• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Tướng Lưu Á Châu bàn về văn hoá Trung Quốc

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Tướng Lưu Á Châu bàn về văn hoá Trung Quốc

    Tướng Lưu Á Châu bàn về văn hoá Trung Quốc
    Tinh thần là cái gốc lập mệnh của mỗi con người, là cái gốc lớn mạnh của một dân tộc, cái gốc sinh tồn của một quốc gia. Cái gì cũng có thể không có nhưng tinh thần thì không thể không có.
    LTS: Tiếp theo bài Tướng Trung Quốc bàn về niềm tin và đạo đức, (TVN, ngày 15/8/2010), cộng tác viên Nguyễn Hải Hoành lại vừa gửi Tuần Việt Nam chúng tôi bản dịch tiếp theo bài của Lưu Á Châu bàn về văn hóa Trung Quốc. Nhận thấy đây là chủ đề thú vị về văn hóa một dân tộc, tôn trọng tính thông tin đa chiều, Tuần Việt Nam xin trân trọng đăng tải.
    Ngày nay Trung Quốc đang tiến những bước dài, đồng thời cũng để lộ ra không ít vấn đề. Tất cả mọi vấn đề đều hướng về văn hoá, song tất cả mọi vấn đề về văn hoá đều hướng vào tôn giáo. Tôn giáo quyết định văn hoá mà văn hoá thì quyết định tính cách dân tộc; tính cách dân tộc lại quyết định số phận dân tộc.
    Xin nêu thí dụ chống tham nhũng. Trừng trị tham nhũng không thể diệt được tận gốc nạn tham nhũng. Có một biện pháp là hoàn thiện chế độ xã hội, mà phương pháp căn bản là bắt tay từ văn hoá.
    Thí dụ biện pháp "lương cao nuôi dưỡng sự liêm khiết". Tại Trung Quốc, lương cao chưa chắc đã có thể nuôi dưỡng được sự liêm khiết. Tại sao thế?
    Văn hoá Trung Quốc có màu sắc "văn hoá gia đình" rất nặng. Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại (Trong 3 điều bất hiếu, điều lớn nhất là không có con nối dõi - ND). Càng nhiều con cháu càng lắm phúc. Đời cha nhất định phải để dành tiền của cho con cháu. Điều này khác hẳn văn hoá phương Tây. Những kẻ làm cha như chúng ta, lương bổng bản thân có cao đến đâu cũng vẫn muốn để dành cho con, bởi thế người ta vẫn cứ tham. Đây cũng là một nguyên nhân hình thành "văn hoá hối lộ" trong quan trường Trung Quốc.
    Sự hình thành văn hoá Trung Quốc có 3 nhân tố chủ yếu: Thứ nhất là hoàn cảnh sinh tồn; thứ hai là tôn giáo; thứ ba là chính sách ngu dân.
    Hoàn cảnh sinh tồn
    Từ xưa tới nay, số dân trên mảnh đất Trung Quốc này đều nhiều hơn châu Âu. Đàn bà Trung Quốc bị "văn hoá gia đình" biến thành máy đẻ.
    Châu Âu có diện tích bình quân đất đai trên đầu người cao hơn Trung Quốc rất nhiều thế mà họ vẫn cảm thấy chật hẹp, không thở hít được nữa, phải khai thác vùng đất mới, bởi thế mà có việc khám phá các đại lục mới.
    Người Trung Quốc thì tranh đấu trong hoàn cảnh ác liệt này. Phép sinh tồn rất khắc nghiệt.
    Nhưng khi nói về hình thành văn hoá mà chỉ nhấn mạnh hoàn cảnh là chưa đủ. Hoàn cảnh xấu tạo nên một loại văn hoá không thành công. Hoàn cảnh tốt cũng vẫn có thể tạo dựng nên một loại văn hoá không thành công.
    Cần xem xét văn hoá Trung Quốc từ hai mặt. Từ xưa Trung Quốc đã có thảm thực vật rất tốt, khắp nơi là rừng. Vùng Sơn Tây có nhiều than đá như thế chứng tỏ thời cổ rừng ở đấy rất tốt. Do có quá nhiều rừng nên người ta chẳng cần đi quá xa nơi ở cũng có thể kiếm được gỗ, vì vậy người ta dùng gỗ để làm nhà, vừa đơn giản vừa đỡ mất công. Lâu ngày kiến trúc Trung Quốc bèn trở thành kiến trúc có hình thức kết cấu thổ mộc.
    Khi tiến sang thời đại văn minh, các dân tộc châu Âu có môi trường ác liệt hơn Trung Quốc rất nhiều - rừng ít, đá lắm. Muốn làm nhà, họ chỉ có cách lấy đá trên núi mà làm. Lâu ngày nền kiến trúc phương Tây trở thành kiến trúc gạch đá. Qua nhiều nghìn năm, rừng của chúng ta bị đốn hết, các kiến trúc thổ mộc sụp đổ. Kiến trúc kết cấu gạch đá của phương Tây thì giữ lại được, rừng của họ cũng giữ được. Tại Ý, hiện nay vẫn thấy các kiến trúc có từ hai nghìn năm trước, tương đường đời nhà Tần nhà Hán. Tại Trung Quốc hiện nay cả đến kiến trúc đời nhà Minh cũng hiếm thấy.
    Tôn giáo
    Trung Quốc có ba tôn giáo chính là Phật Giáo, Đạo Giáo và Nho Giáo (tôi gọi Nho Học là một loại tôn giáo). Ba tôn giáo này có trách nhiệm không thể thoái thác đối với với sự hình thành trạng thái tâm lý và đạo đức ngày nay của người Trung Quốc. Lịch sử cho thấy ba tôn giáo trên căn bản không thể chấn hưng được dân tộc Trung Hoa.
    Xin để tôi so sánh đối chiếu Ki Tô Giáo với tôn giáo của Trung Quốc.
    Văn hoá Trung Quốc dạy chúng ta "Nhân chi sơ, tính bản thiện" (con người lúc mới ra đời có bản tính lương thiện - ND). Tôn giáo của phương Tây thì ngược lại, cho rằng con người sinh ra đã là xấu (nguyên văn chữ Hán: ác - ND), bản tính con người cũng xấu. Bởi vậy, tôn giáo phải hạn chế anh, bắt anh suy ngẫm về chính mình. Văn hoá phương Tây cho rằng loài người có tội tổ tông. Lòng người đen tối.
    Trong số các đồng chí có người đã trải qua "Cách mạng Văn hoá", xin hỏi cái đen tối nhất ở đâu? Cái đen tối nhất thì ở trong lòng người. Tâm hồn mỗi người đều có mặt vô cùng bẩn thỉu. Văn hoá phương Tây mổ xẻ, hé lộ nó ra, trưng nó ra. Phê phán nó, kiềm chế nó. Văn hoá phương Đông thì ôm ấp nó, nuôi dưỡng nó. Nhà thờ ở phương Tây có phòng xưng tội (nguyên văn: sám hối - ND). Người ta vào nhà thờ trình bày với thánh thần các thứ trong tâm hồn mình.
    Nói cho thần thánh nghe mọi cái xấu xa bẩn thỉu của mình thì người ta thấy nhẹ nhõm. Tâm hồn người ta được rửa sạch. Hồi sang Mỹ tôi có vào nhà thờ ngồi hẳn một ngày trời. Tôi phát hiện thấy một cảnh rất thú vị: Mọi người ai nấy khi vào nhà thờ thì mặt mày ủ ê, khi đi ra thì sắc mặt thư thái nhẹ nhõm. Về sau tôi mới dần dà hiểu được bí quyết của chuyện ấy. Lâu ngày, người ta trở thành thành con người lành mạnh, con người có tâm trạng và tâm hồn đặc biệt kiện toàn. Con người ai cũng có ham muốn. Nhưng người ta phải kiềm chế ham muốn của mình, ai nấy ắt phải tự mình (chứ không phải người khác) kiềm chế bản thân.
    Người Trung Quốc không biết kiềm chế mình, không biết tra khảo bản thân, thế là người ta đi kiềm chế kẻ khác, tra khảo kẻ khác. Quất roi và tra khảo bản thân là chuyện đau khổ. Chỉ khi nào trong lòng mình mãi mãi có tín ngưỡng, có tín ngưỡng vĩnh hằng với thần thánh, thì mới có thể làm được như thế.
    Rất nhiều đồng chí đã đi thăm nhà thờ ở phương Tây. Ở đấy thánh thần xuất hiện với hình ảnh đầm đìa máu, chịu khổ chịu nạn. Jesus bị đóng đinh trên giá chữ thập. Đức Mẹ không đổ máu nhưng rơi lệ. Đấy thực sự là hoá thân của con người, là hoá thân của sự khổ nạn và tư tưởng của con người. Thần thánh trong tôn giáo phương Tây nhìn vào tựa như thần thánh, thực ra là con người. Cái chết của Jesus đã hoàn tất việc ngài lột xác (nguyên văn: thoát biến - ND) từ thánh thần thành con người. Chỉ con người mới chết.
    Nhưng thánh thần trong các đền miếu của Trung Quốc thì mới là thánh thần. Bạn hãy xem hình ảnh các vị thần thánh ấy: Bụng chảy xệ, nét mặt chẳng lo nghĩ gì sất, nhăn nhở cười cợt, thụ hưởng của thờ cúng. Vị nào vị ấy ăn đến béo rụt đầu rụt cổ.
    Người phương Tây đến nhà thờ là để sám hối. Chúng ta lên đền lên chùa là để hối lộ. Chẳng phải thế hay sao? Vì muốn làm được một chuyện gì đây, chúng ta khấn vái thần thánh, bỏ tiền mua mấy nén hương thắp lên hoặc bầy lên mâm những thứ dân gian thường ăn như trái cây gì gì đó, rồi im lặng cầu nguyện. Như thế chẳng phải hối lộ thì là gì?
    Người phương Tây đến nhà thờ để giải thoát nỗi khổ về tinh thần. Chúng ta lên đền chùa để giải quyết nỗi khổ trong đời sống thực tế. Thần thánh trong tôn giáo phương Tây luôn luôn chịu khổ còn nhân dân thì không chịu khổ. Thần thánh trong tôn giáo phương Đông thì hưởng thụ, còn dân chúng thì chịu khổ. Đây là khác biệt lớn nhất giữa tôn giáo phương Đông với phương Tây.
    Ở nước ngoài, nhà thờ bao giờ cũng xây dựng tại trung tâm đô thị, gần gũi với dân. Đền chùa Trung Quốc thì bao giờ cũng xây dựng trong rừng sâu núi cao, xa rời dân. Tôi từng nói người Trung Quốc về cơ bản là một dân tộc không có tín ngưỡng. Nói không có tín ngưỡng không phải là không có hình thức tín ngưỡng. Ngược lại, những thứ người Trung Quốc tín ngưỡng thì phức tạp nhất, người ta tin cả các đại sư khí công. Cái gì cũng tin lại chính là chẳng tin cái gì hết.
    Trong lòng người Trung Quốc không có vị trí của một vị thần thánh vĩnh hằng. Nói sâu một chút, tức là chẳng có sự mưu cầu theo đuổi tinh thần văn hoá có tính tận cùng! Loại người đó không mở rộng phạm vi quan tâm của mình ra tới bên ngoài gia đình, thậm chí cá nhân. Nếu mở rộng sự quan tâm ấy ra thì nhất định sẽ là làm hại kẻ khác. Một dân tộc như vậy sao lại không "năm bè bảy mảng" kia chứ?
    Tại phương Tây, khi trên đường có một chiếc xe hỏng thì hầu như tất cả các xe khác đều dừng lại, người ta đến hỏi anh có cần giúp đỡ gì không. Tại Trung Quốc thì hầu hết xe đều bỏ đi, khó khăn lắm mới có người dừng xe hỏi anh, có lẽ tôi còn ngờ vực, anh làm gì thế? Anh có mục đích gì.
    Phương Tây đã thắng trong cuộc cạnh tranh với phương Đông cả nghìn năm nay. Tôn giáo phương Tây đã thắng trong cuộc cạnh tranh với tôn giáo phương Đông.
    Thắng lợi của tôn giáo là thắng lợi thế nào? Tôi cho rằng đó là một loại thắng lợi về tinh thần. Không có tín ngưỡng thì không có sức mạnh tinh thần. Cái chúng ta thiếu lại chính là cái người ta có.
    Hãy nói về chuyện xây đền chùa. Phương Tây khi xây đền chùa thường là bạt hẳn một quả đồi. Đó là một kiểu khí thế, một kiểu dũng khí đấu tranh với thiên nhiên. Người Trung Quốc xây đền chùa thường hay xây trong núi sâu. Xem ra là hoà nhập cùng núi rừng thành một khối, trên thực tế là một kiểu đầu cơ.
    Có một bức tranh cổ tên là Ngôi chùa cổ trong núi sâu, rất nổi tiếng, nhưng nhìn vào tranh chẳng thấy một bức tường hay một viên ngói nào cả. Bức tranh vẽ gì vậy? Một lối mòn chạy giữa hai quả núi, một nhà sư quẩy đôi thùng đi gánh nước. Rốt cuộc bức hoạ có ý gì? Là nói ngôi chùa cổ trong núi sâu, chùa và núi hoà làm một với nhau. Chúng ta khẳng định rằng ý của bức hoạ rất khôn khéo.
    Người Trung Quốc có tâm lý đầu cơ rất nặng, ai cũng chỉ muốn không làm mà hưởng. Ngày nay, trong thời đại cải cách mở cửa, có biết bao nhiêu người lao vào biển thương mại, ai nấy đều nghĩ "Ngày mai đến lượt mình [làm giàu] rồi". Họ muốn làm cái bộ phận "ddể một số người giàu lên trước" ấy. Sau nhiều năm được giáo dục "Vì nhân dân phục vụ" mà họ lại đều muốn trở thành đối tượng được phục vụ.
    Người Trung Quốc trước đời Tần thì không như thế. Sau đời Hán, đặc biệt sau khi Lưu Triệt [1] độc tôn Nho thuật (tức Nho học, Nho giáo - ND) thì người Trung Quốc đã thay đổi.
    Tôi rất thích đọc bộ Sử Ký. Đọc hết sách này mà chẳng thấy có đoạn nào viết về những kẻ phản bội. Ngày nay chúng ta có biết bao nhiêu kẻ phản bội! Thời xưa có rất ít kẻ cáo giác. Thời nay thì khắp nơi đều có!
    Chính uỷ Đại học Công trình không quân Vương Hồng Sinh đến thăm tôi. Hồi ở Ban Chính trị không quân, anh ấy và tôi là chiến hữu với nhau. Hai chúng tôi nhắc đến một chuyện thế này: Đơn vị Vương Hồng Sinh có một anh cán sự, là người được lãnh đạo rất coi trọng. Một đồng sự của anh ta ngủ với gái. Vị cán sự ấy bèn vác ghế đến ngồi lỳ tận nửa đêm ngoài cửa nhà người đồng sự, cho tới lúc bắt được hai người kia hủ hoá với nhau. Anh cán sự được biểu dương. Tôi than thở căm tức mãi không thôi. Tôi bảo: Sức mạnh nào đã chi phối anh ta ngồi trong bóng đêm lâu đến thế? Tuyệt đối là một loại ý thức phạm tội.
    Thời xưa, Bảo Định, Dịch Thuỷ là nơi sinh ra những Kinh Kha, Cao Tiệm Ly, Điền Quang, Phàn Ư Kỳ [2]. "Gió vù vù, hề sông Dịch lạnh ghê, Tráng sĩ một đi hề không trở về." [3]. Trong kháng chiến chống Nhật, phủ Bảo Định có nhiều Hán gian nhất. Hồi làm ở Hội nhà văn tôi có đến Bảo Định sưu tầm dân ca. Một ông nông dân hát cho tôi nghe một bài ca ngày xưa: "Năm ấy giặc Nhật đến làng, chúng tôi vác súng đi lính..." Về sau tôi mới biết ông ta đi lính gì. Lính ngụy.
    Ở nước ngoài không phải là không có kẻ phản bội, nhưng ít hơn nhiều so với Trung Quốc. Sức mạnh nào đã tác động đến người ta? Sức mạnh tinh thần.
    Năm 1986 tôi sang Mỹ. Đêm khuya ra đường, đèn tín hiệu giao thông bật đỏ, chẳng thấy chiếc xe nào chạy cả, tất cả xe đều tự động dừng lại ở ngã tư. Tôi không hiểu, bảo người Mỹ sao mà ngốc thế nhỉ. Về sau tôi mới biết đấy là sự tự kiềm chế của họ. Kiềm chế bản thân là cứu vớt tâm hồn. Việc nhỏ đã thế, việc lớn lại càng thế.
    Người Nhật nói, trận địa Trung Quốc rất dễ bị chọc thủng. Lê Minh [4] nói rất hay: "Tôn giáo Trung Quốc biến dân chúng thành bầy cừu."
    Đều là cố thủ trận địa, người phương Tây tuy cũng sợ nhưng họ có thể kiềm chế bản thân. Chúng ta thì sao? Trước hết là mong người khác làm bia đỡ đạn. Thấy người khác bỏ chạy thì nghĩ, vì sao mày chuồn? Tao cũng chuồn. Mày đi lính ngụy no nê cơm rượu, tao cũng đi. Mày tham ô, tao cũng tham ô. Tao không chịu kém mày. Tại các nước phương Tây không phải không có chuyện ăn hối lộ nhưng nhìn chung ít hơn chúng ta. Khi nhận hối lộ, lương tâm và tinh thần người ta sẽ ràng buộc họ.
    Phó Chủ tịch Trì Hạo Điền [5] có kể một chuyện để lại ấn tượng rất sâu sắc đối với tôi. Ông kể, trong thời kỳ chống Nhật vùng căn cứ địa Giao Đông có bảy tám tên lính Nhật vác cờ mặt trời (tức quốc kỳ Nhật - ND) đi càn, ba bốn chục nghìn quân dân căn cứ địa bỏ chạy hết. Sói đuổi cừu mà.
    Trên xe buýt một cô gái bị cướp, xe đầy ắp người mà chẳng ai ho he. Cô gái xúc động thốt lên: "Cha tôi kể năm xưa một tên giặc Nhật cai quản cả một huyện của chúng ta. Ngày ấy tôi không tin, bây giờ thì tin rồi."
    Hồi "Cách mạng Văn hoá", ga xe lửa lúc nào cũng đông nghịt. Khi tàu đến, người ta chen nhau ùa vào ga lên tàu. Một cô nhân viên soát vé nói: Các ông bà đông thế này, một đứa con gái như tôi không thể nào giữ được ai, mà tôi cũng chẳng muốn làm thế. Bắt giữ ai nào? Giữ người đầu tiên chen vào. Thế là ai nấy ngoan ngoãn xếp hàng.
    Chính sách ngu dân
    Tôn giáo Trung Quốc có mấy loại, tuy khác nhau về tư tưởng nhưng trên mặt chủ nghĩa chống hiểu biết hoặc chủ trương ngu dân thì đều như nhau. Chính vì thế mà tôn giáo mới được tầng lớp thống trị coi trọng. Dưới sự giáp công của văn hoá tôn giáo và chính sách ngu dân của lực lượng hống trị, người Trung Quốc hình thành quần thể như ngày nay. Người Trung Quốc giỏi nhất về chuyện ca tụng công đức, thứ nhì là tố giác, thứ ba là giở thủ đoạn, cuối cùng là khôn ngoan bo bo giữ mình (nguyên văn: minh triết bảo thân - ND).
    Người Mãn Thanh thống trị Trung Quốc thành công nhất. Họ hiểu rõ đặc tính quan trường của người Trung Quốc: Dốc lòng trung thành với cá nhân, không trung thành với nhà nước.
    Trong việc thống trị ba dân tộc Hán, Mông, Tạng ở Trung Quốc, người Mãn Châu nhằm vào các đặc điểm khác nhau của ba dân tộc này để sử dụng những mánh khoé khác nhau. Người Tây Tạng tin Phật Giáo, triều đình nhà Thanh cho dựng ngay tại Thừa Đức [6] một ngôi chùa phỏng theo kiểu chùa Tây Tạng, đón Lạt Ma về kinh đô làm ông lớn. Người Mông Cổ nhanh nhẹn dũng mãnh thì dùng thủ đoạn hôn nhân, gả con gái hoàng tộc cho vương công Mông Cổ, đẻ ra con trai thì nó là cháu ngoại. Đối với người Hán thì dùng khoa cử. Người Hán có tật thích làm quan. Chỉ cần cho làm quan, tựa như quẳng khúc xương cho con chó, là cúi đầu cụp tai ngoan ngoãn nghe theo.
    Hồi tôi sang Mỹ, thày hướng dẫn tôi là người chuyên nghiên cứu về Mao Trạch Đông. Ông ấy cho rằng trong đời mình, Mao Trạch Đông tổng cộng làm được 31 việc. Nghiên cứu kỹ 31 sự việc này, tôi phát hiện thấy trong đó có 20 sự việc liên quan tới huỷ hoại tinh thần và đạo đức con người.
    Đến năm 1966, cuối cùng Mao Trạch Đông phát động cuộc Cách mạng Văn hoá chưa từng có trong lịch sử, làm cho kinh tế Trung Quốc đi tới bờ vực sụp đổ, càng làm cho phẩm chất đạo đức của nhân dân toàn quốc hạ thấp xuống tới mức đáng sợ, nhà nước mấy lần sa vào tình cảnh muôn đời không phục hồi được.
    Tinh thần là cái gốc lập mệnh của mỗi con người, là cái gốc lớn mạnh của một dân tộc, cái gốc sinh tồn của một quốc gia. Cái gì cũng có thể không có nhưng tinh thần thì không thể không có.
    Cách đây ít lâu khi xuống sư đoàn 33 Không quân, tôi có đến thăm trại tập trung Tra Tử Động. Nhiều liệt sĩ như Chị Giang [12] đã hy sinh tại đây. Hồi ấy nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã thành lập. Chị Giang đang ở trong tù mà vẫn thêu một lá cờ đỏ năm sao. Chị chưa biết mẫu của cờ đỏ năm sao như thế nào, cho nên đã thêu ngôi sao lớn nhất vào chính giữa lá cờ, 4 ngôi sao nhỏ ở 4 góc.
    Khi bọn Quốc Dân Đảng chuẩn bị làm cuộc đại tàn sát tù nhân thì Quân Giải phóng đã tiến tới gần Bạch Thị Dịch. Đội du kích Hoa Doanh Sơn bắt được liên lạc với Quân đoàn 47. Đội du kích nói: Các đồng chí mau tiến quân đi, trại tập trung Tra Tử Động sắp hành quyết các chính trị phạm. Nhưng Quân Giải phóng cho rằng đội viên du kích Hoa Doanh Sơn là tên lừa đảo, có thể là bẫy kẻ địch cài, cho nên họ không hành động. Kết quả là cuộc tàn sát bắt đầu. Các liệt sĩ hiên ngang đi tới chỗ chết.
    Có người nói, thật đáng tiếc, các liệt sĩ ấy đã không nhìn thấy nước Trung Quốc mới. Mục tiêu phấn đấu mà họ theo đuổi sắp được thực hiện thế mà họ lại không được nhìn thấy. Tôi bảo anh nhầm rồi. Nói thực lòng, họ vô cùng hạnh phúc. Tín ngưỡng trong lòng họ sắp được thực hiện, chết vào lúc đó không phải là nỗi đau mà là một niềm hạnh phúc.
    Những người còn sống sót mới thực sự đau khổ. Họ nhìn thấy nước cộng hoà nhân dân được thành lập, sau đó là các phong trào chống phái hữu, tam phản ngũ phản, "Cách mạng Văn hoá", những người bị cái đảng mà mình hiến dâng tính mạng hành hạ mình chết đi sống lại ấy mới là những người đau khổ nhất. Chết, chết không được. Sống, sống không thành. Cuối cùng để mất niềm tin và tín ngưỡng, chẳng khác gì cái thây ma biết đi.
    Đảng viên cộng sản mất tín ngưỡng thì là cái gì? Hãy nhìn bọn quan tham nhũng hiện nay thì khắc rõ. Bọn chúng tên nào cũng sợ chết, quan càng to càng sợ chết. Thứ trưởng Bộ Công an Lý Kỷ Châu khi bị bắt còn hung hăng lắm. Hắn nói: "Nếu tôi có vấn đề thì phải đem chém đầu một nửa Bộ Chính trị!" Đến lúc chuẩn bị đưa đi xử bắn, hắn quỳ xuống van xin: "Xin cho tôi một con đường sống."
    Nguyễn Hải Hoành lược dịch
    --------------------------------------
    [1] tức Hán Vũ Đế, 156-87 trước CN
    [2] 4 nhân vật anh hùng nổi tiếng trong vụ ám sát không thành Tần Thuỷ Hoàng
    [3] câu thơ Kinh Kha cảm tác khi qua sông Dịch trên đường đi mưu sát Tần Thuỷ Hoàng
    [4] triết gia Trung Quốc đương đại nổi tiếng là "khùng"
    [5] Thượng tướng, sinh 1929, thời gian 1998-2003 làm Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc
    [6] 1 trong 10 địa điểm danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhất Trung Quốc, cách Bắc Kinh 180 km
    [7] Sự kiện nội bộ đảng CSTQ thanh trừng giết nhầm nhiều cán bộ của đảng năm 1930 tại căn cứ địa Phú Điền tỉnh Giang Tô
    [8] Hội nghị mở rộng Bộ chính trị ĐCSTQ họp tháng 1/1935 tại Tuân Nghĩa tỉnh Quý Châu, xác lập quyền lãnh đạo của Mao Trạch Đông; được coi là bước ngoặt của cách mạng Trung Quốc
    [9] Nguyên phó Chủ tịch nước; năm 1954 bị kết tội chia rẽ đảng, bị kỷ luật, tự tử chết 1954
    [10] 2 phong trào trong thời gian cuối 1951 đến 10/1952. Tam phản: chống tham ô, lãng phí và quan liêu; Ngũ phản: trong ngành công thương nghiệp tư doanh chống hối lộ, trốn thuế và lậu thuế, lấy cắp tài sản nhà nước, làm ăn gian dối, lấy cắp tình báo kinh tế
    [11] Hội nghị mở rộng Bộ chính trị và hội nghị lần 8 trung ương ĐCSTQ, cách chức Bộ trưởng Quốc phòng của Bành Đức Hoài
    [12] Tên thân mật gọi Giang Trúc Quân, nữ liệt sĩ cách mạng Trung Quốc, 1920-1949
    Lưu Á Châu năm nay 57 tuổi, là người huyện Túc thuộc thành phố An Huy, tham gia quân đội năm 16 tuổi, lần lượt giữ chức vụ phó tiểu đội trưởng, tiểu đội trưởng, trung đội trưởng. Năm 44 tuổi được thăng chức thiếu tướng không quân, bước vào hàng ngũ tướng lĩnh cấp cao của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA).
    Năm 45 tuổi giữ chức Chủ nhiệm Cục chính trị không quân quân khu Bắc Kinh. Năm 50 tuổi là Chính ủy không quân, quân khu Thành Đô. Năm 51 tuổi là Phó Chính ủy không quân kiêm Bí thư Ủy ban Kiểm tra kỷ luật quân ủy, và được thăng chức trung tướng không quân. Hiện nay, Trung tướng Lưu Á Châu, nguyên Phó Chính ủy không quân của PLA giữ chức Chính ủy của Đại học Quốc phòng Trung Quốc, thay Trung tướng Đổng Thế Bình đã được điều động làm Phó Chủ nhiệm Tổng Cục chính trị kiêm Bí thư Ủy ban kiểm tra kỷ luật quân ủy.
    Đại học Quốc phòng là trường quân sự cao nhất của Trung Quốc, trực thuộc sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, là cấp đại quân khu; hiệu trưởng, chính ủy của trường này đều thuộc những chức vụ chính của đại quân khu.
    Similar Threads
  • #2

    Vài dòng bình luận

    Những chữ đậm là chữ được trích từ bài trên . Chữ in thường là thiển ý cá nhân của người viết Trân trọng

    Châu Âu có diện tích bình quân đất đai trên đầu người cao hơn Trung Quốc rất nhiều thế mà họ vẫn cảm thấy chật hẹp, không thở hít được nữa, phải khai thác vùng đất mới, bởi thế mà có việc khám phá các đại lục mới.

    Không hẳn thế, người Châu âu có tinh thần dân chủ, tự do, khai phóng. Cho nên họ thích tìm tòi cái mới, không chấp nhận một khuôn mẫu định sẵn. Nên có sự khai phá vùng đất mới

    Người phương Tây đến nhà thờ là để sám hối. Chúng ta lên đền lên chùa là để hối lộ. Chẳng phải thế hay sao? Vì muốn làm được một chuyện gì đây, chúng ta khấn vái thần thánh, bỏ tiền mua mấy nén hương thắp lên hoặc bầy lên mâm những thứ dân gian thường ăn như trái cây gì gì đó, rồi im lặng cầu nguyện. Như thế chẳng phải hối lộ thì là gì?

    Người ta đi đến nhà thờ và chùa đều có một tín ngưỡng, tâm linh. Tin vào đấng tối cao quyền năng vô thượng. Hy vọng được bảo vệ với quyền phép của Chúa, của Phật. Những quyền phép vượt khỏi quyền năng của con người. Với thiên chúa là dâng hiến, với đức Phật là cúng dường, Điều này khác xa với hối hộ mà mới thoạt nhìn nó giống nhau. Đánh đồng hai cái đó như nhau, thật nực cười dù đó là quan điểm của một ông tướng
    Đã chỉnh sửa bởi huynhthanhchiem; 30-04-2014, 05:21 AM.
    http://huynhthanhchiem.blogspot.com/
    huynhthanhchiem@gmail.com

    Comment

    • #3

      Lịch sử ngày Tết Nhật Bản

      Ở Nhật Bản, người ta tin rằng có một vị thần tên là Toshigami-sama sẽ ghé thăm từng nhà vào đầu năm mới và mang lại may mắn và sinh lực cho cả năm. Năm mới của người Nhật được tổ chức cho vị thần này.


      Năm mới của người Nhật tổ chức cho thần Toshigami-sama.

      Từ xưa, người dân Nhật đã sử dụng lịch của người Trung Quốc, tức là lịch âm giống như nhiều quốc gia châu Á khác. Từ năm 1844 đến năm 1872, người Nhật tổ chức đón Tết theo lịch Thiên Bảo. Ngày 03 tháng 12 năm 1872 (năm Minh Trị thứ 5), chính phủ Nhật Bản quyết định sửa thành ngày 01 tháng 01 năm 1873 (năm Minh Trị thứ 6) và từ đó người dân phải điều chỉnh lễ hội đón năm mới của họ theo lịch mới, tức là đón Tết vào ngày 01 tháng 01 hàng năm theo lịch dương - lịch của người châu Âu.

      Vì sao chính phủ Nhật lại quyết định đón Tết theo lịch dương?
      Theo tổng hợp nhiều tài liệu, lý do đầu tiên là: từ xa xưa cho đến năm 1946, chính phủ Nhật Bản luôn độc quyền việc lựa chọn lịch nào là lịch quốc gia. Vì vậy khi chính phủ quyết định thay đổi lịch, người dân Nhật Bản phải tuân theo. Cho dù Toshigami-sama là một vị thần linh thiêng trong tín ngưỡng Nhật Bản, nhưng vị thần này cũng không thể chống lại lịch.


      Chính phủ Nhật Bản luôn độc quyền việc lựa chọn lịch nào là lịch quốc gia.

      Lý do thứ hai là việc thay đổi lịch đã giúp chính phủ không phải trả khoản lương tháng thứ 13 cho công chức, vì tính theo lịch cũ thì năm Minh Trị thứ 6 có tháng 6 là tháng nhuận. Đón Tết theo lịch mới giảm được ngày nghỉ, tăng sản lượng lao động quốc gia.

      Ngoài ra, có một lý khác là vào thế kỷ 19, Nhật Bản đã phải đối mặt với nhiều vấn đề lớn như họ đã ký các hiệp ước không có lợi với Mỹ (ví dụ như Hiệp ước Hữu nghị và Thương mại Nhật Bản - Hoa Kỳ 1858), cũng như tình hình thế giới lúc đó các nước phương Tây đang tìm cách mở rộng đô hộ các nước nhỏ. Nhật Bản nhận thấy rằng phương Tây đã phát triển vượt bậc so với châu Á khi chứng kiến những chiếc tàu màu đen của Hải quân Mỹ ghé thăm cảng Uraga vào tháng 7/1853. Để tránh bị đô hộ, Nhật Bản cần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc và phải vươn mình trở thành một quốc gia hùng mạnh. Nhật Bản muốn đuổi kịp phương Tây và đứng trong hàng ngũ các nước văn minh trên thế giới.

      Vì vậy, việc thay đổi lịch truyền thống sang dương lịch, thay đổi thời gian đón Tết cổ truyền sang Tết dương lịch cũng như phương Tây hóa nền văn hóa là cách để Nhật Bản trở thành một cường quốc phát triển giống phương Tây.


      Ngày nay, đa phần người dân Nhật Bản đã không còn đón Tết cổ truyền.

      Mặc dù hiện nay dương lịch vẫn đang được sử dụng phổ biến ở Nhật Bản, nhưng người Nhật vẫn áp dụng cách đếm năm theo truyền thống trên một số sách báo, tranh ảnh. Các năm sẽ được đánh số theo niên hiệu và số năm trị vì của Nhật Hoàng. Chẳng hạn năm 2017 được gọi là năm Heisei 29, có nghĩa là năm trị vì thứ 29 của Nhật Hoàng hiện tại - Nhật Hoàng Akihito.

      Ngày nay, đa phần người dân Nhật Bản đã không còn đón Tết cổ truyền. Nhưng ở một số vùng như đảo Kago, Okinawa, Amami người dân vẫn duy trì phong tục đón Tết theo lịch âm. Video dưới đây cho thấy người Nhật đón Tết 2013 theo năm con Rắn trong lịch âm.



      Người Nhật đón Tết thế nào?
      Mặc dù đón Tết theo lịch của phương Tây nhưng ngày Tết ở Nhật Bản vẫn mang đậm nét văn hóa truyền thống phương Đông.

      Vào những ngày giáp Tết, người Nhật đi sắm sửa đồ dùng trong dịp Tết. Các cửa hàng và khu mua sắm rất tấp nập. Ngoài ra, vào ngày này để chào đón vị thần Toshigami-sama đến nhà, nhà cửa phải được vệ sinh sạch sẽ.


      Ngày Tết ở Nhật Bản vẫn mang đậm nét văn hóa truyền thống phương Đông.

      Sau đó, người dân Nhật sẽ tiến hành trang hoàng nhà cửa. Họ thường trang hoàng vào ngày 28 hoặc 30, vì ngày 29 trong tiếng Nhật phát âm gần giống với "hai lần đau". Mọi nhà đều trang trí cây tùng trước cửa vì theo tín ngưỡng cổ truyền thì vị thần Toshigami-sama sẽ hạ giới và trú ẩn trong cây này. Trên khung cửa của các gia đình Nhật Bản còn trang trí các vật phẩm như đồ đan bằng lá màu trắng (tượng trưng cho sự trinh bạch không tì vết), quả quýt (tượng trưng cho sự thịnh vượng), thừng bện bằng cỏ (dâng lên thần linh cầu tài lộc), dải giấy trắng (xua đuổi tà ma).

      Phụ nữ Nhật Bản sẽ vào bếp chuẩn bị các món ăn cũng như làm bánh Tết. Bánh Tết được làm vào ngày 28 hoặc 30 Tết. Bánh Tết cùng với các món như ragu khoai sọ, cà rốt, rau xanh thường được đưa lên cúng thần linh. Cà rốt tượng trưng cho mối quan hệ gắn bó hòa thuận giữa mọi thành viên trong gia đình. Khoai sọ tượng trưng cho sức mạnh đẩy trừ tà khí. Các món ăn làm trong dịp Tết có nguyên liệu như rễ cây ngưu bàng, trứng cá, khoai lang, tảo, hạt dẻ, cá khô. Đây là những món ăn đơn giản, mang ý nghĩa cầu mong mọi sự tốt lành.


      Phụ nữ Nhật Bản sẽ vào bếp chuẩn bị các món ăn cũng như làm bánh Tết.

      Đêm 30 Tết, cả gia đình người Nhật sẽ ăn bữa tất niên. Đến thời khắc giao thừa, các ngôi chùa thiêng sẽ điểm 108 hồi chuông. Người Nhật tin rằng những tiếng chuông này sẽ giúp họ xua đuổi 108 con quỷ sứ. Chủ gia đình sẽ đọc lời chúc mừng năm mới và sau đó cả gia đình sẽ cùng nhau ăn bánh Tết, uống rượu. Người Nhật tin rằng thần Toshigami-sama sẽ truyền sinh lực vào bánh Tết, nên sau khi cúng thần chiếc bánh này sẽ được chia ra cho mọi thành viên trong gia đình thưởng thức.

      Đối với người Nhật, xuất hành đầu năm là một việc trong đại. Họ thường ưu tiên đi lễ chùa cầu may. Mỗi năm có một hướng tốt nên người Nhật sẽ đi lễ chùa theo hướng của năm đó. Khi vào chùa mọi người phải rửa tay và súc miệng trước, sau đó mới được hành lễ.

      Từ mùng 1 Tết, người Nhật sẽ đi chúc Tết cấp trên, bạn bè, họ hàng thân thích. Người Nhật gọi ba ngày đầu năm mới là "ba ngày chúc tụng". Theo truyền thống, các gia đình đều để cuốn sổ và bút chì trước cổng. Người đi chúc Tết sẽ ghi địa chỉ vào cuốn sổ, mang ý nghĩa là đã đến thăm nhà. Người Nhật cũng có phong tục lì xì cho trẻ con như các nước châu Á khác.


      Theo truyền thống, các gia đình đều để cuốn sổ và bút chì trước cổng. Người đi chúc Tết sẽ ghi địa chỉ vào cuốn sổ, mang ý nghĩa là đã đến thăm nhà.

      Một nét đặc sắc trong phong tục đón năm mới của người Nhật là tặng thiệp mừng năm mới. Người Nhật rất chịu khó viết thiệp chúc mừng gửi đến bạn bè, họ hàng. Ông Hideo Suzuki, công sứ Nhật Bản tại Việt Nam nói rằng ông đã từng viết đến hơn 200 thiệp chúc mừng năm mới. Thường thì ông bắt đầu viết từ giữa tháng 12 và mang đến bưu điện để gửi trước năm mới 3- 4 ngày. Bưu điện Nhật Bản sẽ giữ thiệp và chuyển phát đến người nhận đúng vào ngày mùng Một Tết.

      Ưu điểm khi đón Tết theo "lịch Tây"
      Ông Nakanara, một giáo viên dạy tiếng Nhật tại Đại học Bách Khoa Hà Nội nói rằng nếu ăn Tết theo dương lịch, các công ty kinh doanh sẽ có nhiều thuận lợi. Việc quyết toán tài chính cả năm sẽ đơn giản hơn vì ngày đầu năm mới luôn cố định. Trái lại, đối với Tết cổ truyền, ngày đầu năm mới luôn thay đổi theo từng năm nên các công ty sẽ bị động trong kế hoạch kinh doanh.

      Còn theo bà Yamanouchi, 55 tuổi, nếu đón Tết 2 lần sẽ gây lãng phí thời gian và tiền bạc cho nền kinh tế. Tuy nhiên, Tết âm lịch cũng có cái hay riêng. Tết âm lịch là Tết theo đạo Phật, mà đạo Phật thì luôn hướng thiện cho con người, dạy con người biết ơn tổ tiên, biết kính trên nhường dưới. Vì vậy Tết cổ truyền là ngày chúc phúc ông bà, nhớ ơn tổ tiên, cầu nguyện cho gia đình được an vui.

      Người Nhật đang muốn khôi phục lại Tết cổ truyền?

      Gần đây một số người dân Nhật Bản đã kêu gọi khôi phục ngày Tết cổ truyền.

      Trả lời phỏng vấn, công sứ Nhật Bản Hideo Suzuki nói rằng gần đây một số người dân Nhật Bản đã kêu gọi khôi phục ngày Tết cổ truyền. Lý do là vì theo dương lịch, ngày 1/1 hàng năm sẽ bắt đầu mùa xuân, nhưng thực tế thời tiết tại Nhật trong tháng Một vô cùng lạnh giá. Nếu tổ chức Tết theo âm lịch, mùa xuân sẽ đến đúng hẹn hơn. Vào tháng Hai hoa mận sẽ nở và đến tháng Ba sắc xuân sẽ tràn ngập Nhật Bản với hoa anh đào nở.

      Công sứ Suzuki nói rằng con người chỉ có sức mạnh khi họ đoàn kết, và cộng đồng đóng vai trò quan trọng để đoàn kết mọi người. Đây chính là lý do nhiều người Nhật Bản muốn khôi phục lễ hội đón Tết cổ truyền, với mong muốn làm tăng sức mạnh cộng đồng.


      Đối với người Nhật, xuất hành đầu năm là một việc trong đại. Họ thường ưu tiên đi lễ chùa cầu may.
      Hãy hướng về phía mặt trời mọc bóng tối sẽ khuất sau lưng anh.

      Comment

      Working...
      Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom