đâu. Đùng một cái, nước Tây Hạ ra bảng chiêu phu cho công chúa Văn Nghi. Những thế lực chính trị cảm thấy đây là thời cơ để phục hưng nền quân sự của quốc gia vì kẻ nào làm phò mã nước Tây Hạ là kẻ đó có thể nắm thực quyền về quân đội. Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý buộc con là thế tử Đoàn Dự phải đi. Cô Tô Mộ Dung Phục cũng đi đến cầu hôn với hy vọng phục hưng binh lực nước Đại Yên. Hoắc Đô Vương tử nước Thổ Lỗ Phồn cũng đến tranh thủ. Chỉ có chàng Hư Trúc là đi chơi, hoàn toàn không nghĩ đến chuyện tuyển phu. Tất cả chương trình tuyển phu chỉ gồm có 3 câu: "Trên đời, người thích ai nhất? Người ấy tên gì, ở đâu?". Các Vương tử, thế tử đều đáp xong. Đến lượt, người ta đùa cợt, đẩy Hư Trúc vào. Đáp câu thứ nhất, Hư Trúc bảo: "Trên đời ta chỉ thích nàng ấy nhất". Câu thứ hai: "Tối quá, ta không biết tên". Câu thứ 3:"Trong hầm nước đá" Và chỉ 3 câu đó, Hư Trúc tìm ra người tình nhân - Mộng Cô - của mình, trở thành phò mã nước Tây Hạ giữa sự ngạc nhiên của mọi người. Hoá ra, trò tuyển phu đó không phải là một đòn phép chính trị nhằm đối địch với ai cả. Đó chỉ là một cách để tìm ra người đàn ông mà công chúa đã từng yêu dấu và trao thân gửi phận.

                        Thế nhưng, không có tác phẩm nào tập trung cao độ tính hài hước bằng bộ Lộc Đỉnh ký. Từ cách xây dựng nhân vật trung tâm đến tình huống diễn tiến câu chuyện, đến ngôn ngữ nhân vật, Lộc Đỉnh ký là một bộ hài kịch lớn. Không chương nào của tác phẩm thiếu tiếng cười. Chuyện bắt đầu khi Vi Tiểu Bảo, một tiểu lưu manh trong động điếm Lệ Xuân viện thành Dương Châu được Mao Thập Bát, một hào khách giang hồ đem lên Bắc Kinh. Bằng thủ đoạn ma mãnh, Vi Tiểu Bảo đã giết được Tiểu Quế Tử thái giám, hoá thân làm Tiểu Quế Tử. Từ đó, hắn thân cận được với vua Khang Hy, trở thành bạn nhỏ của nhà vua, giúp vua giết được loạn thần Ngao Bái, gia nhập thiên địa hội và hoạt động gián điệp. Hắn trở thành Chánh đô thống hoàng kỳ, phong tặng tước hiệu Ba Đồ Lỗ; Khâm sai đại thần đi công cán Vân Nam; Tứ hôn sứ; Bá tước; Nguyên soái cầm quân chinh phạt quân La Sát! Công lao hắn lớn hơn bất kỳ một vị cố mệnh đại thần nào của triều Khang Hy.

                        Để đạt được tột đỉnh vinh quang đó, hắn chỉ áp dụng hai thứ kinh nghiệm: một là kinh nghiệm sống trong động điếm và hai là những câu chuyện truyền kỳ trong bộ Anh Liệt Truyện mà hắn nghe được thủa còn ở Dương Châu. Thông qua nhân vật Vi Tiểu Bảo, người ta nhận ra một định đề bất ngờ: "Trên đời nầy, kỹ viện và hoàng cung là hai nơi trá nguỵ nhất". Đắc thủ kinh nghiệm từ kỹ viện đến hoàng cung, Vi Tiểu Bảo trở thành nhân vật đệ nhất trá nguỵ. Nhân vật trá nguỵ ấy đã trở thành Hối minh hoà thượng, sư đệ của Hối Thông, phương trượng chùa Thiếu Lâm; rồi sau đó lại trở thành trụ trì chùa Thanh Lương trên Ngũ Đài Sơn ! Nhân vật ấy đủ sức "trị" tên đại Hán gian Ngô Tam Quế; trở thành cố vấn đặc biệt cho Sa hoàng Nga La Tư; thay mặt Khang Hy Hoàng đế quan hệ giao hảo với Mông Cổ và Tây Tạng.

                        Thế nhưng, nhân vật quan trọng ấy không biết chữ. Trong 3 chữ họ tên của mình, Vi Tiểu Bảo chỉ đọc được chữ Tiểu vì chữ này dễ nhận ra với 3 nét. Ấy thế mà bọn nhà văn có tên tuổi trong lịch sử văn học triều Thanh như Cố Viêm Võ, Tra Y Hoàng phục lăn phục lóc, hết lời ca ngợi. Nhân vật ấy đưa vào trong văn chương một mớ ngôn ngữ thoá mạ bình dân, tục tĩu như "con mẹ nó", "tổ bà quân rùa đen", "phường chó đẻ"... Vi Tiểu Bảo "sáng tạo" ra những thuật ngữ mà chưa một thời đại nào người ta dám đem gán ghép cho những nhân vật cao quý trong xã hội phong kiến: công chúa Kiến Ninh được coi là con đượi non, thái hậu được gọi là mụ điếm già. Mớ ngôn ngữ ấy đã được "truyền bá". Trần Cận Nam, thầy của Vi Tiểu Bảo, cũng biết gọi thái hậu là "mụ điếm già". Vua Khang Hy cũng học thứ ngôn ngữ bình dân của Vi Tiểu Bảo mà mở miệng thoá mạ "con mẹ nó". Chẳng những thế, nhà vua cũng sẵn sàng làm những việc làm hết sức "bình dân", chẳng ra thể thống một Đại Thanh Hoàng đế chút nào.

                        Tôi cho rằng đoạn trích sau đây có thể nói lên chất hài hước cao đó của Lộc Đỉnh ký:
                        "Sách thánh hiền đọc nhiều quá, toàn những đoạn khô khan. Đột nhiên, nhà vua được nghe những câu "Tổ bà nó", "Té đái vãi phân", tuy thô tục nhưng cũng thấy vui vui liền bắt chước nhưng chỉ khi nói với Vi Tiểu Bảo mới đưa ra. Hôm nay, nhà vua gặp phụ hoàng, vừa hoan hỉ vừa bi thương, nhưng thân cận cha được nửa giờ đã bị đẩy ra ngoài cửa chẳng biết từ nay còn có dịp nào gặp lại, trong lòng rất là khó chịu. May có Vi Tiểu Bảo nói năng thú vị làm vơi nỗi uất ức đi nhiều. Khi bàn tới đại sự trừ phản dẹp loạn, ngài lại nổi hùng tâm.
                        Nhà vua đứng dậy đi ra ngoài sân mấy bớc, hai tay bê mấy hòn đá bày ra dưới đất, miệng nói:
                        - Hán quân có tứ vương, nào Đông Vương, nào Tây phiên, nào Bắc biên, phải phân chia ra không thể để chúng liên hiệp với nhau được. Lại còn Định Nam Vương Khổng Hữu Đức nhưng may thằng cha này chết rồi, chỉ để lại một đứa con gái thì cách đối phó chẳng khó khăn gì.
                        Nhà vua dứt lời, vung chân đá một hòn đá ra ngoài rồi nói tiếp:
                        - Cảnh Tinh Trung thần dũng hơn đời nhưng lại là kẻ vô mưu nên chẳng có chi đáng ngại. Chỉ cần làm cho hắn không liên minh được với họ Trịnh ở Đài Loan là xong.
                        Nhà vua lại đá một hòn đá nữa đi rồi nói tiếp:
                        - Thượng Khả Hỷ thì phụ tử bất hoà. Giữa hai cha con hắn cũng thành thế nước lửa nhằm khuynh loát nhau, chắc chẳng làm nên trò trống gì.
                        Khối đá thứ ba bị hất tung đi. Chỉ còn một khối đá lớn nhất. Nhà vua nhìn chằm chặp vào khối đá này, ngơ ngẩn xuất thần.
                        Vi Tiểu Bảo cất tiếng hỏi:
                        - Tâu Hoàng thượng ! Phải chăng đây là Ngô Tam Quế ?
                        Vua Khang Hy gật đầu.
                        Vi Tiểu Bảo mắng liền:
                        - Thằng giặc thối tha này. Sao mi không chết đi khiến cho Đức Hoàng Đế phải vì mi mà tổn thương cân não. Tâu Hoàng thượng ! Xin Hoàng thượng đái vào người hắn.
                        Vua Khang Hy cười ha hả, nổi dạ trẻ thơ, vạch quần đái vào phiến đá.
                        Ngài cười nói:
                        - Ngươi cũng đái vào đi.
                        Vi Tiểu Bảo cười rộ. Gã vừa đái vừa nói:
                        - Hồi sách này kêu bằng Vạn tuế gia cao sơn lưu thuỷ. Tiểu Quế Tử ... Tiểu Quế Tử ...
                        Gã chợt nhớ thầy đồ nói chuyện Tam Quốc có một hồi kêu bằng "Quan Vân Trường thuỷ yếm thất quân" liền nói tiếp:
                        - "Tiểu Quế Tử thuỷ yếm thất quân"
                        Vua Khang Hy không nín được, lại cười ha hả. Ngài vừa thắt quần lại vừa nói:
                        - Sau nầy mà ta bắt được tên giặc thối tha kia thật sự thì sẽ đái hẳn vào người hắn.
                        Vi Tiểu Bảo thấy Tiểu Hoàng Đế ra chiều căm hận Ngô Tam Quế thì trong bụng mừng thầm tự nhủ:
                        - Ta cùng bọn Mộc Vương phủ đánh cuộc về vụ này. Thế là phe mình ăn chắc đến quá nửa rồi."

                        Và gần như không có nhân vật nào trong Lộc Đỉnh ký không có tính hài hước. Công chúa Kiến Ninh cũng biết chửi tục "Con mẹ nó, té đái vãi phân" và gây ra một hành động kinh thiên động địa mà không phải người phụ nữ nào cũng dám làm: lấy súng bắn nát bộ phận sinh dục của chồng chưa cưới. Hối Thông đại sư, trụ trì chùa Thiếu Lâm, ca ngợi sư đệ của mình là Hối Minh (tức Vi Tiểu Bảo) định lực cao cường khi đối đầu với bọn Cát Nhĩ Đan Vương tử mà chẳng biết Vi Tiểu Bảo sợ quá, thở cũng không nổi và đã “đi” ra đầy cả quần. Trừng Quang đại sư cầm đầu Thập bát La hán chùa Thiếu Lâm ngây thơ đến nỗi nghe Vi Tiểu Bảo đi chơi kỹ viện (động điếm) cũng cho rằng kỹ viện là một "viện" tương đương với Đạt Ma viện của chùa Thiếu Lâm. Thậm chí khi Trừng Quang đại sư nghiên cứu võ công cũng phải nhờ Vi Tiểu Bảo chỉ điểm, hướng dẫn!

                        Có người cho rằng Lộc Đỉnh ký là tác phẩm của thời đại chúng ta, Vi Tiểu Bảo là con người sống trong thời đại chúng ta. Tôi nghĩ là nhận định đó hết sức nghiêm túc và hợp lý. Với chất hài hước của Lộc Đỉnh ký, thế kỷ 20 hiện thân rành rành trong tiểu thuyết võ hiệp, với những con người, những tình huống, những suy nghĩ của nó.

                        Không dễ đưa chất hài hước vào văn chương như đưa vào sân khấu hay thơ ca. Tôi đã đọc Kim Dung nhiều lần trong đời. Với Du Thản Chi trong Thiên Long bát bộ, tôi nhỏ nước mắt. Với Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký, tôi cười ha hả. Nhiều đêm, chợt tỉnh giấc ngủ, nhớ đến Vi Tiểu Bảo, tôi bật cười một mình. Con người ngộ nghĩnh, thú vị, sống rất chân thật đó đã trở thành một biểu tợng hài hước của thế kỷ thứ 20 chứ không riêng gì trong tác phẩm võ hiệp của Kim Dung.

                        Trong hoàn cảnh đất nước chưa hoà bình, chiến tranh vẫn còn tiếp diễn nhiều nơi, lòng người hoang mang ly tán như xã hội miền Nam trước năm 1975, tác phẩm võ hiệp Kim Dung với những màn hài hước đặc sắc vụt trở nên phương tiện giải trí đắt giá. Tâm trạng chung của bạn đọc lúc đó là tìm ra một cái gì vui trong một đời sống có nhiều bế tắc và niềm bi thảm. Ta không thấy làm lạ khi người đọc đón nhận từng chương, từng hồi của tác phẩm Kim Dung đăng trên báo dưới dạng feuilleton. Tôi chưa nói đến giá trị văn học, giá trị tư tưởng, giáo dục. Chỉ một chức năng giải trí, văn chương Kim Dung đã đáp ứng đầy đủ cho người đọc. Hài hước trở thành một thang thuốc bổ, đem lại cho đời nụ cười ý vị.

                        .
                        ----------------------------

                        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                        Comment

                        • #13

                          GHEN TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

                          GHEN TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

                          Ghen (jalousie) là một tình cảm tự nhiên của con người, đặc biệt là ở phụ nữ. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, tuy trọng tâm phản ánh về những sinh hoạt võ lâm, cũng đã có những nhân vật ghen tuông, tình huống ghen tuông thú vị. Nhận định về tình yêu trong tiểu thuyết võ hiệp của ông mà không nhận định về cái ghen quả thật là một thiếu sót.

                          Một cách khái quát, Kim Dung dùng khái niệm rất cụ thể để nói về cái ghen. Ghen được gọi là “bình giấm chua” hoặc “ghè tương”. Còn cái bình giấm chua và ghè tương đó đổ bể trong tình huống nào, đổ bể ở đâu thì lại là chuyện khác.

                          Ở mức độ sơ cấp, người phụ nữ bày tỏ lòng ghen tuông một cách nhẹ nhàng, đôi khi không khỏi khiến độc giả buồn cười, thương hại. Đó là trường hợp Á bà bà (bà già câm) (Tiếu ngạo giang hồ). Ở tuổi đôi mươi, bà đã xuất gia đi tu và là một nữ ni xinh đẹp. Có một chàng đồ tể cảm mến sắc đẹp đó, cứ theo tán tỉnh hoài. Và hắn cũng cạo đầu đi tu, tự đặt pháp hiệu cho mình là Bất Giới hoà thượng. Hắn cho rằng “chỉ có ông sư mới có thể yêu bà vãi” (?) Họ thành vợ chồng và sinh ra cô con gái xinh đẹp là Nghi Lâm. Một lần, Bất Giới nhìn thấy Ninh Trung Tắc, vợ Nhạc Bất Quần. Ông ta lỡ miệng khen Ninh Trung Tắc đẹp, thế là Á bà bà nổi cơn ghen vì “đã có vợ rồi, sao lại còn khen kẻ khác đẹp?”. Bà ta bỏ luôn Bất Giới, vào phái Hằng Sơn giả làm mụ già câm điếc, chuyên việc quét chùa, lau tượng trong 18 năm, báo hại Bất Giới đi tìm muốn chết!

                          Ở mức độ trung cấp, cái ghen bắt đầu có “bài bản” hơn. Đó là trường hợp ghen của Mai Phương Cô (Hiệp khách hành). Mai Phương Cô thầm yêu trộm nhớ Thạch Thanh nhưng Thạch Thanh chỉ yêu và cưới Mẫn Nhu. Họ sinh được hai đứa con trai song sinh: Thạch Trung Ngọc và Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên mới 6 tháng tuổi thì... mất tích. Ai bắt? Chính là Mai Phương Cô. Nàng đem cậu bé về hoang sơn dã lĩnh ở Triết Giang nuôi nấng, đặt tên cho bé là Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống) để mỗi khi lòng ghen tuông với hạnh phúc của Mẫn Nhu nổi lên, nàng kêu mấy tiếng “cẩu tạp chủng” cho đỡ buồn!

                          Cẩu Tạp Chủng lớn lên, thành một chàng trai tuấn tú, hiền lành nhưng hoàn toàn dốt nát. Nhưng chính nhờ đó mà chàng trở thành một con người đệ nhất võ công đắc thủ được trong bài thơ Hiệp khách hành, khác xa người anh ruột dâm ác và tàn bạo Thạch Trung Ngọc. Hiệp khách hành - một bài thơ danh tiếng của Lý Bạch, đi vào tiểu thuyết Kim Dung, trở thành một tác phẩm tiểu thuyết ca ngợi lòng dũng cảm, đức hy sinh và tâm hồn trung hậu của chàng trai Cẩu Tạp Chủng Thạch Phá Thiên.

                          Ở mức độ cao cấp, cái ghen được Kim Dung nâng lên thành những âm mưu, thủ đoạn cao cường. Đó là cái ghen của Chu Chỉ Nhược, chưởng môn phái Nga Mi (Ỷ thiên Đồ long ký). Ở trên đảo hoang, để độc chiếm kiếm Ỷ thiên và đao Đồ long, cô đánh thuốc mê cho mọi người, lấy kiếm rạch mặt và giết Hân Ly, trói Triệu Minh và bỏ lên một con thuyền thả lênh đênh, mưu đồ để Triệu Minh chết đói vừa đổ vạ cho nàng. Trở về trung Nguyên, Chu Chỉ Nhược lập tức tiến hành hôn với Trương Vô Kỵ nhưng lại bị Triệu Minh phá ngang, làm Trương Vô Kỵ bỏ hôn lễ và chạy theo Triệu Minh để tìm nghĩa phụ tạ Tốn. Chu Chỉ Nhược vừa thẹn, vừa sợ bại lộ âm mưu, đã sử dụng một chiêu ác độc nhất trong Cửu âm bạch cốt trảo, định đánh vỡ sọ Triệu Minh để bịt đầu mối. Tuy nhiên Triệu Minh chỉ bị thương, và nhờ vết thương đó, Trương Vô Kỵ mới dần hiểu được rằng Chu Chỉ Nhược là người đánh cắp kiếm Ỷ thiên và đao Đồ long, luyện thành Cửu âm bạch cốt trảo giấu trong thân kiếm, bắt cóc cha nuôi của mình là Tạ Tốn và là người giết Hân Ly.

                          Cái ghen tuông không chỉ có trong những bậc nữ lưu bình thường. Cái ghen trong bậc nữ lưu quý tộc còn ghê gớm hơn. Đó là trường hợp của Đao Bạch Phụng, người tộc Bãi Di, vợ Đoàn Chính Thuần. Thân là Vương phi nước Đại Lý, giận chồng lăng nhăng, đã đem tấm thân ngàn vàng cho gã ăn mày dơ dái ân ái... “Mối tình” chớp nhoáng đó đã sinh ra vương tử Đoàn Dự, danh nghĩa là con Đoàn Chính Thuần nhưng huyết thống là con Đoàn Diên Khánh. Vương phu nhân, gốc người tộc Đảng Hạng (Tiên Ty), còn ghen ghê gớm hơn. Giận Đoàn Chính Thuần, hễ ai họ Đoàn nước Đại Lý lọt vào sơn trang của bà là bà ra lệnh giết để làm phân bón hoa.

                          Tuy nhiên, cái hay của Kim Dung là không biến những tình huống ghen tuông trong tác phẩm của mình trở thành những vụ án hình sự có nhà tan, người chết. Những nhân vật của ông chỉ ghen như một cách bày tỏ thái độ, chẳng có ai chết cả. Hân Ly vẫn không chết do nhát kiếm của Chu Chỉ Nhược, thậm chí, nhờ đó mà độc tính của Thiên châu tuyệt hộ thủ theo máu thoát ra ngoài và cô... sống lại.

                          Đứng trên quan điểm hôn nhân của chế độ phong kiến, Kim Dung cho phép những nhân vật nam của mình có nhiều vợ, nhiều tình nhân. Đoàn Chính Thuần có một vợ và... 5 tình nhân (có kể lại!); Vi Tiểu Bảo có... 7 vợ và một tình nhân. Tuy nhiên, Kim Dung cũng đã để cho những nhân vật nữ của mình đấu tranh chống lại quan điểm đa thê sai trái đó. Một cách tích cực, ghen tuông được coi là một cách thể hiện phản ứng chế độ đa thê. Những Á bà bà, Đao Bạch Phụng... là những con người đã phản ứng như vậy.

                          Quả thật đáng buồn nếu có những nhân vật (và ngay cả những người thật) không biết yêu và cũng chẳng biết ghen. trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, người ta yêu tha thiết nhưng ghen tuông cũng cháy chòi lá! Rõ ràng, tuy lấy bối cảnh là xã hội phong kiến Trung Quốc nhưng tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung lại đi sát cuộc đời bởi vì tâm tình trong đó là tâm tình của xã hội phương Đông thời hiện đại.


                          .
                          ----------------------------

                          Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                          Comment

                          • #14

                            HOA TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

                            Sau Ghen ... đến Hoa : HOA TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG


                            Văn chương tiểu thuyết, kể cả văn chương tiểu thuyết võ hiệp, luôn có những đoạn tả cảnh. Cảnh quan thiên nhiên hiện ra trong văn chương đã trở thành một thứ quy luật tất yếu, không thể thiếu được. Vả chăng, người Trung Hoa đã quan niệm “Vạn vật đồng nhất thể” mà con người cũng là một vật trong vạn vật cho nên con người không thể tự tách mình ra khỏi thiên nhiên, ra khỏi cảnh quan và môi trường sống. Văn chương tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung cũng vậy. Con người trong tiểu thuyết của ông luôn luôn gắn liền với thiên nhiên, sống giữa thiên nhiên và hoạt động với thiên nhiên.

                            Nhưng vượt lên trên tất cả cung cách mô tả thiên nhiên, Kim Dung đã dành cho hoa nhiều cảm tình nhất. Hoa xuất hiện trong 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp của ông như là biểu tượng cho bốn mùa. Hoa tiêu biểu cho chiều sâu trí tuệ và tâm hồn của người trồng hoa và chơi hoa. Hoa là sản phẩm đặc trưng của từng vùng đất mà đất Trung Hoa vô cùng rộng lớn nên hoa cũng cực kỳ phong phú về chủng loại, đặc sắc về ngoại hình. Ở một chừng mực nào đó, ta có thể thấy Kim Dung đã thể hiện kiến thức của một nhà hoa học trong những bộ tiểu thuyết của mình.

                            Trong Thiên Long bát bộ, theo gót chân lãng du của vương tử Đại Lý Đoàn Dự, tác giả đưa chúng ta đi về vùng Giang Nam nước Tống. Mùa xuân về trên Thái Hồ, Giang Nam, ta bắt gặp hoa sen và hoa hồng lăng khoe sắc thắm, thoang thoảng hường đưa trong gió. Rồi tác giả đưa chúng ta về Mạn Đàn sơn trang của Vương phu nhân, thưởng thức hoa trà. Đoạn lý luận về hoa trà của Đoàn Dự có thể coi là một chương hoa học kỳ thú trong Thiên Long bát bộ.



                            Hoa trà - tiếng Phạn là Mạn đà la – là một loài hoa nổi tiếng được trồng phổ biến khắp vùng Vân Nam. Lúc bấy giờ, Vân Nam thuộc nước Đại Lý. Hoa trà trở thành quốc hoa của Đại Lý. Vân Nam có khí hậu ấm, mứa nhiều quanh năm, dân dã bình thường cũng biết trồng hoa trà để thưởng ngoạn. Thế nhưng,Vương phu nhân là đem hoa trà từ Vân Nam (Đại Lý) về trồng ở Giang Nam (Tống) mà lại thiếu kinh nghiệm chăm sóc khiến các gọi là Mạn đà sơn trang của phu nhân dưới mắt Đoàn Dự chẳng đáng một xu. Vốn ghét tính cách tàn bạo, ngang ngược của Vương phu nhân, Đoàn Dự thẳng thừng phê phán sự dốt nát của bà khi trồng trà: “Tỷ như khóm trà hoa này chắc phu nhân cho là quý lắm? Cái lan can bên cạnh mới thực là đẹp.”. Khen như vậy khác nào khen quyển sách in đẹp mà nội dung rỗng tuếch. Những kiến thức về hoa trà của Đoàn Dự khiến Vương phu nhân vừa kinh hãi, vửa thẹn thùng. Chậu hoa mà phu nhân gọi là “Ngũ sắc trà hoa” (hoa trà năm màu) thì Đoàn Dự gọi là “Lạc đệ tú tài” (tú tài thi hỏng). Đoàn Dự cho biết loại hoa trà quý nhất là “Thập bát học sĩ” (18 vị học sĩ) gồm 18 bông, màu sắc không bông nào giống bông nào (toàn hồng, toàn trắng, toàn tía...không hỗn tạp), cùng nở một lúc và cùng tàn một giờ. Sau “Thập bát học sĩ” là “Bát tiên quá hải” (8 vị tiên qua biển) chỉ có một gốc, nở ra cùng lúc 8 bông với 8 màu khác nhau. Sau “Bát tiên quá hải” là “Thất tiên nữ” (7 tiên nữ) chỉ có một gốc nở ra 7 bông. Sau “Thất tiên nữ” là “Phong trần tam hiệp” (3 hiệp khách phong trần) chỉ có 1 gốc nở ra đúng 3 bông. Rồi “Nhị Kiều” (hai nàng họ Kiều), rồi chia hạng chánh, phó... đủ kiểu chơi.

                            Vương phu nhân còn khen ngợi loại trà “Mãn nguyệt” (trăng tròn). Đoàn Dự bác ngay và lý luận đó phải là loại “Ỷ lan Kiều’ (nàng Kiều e thẹn dựa vào lan can). Trồng “Ỷ lan Kiều” phải chọn nơi nửa kín nửa hở để xứng với câu thơ:

                            E thẹn ôm đàn che nửa mặt
                            Ai kêu ai gọi cũng làm thinh.


                            Viết đến đâu, Kim Dung trích dẫn thơ ca đến đó:

                            Xuân câu thuỷ động trà hoa bạch
                            Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng
                            (Dòng xuân nước gợn hoa trà trắng
                            Non hạ mây vương trái vải hồng)

                            Hoặc:

                            Thanh quần ngọc diện như tương thức
                            Cửu nguyệt trà hoa mãn độ khai
                            (Quần xanh vóc ngọc như từng gặp
                            Tháng chín, hoa trà rợp lối đi)




                            Thật sự, Trung Quốc đã từng có tác phẩm Điền trung trà hoa ký nghiên cứu về hoa trà trong đó có đoạn: “Đại Lý trà hoa tối giáp hải nội, chủng loại thất thập nhị, đại ư mẫu đơn. Nhất vọng nhược hỏa tề vân cẩm, thước nhật chưng hà.” (Hoa trà Đại Lý đứng đầu thiên hạ, gồm 72 loại khác nhau, có loại lớn hơn cả hoa mẫu đơn, khiến ta đứng xa vẫn trông đỏ rõ một góc trời như mây gấm hoà vào cho màu trắng ban mai thêm rực rỡ). Thật ít có nhà văn nào đạt được kiến thức hoa học và vận dụng kiến thức ấy - vốn thuộc phạm vi sinh học – vào văn chương một cách nhuần nhuyễn như Kim Dung.

                            Đúng là Kim Dung đã đưa hoa vào tác phẩm văn chương võ hiệp của mình, dùng hình ảnh tươi đẹp của hoa để chế ngự bớt tính chất căng thẳng và đôi khi tàn nhẫn của thế giới võ hiệp. Hoa là biểu tượng cho một dạng công lực thượng thừa, Kẻ luyện nội công đến mức cao siêu nhất được gọi là “Tam hoa tụ đỉnh”. Hoa được dùng để đặt tên cho các pho võ công: Niêm hoa chường, Niêm hoa chỉ của phái Thiếu Lâm; Thiên Sơn thiết mai thủ của phái Tiêu Dao; Lạc anh chưởng pháp của Đào hoa đảo. Hoa trở thành mệnh lệnh tấn công như khi bang chúng Cái bang hát bài Liên hoa lạc (cánh sen rơi) thì có nghĩa là họ kết Đã cẩu trận để chống lại kẻ địch, bao vây kẻ địch.

                            Hoa trở thành đòn thức, chiêu thế của người sử dụng võ công, và khi sử dụng, giới võ lâm phải thể hiện cho được yếu tính của đòn thức, chiêu thế mang tên hoa đó. Nhà sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí khi đánh chiêu Niêm hoa vi tiếu trong Niêm hoa chỉ vẫn giữ được khuôn mặt tươi cười, tư thế ung dung của khái niệm niêm hoa (cánh hoa chưa nở). Nhà sư Hư Trúc sử dụng Thiên Sơn chiết mai thủ với phong cách nhẹ nhàng, khuôn mặt trầm tĩnh đúng như người đang bẻ cành mai trên núi Thiên Sơn mà kình lực có thể làm tan bia, vỡ đá. Phái Thiếu Lâm có chiêu Hoa khai kiến Phật (Hoa nở thấy Phật) bó buột đệ tử Thiếu Lâm chấp hai tay lên trước ngực, vừa hàm ý chào kính kẻ địch, vừa thể hiện đức từ bi của nhà Phật: đấu tranh là phải đấu chứ không muốn giết hại lẫn nhau. Ta bắt gặp trong tiểu thuyết Kim Dung những tên gọi Lạc hoa lưu thủy (hoa rụng nước trôi), Mãn thiên hoa vũ (mưa hoa đầy trời), Liên hoa phất huyệt thủ (đánh huyệt như phất hoa sen), Hồ điệp xuyên hoa (bướm len giữa khóm hoa), Thiên nữ tán hoa (tiên nữ rắc hoa)...

                            Hoa muôn đời là biểu tượng của người phụ nữ đẹp, là biểu tượng của cô gái trong trắng thơ ngây. Kinh Thi có câu: “Xước ước như xử nữ” (mềm mại như gái trinh) và từ “xước ước” cũng đồng thời là từ diễn tả dáng thanh lịch của ngàn hoa. Những nhân vật nữ của Kim Dung như Nhậm Doanh Doanh, Nhạc Linh San, Nghi Lâm, Lam Phượng Hoàng (Tiếu ngạo giang hồ), Hoàng Dung, Quách Tương, Tiều Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ), Hân Tố Tố, Triệu Minh, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu (Ỷ thiên Đồ long ký)... đều có “khuôn mặt đẹp như hoa nở, nụ cười tươi như hoa nở”. Những cô gái trinh bạch, xinh đêp ấy được gọi là Hoàng hoa khuê nữ (cô gái trong phòng khuê dịu dáng như hoa cúc) nhưng lĩnh vực hoạt động của họ không phải là phòng khuê nữa mà là giới giang hồ.

                            Họ là hào khách võ lâm biết yêu hoa: Vương phu nhân yêu hoa trà, Mộc Uyển Thanh yêu hoa mai côi (hoa hồng) và con người cô cũng toát ra mùi hương tự nhiên của mai côi đến nỗi cô có ngoại hiệu là Hương Dược Xoa (Thiên Long bát bộ), Lăng Sương Hoa, con gái tri phủ Giang Lăng thành Lăng Thoái Tư yêu hoa cúc (Liên thành quyết).

                            Kẻ nào manh tâm chiếm đoạt trinh tiết người phụ nữ bị Kim Dung gọi là tên Thái hoa dâm tặc (tên dâm tặc chuyên hái hoa). Trong Tiếu ngạo giang hồ, có gã Giang dương đại đạo thái hoa dâm tặc vạn lý độc hành khoái đao Điền Bá Quang. Hắn gớm ghiếc đến nỗi phụ nữ nhà lành cũng bị cha mẹ cấm không được gọi đến tên. Nhà sư Bất Giới đã trừng trị tội dâm dật của hắn bằng cách điểm trọng huyệt, xuyên một cặp tụ tiễn (mũi tên nhỏ) vào bộ phận sinh dục để hắn không thể “hái hoa” được nữa. Ngoại hiệu của nhà sư là Bất Giới (không cấm cản chi hết) nhưng nhà sư buộc Điền Bá Quang phải cạo đầu làm sư, đặt lại ngoại hiệu cho hắn là Bất Khả Bất Giới (không thể không cấm). Cách trừng trị kinh khủng như vậy là nhằm bảo vệ những đời hoa!

                            Hoa là biểu tượng của tình yêu lứa đôi, và đặc biệt trong võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung, là biểu tượng của tình yêu chung thuỷ. Thời đôi mươi, Vương phu nhân say mê Đoàn Chính Thuần, thất thân với y và sinh ra Vương Ngọc Yến. Đoàn Chính Thuần là hoàng thái đệ của Đoàn Chính Minh, vua Đại Lý; không thể cưới được Vương phu nhân. Tương tư tình lang, Vương phu nhân đem trà Đại Lý về trồng tại Giang Nam, lập nên cái gọi là Mạn đà sơn trang (Thiên Long bát bộ). Còn trong Liên thành quyết, Kim Dung đã thực sự tạo cho hoa cúc một tâm hồn riêng khi ông xây dựng mối tình Đinh Điển – Lăng Sương Hoa.

                            Đinh Điển luyện thành thần công Thần chiếu kinh, chỉ cần vươn tay ra chộp một cái là kẻ thù phải chết. Anh yêu tiểu thư Lăng Sương Hoa, con gái tri phủ Lăng Thoái Tư thành Giang Lăng, nên ẩn thân vào nhà tù thành Giang Lăng để ngày ngày được ngắm màu hoa cúc vàng trên cửa sổ do chính Lăng Sương Hoa chăm sóc. Lăng Sương Hoa ra sức chăm bón hoa, giữ cho hoa tươi mãi để tạ lòng người yêu. Tình yêu lặng lẽ giữa người tù và cô tiểu thư diễn ra thật nên thơ những cũng rất mạnh mẽ. Tri phủ Lăng Thoái Tư biết được điều đó; lão cố tìm mọi cách để giết Đinh Điển để chiếm đoạt bộ Liên thành quyết - một bí lục mô tả đường đi nước bước của một kho báu trị giá liên thành. Lão bức tử con gái, đặt cô vào quan tài rồi tẩm thuốc độc lên vỏ quan tài, chờ Đinh Điển sa bẫy. Quả nhiên một hôm Đinh Điển nhận ra rằng chậu hoa cúc trên cửa sổ của người tình đã héo úa. biết rằng Lăng Sương Hoa đã gặp điều gì đó chẳng lành, Đinh Điển vượt ngụ, thâm nhập vào tư dinh Lăng Thoái Tu. Thấy tấm bài vị đề “Lăng Sương Hoa ái nữ chi linh vị” trên nắp quan tài, anh đau xót ông lấy quan tài khóc rống lên và lập tức bị trúng độc. Đinh Điển chết, dặn dò lại nghĩa đệ là Địch Vân phải hợp táng xương cốt của anh và Lăng Sương Hoa chung một nơi.



                            Lăng Sương Hoa được chôn trong nghĩa địa phía tây thành Giang Lăng còn Đinh Điển thì chết ở vùng Quan ngoại. Cuối truyện, chàng Địch Vân mang bọc xương cốt của nghĩa huynh Đinh Điển từ ngàn dặm trở lại Giang Lăng, đào mả Lăng Sương Hoa và hợp táng hai người. Anh còn mua hoa cúc, cuốc đất chung quanh mộ rồi trồng cho hai người mấy cụm với ước mong hương hồn họ nhìn thấy bóng hoa và được sống lại với tình yêu cũ. Liên thành quyết có cái buồn và chất thơ lãng mạn xuyên suốt toát ra từ bóng hoa cúc vàng - mối tình của Đinh Điển và Lăng Sương Hoa.

                            Người yêu hoa thì rất quý hoa, xem hoa như là bạn; còn kẻ ghét hoa thì rất giận hoa, xem hoa là thù địch. Đó là trường hợp của Vi Tiểu bào, một tiểu lưu manh bất học vô thuật, may mắn trở thành quan lớn triều Khang Hy (Lộc Đỉnh ký). Vua Khang Hy ra lệnh cho Vi Tiểu Bảo làm khâm sai đại thần, trở về quê quán thành Dương Châu xây dựng toà Trung liệt từ. Nghe đồn Vi Tiểu Bảo là một thiếu niên, tưởng gã là người có tài văn học, các quan ở Dương Châu bèn mời gã vào uống rượu ngâm thơ trong chùa Thiền Trí. Mùa ấy, hoa thược dược đang nở mà thược dược ở Dương Châu và chùa Thiền Trí là thứ hoa tươi đẹp nhất thiên hạ. Nhìn thấy thược dược tươi hơn hớn, Vi Tiểu Bảo tức muốn sôi gan. Nguyên lai, lúc mới lên chín mười tuổi, gã đã từng cùng bọn tiểu lưu manh thành Dương Châu đột nhập chùa Thiền Trí hái trộm hoa thược dược. Một nhà sư nào đó đã rượt cả bọn chạy, Vi Tiểu bảo nhỏ con, chạy chậm bị nhà sư nắm áo éo lại, tát cho một cái. “Mối thù” ấy âm ỉ mãi trong lòng gã nên khi quay về Dương Châu, thấy lại thược dược đại đóa nở phô hồng khoe tía trong chùa Thiền Trí là gã nổi nóng.

                            Gã đặt chuyện nói rằng vua Khang Hy đang nuôi bầy ngựa chiến và ra lệnh cho gã chặt hết thược dược trong thiên hạ để làm thức ăn cho ngựa. Nghe câu nói đó, bá quan văn võ Dương Châu và các nhà sư chùa Thiền Trí đều vỡ mật kinh tâm. Mây mắn là viên tuần phủ Dương Châu học rộng biết nhiều. Viên tuần phủ phải nịnh Vi Tiểu Bảo rằng thược duợc là tượng trưng cho người đàn ông thành đạt, công danh hiển hách; rằng Vi Tiểu Bảo về Dương Châu đúng mùa thược dược mãi khai là điều tốt lành, ngày sau ắt thăng quan tiến chức cao sang không biết bao nhiêu mà lường. Cho nên việc chặt hoa thược dược cho ngựa ăn là chuyện rất uổng. Viên tuần phủ còn ngắt một đóa hoa thược dược kình cẩn gài lên mũ của Khâm sai đại thần và chúc phúc. Quả nhiên lời nói khôn khéo đó của viên tuần phủ đã làm nguôi cơn giận của Vi Tiểu Bảo, cứu được ngàn hoa của chùa Thiền Trí và thành Dương Châu.



                            Kiến thức về hoa của Kim Dung thật phong phú. Loại hoa gì, tính năng ra sao, nở mùa nào, có nhiều ở địa phường nào đều được lý giải một cách cặn kẽ. Mỗi mùa hoa, mang hteo một loại chướng khí. Chướng khí là hậu quả của cây lá rụng xuống ao chằm, rồi bốc lên, tạo thành những dịch bệnh cho con người. Tháng ba âm lịch có Đào hoa chướng, tháng năm chó Lựu hoa chướng, tháng tám có Phù dung chướng. Kim Dung cho biết người Vân Nam vốn yêu hoa trà, coi hoa trà là một loài hoa quý cho nên không lấy tên hoa trà để gọi chướng khí.

                            Hoa làm đẹp thêm cho tác phẩm võ hiệp của Kim Dung, tạo nên chiều sâu cho tác phẩm. Hoa là nới gửi gắm tâm tình con người. Chất thơ tự có trong hoa biến thành chất thơ cho tác phẩm. Đoc Kim Dung càng nhiều lần, ta càng khám phá ra thêm nhiều vẻ đạp, cáng nhận ra làn u hương thuần nhã của hoa.

                            Giòng xuân nước gợn hoa trà trắng
                            Non hạ mây vương trái vải hồng.

                            Có người nói bóng hoa trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là hình ảnh của Hạ Mộng, người tình của ông. Hạ Mộng đã xa ông như lạc hoa lưu thủy. Và tiểu thuyết của ông giàu bóng hoa, hương hoa bởi Hạ Mộng vẫn sống trong trái tim ông.


                            .
                            ----------------------------

                            Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                            Comment

                            • #15

                              KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI : Kiếm luận


                              Kiếm luận

                              Trong chiến tranh cổ điển, kiếm (gươm) là một vũ khí tiện lợi nhất. Tuy không cùng học một loại binh thư nhưng các dân tộc đã biết chung một kinh nghiệm chiến tranh: dùng kiếm để đánh gần và dùng cung để bắn xa. Lịch sử chiến tranh của nhân loại cho biết kiếm được rèn ở thành Baghdad (lúc bấy giờ thuộc Ba Tư - Perse) là loại kiếm danh tiếng nhất, có kỹ thuật rèn cao cường nhất. Và đây là những lưỡi đà kiếm, có hình cong hình lưỡi liềm. Kiếm trong truyện võ hiệp Kim Dung cũng không đi ra khỏi kinh nghiệm ấy. Kiếm quan trọng đến nỗi nhiều khi, những tác phẩm võ hiệp của ông được người đời gọi là truyện kiếm hiệp - truyện về những người hành hiệp cứu đời bằng lưỡi kiếm.



                              Có những tác phẩm của ông đã khắc hoạ vai trò cao cả của lưỡi kiếm. Đó là trường hợp bộ Ỷ thiên Đồ long ký. Trong 5 chữ, thì đã có hai chữ Ỷ thiên là tên gọi của một thanh kiếm báu mà theo tác giả, được đúc bằng thép nguyên chất pha lẫn platin và trong thân kiếm có cất dấu một pho bảo lục: bộ Cửu âm chân kinh.
                              Tiếu ngạo giang hồ cũng là một tác phẩm đồ sộ nói về cây kiếm với những phái sử dụng kiếm gọi là Ngũ nhạc kiếm phái: Thái Sơn, Hành Sơn, Hoa Sơn, Tung Sơn, Hằng Sơn. Bộ Liên thành quyết là một bộ tiểu thuyết viết về một pho kiếm pháp mà bài kiếm quyết là một bài thơ; thầy đã cố dạy sai cho học trò để che dấu lời hướng dẫn đi tìm một kho báu lớn có giá trị liên thành. Ngoài ra, trong 12 bộ tiểu thuyết, luôn luôn xuất hiện người sử kiếm (kiếm sĩ) và kiếm sĩ luôn luôn nhiều hơn những bọn hào sĩ giang hồ sử dụng những loại vũ khí khác.

                              Về mặt chất liệu làm kiếm, Kim Dung nói đến loại kiếm sắt, kiếm gỗ, kiếm vàng và kiếm pha hợp kim. Kiếm thông thường là kiếm sắt nhưng Kim Dung lại thường đề cập đến một loại sắt thép đặc biệt rất bén, chém sắt như chém bùn. Trương Tam Phong, tức Trương Quân Bảo, dùng một cây kiếm gỗ hành hiệp gọi là Chân võ, thành danh và trở thành tổ sư phái Võ Đang. Bọn thầy thuốc như Hồ Thanh Ngưu, Bình Nhứt Chỉ có cây đoản kiếm bằng vàng, chắc là để dùng trong khi mổ xẻ. Đặc biệt, kiếm Ỷ thiên như đã nói là một hợp kim gồm thép và platin và phải dùng đến đao Đồ long chém thì cả đao với kiếm mới cùng gẫy. Bọn đệ tử Minh giáo kiếm được thanh kiếm Ỷ thiên gãy, đã dùng kỹ thuật luyện kim đặc biệt của Ba Tư để ráp kiếm lại và trong động tác ráp nối quyết định, còn thêm cả máu người vào. Chi tiết này thật hoang đường nhưng cực kỳ thú vị, không khỏi khiến bạn đọc nghĩ đến huyền thoại hai thanh kiếm thời Chiến quốc: Can tương và Mạc gia (còn gọi là Mạc tà).

                              Về tính chất, truyện võ hiệp Kim Dung đề cập đến hai loại kiếm: cương kiếm (kiếm rắn) và nhu kiếm (kiếm mềm). Trong Tiếu ngạo giang hồ, Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn Hành Sơn, có cây kiếm mỏng như lá lúa, rút ra cầm tay thì mềm oặt nhưng khi vận công vào thì lưỡi kiếm giương thẳng ra và khi chiến đấu thì kiếm khí phát ra đầu mũi kiếm.

                              Về hình thể, Kim Dung phân ra trường kiếm (kiếm dài) và đoản kiếm (kiếm ngắn). Nhũng nhân vật sử dụng đoản kiếm trong tác phẩm của ông thường là những người có gia số võ công đặc biệt, chuyên đánh cận chiến; chân tay rất linh hoạt. Kiếm bình thường thì thân thẳng. Cá biệt, trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung mô tả nhân vật Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong, một người gù như lạc đà (minh đà) vì có bướu trên lưng; y sử một cây đà kiếm cong cong hình lưỡi liềm. Đúng là đà nhân đà kiếm! Thanh kiếm đặc biệt của Mộc Cao Phong nhắc chúng ta nhớ lại hình ảnh những lưỡi kiếm cong của các đội quân Ả Rập trên sa mạc trong những phim nói về khu vực châu Phi.

                              Kiếm là một loại vũ khí cá nhân nên thường thường bọn hào sĩ sử đơn kiếm. Tuy nhiên cũng có những người chuyên đánh song kiếm. Lại có những cặp anh em, vợ chồng, bạn bè đồng môn sử đơn kiếm nhưng chuyên đánh đôi thành song kiếm hợp bích. Có lối đánh tập thể kết làm kiếm trận. Triết học Đông phương đã đi vào bài bản kiếm pháp với Lưỡng nghi kiếm pháp, trong đó hai người cùng đánh: một người theo chính Lưỡng nghi, một người theo phản Lưỡng nghi. Có chính có phản mới thành hợp bích chẳng khác nào có thèse, có antithèse mới ra được synthèse trong triết học Hy Lạp.

                              Về nguyên tắc sử kiếm, Kim Dung đưa ra Kiếm tông và Khí tông. Kiếm tông chú trọng kiếm chiêu, ra đòn liên miên bất tuyệt để thủ thắng. Khí tông chú trọng nội công, cho rằng nội công cao cường là chỉ đánh một vài chiêu là có thể triệt hạ địch thủ. Đây chính là sự mâu thuẫn trong nội bộ phái Hoa Sơn, khiến phái này tương tranh đến nỗi gần tuyệt diệt.

                              Để có thể sử kiếm, người ta phải học kiếm pháp. Kiếm pháp được hiểu là nguyên tắc hướng dẫn sử một đường kiếm chuyên môn của một phái hay một nhà (gia). Kiếm pháp được cụ thể hoá thành một bài ca và người kiếm sĩ phải học thuộc lòng từng câu, từng chữ. Những câu ca ấy được chép lại trên lụa, trên vải, trên giấy, trên da dê thì được gọi là kiếm phổ. Kiếm phổ chia ra từng chiêu, từng thức; mỗi chiêu thức có nhiều cách biến hoá linh động. Kim Dung đã thực sự đưa người đọc đi vào một thế giới mộng mơ thú vị khi ông đề cập đến những Thái Sơn thập bát bàn, Hành Sơn thập tam thức và lý giải Lưỡng nghi kiếm pháp có 64 thế.

                              Tại sao lại là 64 thế? Ấy là vì Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái (quẻ); trong mỗi quái có 8 lần biến hoá, 8 lần 8 thành 64 thế. Đó là chính Lưỡng. Thế còn phản Lưỡng nghi? Phản Lưỡng nghi là đánh ngược lại những quy tắc của chính Lưỡng nghi, tạo ra một âm một dương, một trên một dưới, một trái một phải, một trước một sau... Thử tưởng tượng một đối thủ phải đấu với một cặp song kiếm Lưỡng nghi! Kim Dung chỉ đặt vấn đề và chúng ta tưởng tượng.

                              Trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung nói đến một thứ kiếm pháp lãng mạn hơn: Độc Cô cửu kiếm do Phong Thanh Dương truyền lại cho Lệnh Hồ Xung. Đây vốn là kiếm pháp của Độc Cô Cầu Bại, chỉ gồm có 9 thức: Tổng quyết thức, Phá kiếm thức, Phá khí thức, Phá thương thức, Phá chưởng thức, Phá tiên thức, Phá đao thức, Phá tiễn thức và Phá côn thức. Với 9 thức đó, Độc Cô Cầu Bại đánh thắng tất cả các địch thủ khiến cho không ai còn dám đến đánh kiếm với ông. Ông rơi vào cô đơn (Độc Cô), chỉ mong được thua một lần (Cầu Bại) mà không ai có thể khiến ông thua được, cuối cùng chết đi trong lặng lẽ!

                              Phong Thanh Dương cắt nghĩa: Độc Cô cửu kiếm đánh theo kiếm ý, nghĩ đến đâu là đánh đến đó, muốn đánh thế nào cũng được, chỉ có công chứ không bao giờ quay về thủ. Hễ địch đánh 100 chiêu, ta đánh 101 chiêu; địch đánh 1000 chiêu, ta đánh 1001 chiêu; liên miên bất tuyệt như nước chảy mây trôi. Lệnh Hồ Xung nghe được thứ kiếm pháp như vậy, anh ta mừng như điên vì tâm tính anh ta vốn lãng mạn. Và trận ra oai đầu tiên của Độc Cô cửu kiếm vừa khiến Lệnh Hồ Xung, vừa khiến chúng ta kinh hãi: Lệnh Hồ Xung mất hết công lực, chỉ sử một chiêu Phá khí thức, đã đâm mù mắt 15 tên ác đồ của phái Tung Sơn!

                              Kiếm nằm trong vỏ là biểu hiện của hoà bình; kiếm rút ra khỏi vỏ là biểu hiện của đấu tranh. Thậm chí với Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi trong Ỷ thiên Đồ long ký, mỗi khi rút kiếm Ỷ thiên ra, kiếm không dính máu là chưa đút vào vỏ. Rút kiếm ra khỏi vỏ, người ta thường bắt kiếm quyết: mũi kiếm hướng lên trời, mũi kiếm chỉ xuống đất, mũi kiếm chỉ ra phía trước, thân kiếm hoành ngang người... Chiêu đầu tiên của những người nhỏ tuổi khi đấu với người trưởng thượng phải là chiêu thi lễ: hai tay đưa thẳng kiếm lên khỏi đầu là Vạn nhạc triều tôn; hai tay nắm lấy đốc kiếm, cả người và kiếm cùng cúi tới trước là Đồng tử bái Quan Âm.

                              Sử kiếm là cả một nghệ thuật. Dương Qua và Tiểu Long Nữ trong Xạ điêu anh hùng truyện sử Ngọc nữ kiếm pháp một cách uyển chuyển mỹ lệ như một cặp múa đôi. Tả Tử Mục, chưởng môn phái Vô Lượng trong Thiên Long bát bộ sử kiếm chém con rắn đang cuốn lấy người học trò, rắn đứt đôi mà da học trò vẫn không xây xát. Ninh Trung Tắc của phái Hoa Sơn sử thế kiếm quyết định đâm vào người học trò là Lệnh Hồ Xung, kiếm vừa chạm đến da, đã chuyển kình lực đâm thẳng thành kình lực bẻ ngang, khiến thanh kiếm gẫy làm nhiều mảnh rơi xuống choang choảng.

                              Trong đường kiếm còn có cả tình yêu đôi lứa. Nhạc Linh San cùng Lệnh Hồ Xung thầm yêu nhau, đã lén cha mẹ luyện môn Xung - Linh kiếm pháp, khi múa lên đôi mắt mơ màng, đôi lòng ấm áp.





                              Vì họ còn rất trẻ nên nghịch ngợm, nghĩ ra ra chiêu Nhĩ tử ngã hoạt (người chết ta sống), tính toán kỹ luồng lực đạo, bộ vị, phương hướng sao cho đâm một lần hai đầu mũi kiếm phải dính vào nhau, hai thân kiếm nối thành một đường thẳng.

                              Những kiếm chiêu trong truyện võ hiệp Kim Dung được ông đặt tên rất hay: Thuận thủy thôi chu (theo nước đẩy thuyền), Lãng tử hồi đầu (người trai ra đi đã quay đầu lại), Thương tùng nghênh khách (tùng xanh đón khách), Trường Giang tam điệp lãng (ba đợt sóng trên sông Trường Giang)... Đôi khi, có những chiêu kiếm phát quá nhanh, máu không kịp chảy. Trong Lộc Đỉnh ký có nhân vật Phùng Tích Phạm mang ngoại hiệu Nhất kiếm vô huyết (một đường kiếm không chảy máu). Nói thì vậy nhưng khi Phùng Tích Phạm đánh Song Nhi, người hầu của Vi Tiểu Bảo, đâm cô một kiếm, máu vẫn chảy ra như thường. Cho nên Vi Tiểu Bảo gọi giễu Phùng Tích Phạm là Bán kiếm hữu huyết (nửa chiêu kiếm đã có máu). Có những chiêu phi kiếm, phóng kiếm bay trong không gian để giết địch thủ. Có những chiêu hoán thủ kiếm: kiếm đang cầm tay phải, đột ngột đổi qua cầm tay trái.

                              Người ỷ có kiếm trong tay chưa chắc đã thủ thắng. Tiểu anh hùng Hồ Phỉ trong Phi hồ ngoại truyện học được phép Không thủ đoạt bạch nhận, chuyên dùng tay không đoạt kiếm kẻ khác. Lệnh Hồ Xung có chiêu dùng ngón tay búng vào sống kiếm đối phương cho kiếm văng đi. Nhậm Ngã Hành phát Phách không chưởng, chưởng lực đủ sức đánh oằn thanh kiếm của địch thủ. Những kiểu mô tả vừa có cơ sở thực tế, vừa không tưởng khiến chúng ta cảm thấy thú vị.




                              Nhưng thú vị nhất có lẽ vẫn là những trận đấu kiếm mà không có kiếm, không dùng kiếm. Vương tử Đại Lý Đoàn Dự đã học được Lục mạch thần kiếm của chùa Thiên Long, nước Đại Lý, dùng kình lực của nội công phát ra 6 ngón tay theo 6 đường Thiếu dương, Thiếu âm, Thiếu xung, Trung xung, Thiếu trạch. Kiếm khí của anh ta đánh cho Mộ Dung Phục tơi tả, hoảng hốt trước hàng vạn đôi mắt quần hùng tụ tập tại chùa Thiếu Lâm.

                              Hai trận đấu kiếm kỳ lạ nhất là hai trận đấu giữa Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đạo trưởng, chưởng môn phái Võ Đang. Lần thứ nhất, dưới chân núi Võ Đang, Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đứng cách nhau cả chục bước, chỉ lấy mắt mà nhìn huyệt đạo của nhau. Ấy vậy mà Xung Hư chịu thua. Lần thứ hai, trong chùa Thiếu Lâm, Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đã rút kiếm ra nhưng Xung Hư chỉ đứng xa Lệnh Hồ Xung và nghĩ ngợi, cuối cùng chịu thua. Ấy là vì cả hai chỉ đấu kiếm ý chứ không đấu kiếm chiêu.






                              Kiếm là vũ khí nhưng những kiếm sĩ không lạm dụng kiếm chiêu để giết người. Đọc văn Kim Dung, ta thường thấy những cụm từ "điểm tới là thôi", "đủ phân thắng bại", “kiếm hạ lưu tình”. Người ta dùng kiếm để họp bạn và những lần gặp gỡ như vậy được gọi là "luận kiếm". Người ta lỡ tay dùng kiếm giết người không khỏi có điều hối hận, đau khổ. Cho nên, đã có những kiếm sĩ của Kim Dung bẻ kiếm bên trời (thiên nhai triết kiếm), đã có những người "rửa tay gác kiếm". Lại có những người treo kiếm lên không dùng tới, dấu kiếm trong cây đàn, để kiếm hoài trong vỏ không rút ra được nữa.

                              Hà Túc Đạo trong Ỷ thiên Đồ long ký được xưng tụng là tam thánh: Cầm thánh, Kỳ thánh, Kiếm thánh nhưng cuối cuộc đời, anh ta quay về đỉnh Kinh Thần Phong ngoài núi Côn Lôn xa xôi vạn dặm, treo cây kiếm lên và lặng lẽ nhớ đến cô bé Quách Tương 19 tuổi. Đã có một lần, Hà Túc Đạo vừa đấu kiếm chống 3 kẻ địch, vừa phóng chỉ vào cây đàn để dưới đất, đàn cho Quách Tương nghe một cầm tấu khúc mới nhất. Quách Tương nghe tiếng đàn và đỏ mặt lên, biết Hà Túc Đạo viết khúc cầm phổ này để tặng cho mình. Họ chỉ gặp nhau một lần ngắn ngủi trong rừng chùa Thiếu Lâm và xa nhau một đời. Làm sao mà cuộc đấu kiếm hung hiểm lại có thể cùng diển ra một lúc với cung đàn thanh thoát, trữ tình? Mặc kệ, Kim Dung cứ viết. Ông đúng là nhà văn lãng mạn, lãng mạn ngay trong đường đao mũi kiếm. Và vì vậy trong tác phẩm võ hiệp của ông, ngay những loại kiếm pháp, kiếm trận hung hãn nhất vẫn luôn luôn lấp lánh những khúc tình ca.
                              Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 12-12-2010, 12:26 AM.
                              ----------------------------

                              Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                              Comment

                              Working...
                              X
                              Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom