• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

DALAT NĂM XƯA

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • DALAT NĂM XƯA

    DALAT NĂM XƯA

    Nguyễn Hữu Tranh

    Ba giờ rưỡi chiều ngày 21-6-1893, bác sĩ Alexandre Yersin đặt chân lên cao nguyên Lang Bi-an, tạo một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển Đà Lạt, góp phần biến Đà Lạt từ một vùng đất hoang sơ của người Lạch thành một thành phố nổi tiếng có tên trong nhiều quyển từ điển bách khoa trên thế giới.

    Hơn một trăm năm đã trôi qua kể từ ngày đáng ghi nhớ này, nhưng hình ảnh của bác sĩ Yersin, của Đà Lạt năm xưa vẫn sống mãi trong tâm tư, tình cảm người Đà Lạt.

    Tìm hiểu về Đà Lạt năm xưa là niềm thích thú của không ít người Đà Lạt và du khách một lần đặt chân lên thành phố trên cao nguyên này. Có hai ngả đường có thể đưa người đọc trở về với Đà Lạt năm xưa qua tư liệu sống do các cụ già người Lạch và người Kinh kể lại và tư liệu viết trong sách báo.

    Với mục đích giới thiệu tư liệu, tập sách Đà Lạt năm xưa do tác giả Nguyễn Hữu Tranh biên soạn đã tóm tắt, lược dịch những tư liệu chính được in trên các tạp chí trong và ngoài nước nửa đầu thế kỷ XX viết về Đà Lạt, về bác sĩ Yersin và lịch sử xây dựng thành phố Đà Lạt từ năm 1893 đến năm 1944, cùng những tư liệu thu thập được sau những chuyến đi điền dã ở xã Lát, xã Tà Nung và tiếp xúc với một số quý vị cao niên sống ở Đà Lạt...

    Trân trọng giới thiệu tập sách Đà Lạt năm xưa cùng bạn đọc trong và ngoài nước.


    LỜI NÓI ĐẦU
    ăm 1993, kỷ niệm 100 năm Đà Lạt hình thành và phát triển, cuốn sách Đà Lạt năm xưa đã được Ban Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lâm Đồng và Công ty Văn hoá Tổng hợp Lâm Đồng xuất bản.

    Rất tiếc, lúc bấy giờ, chúng tôi chưa có điều kiện để viết một số chương.
    Sau những chuyến đi điền dã ở xã Lát (huyện Lạc Dương), xã Tà Nung (thành phố Đà Lạt) và tiếp xúc với một số quý vị cao niên đã sống ở Đà Lạt, sau chuyến đi đến Thành phố Hồ Chí Minh đầu năm 2001 để thu thập thêm tư liệu về Đà Lạt, chúng tôi nhận thấy có thể sửa chữa, bổ sung cuốn sách Đà Lạt năm xưa và biên soạn thêm 3 chương:

    * Trên quê hương người Lạch

    * Thám hiểm thượng lưu sông Đồng Nai

    * Thực vật trên cao nguyên Lang Bi-an.

    Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn:

    * Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt, Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường tỉnh Lâm Đồng đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi thu thập tư liệu về Đà Lạt và hỗ trợ cho chúng tôi để cuốn sách Đà Lạt năm xưa được xuất bản;

    * Ban lãnh đạo và thủ thư Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, các thư viện tại Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Lạt đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi;

    * Ông Pangting Uôk đã đọc bản thảo chương Trên quê hương người Lạch;
    * TS. Phó Đức Đĩnh đã đọc bản thảo chương Thực vật trên cao nguyên Lang Bi-an;

    * Các tác giả chúng tôi đã sử dụng tư liệu;

    * Bạn đọc, bạn hữu đã góp ý, giới thiệu tư liệu để chúng tôi hoàn chỉnh dần tập sách này.

    Đà Lạt 2001
    Tác giả


    *************************************

    Hình ảnh Đà Lạt trước năm 1975


    Ga Đà Lạt, 1970






    Hội trường Hòa Bình năm 1970, nay là rạp 30/4


    Trung tâm Hòa Bình xưa





    Chợ Đà Lạt năm 1968



    Một cây xăng, 1970


    Chợ Đà Lạt năm 1970


    Lối vào chợ Đà Lạt, 1970












    * s/t by SaoLinh / MGP
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 21-05-2010, 01:30 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    TRÊN QUÊ HƯƠNG NGƯỜI LẠCH



    CAO NGUYÊN LANG BI-AN

    chân trời hướng Bắc, dãy núi Lang Bi-an sừng sững hiện ra, tạo hậu cảnh cho thành phố Đà Lạt với hai đỉnh núi cao 2.167m và 2.154m. Dưới chân núi là xã Lát và huyện lỵ huyện Lạc Dương.

    Năm 1899, bác sĩ Étienne Tardif đã leo lên dãy núi Lang Bi-an và viết về cao nguyên Lang Bi-an:

    “Cao nguyên Lang Bi-an là một vùng rộng lớn trải ra xung quanh giao điểm của 106o kinh Đông và 12o vĩ Bắc, có hình dáng một hình en-líp mà đường trục lớn Bắc - Nam dài 18km và đường trục nhỏ Đông - Tây dài từ 10 đến 12km.
    Độ cao thay đổi từ 1.300 đến 1.550 và 1.600m.
    Đỉnh núi cao nhất của dãy Lang Bi-an án ngữ cao nguyên Lang Bi-an về hướng Bắc. Về các hướng khác, những chỏm núi dài và cao bao bọc cao nguyên Lang Bi-an.

    Khi nhìn thấy cao nguyên Lang Bi-an, điều đập mạnh vào mắt tôi trước tiên là địa hình. Cả một vùng rộng lớn gồm nhiều ngọn đồi nằm kề bên nhau, nối tiếp nhau, chế ngự lẫn nhau, sườn đồi này dốc thẳng đứng, sườn đồi kia nằm thoai thoải trên mặt đất. Những thung lũng rộng và sâu nhiều hay ít chia cắt núi đồi dợn sóng, len vào giữa là con đường nối liền Đăng Kia (Dankir, Dankia) với Đà Lạt.
    Cả vùng đồi núi này đều phủ một lớp cỏ ngắn vào mùa khô, cao và dày vào mùa mưa.

    Trong thung lũng mọc nhiều loài thực vật khác nhau, lau sậy và trên vài sườn đồi có những đám thông và tùng.
    Dòng nước chảy theo nhiều lối, có khi là những dòng suối nước chảy xiết, có khi là những ao hồ sâu ẩn mình dưới một lớp thảo mộc rậm rạp.



    Hình dáng mấp mô của cao nguyên thật là lạ lùng! Tôi leo lên một trong năm đỉnh núi. Một cảnh quan kỳ diệu hiện ra trước mắt tôi. 150 đồi núi xanh rờn giống như một thúng cam khổng lồ.

    ... Tôi nhận thấy gió trên cao nguyên thổi vào tháng 6 từ Bắc sang Đông và thổi dữ dội từ Đông sang Tây vào tháng 11, trong mùa lạnh.
    Cuối cùng, không thể nào quên một nét đẹp thật mê hồn trên cao nguyên bao la này: Ăn Krô-ét (Ankroët) với rừng thông mênh mông và thác nước kỳ lạ cao 15m, nước tuôn xối xả. Rất tiếc, vị trí nơi đây quá hẹp không cho phép xây dựng những công trình quan trọng.”



    Theo các nhà địa chất, núi Lang Bi-an hình thành do vận động tạo sơn nhưng theo truyền thuyết của người Lạch (Lat, Lạt, Làc, M’ Lates,...) và người Srê (Xrê, Sré), núi Lang Bi-an do một con heo rừng tạo nên.

    NGƯỜI LẠCH

    Từ xa xưa, trên cao nguyên Lang Bi-an có hai tộc người Chin và Lạch cùng sinh sống, nhưng đông nhất là người Lạch.

    Người Chăm gọi người Lạch, Chin, Srê là Cơ-ho (Cơ Ho, Kơho, K’ Ho) có nghĩa là người miền núi.
    Người Lạch sử dụng ngôn ngữ Môn - Khơ-me như người Ba-na, Stiêng, M’ Nông và một số dân tộc ít người khác trên Tây Nguyên.



    Buôn Prền



    Trong một làng người Lạch

    Hiện nay, người Lạch sống tập trung tại xã Lát (huyện Lạc Dương). Năm 1989, xã Lát có 395 hộ với 4.915 người Lạch. Xã Tà Nung (thành phố Đà Lạt) có khoảng trên 300 người Lạch.




    Dừng chân


    Thiếu nữ Lạch

    Tuy y học còn thô sơ nhưng người Lạch biết sử dụng cây thuốc để chữa bệnh. Trong một số trường hợp, họ phải cúng bái. Người phụ trách cúng bái là thầy cúng (gru) nam hay nữ phục vụ cho nhiều buôn. Thông qua các vị thần linh, thầy cúng xác định bệnh tình, cho biết tên thần linh gây bệnh và lễ vật phải cúng tế.

    Cuối thế kỷ XIX, bác sĩ Étienne Tardif đã được dân làng mời đến thăm một người dân bị bệnh nặng ở Bon Dơng gần Đăng Gia trên cao nguyên Lang Bi-an kể lại:

    “Khi đến nhà, tôi thấy trên chòi đầu và chân một con trâu vừa mới bị giết. Người ta cho tôi biết đây là con trâu thứ ba cúng thần linh từ khi bệnh bắt đầu. Vào trong nhà, khói lửa cúng thần linh xông lên khó chịu. Quanh ngọn lửa, dân làng ăn và uống rượu. Thỉnh thoảng, một người kéo một sợi dây cột vào mái nhà làm cho những chiếc bùa và lục lạc vang lên. Cùng lúc trống chiêng đánh lên và người trong nhà la hét để xua đuổi ma quỷ đang nhập vào xác người bệnh. Bệnh nhân bị sốt rét nặng nằm cạnh đống lửa.
    Khi một người trong làng chết trong một thời gian ngắn do một căn bệnh không rõ, dân làng dời buôn sang nơi khác.”


    Nhà mồ người Lạch


    ĐẠ LẠCH

    Theo một số cụ già người Lạch, suối Cam Ly chảy qua thành phố Đà Lạt có 3 đoạn mang 3 tên khác nhau:
    - Từ thượng nguồn đến ao Pàng Đờng (Tơnau Pàng Dòng) ở vị trí hồ Than Thở ngày nay, dòng suối mang tên Dà Pàng Dòng (Pàng: ông; Dòng: lớn);
    - Từ ao Pàng Đờng đến thác Liêng Tô Sra (nay là thác Cam Ly), dòng suối mang tên Đạ Lạch (Dà Làc);
    - Từ thác Liêng Tô Sra đến sông Đạ Đờng, dòng suối mang tên ông Mlơi (K’ Mlơi).

    Về sau, K’ Mlơi nói trại thành Cam Ly, Đạ Lạch thành Đà Lạt.

    Đạ (dà) chỉ chất lỏng và có nhiều nghĩa:
    - nước (Anh nhô dà : tôi uống nước);
    - suối (Dà K’ Mlơi : suối Cam Ly);
    - dòng nước (Dà Dờng : dòng nước lớn, sông);
    - dầu (Dà ồs : dầu lửa);
    - nhựa (Dà chi : nhựa cây);
    -...

    Trong nhật ký ngày 21-6-1893, bác sĩ Yersin không ghi tên buôn Đạ Lạch, chỉ ghi tên buôn Đăng Kia. Đăng Kia là buôn lớn nhất trên cao nguyên Lang Bi-an lúc bấy giờ.

    Trên bản đồ Đông Dương in trong hồi ký của Toàn quyền Paul Doumer không thấy ghi Dalat nhưng có địa danh Dangkia. Năm 1881, bác sĩ Paul Néis đã lên cao nguyên Lang Bi-an và cho biết trong hai ngày 16-3-1881 và 7-4-1881 ông đã đến làng Lạch (village de Late).

    Năm 1899, bác sĩ Tardif từ trên dãy núi Lang Bi-an đã nhìn thấy:

    “Hình dáng mấp mô của cao nguyên thật là lạ lùng! Tôi leo lên một trong năm đỉnh núi. Một cảnh quan kỳ diệu hiện ra trước mắt tôi. 150 đồi núi xanh rờn giống như một thúng cam khổng lồ. Trong vùng núi đồi trùng điệp có vài làng mạc: ở phía Nam, Đà Lạt (Dalat); hơi chếch về hướng Tây, Đăng Gia (Dang Gia) và Ăn Krô-ét (Ankroet); dưới chân núi, Bờ Nơ (Beneur). Xa xa, về hướng Đông là dãy núi Nha Trang; về phía Nam, hoành sơn của thung lũng sông Đồng Nai; về phía Tây và Tây Nam, những đỉnh núi cao của Căm-pu-chia

    Năm 1905, trong một dịp lên cao nguyên Lang Bi-an để thay đổi không khí, bà Gabrielle M. Vassal (Ga-bri-en-lơ M. Vát-xan) đã viết về cao nguyên:

    “Vào khoảng giữa trưa, tôi thấy cao nguyên lần đầu tiên. Thật là một sự phát hiện bất ngờ, khác với những gì trước đây tôi đã từng nghĩ! Trên một vùng đất rộng là những ngọn đồi tròn, nhỏ, trơ trụi, mọc đầy cỏ thấp, cùng hình dáng và độ cao, quang cảnh giống như một vùng biển gợn sóng xanh. Ở giữa, những đỉnh núi Lang Bi-an cao vòi vọi như hòn đảo đá. Đăng Kia (Dankia) nằm ở dưới chân núi Lang Bi-an, ở phía bên kia cao nguyên. Cao nguyên bình yên và êm dịu quá! Chỉ có thông mọc trong những thung lũng giữa các ngọn đồi.
    Xa xa, những mái nhà gỗ ở Đà Lạt (Dalat) nằm cách xa nhau trên đỉnh hay lưng chừng đồi lấp lánh dưới ánh mặt trời”.

    Trong bản báo cáo về chuyến khảo sát bệnh sốt rét trên cao nguyên Lang Bi-an từ ngày 16-7 đến ngày 2-9-1905, bác sĩ Vassal công tác tại Viện Pasteur (Pa-xtơ) Nha Trang có nhắc đến các làng: Dalat, Dankia, Beneur, Ankroet, Numbor.

    * Đầu thế kỷ XX, ở Đà Lạt có nhiều buôn ở các địa điểm hiện nay là: Bệnh viện Đa khoa Lâm Đồng, gần thác Cam Ly, đường Phan Bội Châu,... buôn lớn nhất là Bon Yộä ở trên đồi Trường Cao đẳng Sư phạm hiện nay. Vì ở gần suối Đạ Lạch nên Bon Yộ còn gọi là Bon Đạ Lạch (Bon Dà Làc).

    Cư dân buôn Đạ Lạch trồng lúa nước dọc theo suối Đạ Lạch. Năm 1919, Hồ Lớn (hồ Xuân Hương ngày nay) được xây dựng, ruộng lúa nằm trong lòng hồ, người Lạch ở buôn Đạ Lạch phải dời đến Bon Rơhàng Kròc (Rơhàng: buôn cũ; kròc: cam; plê kròc: trái cam; người Pháp phiên âm là Ankroet). Đến năm 1942, khi xây dựng đập Suối Vàng, người Lạch lại phải dời đến buôn Đơng Tiang Đe (Tiang: đuôi, đe: con chuột) ở trung tâm huyện Lạc Dương hiện nay.

    Theo ý kiến này, Đà Lạt không những mang tên dòng suối Đạ Lạch nhưng còn mang tên buôn Đạ Lạch như thành phố Buôn Ma Thuột (Buôn: làng; Ama: cha; Thuột: tên người con), Plây Cu (Plei: buôn làng; ku: đuôi) hay các thị trấn: Đạ M’Ri (dà: nước, suối,...; tam: trong; bri: rừng), Đắc Nông (Đắc Lắc), Đắc Sút, Đắc Tô (Công Tum),...

    NGƯỜI KINH TRÊN CAO NGUYÊN LANG BI-AN

    Ngày xưa, Lâm Đồng nói chung, cao nguyên Lang Bi-an nói riêng vẫn còn rất hoang vu.

    Năm 1877, trong thời gian làm Dinh điền sứ tỉnh Bình Thuận, Nguyễn Thông (1826 - 1894) - một sĩ phu yêu nước - đã tổ chức thám hiểm vùng đất giữa ba con sông: La Ngà, Đạ Hu-oai và Đồng Nai với dự định lập đồn điền khai khẩn vùng thượng du. Ông đã phái Nguyễn Văn Trị, Sĩ Văn Long, Dương Văn Long và Hoàng Phú đến sông Đạ Đờng để xem xét tình thế. Trong tờ sớ dâng lên vua Tự Đức ngày 11 tháng 8 năm Tự Đức thứ 30 (17-9-1877), ông viết:

    “Ngày mùng 8 tháng 6 thì đến sông lớn Đạ Đưng, rộng khoảng năm sáu mươi trượng, nước đục ngầu, giữa có đảo dài. Người Man gọi nước là “đạ”, lớn là “đưng”, cũng như người Việt nói là “sông lớn”. Đạ Đưng, người Việt gọi là sông Dã Dương, hạ lưu là sông lớn Thần Quy. Từ sách Man Mê-pu đi đến sông Tô Sạ, dọc đường phần nhiều là núi cao, từ Côn Hiên đến sông Đạ Đưng đều là đất bằng, địa thế rộng rãi, khoảng khoát, có thể khám xét để lập đồn điền khẩn hoang.”[2, 197]

    Cao nguyên Lang Bi-an là một vùng ma thiêng nước độc, người Kinh không dám định cư bên kia sông Krong Pha, chỉ dừng lại ở Xóm Gòn (gần Krong-pha, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận hiện nay) vì cọp beo, rắn rết và nhất là bệnh sốt rét rừng.

    Ông Canivey (Ca-ni-vây) là một người Pháp đã sống trên cao nguyên Lang Bi-an để thu thuế.
    Năm 1905, trong bữa ăn trưa ở nhà ông Canivey tại Đà Lạt, bà Gabrielle M. Vassal đã được nghe vợ chồng ông Canivey kể một câu chuyện về cọp xảy ra 4 năm về trước:
    “Hôm ấy, cách nhà không xa, vợ chồng ông Canivey thấy một con cọp ở bìa rừng. Ông Canivey giơ súng lên bắn. Con cọp bị thương gầm thét chạy vào rừng. Một người lính Việt xách súng cùng ông đuổi theo. Xuyên qua cành cây, bà Canivey thấy con cọp dùng hai chân trước vồ vào vai của chồng bà và ngậm khẩu súng. Người lính tiến gần lại và nổ súng vào đầu con cọp. Con vật rống lên và ngã quỵ xuống đất. Bà Canivey chạy đến, thấy chồng bà máu me đầy mình. Ông đi bộ về nhà, nhưng lúc bấy giờ không có bác sĩ, ông phải nằm mê man mấy ngày liền. Bà vẫn còn hãi hùng khi nghe cọp gầm về đêm.”

    Năm 1907, chồng bà Gabrielle - bác sĩ J.J.Vassal - cho biết:
    “Người Kinh chưa định cư trên những vùng cao của dãy Trường Sơn. Ở Đà Lạt có một nhóm 60 đến 80 người Kinh, hầu hết là những người đi buôn chuyến. Họ sống trong những điều kiện rất khổ cực, mặc ít áo quần như ở vùng đồng bằng, bị lạnh, thiếu dinh dưỡng và không có gia đình. Từ Phan Rang hay Phan Thiết lên cao nguyên, với những gánh hàng hoá, họ đi ngang qua những làng mạc đầy nước độc, những vùng rất nguy hiểm và mắc phải bệnh sốt rét


    ********************************

    Hồ Than Thở

    Cách trung tâm Đà Lạt khoảng 5,5 km về phía Bắc theo trục đường Quang Trung - Hồ Xuân Hương . Từ lâu hồThan Thở đã trở nên nổi tiếng với 2 câu thơ “Đà Lạt có thác Cam Ly, có hồ Than Thở người đi sao đành”.

    Sở dĩ nổi tiếng là vì hồ nằm gần trường Võ bị quốc gia Đà Lạt (nay là Học viện Lục quân) và gắn liền với một thời hoàng kim của trường vào thập niên 50, đầu thập niên 60 cứ ngày nghỉ, lễ, chủ nhật là gia đình của các học viên và người yêu kéo đến gặp nhau vui chơi ở đây.









    Trước đây vùng hồ Than Thở có một cái ao gọi là Tơnô Pang Đòng. Vào năm 1917, người Pháp đắp đập xây dựng hồ chứa nước cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố Đà Lạt. Người Pháp đặt tên hồ là Lac des Soupirs với nghĩa thứ hai (tiếng rì rào), nhưng khi dịch sang tiếng Việt lại dịch theo nghĩa thứ nhất: hồ Than Thở. Vào lúc bình minh, sương mù bao phủ mặt hồ, tạo nên một bức tranh thủy mạc tuyệt đẹp, nên sau năm 1975 hồ Than Thở còn mang tên hồ Sương Mai


    Tại điểm hồ Than Thở có một đôi cây thông yêu nhau rất lạ ở phía Bắc của hồ tạo thành một đôi “tình nhân” thông quấn quýt bên nhau không rời và du khách có thể đến đó chụp hình lưu niệm. Đồi thông ở hồ Than Thở dường như cũng đẹp hơn các nơi khác vì thông thưa hơn, cao đều hơn nên khi ánh nắng mặt trời rọi xuống ngả bóng trên thảm cỏ rất đẹp.


    Cho đến nay vẫn còn một câu chuyện Thảo - Tâm gắn liền với sự tích Đồi thông 2 mộ từ thời kỳ đó. Hiện vẫn còn một ngôi mộ của người con gái xấu số tên Thảo lạnh lẽo ở Đồi thông 2 mộ (từ ngoài vào phía tay trái khu du lịch).


    Xa xưa nữa, nơi đây gắn với câu chuyện tình của Hoàng Tùng và Mai Nương. Chuyện xảy ra vào thế kỷ 18. Khi người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ dấy binh đánh đuổi bọn xâm lược nhà Thanh, trai tráng khắp nơi hưởng ứng, trong đó có Hoàng Tùng. Trước khi chia tay, hai người rủ nhau ra bên bờ than thở hẹn thề. Chàng hẹn đến mùa xuân - khi Mai anh đào nở sẽ đem tin thắng trận trở về. ở nhà, Mai Nương được tin Hoàng Tùng tử trận nên nàng đã quyết định gieo mình bên dòng suối tự trầm. Nhưng trớ trêu thay, đến giữa mùa xuân Hoàng Tùng thắng trận trở về, chàng vô cùng đau buồn khi biết người yêu đã chết.


    Mấy năm sau triều đại Tây Sơn sụp đổ, Gia Long trả thù những người có công với triều Tây Sơn nên Hoàng Tùng đã tự vẫn bên hồ để được hạnh phúc với người yêu nơi chín suối. Từ đó hồ có tên là Than Thở cho đến ngày nay.


    *******************************

    Hồ Xuân Hương

    Hồ Xuân Hương là một hồ đẹp nằm giữa trung tâm thành phố Đà Lạt. Xung quanh hồ có rừng thông và các bãi cỏ, vườn hoa. Đây là địa điểm du khách ưa thích đi dạo bộ hoặc xe ngựa khi đến tham quan thành phố Đà Lạt. Hồ Xuân Hương là hồ nhân tạo, rộng chừng 5km. Hồ có hình trăng lưỡi liềm kéo dài gần 7 km đi qua nhiều địa danh du lịch của thành phố Đà Lạt như: Vườn hoa thành phố, Công viên Lê Nin, Đồi Cù,...





    Xuất xứ tên gọi


    Giả thiết 1
    • Xuất xứ tên gọi Hồ Xuân Hương là vì hồ vào mùa xuân có mùi thơm của cây cỏ xung quanh hồ hòa quyện nên một mùi hương thoang thoảng nên gọi là Hồ Xuân Hương.
    Giả thiết 2
    • Hồ được mang tên Xuân Hương từ năm 1953 như muốn làm sống mãi hình ảnh lãng mạn của nữ sĩ thơ Nôm nổi tiếng Việt Nam thế kỷ thứ 19: Hồ Xuân Hương
    Lịch sử
    Hồ Xuân Hương nguyên là thung lũng có dòng suối Cam Ly chảy qua, nơi quần tụ của các cư dân Lạch buổi ban đầu. Năm 1919, từ sáng kiến của viên công sứ Cunhac, kỹ sư công chánh Labbé đã tiến hành việc ngăn dòng suối làm thành hồ. Năm 1923, chính quyến đương thời lại cho xây thêm một đập phía dưới tạo thành 2 hồ. Tháng 3 năm 1932, một cơn bão lớn làm cả hai đập bị vỡ. Năm 1934 - 1935, kỹ sư Trần Đăng Khoa lại thiết kế, xây dựng một đập lớn bằng đá: đó là cầu ông Đạo ngày nay. Người Pháp đặt tên là Grand Lac (Hồ Lớn).


    Đập này nằm trước Dinh Quản Đạo mà vị Quản đạo bấy giờ là Phạm Khắc Hòe vẫn được dân địa phương xưng gọi "ông Đạo" nên khi đập cũng là cầu xây xong, người dân quen gọi là "Cầu Ông Đạo". Năm 1953, Nguyễn Vỹ, chủ tịch hội đồng thị xã, đề nghị đổi tên Grand Lac thành Hồ Xuân Hương. Mấy chục năm qua, Hồ Xuân Hương là tấm gương trong của thành phố đã làm tăng thêm vẻ yêu kiều, duyên dáng cho Đà Lạt sẽ đơn điệu, cô quạnh và lạc lõng với những rừng thông bạt ngàn.





    **********************************


    Hồ Đa Nhim - Đèo Ngoạn Mục

    Hồ Đa Nhim thuộc thị trấn Đran huyện Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng nên thường gọi là hồ Đơn Dương, cách thành phố Đà Lạt( về phía Phan Rang và Ninh Thuận) khoảng gần 40km. Diện tích mặt hồ là 9,7km², ở độ cao xấp xỉ 1.042m






    Hồ thủy điện Đa Nhim






    Toàn cảnh Hồ Đa Nhim là sự kết hợp tuyệt vời giữa non nước, trời mây tạo nên một thắng cảnh tuyệt vời cho miền đất Đà Lạt thu hút nhiều du khách đến tham quan.


    Hồ Đa Nhim là một công trình độc đáo của Đông Nam Á do người Nhật thiết kế. Từ xa xa cách gần cả mấy cây số, nhìn về hồ du khách có thể nhìn thấy hai đường ống rất lớn chạy song song nhau, dài khoảng gần 2km để dẫn nước từ trên núi xuống nhà máy nằm dưới chân đèo.




    Hai đường ống dẫn nước chạy dài từ trên núi xuống chân đèo





    Tại nơi hợp lưu giữa sông Đa Nhim và sông Kronglet là một cái đập dài 1.460m với chiều ngang đáy đập 180m, mặt đập rộng 6m, cao gần 38m. Du khách sẽ ngạc nhiên hơn nữa khi nhìn xuống đáy hồ, tại chỗ này người ta xây dựng một đường hầm thủy áp dài tới 5km, rộng 3,5km chạy xuyên qua lòng núi đá graint đưa nước sông Đa Nhim từ sườn đông về sườn tây đến đầu dốc Eo Gió.

    Không chỉ là một thắng cảnh đẹp hồ Đa Nhim còn là nơi cung cấp thủy điện lớn cho các tỉnh lân cận như Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa. Khách đến tham quan cảnh đẹp thiên nhiên hồ Đa Nhim còn có dịp tìm hiểu về công trình nhà máy thủy điện Đa Nhim được xây dựng ngay trên hồ. Đây là một công trình thủy điện lớn của Việt Nam được xây dựng từ năm 1962 đến 1964.

    Gần đó có một địa điểm tham quan nổi tiếng của Việt Nam là đèo Ngoạn Mục hay còn gọi là đèo Sông Pha thuộc địa phận của tỉnh Ninh Thuận-một trong những đèo núi đẹp nhất Việt Nam. Đèo nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ và cao nguyên Đà Lạt, ở độ cao hơn 1.000m so với mực nước biển, dài 18,5km với con đường vừa uốn lượn vừa gấp khúc, đặc biệt có đoạn cua gần như là một vòng tròn khép kín. Do vậy đây cũng là đèo có độ dốc lớn nhất ở các tỉnh phía nam.


    Đèo Ngoạn Mục



    Từ trên đèo nhìn xuống thấy bờ vực sâu thẩm, dốc đứng. Đứng trên đèo này, du khách có thể nhìn thấy toàn cảnh nhà máy thủy điện Đa Nhim, thấy đường bờ cát trắng dài và phong cảnh nên thơ của hồ. Ở tít xa xa, thấp thoáng là đồng bằng của Phan Rang và dòng sông Cái một màu xanh biếc. Đèo Ngoạn Mục là một bức tranh hài hòa vói những suối thác cắt ngang vách núi và hệ thực vật khá đa dạng phong phú.

    Với vẻ đẹp quyến rũ của hồ, theo dự án nơi đây sẽ xây dựng khu du lịch sinh thái rừng hồ Đa Nhim(theo dự án là từ năm 2008-2013). Đây là khu du lịch sinh thái, lịch sử, văn hóa, du lịch vui chơi giải trí lớn của Việt Nam trong tương lai.

    Nguồn: Link


    ******************************

    Ga Đà Lạt

    Ga Đà Lạt là nhà ga tàu hỏa của thành phố Đà Lạt. Đây được xem là nhà ga cổ kính nhất Việt Nam và Đông Dương. Nhà ga được người Pháp xây dựng từ năm 1932 đến 1938 thì hoàn thành, là nhà ga đầu mối trên tuyến Đường sắt Phan Rang-Đà Lạt dài 84 km. Nhà ga có phong cách kiến trúc độc đáo, có ba mái hình chóp, là cách điệu ba đỉnh núi Langbiang hoặc nhà rông Tây Nguyên.


    Nhà ga đã được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Nhà ga hiện đang là điểm tham quan du lịch hấp dẫn của thành phố Đà Lạt. Tuyến đường sắt duy nhất hiện nay nhà ga còn phục vụ chính là tuyến Thành Phố Đà Lạt – Trại Mát dài 7km đưa du khách đến với Trại Mát và chùa Linh Phước.


    Lịch sử
    Theo một tư liệu lịch sử cho biết dự án xây dựng tuyến đường sắt từ Tháp Chàm đi Đà Lạt được toàn quyền Paul Doumer phê duyệt và khởi công xây dựng từ năm 1908, đến năm 1922, Công ty thầu khoán Á Châu được ủy nhiệm nghiên cứu làm đoạn đường xe lửa răng cưa Kroongpha - Dran theo kiểu Thụy Sỹ, với đoạn đường sắt răng cưa dài khoảng 10km, vượt độ cao 1.000m của đèo Sông Pha với độ dốc 12% để đến đất Dran của Lâm Đồng.


    Kể từ khi có nhà ga Đà Lạt thì số lượng khách du lịch đến với thành phố du lịch và nghỉ dưỡng ngày càng nhiều. Khi đó, trên mỗi chuyến tàu, ngoài toa vận chuyển hàng hóa còn có 3 toa chở khách, và những toa chở khách này cũng được phân ra theo 3 hạng khác nhau.


    Sau khi người Pháp rời Việt Nam, việc chạy tàu từ Đà Lạt đi Tháp Chàm vẫn được duy trì. Đến thời Mỹ chiếm đóng, tuyến đường sắt này chủ yếu phục vụ việc vận chuyển thiết bị cho chiến tranh nên đã bị quân giải phóng cắt đứt và nhà ga này ngừng hoạt động năm 1972. Có 3 tuyến đường được khai thác lúc bấy giờ là : Tháp Chàm - Đà Lạt - Nha Trang; Tháp Chàm - Đà Lạt; Sài Gòn - Tháp Chàm - Đà Lạt đều đều lăn bánh. Đến năm 1972, khi chiến tranh trở nên ác liệt, tuyến đường sắt này buộc phải ngưng hoạt động.Sau giải phóng, tuyến đường sắt này được khôi phục và chính thức kéo còi vào ngày 19-5-1975, nhân kỷ niệm ngày sinh nhật Bác.


    Mô tả
    Công trình do hai kiến trúc sư người Pháp là Moncet và Reveron thiết kế. Người thi công công trình là thầu khoán Võ Đình Dung, với kinh phí xây dựng là 200.000 france.
    Hình dáng nhà ga giống núi Langbiang hùng vĩ, với chiều dài 66,5m; chiều ngang 11,4m và chiều cao 11m. Nếu đem so sánh, kiến trúc Ga Đà Lạt tựa như nhà ga miền Nam nước Pháp với phần nhô ra từ nóc và thụt vào phía chân theo hướng thẳng đứng. Nhà ga có 3 chóp nhọn, tượng trưng cho núi Langbiang – đỉnh núi cao nhất vùng. Phía trước còn có mặt đồng hồ to ghi lại thời gian mà bác sĩ Yersin đã phát hiện ra Đà Lạt.








    Tuyến đường sắt nhà Ga xây dựng từ năm 1932 là đường ray và đầu máy răng cưa. Tuyến đường dài 84km và 16km đầu máy. Lúc bấy giờ, đường ray răng cưa và đầu máy răng cưa được xem là độc đáo nhất thế giới. Vì phải lên Đèo Ngoạn Mục để có thể lên thành phố Đà Lạt. Tuyến đường sắt phải xây dựng qua nhiều hầm chui, phía sau phải có đầu tàu đẩy. Các kiến trúc đã xây dựng đường ray ròng rã suốt 10 năm và phải tốn chi phí cao gấp 2, 3 lần bình thường.


    Đường sắt răng cưa Sông Pha-Đà Lạt được thiết kế theo kiểu Thuỵ Sĩ. Đường sắt có 3 đường ray. Một nằm giữa được thiết kế có răng cưa để tàu có thể leo dốc an toàn. Đây là kiểu đường sắt chỉ có ở Đà Lạt và Thuỵ Sĩ. Hiện nay, cả tuyến đường sắt Đà Lạt không còn dấu tích các đoạn răng cưa.


    Du lịch
    Nhà ga Đà Lạt hiện nay đã không còn sử dụng để vận chuyển mà là nhà ga phục vụ du lịch. Với tuyến đường 7km, tàu sẽ đưa du khách khám phá phố núi. Tuy chạy tốc độ rất chậm và đầu tàu kêu to, thế nhưng, đây chính là điểm hấp dẫn của nhà ga phục vụ du khách tham quan ngắm cảnh trên đường đi. Điểm cuối cùng khách tham quan là Chùa Linh Phước – hay chùa Ve Chai – một kiến trúc Phật Giáo đặc sắc và cùng khám phá thị trấn Trại Mát.


    Kỷ lục
    • Ga Đà Lạt của thành phố Đà lạt được xem là nhà ga độc đáo với các kỷ lục:
    • Nhà ga cao nhất.
    • Nhà ga cổ nhất cùng với ga Hải Phòng
    • Đầu tàu chạy bằng hơi nước duy nhất chỉ có ở Đà Lạt.
    • Nhà ga độc đáo nhất.
    • Nhà ga đẹp nhất Việt Nam.
    *********************************

    Nhà thờ Chính tòa Ðà Lạt (Nhà thờ Con Gà)

    Nhà thờ Chính tòa Ðà Lạt là một trong những nhà thờ công giáo ở Việt Nam có tên gọi khác là nhà thờ Con Gà vì trên đỉnh tháp chuông có hình con gà lớn. Đây là nhà thờ lớn nhất thành phố Đà Lạt một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu và cổ xưa nhất của Ðà Lạt do người Pháp để lại. Nhà thờ nằm trên đường Trần Phú (gần khách sạn Novotel) thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam.




    Lịch sử


    Lịch sử Nhà thờ chính tòa Đà Lạt gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Đà Lạt.


    Cùng với bác sỹ Alexandre Yersin khám phá ra Đà Lạt, có linh mục Robert thuộc Hội Linh mục Thừa sai Paris (MEP) vào năm 1893. Đến 1917, linh mục quản lý của MEP tại Viễn Đông là cha Nicolas Couveur đã đến Đà Lạt với mục đích tìm nơi nghỉ dưỡng cho các giáo sĩ, và đã cho xây dựng một dưỡng viện giáo đồ nay là một phần của nhà xứ. Vào cuối tháng 4, 1920, Giám mục Quinton (Giám quản Tổng tòa tại Sài Gòn) ban quyết định thành lập Giáo phận Đà Lạt.


    Ngày 10 tháng 5, 1920, linh mục Frédéric Sidot là cha xứ đầu tiên của giáo sở Đà Lạt. Cha Sidot đã cho xây dựng ngôi thánh đường “HIC DOMUS EST DEI” dài 24m, rộng 7m và cao 5m. Nhà thờ này được gắn liền với cánh bên tả dưỡng viện giáo đồ mà cha Nicolas đã cho xây. Cửa chính của nó được cấu trúc theo hình vòng cung nhọn, riêng phần chạm trổ và sơn son thiếp vàng thì theo kiểu Á Đông. Trên vòng cung của cửa chính, có khắc dòng chữ tiếng la tinh “HIC DOMUS EST DEI” (đây là nhà của Thiên Chúa).


    Ngày 5 tháng 7, 1922, Giám mục Quiton ban quyết định cho phép Giáo phận Đà Lạt xây một nhà thờ mới: rộng 8m, dài 26m có một tháp chuông cao 16m. Công trình được khánh thành vào ngày 17 tháng 2, 1923. Trên tháp có treo 4 quả chuông do hãng Pacard thuộc tỉnh Savoie (Pháp) chế tạo. Công trình này hiện nay không còn tồn tại.


    Nhà thờ chính tòa Đà Lạt hiện nay được chính thức khởi công vào 9 giờ sáng chủ nhật ngày 19 tháng 7, 1931 do giám mục Colomban Dreyer (khâm sứ Toà Thánh tại Đông Dương và Thái Lan) đặt viên đá đầu tiên. Được xây theo đồ án của linh mục Céleste Nicolas, cha sở lúc bấy giờ.




    Công trình được xây dựng trong suốt 11 năm. Quá trình xây dựng được chia làm 3 đợt như sau:
    • Đợt 1: Xây dựng gian cung thánh, hậu tẩm, 2 gian cánh,hoàn tất vào ngày 30 tháng 3, 1932.
    • Đợt 2: Xây dựng 2 gian giữa và đặt chân móng cho các tháp chuông.
    • Đợt 3: Xây dựng tháp chuông chính, 2 tháp chuông phụ, cầu thang xoắn trôn ốc. Ngày 14 tháng 11, 1934, đặt thánh giá trên đỉnh tháp chuông chính. Ở đỉnh tháp có gắn một con gà bằng đồng dài 0,66m, cao 0,58m. Vào tháng 2, 1942, tổ chức nghi thức làm phép và đặt 14 chặng đàng thánh giá trong gian chính của tòa nhà.
    • Nhà thờ khánh thành ngày 25 tháng 1, 1942.
    Kiến trúc
    Nhà thờ Con gà được thiết kế theo “kiểu mẫu” của các nhà thờ Công giáo Rôma ở châu Âu, tiêu biểu cho trường phái kiến trúc Roman.


    Mặt bằng nhà thờ theo hình chữ thập (giống thánh giá) có chiều dài 65m, rộng 14m, tháp chuông cao 47m. Với độ cao đó, từ tháp chuông của nhà thờ có thể nhìn thấy mọi nơi của thành phố. Cửa chính của nhà thờ hướng về núi Langbiang.


    Nội thất thánh đường gồm 3 gian: 1 gian lớn ở giữa và 2 gian nhỏ ở hai bên. Mặt cắt công trình thể hiện rõ hệ cuốn theo dạng cung nguyên với dãy cuốn và hệ vòm nôi. Các cột trong nội thất có hệ đầu cột mô phỏng dạng cổ điển kết hợp với tự phát. Cả mặt bằng và mặt đứng đều được thiết kế đối xứng nghiêm ngặt theo lối cổ điển.


    Mặt đứng với phần tháp chuông vươn cao. Những đường nét, chi tiết trên mặt đứng hoàn toàn phỏng theo nguyên gốc của các kiểu mẫu châu Âu. Cửa sổ có vòm cung tròn, các đường nét mạnh mẽ, dứt khoát, tổ chức theo phân vị đứng, mái lợp ngói thạch bản, đặc biệt là tỷ lệ giữa các mảng khối rất hài hoà và chặt chẽ.


    Phần áp mái trang trí bằng 70 tấm kính màu do xưởng Louis Balmet ở Grenoble (Pháp) chế tạo, làm cho khung cảnh thánh đường thêm phần huyền ảo.


    Tường chịu lực xây dựng bằng gạch đá dày khoảng 30 - 40cm. Trên tường trong nội thất được gắn các bức phù điêu với kích thước 1m x 0,8m, làm bằng vật liệu xi măng và sắt (do nhà điêu khắc Xuân Thi thể hiện). Riêng phần tường ngoài luôn được quét sơn màu hồng, càng tôn thêm sự trang nghiêm của một công trình kiến trúc tôn giáo.


    Trên thánh giá có tượng một con gà (cách mặt đất 27m) bằng hợp kim nhẹ rỗng bên trong được tráng phủ một lớp hoá chất đặc biệt đồng dài 0,66m, cao 0,58m quay quanh một trục bạc đạn để chỉ hướng gió. Con gà có thể là biểu tượng của nước Pháp (Coq gaulois: gà trống xứ Gaulle),có thể là biểu tượng của sự sám hối, theo đoạn Tân Ước kể lại việc Chúa Giê-su quở trách Phê-rô (một trong 12 tông đồ của Người): "Ðêm nay gà chưa gáy, con sẽ chối Ta ba lần...".


    Cột thu lôi, đế bầu tròn đỡ con gà và chữ thập chỉ bốn hướng đông-tây-nam-bắc được sửa chữa, thay mới vài lần. Con gà xoay theo hướng gió trên một vòng bạc rất nhẹ. Người dân bản xứ kháo nhau rằng con gà là đài dự báo thời tiết rất hiện đại, con gà quay chiều nào là gió mưa, là nắng tạnh. Thực ra vì con gà ở trên cao, để phòng gió tạt gãy đổ người ta đã thiết kế cho nó quay hướng theo chiều gió, và thế là con gà quay hướng nào, gió hướng ấy.


    Vào dịp Lễ Giáng sinh hàng năm, nơi đây thu hút rất nhiều người cả trong và ngoài đạo đến dự lễ tham quan. Ngoài ra, ở Đà Lạt còn rất nhiều nhà thờ nhỏ hơn trong đó Domaine de Marie (Lãnh địa Đức Bà) và nhà thờ Cam Ly mang những nét đặc trưng riêng.
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 20-05-2010, 11:18 PM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      Bâng khuâng Cao nguyên

      Một mình em
      Lang thang
      Đà Lạt phố
      Không thấy đèn giao thông xanh đỏ
      Những nẻo đường rạng ngời hoa cỏ
      Mà sao em buồn ?!

      Mắt vấp phải thông
      Chân vấp bụi Dã Quỳ hoang hoải
      Thấy mình như bông Cúc dại
      Lặng lẽ vàng trên cỏ ướt chiều mưa
      Lại hỏi thầm lòng: Người đã quên chưa?

      Lại thương quặn những ngày xưa yêu dấu
      Lại nhớ đắng một thời thơ ấu
      Đã xa mù bảng lảng như sương
      Đà Lạt cuối thu se lạnh
      Nên chăng má em hường

      Nên chăng tình vấn vương...
      Mây xuống thấp níu đất - trời gần lại
      Mà sao em xa anh
      Mà mộng mị quá dài...
      Em ngẩn ngơ như kẻ lạc loài
      Trên cao nguyên hùng vĩ
      Thèm nắm tay ai...

      Comment

      Working...
      X
      Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom