• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Buffet Truyện ngắn miền Trung

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Buffet Truyện ngắn miền Trung

    .





    Sau các tập Buffet truyện ngắn Sài Gòn, Buffet truyện ngắn Đồng Bằng sông Cửu Long, Tủ sách Sơn Ca - NXB Trẻ tiếp tục giới thiệu với bạn đọc tập Buffet truyện ngắn miền Trung, theo tiêu chí: Các nhà văn đang sống ở miền Trung từ Bình Thuận đến Quảng Trị, tự chọn truyện mình thích nhất và viết đôi lời về việc sáng tác truyện đó.

    Một ngày cuối tháng 5/2010, dưới sự tài trợ của Công ty Sơn Ca - NXB Trẻ đã ra mắt Buffet truyện ngắn miền Trung (cùng với Thơ tình Xứ Huế) tại Trung tâm dịch vụ Festival (11 Lê Lợi, Huế). Ngoài những người tổ chức bản thảo: Nguyễn Đông Thức, Đoàn Thạch Biền... khá nhiều nhà văn đã tham dự ra mắt “bữa tiệc”.

    Xa nhất, từ chân núi Tà Cú (Bình Thuận), Nguyễn Hiệp - người từng đoạt giải nhì truyện ngắn báo Văn Nghệ đã góp một Bông cỏ giêng tựa vào những cảm nhận mang hơi thở nhà Phật qua hình tượng bông cỏ giêng đầy trăn trở về thân phận con người.

    Người đoạt giải nhất báo Văn nghệ năm 2004, “ông nông dân bỏ cày” Ngô Phan Lưu góp một Việc trên đường theo cái tạng của ông, những suy ngẫm về cuộc sống, về nhân tình thế thái... từ chính cuộc sống đa dạng và nhiều màu sắc. Truyện thú vị, đọc không khỏi mỉm cười, cho nên ông khá tự tin khi tự bạch: “Chưa viết đã thấy hay. Đang viết cũng thấy hay. Viết rồi cũng thấy hay. Đọc lại cũng thấy hay” (tr 98) (đúng là phong cách của “người mang ba họ”!).

    Nguyễn Mỹ Nữ, giải thưởng truyện ngắn báo Văn Nghệ, (1988-2000), giải thưởng truyện ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội (2001-2002), góp cổ phần bằng Tiếng hát liêu điêu từ một giọng hát mỏng manh đến lạ kỳ để định dạng một mảnh đời đầy ám ảnh và không kém mong manh.

    Có thể nhận ra một Lê Hoài Lương - giải ba và giải nhì truyện ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội, giải ba truyện ngắn báo Văn nghệ qua Tiếng chuông chiều, một cách cảm nhận đầy nhân bản về những con người đã từng đối đầu nhau trong chiến tranh. Anh nói về truyện ngắn của mình: "Muốn góp một cái nhìn nhân bản hơn, hòa hợp hơn, nói trắng ra là sòng phẳng hơn về những người lính ở hai chiến tuyến. Tôi thấy chướng và không có sức thuyết phục những hình tượng văn học, kiểu ta thì gì cũng tốt, địch đương nhiên là xấu, rất xấu rất ác” (tr 91).

    Trần Thùy Mai - giải thưởng Hội Nhà văn 2002, góp Người bán linh hồn từ cảm nhận của mình về con người làm nghệ thuật trước những đòi hỏi, cám dỗ... của cuộc sống đầy bất trắc.

    Ở Lê Trâm, là những ám ảnh suốt một đời người lặp đi lặp lại không dứt trong Truyện đốt theo sông.

    Phạm Hữu Hoàng mượn chuyện xưa để nói chuyện nay (Vương pháp).

    Huỳnh Thạch Thảo viết về những người đánh cá ngừ đại dương (Vệt sáng nơi chân sóng).

    Khuê Việt TrườngÁi Duy cùng viết về đồng bạc nhưng mỗi người cảm nhận mỗi khác (Hai đồng bạc lộc Vòng vèo thật giả),

    còn Hoàng Nhật Tuyên nhớ lại một nơi “sông kia rày đã nên đồng” (Ký ức).

    Trương Anh Quốc viết về con người xứ Quảng đầy cá tính (Nụ cười bí ẩn).

    Đinh Lê VũNgô Thị Thục Trang góp những truyện về tình yêu thật đằm thắm (Đá cũng cần có nhauTrái tim đàn bà).

    Khánh Liên viết về Người tình Phan Rang (tên truyện ngắn) với một chút ma quái.

    Nguyễn Bội Nhiên là Dòng sông bên thành cổ đan cài chuyện cũ chuyện mới.

    Việt Hùng ám ảnh bởi số phận những cô gái trong tranh ( Cô gái hoàng hôn )

    Bạch Lê Quang không thôi ám ảnh về mùa lũ dữ dội ở quê hương (Lũ ơi),

    Nguyên Quân khắc họa đậm nét người nghệ sĩ hát rong trên đường phố (Hoạt phố).

    Nguyễn Anh Tuấn vẽ nên cảnh tượng một ông già bán cà-rem phải vất vả và lừa lọc trong mưu sinh... ( Ông Hớn bán cà rem )

    Tất thảy đã dựng nên một dải đất quanh năm “chớp bể mưa nguồn”, đầy nắng gió suốt duyên hải miền Trung cùng những phận người chìm nổi.
    Cũng dễ dàng nhận ra “bữa tiệc” đã thiếu khá nhiều… món ngon, nếu kể đến những nhà văn đang sống từ Quảng Trị đến Bình Thuận, hy vọng sẽ được góp phần ở những tập sách tiếp theo.

    LÊ TRÂM

    *******************
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 01-10-2010, 06:48 PM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    .



    Tôi viết Bông Cỏ Giêng trong những ngày đầu 2004 , đó là thời đoạn rất hiu quạnh của cuộc đời tôi . Viết như một hy vọng thoát ra khỏi những mộng mị ám ảnh hằng đêm . Hay như lời một nhân vật trong truyện , tôi viết để " dìu ba đào về chân trời khác " . Viết cho mình nên tôi không cố tình dẫn dắt hay ngụ ý điều gì to lớn cả , Vậy mà ngay đến bây giờ , khi đã góp mặt năm bảy đầu sách trên văn đàn , tôi vẫn cứ coi truyện ngắn Bông Cỏ Giêng là hồn cốt chính trong đời viết văn của mình . Không phải vì Bông Cỏ Giêng đoạt giải nhì báo Văn Nghệ hay lọt vào topten 20 năm truyện ngắn hay báo Văn Nghệ mà tôi nói như vậy , chỉ vì một lẽ tôi đã " rút ruột " để viết truyện ngắn này .
    Nguyễn Hiệp .



    Bông cỏ giêng


    Năm Cỏ Giêng là tên tôi từ tuổi thiếu niên, ai đó đã gọi một lần như thế, sau thì chết tên, vì cả làng cho tôi là thằng quái gở khi tết đến người ta đua nhau mang về nhà các bình mai vàng sáng rực, tôi lại chỉ chưng độc trong nhà loại bông sắc tím, thứ sắc mà ai cũng kị, cũng sợ, con gái lặm vào thì chỉ có chờ chờ đợi đợi vô vọng không hoá đá cũng lỡ thì, con trai dính tới thì lụy tình lụy đời đến danh vọng tiêu tan, đến thân tàn ma dại.

    Tôi mê bông cỏ giêng một cách kì lạ, giống như mỗi con người sinh ra đã có duyên kiếp gì đó với một loài hoa, chỉ người đó mới nghe loài hoa kia ca hát, trò chuyện, chia sẻ buồn vui, chỉ có người đó mới ngất ngây hoặc điếng dại khi đứng trước nó. Bông của loài cỏ dại này nở rộ trong dịp Tết mà lại có khuôn mặt mang mang, nhè nhẹ, đài hoa như chiếc áo ngoài rách tươm, cũ rích mà cánh hoa, lưỡi hoa như một kiệt tác vô tình mà hoàn mỹ của tạo hoá: đây là bản pha các tông của màu tím phong phú nhất mà tôi biết được: từ sắc tim tím nhàn nhạt tưởng như nõn trắng, chút mơ hồ ấu thơ của thanh thiên bạch nhật, đến phớt tím mơ mơ cuối chiều lay động hồn người xế tuổi, đến tím hoa cà trong câu hát huê tình đau nhói tim can trần tục… và cuối cùng là tím than huyền bí, thẳm sâu, màu của phương Đông, màu của những quyển sách triết lí cuộc đời vốn bị đánh mất trang đầu, trang cuối.

    Sự hợp nhãn ấy, cái giao tình ấy như là tín hiệu báo trước một đời tu của tôi. Thích Giác Giêng cũng là cách gọi theo pháp danh, chữ "Giác" trong thứ bậc một dòng kệ ở đất Nam Trung bộ này, chữ "Giêng" là do lúc lên núi quy y, thầy tôi vừa cười vừa hỏi: con thích tên gì? Tôi nói ngay: -Thưa, Giêng! Nếu không có tính thì chẳng bao giờ tới mệnh, con người vốn như thế mà! Thầy tôi bảo đó là tính! Sau này, khi qua thời sa-di, rồi thọ Cụ Túc Giới, tôi cũng chẳng nghĩ gì đến tên mình, nhưng quả thật loài bông dại ấy có gắn với đời tôi một câu chuyện, tất nhiên theo cách nghĩ của tôi là chẳng buồn, chẳng vui. Do Tết năm nay gặp lại người ở quê, lời vô tình mà động đến tim can nên tôi chợt nhớ lại.

    Khi đã trở thành đại đức trụ trì một ngôi chùa nhỏ dưới chân núi, tôi có người bạn trẻ hay ghé thăm chơi, anh ta là nhà thơ quanh năm suốt tháng đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi bán thơ mình rồi tá túc khắp các chùa trong nước. Có lần thấy trên sườn xe đạp của anh ta có dắt cục đá, biết là để đập vào líp mỗi khi xe trật cóc, tôi nói với anh ta: -Mình còn bị trói sao mơ đi mở trói cho người khác?

    Anh ta đãnh lễ rồi nhỏ nhẽ, trịnh trọng: -Bạch thầy Năm Cỏ Giêng! Thơ con chỉ mong dìu ba đào về chân trời khác chứ không có ý đó. Tôi bỗng xao động trong lòng không chỉ vì lời đối đáp rất sáng của con người hoà nhan ái ngữ này (các nhà thơ khi đã trở nên "tận kỳ tính" thì đáng yêu biết bao) mà còn vì người trai này, nhà thơ lang thang này gọi đúng tên tôi hồi còn ở làng quê, hồi mẹ con tôi rau cháo trong mái tranh sập sệ ở dốc Cây Cầy, hồi mà Tết của tôi mênh mông một màu tím ngắt, tím đến héo hắt lòng người, chỉ có người đồng hương với tôi mới biết. Một ngọn gió từ trong sâu thẳm con người tôi, mịn màng như mây lụa trên cao, không xuân hạ nóng bỏng, không thu đông lạnh lẽo nhẹ nhàng thoát ra. Lần đầu tiên tôi thấu cảm: Ngoài tâm người không có hiện thực nào khác.

    Anh chàng đi bán thơ chợt nói tiếp: -Bạch thầy! Con như giếng khô trên gò cao, giờ chỉ biết ứa ra những giọt mồ hôi, như cách làm của cát, của cuội, gọi là đổi bát cơm cũng được, gọi là gội rửa mình cũng xong, làm gì dám mong đi cởi trói cho tha nhân. Tôi nghĩ anh ta cũng còn chỗ lém mồm, đa ngôn nên tủm tỉm cười vặn lại lần nữa:

    -Sao lại lấy thơ làm kế sinh nhai, đem cái tính của biển cả chứa trong lỗ chân trâu sao đặng?

    -Bạch thầy! Chán con lắm! Con cũng thật hết cách, nhưng mà lỗ chân trâu có gì hay không còn tùy người, tùy cảnh, ngay trong giới được mọi người kính trọng, bất khả tư nghị như giới tu hành thiếu gì kẻ sống bằng nghề tu, chắc là đau đớn cũng như con.

    Thoạt đầu, tôi nghĩ anh chàng này cà khịa, mượn hơi hướng câu nói của tôi đem cho cái mà tôi không nhận, vì tôi không thể có nó, nhưng định tâm tôi thấy đúng một phần. Không trụ ở đó, tôi còn liên tưởng ngay đến thầy tôi, người tôi chịu ơn quy y rồi cả thọ Cụ Túc Giới…

    Người ấy có một thời mông muội phạm giới, một ni sư mà đem lòng yêu thương một vị đại đức ở chùa khác, yêu đến độ nửa khuya xuống núi, vượt mưa gió, gánh hơn ba chục quyển Đại Tạng kinh quý giá của thầy mình đem tặng người tình. Hứng trọn cơn mưa đêm như trút nước, vừa run lạnh, vừa đi trong trạng thái như mộng du nên bị một chiếc xe khách từ Hàm Tân ngược chiều tung phải, thể xác không trọng thương, chỉ trầy xước sơ sơ nhưng Sư đau xót nhìn những quyển kinh trộm vụng tung bay tứ tán trong buổi mai vừa hé rạng. Sư cô mất ăn mất ngủ gần nửa năm trời, vết thương lòng chẳng biết bao giờ mới lành.

    Đức Bổn Sư ấy bây giờ lại xuống núi lấy tiền thập phương cúng dường mở trại trồng mười lăm ngàn trụ thanh long, mở trên chục đại lý mua bán thanh long lớn nhỏ, mở trại nuôi heo, nuôi bò, dụng cả chục tăng trẻ như một đội quân của dịch vụ tụng cúng phục vụ lễ lạc… rồi cười gọi là làm kinh tế chùa, tu theo lối trưởng giả Duy Ma Cật. Nhưng hãy khoan, gì thì gì chứ anh chàng đi bán dạo thơ vẫn đang trước mặt tôi, hãy lắng nghe câu chuyện riêng tư này chút đã!

    -"Bạch thầy! Chán con lắm! Trước đây con chưa bao giờ dừng lại nhìn một khung trời sắp tắt nắng, một nấm mồ bên đường nói chi đến một bông hoa xem có lung linh hay sắp rữa nát. Chưa bao giờ! Con luôn bị quỹ đạo công việc cuốn đi, cuốn đi như chiếc lá nhỏ trong dòng bão lớn. Chưa biết ngày sau thân này ra sao đây?
    Con luôn lẩm bẩm như vậy. Con quần quật với công việc, tối mặt tối mũi với công việc. Chẳng ai khiến nổi con, chỉ có sự lo lắng thái quá hành hạ con, thật sự lúc ấy con chưa phân biệt các cung bậc của sự lo lắng. Sự lo lắng không đâu hành hạ con người đến mê, đến muội mà không biết. Lúc ấy, con muốn bứt phá, muốn vượt lên thân phận của một dòng họ trồng lúa, nghèo kiết xác quá ba đời. Chẳng ai khó ba đời, vậy mà bốn đời nhà con đều rách nát, đều nhục nhã, đều hèn hạ.
    Trong phả hệ nhà con, đàn bà thì bán lưng cho trời, bán mặt cho đất như thân cò từ sáng đến tối vục mỏ vào vũng bùn khổ ải. Đàn ông cả đời như con cút de thụt thụt thò thò vón đất cho khô đến chai vàng cả tay, chai trắng cả hồn.
    "Đến ngày kia, sau một ngày mồ hôi đẫm áo, con ngã lưng trên bãi cỏ ngủ ngon lành. Giật mình dậy thấy bông cỏ giềng nở tím cả khu đồi. Ngày cùng tháng tận rồi đây! Thoạt đầu con chỉ nghĩ thế. Con ngồi dậy sau cái duỗi mình, chợt bàng hoàng thấy bao nhiêu là bông cỏ giêng dưới lưng con cũng đang duỗi mình, ngửa mặt bùng nở.
    Lần đầu tiên con phát hiện đó cũng là những sinh linh sống động. Con hít một hơi thật sâu, một hơi thở đầy hương hoa đồng nội, trời đất chợt bao phủ một màu tím đến ngút ngát huyền niệm. Chính sự huyền niệm vừa nhận biết cho con thêm hiểu cái mênh mông, không cùng của con người.
    Chán con lắm! Con chợt đọc lên vài câu rời rạc và có duyên với thơ từ đó, người làng chưa hiểu cứ cho là con bị ám. Họ cũng kể về thầy như một trường hợp bị ám khác bởi bông của loài cỏ dại ấy."

    Con người khác nhau là do đối tượng người đó chú ý tới. Nếu bị ám bởi loài bông, loài hoa, bị ám bởi cái đẹp con người sẽ trở nên rất người. Duyên lành nên tôi được gặp anh ở đây, màu tím ấy cũng chỉ là chút bê bối dễ thương của tiểu ngã… Tôi tủm tỉm cười. Anh chàng nhà thơ trẻ cười theo ý tứ.

    Anh chàng nhà thơ lang thang này gợi tôi chợt nhớ chút bê bối dễ thương trong đời mình, hình như cái gì đã đi qua đời ta dù như thế nào cũng mang một giá trị nhất định, ai cố bỏ đi, quên đi là tự đánh mất mình vậy.

    Hồi ở làng, nhóm bạn thân từ ngày còn cởi truồng tắm mưa của tôi có ba đứa: Vân, Lập và tôi. Vân là con gái út của ông chủ một cơ sở xay lúa lớn nhất vùng, được cưng chìu không ai bằng. Lập là con nhà tiệm vàng, gia đình này phất lên từ lúc khai phá một vùng đất ven sông.

    Cái ngày anh của Lập đào được một hủ vàng Hời (một quày cau và nhiều lá trầu, tất cả đều là vàng ròng) cũng là cái ngày định mệnh của gia đình Lập. Anh của Lập ngay lập tức hoá cuồng, cuối cùng là tự sát bằng một quả lựu đạn. Hai người chị, cũng là những người đầu tiên mở chiếc nắp hủ, trở nên tâm thần, mở miệng là ú ớ những câu chú quái gỡ, không ai hiểu gì, sau phải nhốt ở dưới vườn chuối như hai nữ tượng giữ của, sáng trưa chiều tối có người mang cơm, mang nước bón, chăm.

    Nhưng sau đó, ba Lập từ một người ngày ngày ,với đôi gánh trên lưng, rao bán đậu hủ khắp làng trên xóm dưới trở thành một chủ tiệm vàng bề thế của khu quận lị. Giữa hai căn nhà lớn ấy là túp lều bé nhỏ, rách nát của mẹ con tôi. Thời gian trôi, chúng tôi nhiều tuổi dần, rồi rời khỏi làng đi học xa, chúng tôi vẫn liên lạc đều đặn với nhau.

    Những dịp lễ, Tết, ba đứa đều hẹn về rồi quyện lấy nhau như hình với bóng. Vân càng lớn càng thanh thoát từ hình dáng bên ngoài đến lời ăn tiếng nói, tôi thường hình dung tâm hồn Vân trong xanh như một viên ngọc bích, trong Vân không có sự phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Tôi cảm thấy cuộc sống của mình không thể thiếu Vân được nữa nên nhiều lần định ngỏ lời, nhưng ngại ngùng rồi lại thôi. Tôi tặng Vân thật nhiều bông cỏ giêng. Vân bảo thích loài bông cỏ này thế là tôi lên đồi bứng cả gốc rể về trồng kín quanh mảnh sân nhà.

    Lạ lùng! Lúc ấy, duy lúc ấy, mỗi cánh tím rung rinh là tâm hồn tôi như vừa nhận được giọt mật lịm ngọt hạnh phúc, cả vườn tím rộ là tâm hồn tôi thấm đẫm cả mùa màng ngọt ngào, nhạc ru đến đê mê, lời lay đến ngất ngư khờ dại, tình vun lên đến như sóng như núi, náo nhiệt nóng bỏng.

    Tôi đang học giữa năm cuối cùng thì nhận được giấy mời đám cưới của Lập với Vân. Đất trời quanh tôi chao đảo. Ngày đó, tôi thất thểu đội cái nắng Sài Gòn đi bộ gần hai chục cây số ra ngoại vi thành phố tìm một người bạn cùng lớp để… uống rượu. Rượu càng nhiều tâm hồn tôi càng bị thiêu đốt, làm như nỗi buồn đã nhân lên hàng trăm ngàn lần. Tôi không lí giải được điều gì với chính mình.

    Sau thời gian lang thang khắp đất Sài Gòn, tôi về lại quê, đứng nhìn khu vườn cỏ giêng nở tím giữa hai căn nhà lớn, người tôi tê tái, rã rời. Tôi quỳ xuống đám bông dại ấy hồi lâu. Sắc tím chiếm ngự mắt tôi. Người tôi ngợp tê bởi sự lan truyền, run rẩy của từng cánh hoa. Từng mảnh sắc sậm dần ảo diệu, chỗ mơn trớn, chỗ thu mình như trong sắc có hương, trong hương có sắc. Phải chăng linh hồn hoa bé mọn mà đau nặng nỗi đời.

    Cũng từ ấy, một suối nhạc dâng lên khúc cao trào, mô phỏng những đầu gai tim tím, li ti liên tục châm chích vào trái tim chết điếng của tôi, càng lúc càng nhanh dần cho tới khi hồn tôi với hồn bông cỏ giêng thành một, bỗng ham muốn gục xuống, cuộn vào bên trong, ham muốn chui vào một lớp kén ảo giác để tìm cứu cánh cuối cùng.

    Tôi từ từ ra đứng bên lề đường, rồi đứng suốt đêm ấy, mắt tôi tròn căng, tôi nhìn mà không nhìn, chân tôi mất dần cảm giác, tôi đứng mà đảo chao nghiêng ngã. Tôi đi thẳng lên núi xin quy y rồi ở lại chùa luôn, tôi vác đá đi lên dốc đá, tôi vác mình vượt khỏi nỗi đau chính mình. Tiếng chuông chùa kia thoạt đầu cũng vác mình nặng lắm, đâu chứa được những diệu âm thức tỉnh phải không?

    Anh chàng nhà thơ lang thang bảo chính gia đình anh mua lại khu vườn có căn lều của mẹ con tôi. Khi mẹ tôi qua đời, tôi có về rước vong mẹ lên chùa, nhưng việc bán nhà lại giao cho một người bà con, nên tôi không hề biết người mua. Nhà thơ trẻ kể rằng: Khi đám cỏ giêng quanh nhà bị dãy sạch, tới lúc un đống đốt, có người đàn bà nhà bên ôm con đứng nhìn sang. Cái nhìn lạ lắm, hình như là thẫn thờ, hình như là dại đi!...Nghe đến đó, chuỗi hạt bồ đề trên tay tôi chợt rơi xuống đất. Anh chàng nhà thơ lúng túng nhặt giúp. Mắt anh ta như vầng trăng hạ huyền chợt sáng lên lúc về khuya.

    …"Nghe đâu chồng của người đàn bà này, sau chuyến thoát chết trên một chiếc tàu chở gạch ra đảo bị sóng lớn phủ qua, gạch ướt, tàu chìm, ông ta bám trên tấm gỗ bị trôi dạt mãi tận vịnh Thái Lan, tưởng đã chết, chết trở về nhung hoá thành một kẻ tạp ăn, tạp uống, bị ám ảnh bệnh hoạn về miếng ăn. Ông ta bắt được con chuột đưa ngay lên miệng cắn nhai rao ráo, còn nửa con bỏ túi để dành.

    Người ta còn kể: có lần ông ta ăn bọ cạp bị con vật này chích sưng vù cả miệng, ông ta hét lên: -Mày cắn, tao cũng để dành! Cả ngày, đi đâu cũng có con bọ cạp trên vành môi sưng to, đỏ mọng, thỉnh thoảng, ông ta chóp chép thèm thuồng nhưng lại cứ để dành, chốc chốc cứ khóc hu hu như trẻ nít. Có lần ông ta đào được con heo con ai đó chôn đã vài ngày, ngồi xé thịt ăn ngon lành, mùi thúi nồng nặc mà ông ta cứ hít lấy hít để rồi lẩm nhẩm: -Để dành! Để dành! Ông ta lại chổng khu cào đất lấp phần thịt thúi ấy lại. Những màn để dành của ông ta làm rợn tóc gáy, làm lợm bữa ăn của những người dân trong làng, có người thấy ông ta là không thể ăn gì được. Ông ta uống rượu say vác cái mạng hôi thối về đòi ngủ với vợ, không cho là rượt đánh cô vợ náo động canh khuya làm mất ngủ cả làng. Công an xã bắt nhốt, ông ta quỳ xuống, ngước mặt nhìn tấm lịch người mẫu treo trên tường, hét lên:_ Đẹp quá! Xấu như tôi bị nhốt đã đành, đẹp như cô sao cũng ở đây…Ha ha. Công an bực mình cho ông ta là cố tình gây rối trật tự trị an nên đưa đi Huy Khiêm cải tạo. Từ đó, con chẳng có tin tức gì về ông ta nữa cả."

    …" Người đàn bà ấy, ngày ngày, tay xách cái cân đòn, tay xách giỏ tôm mua lại ở làng biển bên kia sông, đi rao bán khắp làng trên xóm dưới. Con Tôm, ai cũng gọi bà ta như thế, người ta gọi, người ta bình nhất nhất đều chỉ là cái tên ấy: "Con Tôm đến kìa!", "Con Tôm trông tiều tụy nhưng vẫn còn nét quý phái", " Con Tôm đẹp gái lại là dân có học đó, cứ nhìn mắt nó thì biết"…
    Cứ tiếng rao tôm của "Con Tôm" cất lên là đúng năm giờ sáng, lâu thành quen, đều đặn thành lệ. Cả làng ai cũng xem đó như cái đồng hồ. Người vào rú, vào rẫy nghe tiếng Con Tôm thì lục đục dậy nhóm bếp, xới cơm, học trò nghe tiếng rao của Con Tôm thì tỉnh thức ôn lại bài chuẩn bị đi học… Đến một ngày, cả làng dậy muộn, học trò trễ học, chân nam đá chân chiêu. Người làng bàng hoàng nhìn nhau khi hay tin Con Tôm đã qua đời vì bệnh ung thư.

    "Bệnh phát cả tháng nay mà cô ấy ráng đi bán tôm",

    "Buồn vậy hỏi sao không bệnh ung thư?",

    " Trước khi trút hơi thở cuối cùng, nghe đâu cô ấy dặn con trai:

    -Nhớ trồng bông cỏ giêng chỗ mẹ nằm, nghe con…!"

    Anh chàng nhà thơ lang thang kể cho tôi nghe hết mọi chuyện rồi đột ngột hỏi: -Bạch thầy! Đạo là gì? Tôi định mượn câu của Nam Tuyền Phổ Nguyện để trả lời " Bình thường tâm là đạo", nhưng sáo quá nên thôi. Cuối cùng tôi nói: "Với hoa, vũ trụ nở! Ai bảo xuân không có màu tím? Thỉnh thoảng nên lắng tâm, anh trở về với đồi cỏ giêng của anh, tôi trở về với mộ cỏ giêng của tôi, ấy là đạo vậy".

    Thật sự lúc ấy, tôi nghĩ mọi nỗi buồn của nhân gian đã hoá thân thành bông cỏ màu tím gắn bó với cuộc đời tôi kia, để mùa xuân được sạch trơn, trong ngần đến rực rỡ.
    Chẳng biết ghé thăm chùa từ lúc nào, ngay lúc ấy, sư thầy tôi xuất hiện: "Nghĩ xanh là xanh, nghĩ tím là tím. Mô Phật! Buông xả! Niệm như sóng của nước có gì lạ đâu. Sao không đi chuẩn bị Tết nhứt đi! Bộ tu là không ăn Tết à? Nhân giả nhân dã!!!

    Lúc ấy, tôi chợt ngộ, hình như anh chàng nhà thơ cũng ngộ nên tiếp ý của tôi mà cất giọng:

    Chúa xuân lau ưu phiền

    Đồi xuân nở cỏ giêng

    Nhìn hoa, vũ trụ sáng.

    N.H.


    .

    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      Buffet truyện ngắn miền Trung

      .
      Vòng vèo thật giả chỉ là một tình huống hết sức giản đơn mà ai trong chúng ta cũng đã từng hơn một lần đối diện , hoặc chủ động , hoặc chỉ là nạn nhân . Thật hay giả ? Đúng hay sai ? có rạch ròi được chăng hay tất cả cũng là chỉ do chính ta áp đặt ? Ái Duy

      Vòng vèo thật giả
      Ái Duy

      Khi những ngón tay thoăn thoắt đếm tiền của con bé giúp việc ở cửa hàng khựng lại nửa chừng, linh tính chẳng lành khiến tim Thanh thót lên một cái. Chị cố giữ vẻ điềm nhiên nhìn nó rút tờ giấy bạc một trăm ngàn ra khỏi xấp, nhanh nhảu đến hỏi ý cô chủ của mình. Chủ tiệm là người quen biết lâu năm của chị, cô ta cầm lấy nó và chỉ liếc qua rồi cười tươi như hoa, nhỏ nhẹ:

      "Chị đổi cho em tờ bạc này".

      "Sao vậy?", Thanh lúng túng thật sự.

      "Tiền giả", cô ta đáp gọn lỏn, ánh nhìn đầy ngụ ý.

      "Trời đất !" – Thanh là người biết chế ngự cảm xúc của mình. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể như thế này thì cần phải tỏ ra cảm thán nhiều hơn nữa. Tiền giả, cô chỉ nghe nói nghe đồn chứ chưa cầm phải bao giờ!

      Cô sửng sốt đón tờ giấy bạc đó lên săm soi. Nó quả là nhẹ, mỏng hơn bình thường một chút nhưng cái vẻ nhàu nhò dơ bẩn như đã từng truân chuyên lưu lạc qua nhiều đời đã đánh lừa cái cảm giác ban đầu về một sự giả tạo. Rồi Thanh ngượng ngùng đưa nó lên cao soi về hướng sáng theo cái cách mà người ta hay bày – không có cái hình chìm hình nổi nào hiện ra cả, chỉ toàn là những đường lằn và những vết xếp ngang dọc cẩu thả.

      "Xin lỗi, chị không biết, không nhớ ai đã đưa cho chị tờ này",
      Thanh lúng túng vét túi, số tiền còn lại không đủ để bù vào chỗ đó.

      "Chị cứ để hôm khác lấy hàng rồi đưa cho em cũng được", cô chủ hàng lại đon đả, tay chuyển kiện hàng đã đóng gói xong đưa ra cho chị.

      "Ừ, cho chị thiếu vậy, chị chỉ mang đúng chừng đó tiền để lấy hàng".

      Thanh chào đi ra, lưng cổ nhột nhạt ngứa ngáy. Chị cố đi chậm rãi, dắt xe thật từ tốn và nhẹ nhàng nổ máy vô số lướt đi. Chắc mấy con bé ấy đang hả hê vì ngăn chặn được một âm mưu phát tán tiền giả. Chắc nó nghĩ đã bắt quả tang được một con mẹ lừa đảo. Chắc nó nghĩ, ai mà ngờ được chỗ quen biết hiền lành như vậy lại đi tráo trở nhau. Thanh khổ sở đưa tay sờ lên mặt mình, may mà nó chỉ nóng lên chứ không tái xanh, nếu không thì trông mình cũng giống thế thật.

      Đường phố tấp nập xe cộ khiến Thanh tĩnh trí lại ngay. Bao nhiêu là người vèo vèo lướt qua mắt cô. Ai là người trong số đó đã đưa cho cô đồng bạc quái quỷ này nhỉ? Vào lúc nào mà nó lại chui vào cái ngân sách eo hẹp của cô?

      Thanh chỉ có một sạp hàng bán tạp hóa nhỏ ngoài chợ, một mình cô phải cáng đáng đủ thứ từ việc ngồi bán cho tới chạy hàng giao hàng, thu tiền các đầu mối. Doanh thu mỗi ngày của sạp hàng vào lúc ế ẩm có khi chỉ đôi ba trăm, có nghĩa là tần số xuất hiện của những tờ bạc 100 ngàn như thế là không nhiều. Thanh căng óc suy nghĩ. Nó nằm trong số tiền cô thu được trong năm ngày trở lại đây mà thôi. Khách mua hàng cô đều nhớ mặt, chỉ qua lần thứ hai là thành quen. Chợ nhỏ nên hầu như mọi người đều biết nhau.

      Hay là của bà Năm Ù chuyên mua rồi bán lại cho người ta trả góp? Bà này thuộc loại có số trong giới võ lâm, chị em bán hàng ít ai mà bán quá giá cho bà được tới 200 đồng lẻ. Chắt bóp ki bo mãi mà bà ta cũng sắm được cho mình một cái nhà hai tầng ngay mặt đường. Mỗi cái đức ông chồng là tậu hoài mà cũng trật vuột. Năm lần bảy lượt bà ta cũng kiếm được người về nâng khăn sửa túi, nhưng chỉ thoáng qua vèo một cái là mất dạng, lại thấy bà lủi thủi nặng nề đi về một mình. Thiên hạ ác miệng, dè bỉu cái thân thể đồ sộ một mét bảy, nặng gần tạ của bà phải được đóng thùng xuất khẩu. Mỗi ngày, bà gom không dưới trăm đầu hụi chết, tiền bạc qua tay rồi phát tán đi lung tung biết đâu mà lần. Cách đây hai hôm, bà ghé hàng Thanh lấy thùng xà bông, trả hơn ba trăm ngàn tiền gối đầu cũ, chắc chắn là phải có loại giấy bạc 100 ngàn trong đó. Nhưng cái cách đếm tiền của bà chắc khó mà qua mặt lắm bởi từng tờ một đều được rút ra thận trọng, lật qua lật lại cả hai mặt và được dí tận mắt xem xét. Trừ đàn ông ra, chứ còn tiền vô tay bà thì làm sao mà nhầm lẫn được nhỉ?

      Hay là của thằng cha rảnh miệng đi chiếc Attila màu mận? Dám lắm, lần nào ra mua hàng cũng tán tỉnh cọ quẹt từ đầu chợ tới cuối chợ, từ chị bán mắm cà tới bà bán bánh chuối. Hôm đó, hắn hỏi mua lố dao cạo râu, lựa chọn mãi trong cái bóp mới móc ra tờ bạc 100 ngàn đưa cho Thanh, còn đưa đãi là vì anh ghé hàng em đầu tiên lấy hên mau mắn ngọt ngào nên không có tiền lẻ, em thối cho anh đi chợ mua thức ăn, hôm nay bà xã anh đi làm cả ngày bỏ anh bơ vơ… Nhạt phèo!
      Làm như Thanh không biết bà xã của chả là ai. Quanh năm suốt tháng chị ta tất tả đi đánh ghen, săn tìm hang ổ tình địch. Nhưng tình địch của chị lại được thay đổi xoành xoạch, chưa kịp nhớ mặt thì đã lỗi thời thì làm sao mà tìm ra nơi ẩn náu? Hừm, thứ người lừa tình được thì lừa tiền được. Nhưng sao khi đó mình cũng mê muội mà nhận tờ giấy bạc tội nợ này từ tay chả? Ồ mà chắc không phải đâu, có đời nào mình thèm ngó thẳng vào mặt chả để có thể lơ là quên nhìn tờ giấy bạc?

      Thôi chết, chắc rơi trúng vào cái ngày chủ nhật toàn thành phố cúp điện, gặp trời mưa dầm cả chợ tối om om. Thế nào kẻ gian cũng nhân cơ hội mà hành sự. Hôm đó, sạp hải sản khô bị rinh mất một rổ mực, sạp áo quần bị tuột mất mấy cái áo pull chỉ còn trơ móc áo, hàng bánh tráng bị mất nguyên một chồng… Mình đã cười mấy bà mấy chị mất cảnh giác.

      Phải rồi, hôm đó có một con bé trên cả tuyệt vời với đôi chân dài và nửa cái bụng trắng nõn phơi cả rún ra ghé mua hàng mình. Ai cũng trầm trồ khen nó đẹp còn hơn cả người mẫu. Nó độ chừng mười tám đôi mươi là cùng, đôi gò má non tơ mịn màng còn cả lông măng, cả cái giọng nói cũng ngây thơ ngọt lịm len lỏi vào tận tâm can người nghe. Nó hỏi mua chai xịt phòng giá ba mươi hai ngàn, không trả giá, còn nhẹ nhàng khen chị bán rẻ rồi rút ra một cái ví căng phồng lấy tiền đưa cho Thanh. Thanh còn nhớ cái cảm giác thán phục của mình khi đó, người đâu mà vừa trẻ đẹp vừa sang trọng, chắc hẳn Việt kiều về nước.

      Ấy thế mà khi nó vừa quay lưng đi đã có mấy chị bạn hàng chạy sồng sộc tới, tranh nhau kể. Con đó là ca-ve lừng lẫy, Tây ta xếp hàng dài gục đổ như rạ, nó là ổ "si-đa", là ma cà rồng hút máu người… Thanh nghe mà cứ như bị ai tạt cho một gáo nước lạnh vào mặt. Cô cứ quen mang trong đầu ấn tượng cổ lỗ sĩ về những người đàn bà làm nghề bán thân phải trầy trụa nhếch nhác và tô trát son phấn với mùi nước hoa rẻ tiền nồng nặc.

      Hừ, vậy nó cũng là nghi can số một trong cái vụ án tiền giả này. Chứ còn sao nữa? Những người trao tiền vô tay nó đa phần không quang minh chính đại, tội vạ gì mà họ không lập lờ đánh tráo trong cái mối quan hệ như vậy?

      Nhưng mà, chị hoài công lục lọi những khuôn mặt người như thế để làm gì nhỉ? Giả dụ như biết đích xác ai đã đưa tờ bạc giả thì chị có dám tìm người ta căn vặn để đổi trả khi mà đã qua mấy ngày rồi không? Thanh lùng bùng quá. Cả đời chị thua thiệt cũng vì nhút nhát và rụt rè, ít khi nào dám tra hỏi cặn kẽ ai điều gì đừng nói là lừa người khác. 100 ngàn bỗng chốc hóa tờ giấy lộn, lẽ nào Thanh phải lãnh lấy hậu quả này?

      Lẽ ra Thanh đã có một buổi chiều cuối tuần vui vẻ với bạn bè trong quán cà phê hay trong một buổi dã ngoại nào đó vừa với mức sinh hoạt phí ít ỏi của mình. Hoặc cô có thể mua cuốn sách mà mình ao ước, một cái áo khoác nhẹ cho mùa đông, một hộp thuốc bổ… chỉ với số tiền đó. Nhưng thôi, không có cũng được. Vấn đề ở chỗ, chẳng lẽ mình là một nạn nhân ngoan ngoãn buông tay quy hàng của trò tráo đổi thật giả này?

      Biết trách ai đây hở trời?

      Thanh dừng lại, cô lôi tờ giấy bạc đó ra ngắm nghía, thật ra với thị lực 6/10 như cô thì không thể nhận ra nó khác chỗ nào nếu chỉ cầm lên tay và nhìn lướt qua. Nhưng chắc gì nó là tiền giả như lời con bé ấy nói? May lỡ chỉ là một sự nhầm lẫn chủ quan của nó hay là lỗi kỹ thuật của máy in thì sao? Có thể lắm, ban nãy vì mình bối rối quá nên mới tin lời nó, chứ cái gì cũ mà lại chẳng mòn bớt đi nói gì cái hình in trên giấy? Thôi chắc đúng rồi, cái con bé ấy tệ thật, thế này mà nó dám bảo là tiền giả báo hại mình tiếc của nãy giờ.

      Trên đường về, Thanh tạt vào sạp báo quen lấy một tạp chí thời trang, giá mười ba ngàn. Tờ giấy bạc 100 ngàn đang bắt đầu cựa quậy trong túi Thanh, cô đã đưa tay chạm vào nó. Có thêm một người khách bước vô mua báo đứng cạnh cô. Chỉ có vậy mà Thanh chột dạ, cô rút tờ 20 ngàn ra trả, quay đi mà lòng tràn ngập thất vọng và tiếc nuối. Sao mình lại không dám chống trả cái sự phi lý mà bỗng dưng rơi trúng vào đầu mình?

      Không thể ném tờ bạc này vào chỗ người lạ được. Nếu phát hiện ra nó thực sự là thứ giả người ta sẽ lập tức nghi ngờ chị là kẻ gian và lắm điều phiền toái dẫn theo ngay. Họ có thể làm ầm lên, có thể sỉ nhục chị, có thể áp giải chị tới nhà chức trách. Ở chỗ quen thì khác, người ta có thể châm chước vì nhân thân của chị tốt không tiền án tiền sự, chị có thể chống chế và rút lui an toàn mà còn nhận được sự thông cảm của họ.

      Thanh đi chậm lại trước một nhà thuốc tây, mấy năm trước chị là thân chủ ruột của nó. Người đàn ông chủ tiệm này là một lang băm thứ thiệt mà có lần chị suýt thiệt mạng vì bị sốc với thứ thuốc kháng sinh mà ông ta dứt khoát là cần thiết đối với chứng bệnh của chị. Lần ấy, chị bỏ qua vì nghĩ mình cũng có lỗi, nhưng sau nghe quá nhiều chuyện không hay về tài thăm khám cho thuốc của ông ta thì chị thôi hẳn không ghé lại tiệm thuốc của ông ta nữa.

      "A, chào người đẹp. Anh cứ tưởng em du lịch xuất cảnh đâu mất rồi, sao lại gặp nhau đây?".

      Thanh cười gượng "Cho em lọ vitamine E".

      "Có ngay, E thiên nhiên đây em ạ, đẹp da chống lão hóa. Chỉ có năm mươi hai ngàn uống một tháng".

      Thanh cắn răng rút tờ 100 ra, "Vâng, em gửi tiền".

      Gã cười cười vỗ nhẹ lên bàn tay Thanh, "Trông em xanh xao quá, coi chừng mất ngủ thiếu máu, phải lấy thêm thuốc uống bổ sung đó nghe!".

      Thanh cố mỉm cười, mắt không rời nhìn theo tay gã đang giữ tờ giấy bạc của cô. Gã nhìn nó, rõ ràng là có nhìn nó trong hai giây rồi ném tọt nó vô cái ngăn kéo đầy ắp những tờ giấy bạc đủ loại, nhoay nhoáy đếm tiền thối. Một cảm giác tội lỗi nhói lên trong Thanh nhưng cô kịp thời giữ nó lại. "Cám ơn anh, chào anh ạ!" – Rồi cô thong thả quay đi.

      Thế là xong, Thanh đã cất được cái gánh nặng chình chịch u ám từ sáng tới giờ. Cô cảm thấy lòng mình trống rỗng không vui không buồn, không ân hận áy náy cũng chẳng hoan hỉ thắng lợi. Tờ bạc phiền toái đó đã đổi chủ. Nếu đúng là giả, người ta sẽ lại phát hiện ra nó, và cũng như Thanh, họ sẽ mau chóng tìm cách tống khứ nó đi càng sớm càng tốt. Chỉ có điều Thanh biết chắc chắn, nó vẫn sẽ lưu hành ngang nhiên với cái giá trị mà nó đang mang trên mình, bất kể mọi sự nghi ngờ giả thật. Trừ phi một kẻ lơ mơ nào đó mang nó đi nộp vào Ngân hàng Nhà nước, khi đó thân phận nó sẽ bị bại lộ, và khổ chủ cuối cùng này mới là người ôm mối hận tiền mà không biết than thở chia sẻ cùng ai.

      Thanh về nhà. Cô sà vào bếp kể cho mẹ và lũ em nghe là mình vừa bị dính một tờ 100 ngàn tiền giả. Mọi người tròn mắt ngạc nhiên và giận dữ xúm nhau hỏi han, hối thúc cô lấy ra cho họ xem. Thanh thủng thẳng, "Xài lại rồi!". Ai nấy ồ ra cười, xôn xao, tranh nhau bình luận. "Thì phải vậy thôi, chẳng lẽ lại bỏ đi!". "Thôi chết, từ giờ phải cẩn thận hơn mới được". Thanh không nói gì thêm, lẳng lặng bỏ lên phòng mình.

      Tối hôm sau đi chơi với người yêu Thanh ngại ngần không muốn nói ra, dù từ trước tới nay anh là người duy nhất cô chẳng hề giấu giếm điều gì. Mãi, khi anh gửi cho cô ba tờ giấy bạc một trăm ngàn nhờ mua giùm mấy ký mực khô để gửi về quê làm quà cho gia đình, Thanh mới đắn đo dặn dò anh, từ nay nhận mấy tờ giấy bạc lớn phải lưu ý nhìn cho kỹ để khỏi bị lừa, rằng tiền giả thì giấy mỏng hơn, hình nhòe hơn, không có hình chìm, không có sớ giấy, vân vân và vân vân. Bắt gặp vẻ dò hỏi giễu cợt trong mắt anh, Thanh chữa thẹn bằng cách vờ trịnh trọng cầm ngay mấy tờ bạc anh đưa soi lên bóng đèn. Chứ còn sao nữa, thật giả lẫn lộn sờ sờ bên cạnh ai mà biết được!

      .
      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      • #4

        Buffet truyện ngắn miền Trung

        Người đàn bà phải bán thân xác là một nỗi nhục lớn , nhưng chưa bằng nỗi nhục của người nghệ sĩ cam tâm bán rẻ linh hồn mình để đổi lấy danh lợi. Câu chuyện này là bi kịch giữa chữ Tài , chữ Tâm , có thể không xa lạ chút nào trong cuộc sống chúng ta. Trần Thuỳ Mai.




        NGƯỜI BÁN LINH HỒN

        Người đàn bà ngồi trên chiếc ghế chạm trổ,đẹp lộng lẫy với cái mũi dọc dừa cao quý và đôi lông mày vút lên như hai cánh hạc.

        Đó là nữ chủ nhân gallery Kình Dương.Vào 8 giờ tối nay,gallery sẽ mở cửa lần đầu. Chừng hai trăm nhân vật trong thành phố đang chuẩn bị đến dự lễ. Những người giàu tưởng tượng bị hình ảnh con nhân sư trên tấm thiệp thu hút, còn những người thực tế và tò mò thì bị hấp dẫn bởi tin đồn rằng gallery Kình Dương, tọa lạc nơi một tòa nhà bốn tầng đồ sộ, ngay một mặt phố lớn, sẽ là ngả tư của các đường dây buôn bán tranh quốc tế, và sở dĩ nó có được sức mạnh đó chính vì có một thế lực ngầm rất lớn đằng sau nữ chủ nhân xinh đẹp.
        Suốt hơn tháng này ,những gì liên quan đến Kình Dương đều trở thành chất men kích thích tính hiếu kỳ của mọi người: sắc đẹp của Tuyết N., lai lịch miếng đất và nguồn tiền xây dựng ngôi nhà, những họa sĩ và nhà thơ thường lui tới đó, những bức tranh sẽ được trưng bày... Tất cả đều khơi nguồn cho những câu chuyện nóng bỏng với nhiều chi tiết thêu dệt chẳng khác nào truyện cổ tích.


        Tuyết N. cũng hiểu rõ rất nhiều ánh mắt đang nhìn về phía mình, vì vậy, nàng đốc thúc đàn em phải tổ chức lễ khai trương thực chu đáo, không được để xảy ra một sơ xuất nhỏ nào. Nàng muốn ngày mai, mọi chi tiết của buổi lễ sẽ được trầm trồ trên cửa miệng của mọi người dân thành phố, tạo thành một thanh thế vô giá cho nàng.

        Đoàn tiếp viên được lựa chọn thật kỹ, tất cả đều là những thiếu nữ trạc hai mươi, khoác áo dài cách tân may bằng lụa tơ tằm đỏ thắm. Người cầm giỏ hoa, người bưng khay rượu, tất cả đang thướt tha tiến lên, lui xuống theo sự hướng dẫn của một viên đạo diễn. Tuyết N. ngồi nhìn, chân đặt lên cái đôn thấp bọc nệm. Bàn chân nàng trắng, nhỏ và nuột nà, làn da ở gót mỏng và ửng hồng, nằm ngay ngắn như một bảo vật trên tấm nệm nhung.

        "Hầu hết thời gian của buổi tiệc đứng, chị sẽ ngồi ở đây". Viên đạo diễn dặn dò. "Tất cả việc thù tiếp đã có người lo. Chị chỉ có một nhiệm vụ duy nhất, là phải đẹp". Tuyết N. gật đầu, nàng mỉm cười với đạo diễn, nụ cười cao sang và quyến rũ như một thứ hào quang vụt sáng khiến anh ta cúi đầu thuần phục.

        Giữa lúc ấy ngoài cửa có tiếng lao xao, Tuyết N. quay đầu lại, cử chỉ ngoái đầu làm căng lớp áo mỏng khiến một phần bộ ngực tươi tắn như hiện ra đập vào mắt người đàn ông đang cúi xuống. Y không rời mắt khỏi nàng, miệng kêu lớn:

        - Hôm nay không tiếp khách nữa đâu nhé, bà chủ và tôi ai cũng bận lắm.

        Hai gã bảo vệ ngoài thềm đã nhanh chóng đóng sập cửa chính, ngăn không cho người vừa đến bước vào. Đấy là một cô gái mảnh dẻ có mái tóc dài xõa bung xuống hai vai. Cô nhìn như muốn xuyên thâu cánh cửa khép kín, nài nỉ:

        - Cho tôi vào gặp bà chủ đi. Một chút thôi, không mất nhiều thời giờ đâu.

        Gã bảo vệ khinh khỉnh nhìn cô gái. Ánh mắt gã lướt trên đôi chân che kín trong chiếc quần Jean đã bạc, chiếc áo sơ mi rộng lùng thùng cho phép người ta đoán ra một khuôn ngực mỏng không mấy hấp dẫn, còn mái tóc thì chẳng theo một kiểu gì dứt khoát: nó quăn dài, lộn xộn như những đợt sóng đang bốp chát lẫn nhau trên bãi biển vắng. Ánh mắt gã đàn ông lướt qua với vẻ bỉ thử như ánh mắt người ta thường ném lên những món hàng thứ phẩm trên sạp chợ hạ giá; cuối cùng thì ánh nhìn anh ta cũng tươi lên đôi chút khi dừng lại nơi đôi mắt to đen với hàng lông mi dày và cong, trông man dã và nồng nàn.

        "Này cô em, biết điều thì xéo đi thôi. Ở đây..."

        Câu nói được bỏ lửng, nhưng cô gái hiểu ngay gã muốn nói "Ở đây có ai như cô đâu". Đúng thế, hai gã bảo vệ này ăn mặc láng bóng từ đầu đến chân, đứng trên thềm đá láng bóng, trước những tấm kính lớn cũng láng bóng. Cô gái hiểu ra mình đang xuất hiện trên cái nền sáng loáng này như một vật sù sì và luộm thuộm nhất. Mím môi, cô lùi lại, trong mắt phát ra những tia sáng giống như từ mắt một con beo nhỏ bị thương.

        Chỉ mất một giây để tính toán, cô gái quay ngoắt lại, bỏ đi. Con phố lớn trước gallery Kình Dương có nhiều ngõ nhỏ, các ngõ cũng được trải nhựa đường, có thể nói là những con đường nho nhỏ dù chẳng có tên: Đấy có thể xem là những phố dành cho người đi bộ, nơi khách du lịch thường đi dạo để tìm mua những món quà lạ. Cô gái đi quẹo vào ngõ , bước vào một căn hộ. Căn hộ ấy trông chẳng giống nhà ai, bởi nhìn vào thấy toàn những tranh vẽ treo la liệt; đấy là một xưởng vẽ, với những tác phẩm được trưng bày chẳng theo một trật tự nào nhưng lại toát ra một vẻ hài hòa kỳ lạ làm người ta nhìn mãi không chán mắt.

        Cô gái đi thẳng vào, rồi bước qua cái cửa nhỏ dẫn vào phòng trong.

        Trái ngược với gian bên ngoài xinh xắn, căn phòng này tiều tụy và luộm thuộm, đồ đạc chỉ có độc một chiếc giường đôi với mấy cái ghế nhỏ xíu, nhỏ đến nỗi có thể lầm là mấy chiếc đòn. Một cái giá vẽ nằm trong góc, chung quanh là rất nhiều tranh vẽ lở dở, dựng bừa bãi ở chân tường. Một cửa sổ nhỏ phía sau đủ cho một luồng ánh sáng tỏa xuống, soi rõ gian buồng ảm đạm.

        Trên cái giường bừa bộn, một người trẻ tuổi ngồi dựa vào vách. Chàng đang nguệch ngoạc những nét phác thảo trên một phiến giấy trắng. Ánh sáng từ cửa sổ đọng lại trên bờm tóc quăn rũ trước trán và sống mũi thanh tú. Cô gái dừng lại trên ngưỡng cửa, ánh mắt cô đầy vẻ yêu thương.

        Chàng trai ngước lên, thấy cô, chàng không giấu được vẻ vui sướng. Quẳng cả bút và giấy xuống giường, chàng reo lên và vươn tay ra; cô gái như con mèo nhảy thót vào lòng chàng.

        Họ ôm nhau rất lâu, bất động, những cánh tay càng lúc càng riết chặt. Mũi họ hít càng lúc càng sâu vào lồng ngực mùi da thịt của nhau, một nỗi hứng khởi sâu sắc và mãnh liệt làm cả hai như bay lên, bay mãi.

        Khi không thể riết chặt hơn nữa, cô gái buông tay ra, ngã vật xuống giường. Cô vùng dậy, lao vào góc phòng, lục lọi trong chiếc tủ cũ và lôi ra một bộ váy màu tím vốn bị nhét trong một góc. Cô vuốt vuốt mớ váy áo, chất thun tốt còn mới nhanh chóng duỗi ra, cho thấy bộ y phục còn khá đẹp và sang trọng.

        Đấy là bộ cánh Na sắm từ thuở mới ra trường,đã từ lâu không động đến.

        "Em làm gì vậy?" Chàng trai hỏi. Cô gái vắt bộ y phục lên thành ghế, bắt đầu ngồi xuống trước gương, chải tóc, kẹp gọn lên, đôi mắt vốn đã to và sáng càng long lanh hơn.

        - "Tuấn ơi, sáng nay bà chủ nhà có đến không?"

        - "Có" - Vẻ mặt Tuấn đang vui chợt cau lại. "Mụ ta thật láo, nhất định chỉ muốn gặp em thôi. Na à, có phải ý mụ ta xem anh là một gã vô tích sự không?"

        - Không phải thế đâu, chẳng qua là vì em đã dặn mụ ấy không được làm phiền anh về những chuyện tầm thường.

        Nàng kéo bàn tay phải của chàng trai , cầm từng ngón lên nhìn, rồi lại nhìn từng ngón của bàn tay trái. Mười đầu ngón của Tuấn, có đến chín ngón có hoa vân tay. Cô gái hôn lên từng cái hoa tay ấy, vẻ như đang lục lại những viên ngọc trong kho báu của mình.

        "Một ngày kia anh sẽ là một họa sĩ vĩ đại" Cô thì thầm với vẻ thương yêu sùng kính.

        Tuấn vẫn không thôi lo âu:

        - Nhưng chuyện gì vậy? Anh thấy dạo này em đứng ngồi không yên, lúc nào cũng như đang nghĩ ngợi đâu đâu. Em giấu anh làm gì?

        Na đắn đo một giây, rồi nàng lắc đầu quyết định không nói cho Tuấn biết.

        Có người đang muốn dành thuê căn hộ hai người đang ở.

        Hai nghìn rưỡi đô cho ba năm, số tiền đó có thể không đáng kể với nhiều người, nhưng với đôi tình nhân họa sĩ này là một thách thức quá lớn. Vì vậy Na đã giấu chàng con số mà nàng cho là quá kếch sù ấy để chàng khỏi khiếp hãi.

        Nàng đứng vụt dậy, chạy đến sau lưng Tuấn kéo mạnh bức màn, để lộ một bức tranh sơn dầu cỡ lớn. Trong tranh là một phụ nữ bán khỏa thân: đó là Na, dưới nét cọ tài hoa của người đàn ông yêu nàng. Vẫn mái tóc ấy, đôi mắt ấy, vẫn thân thể mỏng manh ấy nhưng dường như là một Na khác: bất cứ ai đứng trước bức tranh cũng bồi hồi xúc động mà không hiểu vì sao. Họ không biết đã có một ngọn lửa cháy rực từ nỗi say đắm của người họa sĩ, ngọn lửa thần ấy chiếu lên thân thể người đàn bà để soi sáng cho người ta thấy phần linh hồn ẩn sâu đằng sau da thịt. Cả bờ vai mỏng và đôi vú nhỏ - mà những gã đàn ông dung tục vẫn đánh giá như thứ hàng chất lượng kém - ở đây cũng hiện nguyên hình với vẻ đẹp khắc kỷ xót xa mà người ta thường gặp ở những tranh thánh thời Trung Cổ.

        Na tiếc đau tiếc đớn khi nghĩ đến chuyện phải rao bán bức tranh,nhưng chẳng còn cách nào khác.Nàng tự an ủi rằng rồi đây nó sẽ được lưu giữ trong sưu tập của một người am hiểu hội họa.Rồi biết đâu đấy,một ngày kia nó sẽ vào nằm ở một bảo tàng,và tình yêu của nàng được ký thác trong đó sẽ còn mãi mãi cùng với giấc mơ bất tử mà nghệ sĩ nào cũng từng ấp ủ.

        Na và Tuấn yêu nhau từ năm đầu tiên học chung ở trường nghệ thuật. Tuấn là sinh viên trội bật nhất, còn Na ở trong đám đông những cây cọïû trẻ tầm thường làm nền cho lớp học. Nàng luôn khổ tâm vì những ngón tay không quyền năng, chúng bất lực không giúp nàng diễn tả những rung cảm thuần khiết nhất trong lòng nàng. Nàng cũng từng vẽ người mình yêu, nhưng bức chân dung ấy lúc nào nàng cũng giấu kỹ trong một góc tủ. Mỗi lần nhìn thấy nó, nàng lại xấu hổ, bởi cũng là mái tóc rũ trước trán, cũng là gương mặt với vẻ đẹp đàn ông, nhưng chẳng có một tí gì là quyến rũ và sức sống. Gương mặt thiên thần của người mẫu khi bị nhốt vào tranh đã hóa thành một bộ mặt thô thiển, nông cạn và chẳng có tí linh hồn.

        Sự kém tài là nguyên nhân khiến nàng dần dần xem người yêu như một thần tượng.Về sau khi đã sống chung, nàng là người yêu, người bạn, người phục vụ và bảo vệ chàng, ngủ cùng giường với chàng ban đêm, nấu ăn cho chàng ban ngày, làm người mẫu thường xuyên cho chàng vẽ, bởi chàng chẳng có tiền thuê mẫu, mà cũng không muốn vẽ ai ngoài nàng.

        ***

        Na bước lên thềm gạch bóng loáng của gallery Kình Dương, những bước chân nàng vững vàng, đầu ngẩng cao, dáng vẻ kiêu sa. Hai gã bảo vệ nhìn nàng, định hỏi, nhưng mắt nàng chỉ hững hờ lướt qua trên đầu họ. Nàng mạnh dạn bước thẳng vào với vẻ quen thuộc và tự tin, khiến họ bỗng nhiên đứng im, ngoan ngoãn mở cửa cho nàng bước qua.

        Khi nàng bước vào đại sảnh, đoàn thiếu nữ tiếp tân đã xong phần luyện tập của mình, đang ngồi nơi hai dãy tràng kỷ dài dọc theo vách. Nữ chủ nhân Tuyết N. đang bước từng bước uyển chuyển trên tấm thảm nhung màu huyết dụ, tiến về phía chiếc ghế lớn với dáng dấp như một nữ hoàng đang tiến đến chiếc ngai của mình. Theo sau Tuyết N., gã đạo diễn không rời mắt khỏi từng cử động.

        "Được rồi, tốt lắm, rất đẹp. Chị lưu ý trước khi ngồi xuống, chị sẽ xoay mình, mọi người đang nhìn tấm lưng thanh tú của chị sẽ có cơ hội nhìn thấy toàn bộ nhan sắc của chị từ phía trước. Cảm giác của họ sẽ từ tò mò vụt chuyển sang choáng ngợp, bị chinh phục hoàn toàn. Vì vậy cái xoay người này không hề tầm thường. Này nhé ...

        Tuyết N. đứng dậy, làm lại động tác. Gã đạo diễn ra vẻ cẩn thận, sửa chữa từ dáng vẻ của ngón tay đến độ nhanh chậm của hai bàn chân duỗi ra trên tấm đệm nhung dưới chân ghế.

        Giữa lúc đó người nữ khách xộc vào. Tuyết N. cau mày lại:

        "Tôi đã bảo với cô rồi. Tranh trưng bày đã chọn xong từ hơn mười ngày. Giờ này tôi không tiếp các họa sĩ nữa".

        Từ lúc vào, Na đã cố đè nén cho trái tim mình đừng đập rộn lên dưới cái vỏ lạnh lùng kiêu ngạo; giờ đây lồng ngực nàng lại loạn xạ lên với nhịp tim thon thót. Nàng cố giữ bình tĩnh:


        - Thưa bà, nghe nói mới lúc nãy họa sĩ B.D, họa sĩ T.Đ.N vẫn còn cho người đưa tranh đến.

        Tuyết N. cười, tiếng cười nàng nghe như tiếng thủy tinh và sứ chạm nhau, sang trọng nhưng rất lạnh lẽo. "Họa sĩ B.D, họa sĩ T.Đ.N? Cô là ai mà dám so với những tên tuổi ấy? Gallery của tôi chỉ nhận giới thiệu những tranh thật xịn, tác phẩm lớn của các danh họa". Tuyết N. nói rồi dừng mắt trên dung nhan và vóc dáng của người khách vừa tới. Với cái nhìn sành đời, bà ta phát hiện ra ngay những chi tiết lỗi thời trên bộ cánh mới mấy phút trước đây đã giúp Na qua mặt những người bảo vệ. Ánh mắt đóø hàm chứa sự đánh giá, khiến Na bất giác co người lại, rơi rụng hết tất cả những vẻ kiêu kỳ quý tộc mà cô đã cố đắp vào người. Tuy vậy, trong mắt cô ánh lửa dữ dội của sự liều lĩnh vẫn cháy bừng lên; cô cố gắng nói, sôi nổi và thuyết phục:

        - Thưa bà, tôi đến đây không phải vì tôi, mà vì một người khác. Một thiên tài, thưa bà. Nếu bà nhìn thấy... Bà sẽ không thể ngoảnh mặt đi. Người ta đồn rằng bà là tri âm của các họa sĩ, bà phát hiện và khơi dậy những tài năng.

        Nói rồi nàng quả quyết rút trong ngực áo ra một tấm ảnh. Đấy là ảnh chụp bức tranh lớn mà Tuấn đã vẽ, bức tranh mà chàng trai tâm đắc và yêu quý nhất trong suốt quãng đời từ khi cầm cọ đến giờ. Na cầm nó bằng hai tay, run run đưa cho người đàn bà.

        Tuyết N. đã ngồi trên cái ngai lộng lẫy, bà ta liếc qua phiến ảnh trên tay cô gái. "Thiên tài của cô đâu, sao hắn ta không đích thân đến đây?"

        Na ngắc ngứ không nói ra lời. Nàng sợ làm phật lòng người đàn bà nếu nói ra sự thật, rằng Tuấn không bao giờ chịu cúi mình cầu lụy các gallery; Rằng anh cảm thấy phải đặt tài năng mình dưới sự mặc cả của những đầu nậu là nhục nhã; rằng nàng muốn gánh lấy cái phần tục lụy của nghệ thuật để cho tâm hồn anh khỏi bị tổn thương. Làm sao giải thích chuyện này với Tuyết N.? Na lúng túng và lặng im. Dù sao bà chủ Tuyết N. đã chịu bắt lời nói chuyện với mình, đấy đã là điều đáng mừng rồi.

        Tuyết N. nhìn tấm phóng ảnh một lúc, rồi trả lại cho Na.

        - "Thưa bà ...?"

        - "Cô bảo tác giả là một thiên tài. Nhưng tôi chưa nghe tới tên y bao giờ cả".

        - "Thưa bà, thiên tài nào khi đầu cũng đã từng là người vô danh... Nhưng nếu bức tranh này được treo ở gallery trong đêm khai mạc, thì nó có rất nhiều cơ may lọt vào mắt xanh của những nhà buôn tranh có cỡ; có thể họ sẽ mua nó với một giá lớn, lúc đó Kình Dương sẽ có cả lợi nhuận lẫn tiếng tăm, vì người ta sẽ hiểu rằng đây là nơi giới thiệu với họ những giá trị mới".

        Những mơ ước nóng bỏng trong lòng khiến cả lời lẽ lẫn vẻ mặt Na nhuộm một vẻ say sưa đầy thuyết phục. Ngồi trên bệ, dưới chân bà chủ, gã đạo diễn lặng lẽ quan sát cô, vẻ chán chường dần tan biến trên khuôn mặt y.
        Tuyết N. đáp lời cô gái bằng một cái nhún vai:


        - Cô nói đúng, nếu một gã vô danh tiểu tốt được treo tranh ở đây, ngày mai người ta sẽ nhìn y kính nể như nhìn một bậc thầy.

        Câu nói khinh bạc của người đàn bà như thử thách kịch liệt lòng tự ái của Na. Mặt Na nhăn nhúm lại thê thảm. Gã đạo diễn nãy giờ nhìn cô, bật lên cười hề hề. Tuyết N. nói tiếp, không nhìn người đối thoại:

        -Nhưng cô nghĩ xem,tôi sẽ được gì trong việc làm hệ phóng cho những con người vô danh?

        Na lùi lại. Nàng dường như đang cố hiểu ý người đàn bà,dù vậy gần ba phút qua trên khuôn mặt nàng vẫn chỉ có vẻ ngẩn ngơ tội nghiệp. Tuyết N. thảy tấm ảnh về phía Na.

        - Thôi, thế là đủ. Tôi không còn thời gian.

        Na chụp lấy tấm ảnh cho nó khỏi rơi xuống đất. Nàng hốt hoảng, thất vọng thấy cơ hội đã sắp vỗ cánh bay mất. Vì thế nàng không kìm giữ mình nổi nữa, cuống quýt lên như đứa trẻ cuống quýt chụp lấy một con chim sắp thoát khỏi tầm tay. Nàng bất giác kêu lên, tha thiết:

        - Thưa bà, bà có thể giúp được một tài năng trong cơn khốn khó, xin bà đừng tiếc công. Nếu bán được tranh, chúng tôi sẽ nhớ ơn bà mãi mãi.

        Người đàn bà quay đi. "Tôi không biết ai có tài mà lại phải chịu khốn khó. Tôi làm nghệ thuật, không phải lập trại tế bần". Dứt lời, bà ta ném một cái nhìn sắc sảo về phía gã đạo diễn; thế là gã này chồm dậy, chụp lấy cườm tay Na, kéo ngược nàng ra khỏi đại sảnh.

        Niềm hy vọng tắt ngấm, vẻ mặt Na giờ đây lạnh như tro. Nỗi tủi nhục vò xé trong lòng nàng, khiến nàng quờ quạng, lẩy bẩy như đang ngậm phải một hòn than hồng, bỏng rát. "Ông cứ để mặc tôi. Ông thật vô lương tâm, tôi có làm gì phiền đến ông đâu".

        Gã đạo diễn vẫn lôi xểnh nàng đi dọc theo hành lang. "Này cô bé - Gã ghé miệng vào tai cô nói thầm - Cô còn dại dột lắm, không đặt chân đến những nơi này được đâu".

        "Tuấn cũng bảo như vậy... Anh ấy không cho tôi đi. Nhưng tôi..." Không cầm được, Na gần như nức nở. Gã đạo diễn vẫn thầm thì:

        - Với bọn người này, cô phải mua sự đồng ý của chúng. Không đủ sức mua thì thôi, đừng van xin. Phải nói thách giá của mình để chúng khiếp hãi, đừng gợi lòng thương của chúng, vô ích.

        "Tôi chịu thôi. Tôi không thể..." Na nghẹn ngào. Người đàn ông lắc đầu:

        - Cô có đem theo sổ tay không? Không có thì một mẩu giấy cũng được. À, phía sau bức ảnh ấy, được rồi. Tôi đọc cho cô ghi cái này. Có thể đó là một cơ hội cuối cùng...
        Gã đọc cho Na ghi một địa chỉ Email trước khi hai người ra đến cánh cửa lớn, nơi gã buông tay cho Na một mình bước ra, như một con bọ rơi ra khỏi chiếc hộp vàng.


        ***

        Tên vệ sĩ ngồi trên bậc thềm, bộ quần áo của hắn dày, lùng thùng và có vô số túi; những đường xếp và túi lớn trên y phục giúp hắn giấu kín những vũ khí nho nhỏ làm bằng thép quý. Hắn chỉ giấu nhẹm chúng vì yêu cầu mỹ quan thôi, chứ ai cũng biết Hùng Rô không bao giờ đi đến đâu với hai bàn tay không.

        Gian phòng hắn đang ngồi rộng và sâu hút, ở cuối phòng là một giàn cửa kính lớn nhưng những tấm màn dày đã ngăn hết ánh sáng bên ngoài, thành thử mọi thứ chỉ còn được chiếu sáng bởi bốn ngọn đèn mắt cáo nhỏ xíu gắn lút vào bên trong trần nhà. Giữa phòng, trên chiếc ghế bành lớn, một người đàn ông mảnh dẻ ngả mình; Mái tóc và cái mũi đổ bóng xuống che hầu hết những đường nét khác của khuôn mặt. Lúc này đây, người đàn ông đang cầm hờ hững trong tay một điếu xì gà lớn gắn vào cái tẩu bằng ngà, vốn là một cổ vật. Y rít thuốc bằng vẻ đủng đỉnh của một con mèo già đang thu mình. Mỗi lần điếu thuốc cháy đỏ, chút ánh sáng bừng lên hắt ánh lửa vào đôi mắt lim dim trên khuôn mặt gầy. Màu xanh lờ mờ nơi những gốc ria trên mép sát cạnh màu hồng sậm của đôi môi mỏng.

        Một người đàn ông vào trạc tuổi đã gần sáu mươi mà còn có màu môi như vậy, kể cũng kỳ lạ. Gã vệ sĩ ngồi dưới chân y, mắt cũng lim dim, gã đang khoan khoái và thèm thuồng vì hít phải mùi thơm tỏa ra từ điếu thuốc kia: mùi thơm của một vườn nhãn chín.

        Một màn hình vi tính đặt cạnh chiếc ghế bành giúp người đàn ông có thể nhìn thấy cảnh tượng ngoài đại sảnh từ trong căn phòng kín. Trên màn hình, Tuyết N. đang cười mãn nguyện. Người đàn ông nhìn nụ cười ấy với khuôn mặt bất động, nhìn vẻ mặt ấy chẳng ai có thể hiểu y đang nghĩ gì.

        Rút chiếc điện thoại di động trong túi ra, y mở đọc các email đang được gửi tới, cũng với vẻ mặt đóng kín.
        Bỗng y dừng lại, đôi mắt lim dim hơi mở to ra nhìn vào màn hình nhỏ xíu của điện thoại. "Hùng Rô!" Nghe tiếng gọi, gã vệ sĩ to lớn đứng phắt dậy. Thấy chủ chỉ về phía màn hình máy vi tính, y hiểu ý ngay, tắt mạch phím đang truyền dẫn từ đại sảnh, mở sang mục check mail. Chốc lát, bức tranh người thiếu nữ đã hiện ra. Qua ánh sáng của màn hình tinh thể lỏng, những đường nét của người trong tranh như tỏa hào quang làm chói mắt người nhìn.


        "Hùng Rô!" Người đàn ông lại gọi. Tiếng gọi khàn khàn phát ra từ thân hình lép kẹp đó lại có sức mạnh khiến cái thân thể to lớn dềnh dàng của Hùng Rô phải tuân theo răm rắp.
        Hùng Rô đi ra cửa.


        Mấy phút sau, có tiếng giày cao gót hấp tấp gõ lách cách ngoài hành lang. Rồi cánh cửa mở, Tuyết N. lách qua tấm màn nhung tiến vào.

        Nàng đến bên chiếc ghế bành, ngồi dựa vào lòng người đàn ông:

        - Anh muốn xem bức tranh đó sao? Em đã từ chối rồi. Một bức tranh tầm thường. Em không chịu nổi những gì tầm thường, trong gallery của em, tất cả phải là tranh của những tên tuổi lớn.

        Tuyết N. ép sát mình vào thân người đàn ông, chiếc soirée cổ rộng xếp nếp hững hờ, thân thể nàng tươi mát và gợi mở như mâm cỗ hoan lạc. Người đàn ông đưa một tay lên ngực Tuyết N., tay kia vẫn tiếp tục cầm điếu xì gà. Tuyết N. khép nhẹ mắt , nàng mơn trớn y bằng cả thân thể, vẻ mặt và giọng nói rủ rỉ như những giọt mật. "Em chọn đủ số tranh, con số này phù hợp với cung số của anh trong năm nay, thầy chiêm tinh đã dặn lui dặn tới không được làm sai, nguy hiểm lắm anh à".

        Người đàn ông gật đầu, vẻ mặt không lộ vẻ tán thành hay phản đối. Tuyết N. lay nhẹ vai y,nũng nịu:

        - Vậy em gọi Hùng Rô quay lại nhé?

        Người đàn ông lắc đầu. Tuyết N. hất mạnh bàn tay y ra, đứng phắt dậy, ngồi dịch ra khỏi lòng y. Nàng kêu lên như xé tai:

        - Vậy mà anh nói tôi là chủ gallery này!

        Người đàn ông vẫn điềm đạm hút thuốc. "Anh không hiểu em muốn gì. Coi chừng, khi giận dữ trông em xấu hẳn đi".

        - Em muốn một là anh tôn trọng quyền làm chủ của em ở đây, hai là đừng nhìn mặt em nữa.

        - Thực sao? Anh cứ nghĩ em thích ở vị trí hiện nay hơn là quay về cái quán karaoké nơi anh gặp em lần đầu.
        Câu nói uể oải của người đàn ông làm Tuyết N. bỗng im lìm, bao nhiêu vẻ giận dữ thoáng chốc bay đi đâu hết. Nàng đứng đó, lơ láo, như một chiếc xe đang chạy đột ngột bị rút hết xăng.


        Người đàn ông nằm duỗi ra trên ghế bành, khẽ ngọ nguậy bàn chân. Y nhếch mép nói trống không:

        - Tất chân của anh dày và chật quá.

        Một vẻ u ám man rợ thoáng qua trong đôi mắt Tuyết N., nhưng chỉ một giây thôi. Nàng ngọt ngào: "Anh chờ em một chút". Nàng đi vào trong rồi nhanh chóng trở lại với một đôi tất khác. Quỳ xuống, nàng ôm chân người đàn ông, cởi giày và thay bít tất cho y.

        Răng người đàn bà nghiến lại sau đôi môi tươi cười. Người đàn ông lơ đãng nhìn lên những hoa văn trên trần nhà, chân chìa ra cho Tuyết N. "Em cũng thông minh đấy. Có thể sống với anh lâu dài được". Co chân lại đặt lên nệm ghế, y nói tiếp: "Bây giờ thì em đi được rồi, quay ra tiếp tục làm nữ chủ đi".

        Người đàn bà im lặng quay lưng. Khi nàng ra tới đại sảnh, da mặt nàng xám ngoét kỳ dị đến nỗi gã đạo diễn sững sờ khi nhìn thấy nhân vật chính của mình.

        ***

        "Tại sao cô không đưa tranh đến đây?". Người đàn ông hỏi. Khi ngồi ngay ngắn, trông gã đầy uy lực. Dù thân hình gầy guộc và khuôn mặt xanh xao, giọng nói gã lớn, mạnh và âm vang.

        Cô nàng họa sĩ nghèo không thể không cảm thấy xao xuyến trước sự tráng lệ của gian phòng, trông như một u cung. Ở đây, tất cả toát ra cái vẻ lấn át lạnh lùng, như một con thú khổng lồ đang chực há mồm nuốt chửng lấy nàng.

        Na cảm thấy vướng ở cổ họng, nàng không nén được mấy tiếng ho khúc khắc. "Tôi chờ một lời thỏa thuận. Người của ông bảo rằng chẳng những nhận trưng bày, ông còn muốn mua đứt bức tranh".
        Người đàn ông nhếch mép. "Cô muốn bao nhiêu?"


        Trái tim Na lồng lên, đập rộn rã trong lồng ngực. Cố giữ vẻ mặt lạnh lùng, cô thốt lên với vẻ khinh khỉnh:
        - Hai nghìn rưỡi đô, thưa ông.


        Người đàn ông ngả lưng vào thành ghế, y bắt đầu bẻ các đốt ngón tay khiến chúng kêu lên lốp bốp. Mặt y không đổi sắc, ánh mắt đảo từ đầu đến chân người phụ nữ trước mặt.

        - Cô tưởng đây là Hồng Kông hoặc Singapore sao? Hai nghìn rưỡi đô cho tác phẩm của một họa sĩ chưa hề tiếng tăm?

        Na không chuẩn bị cho mình một thái độ nào tiếp theo, nên nàng khựng lại. Rồi đôi mắt nàng đột ngột sáng lên, lần này là ánh sáng của một niềm tin mạnh mẽ thực sự:

        - Hôm nay nếu ông mua nó, ngày mai Kình Dương sẽ sánh vai với những nơi ông vừa nhắc.

        Người đàn ông cười hoài nghi, mắt không rời ánh chớp trên mặt cô gái. Y buông sõng:

        - Được rồi. Tôi mua. Tôi trả cho cô ba nghìn, không kém một xu.

        Na bất ngờ quá, cô không kìm chế được nỗi vui sướng, hai tay ôm lấy mặt.

        Chờ cho cô ngửng lên, gã đàn ông nói tiếp:

        - Với một điều kiện. Cô là người mẫu của bức tranh phải không? Tôi muốn cả bức tranh và cả cô. Ba ngàn đô, cả hai. Cô hiểu chứ?

        Bên tai Na như có một thanh sắt đang nung đỏ chợt bị dụi và nước lạnh.

        Cô lùi lại một bước, vẻ như muốn tát mạnh vào mặt gã đàn ông, nhưng gã đang ở ngoài tầm tay cô.

        - Ông nói gì thế ? ông có điên không?

        Người đàn ông mỉm cười không đáp .

        Na hụt hẫng, quay ngoắt lại, bỏ đi với vẻ mặt hầm hầm ghê tởm.

        Người đàn ông điềm tĩnh nhìn theo.

        Bước chân Na chếnh choáng như người ngủ mơ vừa tỉnh. Trước mắt cô hiện ra hình ảnh Tuấn, giờ này đang miệt mài vẽ trong căn phòng nhỏ.

        Ngày mai, một người giàu có sẽ đến chồng tiền thuê nơi ấy.

        Lúc sắp bước ra khỏi phòng, bỗng nhiên Na òa lên khóc thảm thiết, rồi nàng quay lại, những giọt lệ căm hờn ứa ra từ đôi mắt lửa cháy.

        Người đàn ông khẽ gật đầu.Lặng lẽ,y ngắm nghía vẻ đau khổ của cô gái với vẻ khóai trá,như người ta nhấm nháp một cốc rượu vang khai vị. "Lại đây, em bé - Y quay sang nói với tên vệ sĩ - "Lúc nào ta cũng khâm phục phụ nữ ngày nay, họ quyết định trong vài giây những gì mà ngày xưa phải đắn đo nhiều tháng trời".

        Na lắc đầu. "Tôi đồng ý, nhưng không phải bây giờ. Hai giờ sau tôi sẽ quay lại."


        Dù trí óc mê mụ và đau buốt, Na vẫn còn nhớ bây giờ là năm giờ chiều.Như lệ thường giờ ấy dù đang đi đâu họ cũng quay về bên nhau.Nàng pha cà phê và hai người ngồi nhìn ra khoảng trời xanh trên cửa sổ;Họ nói với nhau về những niềm hy vọng, những bức tranh đang ấp ủ,những chuyến đi xa trong tương lai......

        Giờ đây nàng phải về. Nàng muốn gặp Tuấn,bởi nàng biết lát nữa đay khi đã bán mình,sẽ không có gì như trước nữa,không bao giờ có lại một giờ trong trẻo và ngọt ngào như thế.

        Trên ghế bành, gã đàn ông không tỏ vẻ gì nôn nóng. Y bảo:

        - Được thôi. Hai giờ sau cô sẽ trở lại, mà này, đừng mặc bộ váy ngớ ngẩn này, hãy mặc cái gì khác. Luộm thuộm cũng được, rách rưới cũng được, tôi rất thích cái vẻ thiên thần vô lại của cô, chớ có tìm cách tỉa tót nó.
        Na đi rồi, Hùng Rô nhìn chủ:


        - Biết đâu cô ả sẽ chuồn thẳng.

        Gã chủ lắc đầu:

        - Con bé cần tiền đến cháy da.Món tiền của ta là sợi dây đã buộc vào cổ nó.

        Hùng Rô cười hềnh hệch:

        - Giá quá cao. Một đứa con gái lép kẹp, có gì là hấp dẫn? Tệ hơn những con mái bèo nhất.

        - Chú lầm. Người phàm ăn không thể hiểu cái thú ẩm thực của người sành. Chú có thấy cái eo của con bé không? Ta chưa thấy đứa con gái nào có cái eo nhỏ như thế.

        - Eo nhỏ thì sao?

        Gã chủ cười, giờ đây khuôn mặt của gã căng hết cỡ với vẻ hân hoan tự đắc, đôi môi hồng giãn rộng ra giữa những chấm râu xanh xanh:

        - Tiểu yêu âm hộ đại, trường túc bất tri lao. Hồi ở Thượng Hải ta đã bỏ ra bảy ngàn đô để thử một đứa thực sự là trường túc. Cái giá hôm nay không cao đâu, quá hời là đằng khác. Nói phải tội, chỉ bức tranh này thôi ta cũng kiếm lại hơn thế rồi.

        Trong lúc hai thầy trò nói chuyện thì bên ngoài, Tuyết N. đang đi đi lại lại. Giờ đây, dáng vẻ nàng là dáng vẻ của con hổ cái bị thương.

        Một cô giúp việc trẻ tay bưng khay rượu đến nói thầm vào tai nàng. Tuyết N. chăm chú nghe rồi cười gằn:

        -Đồ điếm!

        Mắt Tuyết N. phát ra những tia sáng hung hãn.Rồi như chợt nghĩ ra,nàng bỗng dịu vẻ mặt,nhỏen một nụ cười đắc ý.Thấy nụ cười ấy,cô bé giúp việc sợ hãi nhìn quanh, rồi bưng khay đi.

        Tuyết N. gọi với theo:

        -Gọi Hùng Rô ,bảo ta có việc cần gặp y.

        ***

        Quãng đường từ gallery tuy không xa, nhưng đôi chân lẫn lộn khiến Na loanh quanh mãi giữa những con đường nhỏ. Nàng vừa đi vừa khóc rồi cuối cùng câm nín, lặng lẽ, mắt ánh lên nỗi đau đớn gan lỳ của người tuẫn đạo.
        Khi Na về đến trước nhà, chẳng còn giọt nắng nào trước hiên, và trên da mặt nàng cũng chẳng còn một giọt máu.


        Có tiếng động ở phòng trong. Na giật mình,theo thói quen, nàng lo lắng, có thểTuấn sẽ nổi nơn giận khi thấy nàng đã lén đi với bộ váy dỏm dáng này, chắc chắn là đến những nơi chàng không thích.

        Trong phòng, chàng trai đang cắm cúi vẽ, lưng quay về phía cửa sổ.

        "Na! Na ơi!" Chàng kêu to khi nghe tiếng chân nàng, mắt vẫn không rời bức vẽ. "Anh đã gặp vận đỏ rồi. Anh đã nói mà. Thần may mắn đã đến!”’

        "Anh nói sao?" Na kêu lên, tưởng chừng tim vỡ ra. Có thể nào? Nàng phấp phỏng ....

        "Một người đàn bà, em ạ, một người đàn bà tuyệt đẹp, bà ta bảo rằng gallery của bà ấy sẽ rất vinh dự giới thiệu bức tranh của anh. Bà ta đến bằng xe hơi! Anh chưa bao giờ nhìn thấy ai đẹp và lịch lãm như bà ấy! Gã vệ sĩ dẫn đường cho bà ta còn bảnh hơn một ông chủ!"

        Tuấn không ngừng tay dập những tảng màu lên khung vải. Na chạy tới, nhìn vào bức tranh lớn chàng đang tô sửa. Chợt nàng hét lên, chết điếng.

        Đó là bức tranh về nàng, giờ đây Tuấn đang vội vã trét những đường nét mới lên. Vẫn màu nền đó, vẫn dáng người đó, nhưng thay vì mái tóc xõa rối là mái tóc búi cao quý phái, và bộ ngực nữ tu giờ đây đã hóa thành bộ ngực đồ sộ mỡ màng của nữ chủ nhân gallery Kình Dương.

        Na gào lên một tiếng tuyệt vọng, nàng gần như húc đầu vào bức tranh.

        - Anh điên sao? Anh làm gì thế?

        - Bà ấy đề nghị anh sửa chữa một vài chi tiết. Phải chiều theo thôi em ạ!

        Na vật vã, lăn lộn, lao vào níu lấy tay Tuấn. Tuấn gạt mạnh nàng ra, chàng thét lên:

        - Cô không được làm hỏng cơ hội của tôi!

        Vội vã, điên dại, chàng trét tiếp những nhát bay cuối cùng.

        ***

        Đúng tám giờ tối gallery Kình Dương được cắt băng khánh thành. Tháp sâm banh tuôn trào, những khách mời nâng ly, lót tay bằng những chiếc khăn lụa trắng nõn.

        Trước cổng gallery, xe hơi đậu bóng loáng dọc vệ đường. Trong buổi tiếp tân, nữ chủ nhân Tuyết N. tươi tắn và sung mãn, xuất hiện như một bông hoa bằng pha lê rực rỡ dưới ánh đèn chùm muôn màu chiếu sáng. Bên cạnh nàng là một gương mặt mới, một họa sĩ còn trẻ nhưng được lưu ý nhiều nhất vì vẻ hào hoa lãng mạn và cả vì bức tranh đang được trưng bày ở chỗ sáng nhất, quan trọng nhất trong đại sảnh. Đó là bức vẽ về nữ chủ nhân gallery, kết quả của sự chắp nối dị dạng vô hồn, trông giống như một thứ côn trùng đang biến thái dở dang. Mặc dù vậy, nhiều người đã tấm tắc khen ngợi nó, một số nhà phê bình hội họa còn phát hiện ra nơi đây một bút pháp mới đầy sáng tạo, pha trộn giữa hư và thực.

        Hai giờ khuya, Tuấn mới về đến nhà. Thứ men quyến rũ của vinh quang lần đầu thấm vào hồn anh, khiến chân anh cứ lâng lâng như đang đi trên mây khói.

        Ngả lưng một lúc lâu Tuấn mới nhận ra Na không có trong căn hộ, những xống áo của nàng treo trên vách cũng biến mất. Tuấn nhổm dậy, nhìn kỹ lại quanh phòng. Chiếc lược, chiếc bút chì tô môi, chiếc mũ vải gai màu beige của nàng cũng không còn nữa.

        Tuấn bồn chồn, muốn đi tìm Na nhưng đã quá khuya. Đi lui đi tới một lúc, anh chợt kéo tấm màn trước kia vẫn che bức tranh lớn...

        Nơi khoảng trống mà bức tranh để lại, Na đã đặt một cái bàn nhỏ, trên bàn là bức chân dung của anh mà trước đây nàng đã vẽ: một bộ mặt thô thiển, nông cạn và chẳng có tí linh hồn.

        Trước bức tranh là một bát nhang mới, trên đó cắm cây nhang đang còn cháy dở.

        Kể từ hôm đó, người trong phố chẳng ai còn thấy Na ở đâu nữa.

        Còn Tuấn thì càng ngày càng nổi tiếng. Sự nghiệp của chàng không phải chỉ ngừng ở gallery Kình Dương.

        Trần Thùy Mai
        ----------------------------

        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

        Comment

        • #5

          Buffet truyện ngắn miền Trung

          Truyện này tôi viết đã trên mười năm nay .Tôi viết về mẹ tôi . Tôi có một thời thơ ấu không vui , khi vừa sinh ra đời thì ba mẹ tôi chia tay , mỗi người đều có gia đình khác , tôi ở lại với bà nội . Tôi ám ảnh trong đầu mình những ngày thơ ấu , tôi đi chân trần qua con đường Thái Nguyên , Nha Trang đến Khu tập thể hỏa xa , bên trên là những hàng me cứ thay lá , rụng lá , kết trái ... để tới con hẻm nhỏ tìm má tôi trong căn nhà bà thuê , thỉnh thoảng đợi người chồng sau của bà sau những chuyến đi xe lửa trở về . Tôi gặp bà để bà cho tôi những đồng bạc lẻ tiêu vặt . Có một ngày , khi tôi tìm đến , chứng kiến bà phải làm một con quỷ trong buổi lên đồng , tôi nhìn thấy những chiếc roi dâu quất lên mình bà , tuổi thơ tôi đã ứa máu lúc đó ... Từ đó tôi lạc bà khi bà theo chồng vào Sài gòn ... KVT .



          Hai Đồng bạc lộc

          Ngọc gửi cho tôi bức điện tín báo tin má chết. Bức điện tín chạy vòng vèo như thế nào mà mãi hai ngày sau mới tới tay tôi. Khi tôi theo chiếc xe đò tốc hành tìm tới thì má chỉ còn là một nhúm tro trong lọ .

          Tôi cùng Ngọc đến chùa Ngũ Phúc - ngôi chùa nhỏ nằm ở một con đường vắng chuyên nhận cất tro thờ phượng cúng kiễng.Chiếc lọ màu xanh sứ lạnh lùng kê trên kệ chen cùng với nhiều lọ khác, chỉ có tấm ảnh má chụp từ thời xuân sắc là của má , còn không gian ở ngôi chùa như mang một điều gì đó buồn buồn tôi không giải thích nổi.

          Giống như những người đến thăm thân nhân được gửi cốt ở đây ,tôi gửi lại chùa chiếc phong bì mấy trăm ngàn , uống một ly trà nóng do vị sư giữ chùa rót mời, rồi theo Ngọc bước ra đường. Tôi không chút đau lòng, cũng chẳng nhỏ được giọt lệ nào. Tôi hiểu có thể bởi trong cuộc đời lưu lạc của mình, má đã bứt lìa tôi ra khỏi bà từ khi bà sinh ra tôi.Cho đến khi trở thành một con người đã lăn lộn qua bao nhiêu khổ đau của cuộc sống , tôi mới tìm gặp được má. Nhưng khi đó thì đã muộn màng. Thậm chí tôi chẳng hiểu tại sao má lại có thể bỏ tôi ra đi khi tôi còn đang ngơ ngác và bơ vơ trong cuộc sống.

          Ngọc là em ruột tôi, nhưng má đã giấu kín điều đó khi bỏ ba tôi đi theo người đàn ông của mình. Thậm chí tôi cũng không tin rằng trên đời này mình lại có một đứa em ruột thịt. Nhưng dù thế nào đi nữa thì tôi cũng có một đứa em gái. Ngọc đã ổn định cuộc sống ở Sài Gòn, hiện em đang làm nghề uốn tóc, mở một tiệm nhỏ ở Hàng Xanh. Quán của em khá đông khách nên cuộc sống chẳng có gì phải lo toan. Chồng em là một anh chàng lanh lợi, giỏi giang, chuyên chạy mối cho các tay kinh doanh đất đai. Hiền, chồng Ngọc , thường xuyên vắng nhà và khi tôi vào Sài Gòn chịu tang má, tôi cũng không gặp được. Nghe nói Hiền đã đi Cần Thơ đề làm ăn. Trước khi tiễn tôi về Nha Trang, Ngọc đưa cho tôi một gói nhỏ. Ngọc nói :

          - Em không hiểu tạí sao má lại dặn khi nào gặp anh thì đưa anh. Anh chơi tiền cổ à ?

          Tôi chẳng hiểu Ngọc nói gì :
          - Tiền cổ gì đâu?

          Nhưng đến khi ra sân ga, mở bọc nhựa đã vàng, nhìn thấy hai tờ giấy bạc xưa được má bọc trong một mảnh giấy báo cũ, tôi mới hiểu tại sao Ngọc lại hỏi tôi điều đó. Đó là hai đồng bạc lộc. Đó cũng là câu chuyện mà tôi tưởng rằng thời gian đã rơi vào quên lãng, má của tôi cũng đã quên. Nhưng cho đến phút cuối đời má vẫn còn nhớ. Má muốn tôi nhận hai tờ bạc đó dù rằng bây giờ chẳng ai biết dùng nó để làm việc gì. Câu chuyện chỉ nhắc về một ngày mưa buồn bã.

          o0o

          Má bỏ tôi đi khi tôi còn quá nhỏ. Tôi không hiểu được rằng tình yêu với một người đàn ông có thể làm cho người phụ nữ có thể đành đoạn bỏ con mình ở lại . Chẳng bao lâu sau thì ba tôi cũng có một người đàn bà khác. Đó là một cô đào cải lương của một đoàn hát thường đến các làng che bạt biểu diễn. Lúc đó tôi còn nhỏ quá không hiểu rằng tình yêu là một thứ thuốc phiện, chính vì nó mà nhiều khi con người không đủ lý trí làm tan nát câ một gia đinh.

          Tình yêu riêng của má tôi và cả ba tôi đã đem lại sự bất hạnh cho tôi. Từ một đứa trẻ có cha mẹ, tôi trở thành vô gia đình, may mà bà tôi lúc đó còn khỏe, đem tôi về ở với bà.

          Bà nội tôi là một người đàn bà ít học . Nội chỉ nhìn được mặt chữ để đọc Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm hay Kim Vân Kiều. Dường như với nội, ba cuốn thơ đó là tất cả văn chương của thế gian này gom lại. Những buổi chiều bóng cây tỏa mát trong vườn, nội cứ lắc lư võng, kêu tôi nhố tóc ngứa rồi đọc thơ, những câu thơ nội đọc chữ mất chữ còn ăn sâu vào tiềm thức tôi : " Thôi thôi ,ngồi đó chớ ra. Nàng là phận gái ta là phận trai " , hoặc " Trăm năm trong cõi người tạ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau .Trải qua một cuộc bể dâu những điều trông thấy mà đau đớn lòng " . Tôi lớn lên bằng những đồng bạc nội kiếm được bằng nghề làm cỏ lúa, cỏ khoai, hay hôm nào không có việc thì nội lại dắt tôi đến cánh rừng ngập mặn gần bờ sông bắt con cá con cua về bán kiếm sống qua ngày.


          Tôi có một thời thơ ấu trần trụi và buồn bã bên cạnh bà nội tôi. Rồi tôi được bà nội gửi đi học ở nhà một ông giáo làng. Không khí lớp học ngày đó sao mà thiêng liêng với tôi đến thế . Trường của ông giáo là một ngôi nhà tranh vách đất. Lớp học là những tấm gỗ được kê cao, một tấm gỗ khác kê thấp hơn làm ghế cho học trò ngồi. Mỗi ngày thứ bảy thay vì dạy học, ông giáo lại kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện cổ tích . Cách kể chuyện của ông theo kiều truyện Ngàn lẻ một đêm , không bao giờ ông kể hết câu chuyện, luôn để đoạn kết qua tuần sau. Nếu học trò nào bỏ học trong tuần sê không được dự buổi học có kể chuyện cổ tích. Ham chơi nhưng cũng ham nghe chuyện cổ tích, cho nên tôi chẳng bao giờ bỏ học . Giờ đây, vốn chuyện cố tích của tôi có rất nhiều cũng chính nhờ vào thời gian đi học ở trường ông giáo làng.

          Ở với nội như thế, nhưng tôi vẫn thường xuyên đến thăm má tôi. Sau khi má tôi và ba tôi chia tay nhau , má lấy một người phụ trách bẻ ghi cho các con tàu về sân gạ Má dọn nhà về ở trong khu nhà tập thể của ga xe lửa. Tôi nhớ con đường vào nhà má là con hẻm rất nhỏ , nhỏ như không có con hẻm nào nhỏ hơn nữa. Căn nhà má ở nằm cuối cùng của con hẻm, bị che khuất bởi những căn nhà to hơn. Tôi chẳng chú ý tới những căn nhà to, tôi chỉ chú ý tới căn nhà nhỏ vì má của tôi đang sống ở đó. Tôi nhớ rõ con đường đến nhà má có cả hàng me cổ thụ, đến mùa rụng lá tôi đi bên dưới, lá me nhỏ vàng cứ rụng bám đầy tóc tôi. Tôi đâu biết làm thơ, nhưng ấn tượng về những chiếc lá me vàng rụng khiến tôi không thể nào quên được.

          Tới nhà má vào những ngày chủ nhật là niềm vui của tôi. Thật ra thì tôi cũng không biết đi đâu trong những ngày nghỉ. Tham dự các trò chơi đánh lon, ném bạc cắc hay bịt mắt bắt dê tôi đều không thích. Nghe bà nội đọc mãi mấy vần thơ rồi cũng chán. Tôi thích đi lang thang ,tôi muốn tìm hơi ấm nơi má của tôi. Mặc dù không còn nuối tôi nữa, nhưng tôi biết má rất thương con trai của mình. Nhưng cuộc đời má lại hoàn toàn không may mắn vì má chỉ là vợ nhỏ của ông chồng bẻ ghi. Ông ta còn một người vợ nữa ở Sài Gòn nên có khi cả tháng mới về Nha Trang thăm má. Đồng lương ít ỏi của ông ta không thể nào cùng chia cho hai phía, nên má phải làm thêm.

          Má của tôi học hành ít, lại không có nghề gì, cho nên dùng sức lao động của mình kiếm ăn là chính. Má nấu chè bày bán trước sân ga, khi tôi ghé có hôm bán ế, má múc chè cho tôi ăn, tôi ăn đến bốn chén nhưng đâu biết rằng gánh chè ế nghĩa là vốn liếng của má bị hết. Sau đó má nấu bún bò, gánh đi đạo qua những con hẻm nhỏ mời người ta ăn. Những ngày như thế khi tới nhà, không có má tôi cứ ngồi bên thềm cửa mà ngó sang hàng xóm. Khi đó tôi phát hiện có một ngôi nhà chuyên tổ chức lên đồng.

          Thật là lạ khi lần đầu tiên tôi chứng kiến cảnh người ta trùm khăn đỏ kín mặt một người nào đó. Rồi ê a, tiếng chiêng tiếng mõ và cả tụng kinh. Không khí nơi lên đồng sặc mùi nhang , mùi trầm và mùi mồ hôi người trộn lẫn nhau. Tôi thích nhìn người ta hát, người ta hỏi và người ta múa mà quên hết cả thời gian đợi má. Thường thì khi thăm má trở về, tôi thường được má nhét trong túi áo tôi hai đồng bạc để tôi muốn xài thế nào thì xài. Những đồng bạc má cho, tôi ghé tiệm sách trên đường Độc Lập mua những cuốn truyện thiếu nhi về đọc. Bởi đâu có ai mua truyện cho tôi đọc đâu ?

          Khi đó tôi nào biết má có một cuộc đời buồn. Tình yêu của má với người đàn ông bẻ ghi xe lửa như thế nào tôi không biết, nhưng đổi lấy sự cô đơn thiếu thốn cả vật chất để có một thứ tình yêu như thế thì tại sao má lại cam tâm, má là một người đàn bà đẹp.

          Tôi không hiểu từ một miền quê nhỏ ở tận bên bờ sông Hương xứ Huế, má đã làm thế nào để đến đây một mình. Dường như má chẳng có quê hương, vì thế mà cả đời tôi cũng chẳng hề có quê ngoại để trở về. Cho đến khi má nhắm mắt lìa trần gian này với nhiều nỗi buồn hơn niềm vui, má cũng chẳng kể cho tôi nghe bên cạnh má còn một ai thân thiết nữa không ?

          o0o

          Đó là một buổi chiều mưa buồn thê thiết. Khi chuyển qua nghề gánh nước thuê, má phải túc trực thường xuyên bên chiếc máy nước công cộng trong đêm khuya để có nước " đổ" cho những nhà giàu. Có khi vào buổi chiều tìm má, tôi vẫn thấy má ngồi kiên trì đợi đến lượt mình hứng nước. Lúc đó tôi cũng ngồi đợi nước như má. Nhưng buổi chiều mưa buồn đó thì má không đi gánh nước được nữa. Bởi cách đó mấy hôm, má gánh nước đêm mà đèn đường thì không soi vào trong hẻm. Ai đó đã vô tình để chấn trên đường má đi một hòn đá lớn. Má vấp phải hòn đá , té . Má đã bị trặc chân phải , không thể nào đi gánh nước được nữa. Má không gánh nước được thì má lại bắt đầu đi mua gạo, mắm muối thiếu.

          Hôm đó ở nhà sách có trưng một cuốn truyện thiếu nhi khá hấp dẫn. Nhìn cuốn sách treo trên sợi dây kẽm trước mắt mình, tôi nhớ tới má. Tôi nghĩ đến hai đồng bạc má cho nếu tôi ghé thăm má. Hai đồng bạc là cuốn truyện hay còn thơm mùi mực in, còn là ly kem ngọt lịm có những hạt đậu phộng rắc lên trên. Thế là tôi đi tới nhà má.

          Mưa khiến cho trời đất mù mù. Tôi chen vào trong con hẻm, tới nhà thì thấy đã khóa cửa, chắc má đã ở đâu đó .Có thể má lại qua nhà bà hàng xóm nào đó phụ việc kiếm bữa cơm hay đi giác lể cho người tạ Những công việc linh tinh như thế má gọi là " tài vặt" . Tôi ngồi bệt xuống thềm ximăng đợi má về. Cũng lạ, chân của má còn đau mà má lại có thể đi đâu.

          Đợi mãi má vẫn chưa về , tôi lần bước chân mình đến căn nhà giữa xóm, nơi vẫn thường xuyên tổ chức những buổi lên đồng. Tôi chen đầu ngó vào trong. Không khí ở nơi này khác hẳn với bên ngoài, giữa một bàn thờ đầy cây trái nghi ngút khói hương là cảnh lên đồng. Tôi nhìn thấy một người đang phủ kín mặt bằng chiếc khăn đỏ, còn đối diện là bà chủ nhà trong vai một thiên sứ đang cầm chiếc roi bằng cây ổi chuốt ra, vừa ê a những tiếng nói như đọc kinh, dùng chiếc roi quất liên hồi lên thân hình người nhập đồng. Bà chủ cứ ê a những lời nối thành nhạc : " Quỉ a , quỉ này . Mày đi khôn chốn này, mày không được ở chốn nao. Tao đánh mày bằng roi thần, roi phép cho mày khỏi nhập hồn Nguyễn Thị Lan .Quỉ... quỉ a á a... " . Tiếng rít của bà ta trong kẽ răng, tiếng gõ chiêng át cả trong không gian mù mịt khói nhang càng khiến tôi có cảm giác gì đó ghê sợ . Hình ảnh người đội khăn giả quỉ lăn lộn trên nền đất với những làn roi quất khiến mọi người khoái chí reo hò. Rồi giữa lúc bất ngờ nhất, chiếc khăn đội đầu rớt ra .Tôi không thề tin vào mắt mình bởi con quỉ kia không ai khác hơn là má của tôi.

          Má không biết rằng tôi đã nhìn thấy má phải đóng vai quỉ trong buổi lên đồng để lấy những đồng bạc công mà má gọi là " bạc lộc" . Tôi đã bỏ về nhà má trước khi má về . Má mở cửa cho tôi vào. Vẫn là cái xoa đầu âu yếm :

          " Con đợi má lâu lắm phải không ? Ở lại ăn cơm với má " .

          Tôi lắc đầu . Tôi nhìn má và phát hiện trên cánh tay má có vết hằn của lằn roi ổi đánh vào. Tôi bỗng cảm thấy như mình cũng đang bị chiếc roi kia đánh lên người. Tôi lắc đầu :

          " Con về đây. Con không ăn cơm đâu" .

          Rồi má rút trong túi mình ra hai đồng bạc giấy, đưa cho tôi:

          " Má cho con" .

          Tôi cầm hai tờ giấy bạc để trên bàn, nói:

          " Con không lấy đâu. Con không thích má làm quỷ " .

          Nói xong, tôi vùng ù chạy ra khỏi nhà má.

          o0o

          Thời gian trôi qua đã lâu lắm rồi. Tôi giờ đây cũng không còn trẻ nhỏ. Từ ngày đó má đã theo chồng của má vào Sài Gòn sinh sống. Tôi lạc mất má và đường như tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện đi tìm má. Nhưng tôi nào ngờ rằng chính ngày tôi trả lại hai đồng bạc lộc mà muốn kiếm được má phải đóng vai quỉ cho người ta đánh vào, chính tôi chứ không ai khác đã làm cho má đau đớn . Khi đó hai đồng bạc rất lớn với má, nhưng má vẫn giữ để có ngày má đưa lại cho tôi.


          Khuê Việt Trường

          .
          Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 27-10-2010, 07:41 PM.
          ----------------------------

          Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

          Comment

          • #6

            Buffet truyện ngắn miền Trung

            Anh là một người bạn hết sức đặc biệt của vợ chồng tôi.Ở cả tính tình , lối sống , kểu chơi... và trên tất cả , là một giọng hát. Giọng anh mỏng mảnh đến lạ kỳ . Nghe , như có cảm giác sắp biến mất sắp bay đi. Tiếng hát anh ám ảnh tôi thêm , sau khi anh đã không còn. Ám ảnh một tiếng hát một thân phận một con người . Và , tất cả dồn nén lại trở thành nỗi thao thúc mãnh liệt. Trong tôi ngập đầy , tràn ứa nỗi thèm khát được viết về anh. Đó chính là nguyên nhân có truyện ngắn này. Tiếng hát liêu điêu được viết năm 2008. N.M.N.


            Tiếng hát liêu điêu






            Một
            Vợ anh cao, tóc dài. Sau khi hai người ly dị, anh chỉ toàn để ý đến những cô gái từa tựa. Tôi nói với chồng: “Vậy là cái ông này còn thương bà Hoa”. Hoa là tên vợ cũ của anh. Mà anh lại là bạn rất thân với ông xã tôi.

            Con gái anh ở với vợ. Nó không giống được khuôn mặt rất thanh tú của cha nhưng được thừa hưởng cái gen cao của mẹ. Tôi gặp cháu từ hồi hai người còn chung sống. Thấy cứ buồn cười! Người chồng đạp cái xe đòn dông chở một phụ nữ - vợ và một bé gái - con. Người anh ốm yếu nên đạp ngó ì ạch lắm. Cặp chân ngắn ngủn khiến anh cứ phải chệch một bên mông để chân với tới pê-đan. Cái thân nhìn rất khổ mà khuôn mặt nhìn rất sướng. Đầy vẻ hân hoan, hạnh phúc và hãnh diện. Người vợ lại là một đối nghịch. Tóc dài thả bay vờn lượn trên cái lưng thon thả và chỗ ngồi phía sau rất thoải mái ung dung. Phong cách thì thế nhưng đôi mắt, khuôn mặt nghe ra quá ưu tư mỗi khi ngước nhìn. Bé gái là sự gộp chung của những hoan hỉ cùng âu lo, và rất gầy. Không nhỏ con như bố mà lại quá gầy nên hơi khó coi.

            Anh uống nhiều rượu, sau khi người vợ mang con gái ra khỏi ngôi nhà của ba mạ anh, một ngôi nhà rộng thênh, nhiều phòng và lạnh ngắt. Lúc nào cũng có cảm giác buốt giá khi bước vào, dẫu giữa mùa hè. Nếu có một ai đó cắc cớ hỏi vì sao vợ anh không ở nữa, sao chia tay? Câu trả lời của Hoa là: Vì mạ phong kiến quá, Huế quá, khó quá! Câu trả lời của anh là nụ cười hiền hiền quen thuộc nhiều phần vô cảm. Đấy là khi anh đang tỉnh táo. Lúc lâng lâng hơi men anh thường bảo do tôi lành quá. Anh uống rượu không để đàn đúm, vui vầy mà do buồn quá, đã hẳn; và do lành quá, đã đành. Anh uống như cách để chối từ những phiền lo, những đối chọi, trống rỗng…, từ nhà mình, từ chỗ làm, trong từng mối dây ràng buộc, và trên tất cả, từ chính nỗi cô đơn của anh.

            Ngay trong sự cô đơn của mình anh cũng lành biết bao. Không phải trong cả cuộc đời mình, anh đã rất vô tư để cho cái sự lành hiền đưa dẫn đó sao.

            ***

            Trong khi anh sống lất phất, chấp chới giữa những cơn say thì Hoa đã kịp tạo cho cuộc sống của mẹ con cô những vững chãi cần thiết. Hoa chọn thị trấn đang công tác làm chỗ ở lâu dài, mua đất, cất nhà tại đó. Đất rộng nhưng chẳng cần thuê mướn, nhờ vả ai, một mình cô lần hồi tạo được khu vườn như ý. Mỗi ngày làm một chút, sáng sớm, chiều sẫm và những đêm trăng. Sau giờ làm việc ở cơ quan, Hoa ném mình vào đất, bám chân vào đất mà đứng nên có sự vững chắc là lẽ thường tình.

            Chỉ có anh cứ đạp cái xe đòn dông không con phía trước, không vợ phía sau. Nhẹ tênh nhưng vẫn phải với chân cho tới được pê-đan. Nhẹ tênh vẫn lỏng chỏng. Chân không bám nổi pê-đan, xe sao có thể bám nổi lòng đường và con người bám nổi với cuộc đời này.

            Mảnh đất của người vợ cũ anh trồng nhiều thứ rau xanh và các loại cây ăn trái. Có lần tôi bắt gặp Hoa vừa cuốc đất vun gốc giữa vườn nhà vừa hát. Giọng cô cao, khỏe và đầy đặn. Cô trông rất giống tiếng hát của mình, vun đầy và ắp tràn sức sống. Cô như khu vườn nhà mình: rộng rãi, nhiều sắc màu với vô vàn chồi non chớm nhú.

            Cô đã trở lại là chính mình, khi không anh. Còn anh thì sao? Anh cũng là chính mình đấy thôi khi không còn đời sống vợ chồng. Là cách đạp xe với chân, nụ cười hiền, giọng hát mỏng, lối sống nhiều phất phơ. Và hẳn nhiên thêm một ai đó để dựa vào. Dựa cũng chưa lâu nhưng vừa đủ để ngỡ rằng mình như thể là… Bùi Giáng. Tưởng mình là Bùi Giáng nên anh làm những chuyện Bùi Giáng đã làm, nói bằng ngôn ngữ của Bùi Giáng…

            Vợ chồng tôi bảo nhau cứ thế thì e anh hỏng mất. Đã là một cái bóng thì muôn niên vẫn chỉ là cái bóng thôi. Một cái bóng vật vờ liêu điêu ngã chúi. Bùi Giáng bám vào tâm trí anh, ám ảnh anh không nguôi. Anh không hề thấy khốn khổ bởi thế nhưng dần xa lạ hơn trong mắt bạn bè.

            Tôi thích những khuya khoắt anh là chính anh. Nhỏ thó, lắt lay nơi căn phòng bé tẹo của vợ chồng tôi, và tôi thương cái cách anh hát biết bao. Tôi mừng vì Bùi Giáng không biết hát nên khi ôm đàn cất tiếng, anh không thể bắt chước ông và chỉ có thể là chính mình. Giọng anh nói đã mảnh, hát còn mảnh hơn. Mỗi âm chênh một tí. Mỗi nốt vênh một tị. Hụt thiếu mà mênh mang. Rã rời mà sâu thẳm.

            Tôi chưa từng biết ai có giọng hát lạ lẫm như anh. Nhìn anh đi đã yểu. Ngắm anh im lìm vẫn yểu. Lặng nghe anh nói, cười càng thấy yểu. Và khi hát, cái yểu giơ lưng, phơi mặt, ló cả ra. Như chừng không thể yểu hơn được nữa.

            Anh uống từng ngụm rượu nhỏ và lào khào: “Không còn ai đường về ôi quá dài những đêm xa người. Chén rượu cay một đời tôi uống hoài…” . Trịnh Công Sơn viết như thế đã quá tội, anh hát nghe càng tội dữ. Tội nghiệp quá một câu hát. Tội nghiệp thêm muôn vàn tội nghiệp: Một câu hát, một phận người. Mường tượng một người nhỏ thó, thật gầy, đang chệch mông với chân đạp xe, chùng chình xe chùng chình người giữa cuộc đời sấp ngửa, vời vợi, bao la…


            Hai
            Mạ anh vui lắm khi qua nhà tôi, thông báo: “In hình hắn có bồ rồi. Đòi cưới rồi…”.
            - Sao bất ngờ vậy, bác?
            - Úi chà! Làm răng tau biết.
            - Vậy là anh ấy có nói với bác rồi?
            - Có nói chi mô? Thấy hắn có một chắc, tội quá, nói ưng ai mạ đi hỏi. Hắn nói mạ đi cưới con Bét Bét chi đó đi... Mà không thì cưới con Rô Rô cũng được…
            - ?
            - Tên chi lạ rứa, mi? Chắc là tên ở nhà? Bét Rô chi cũng được. Miễn chịu ưng thằng ni là tau cưới. Hắn có vợ tau mới ăn ngủ được chứ kiểu ni tau chết ngắc.
            - Mà có thật là ảnh nói bác đi cưới chị Sáng Bét?
            - Không phải tên nớ. Tên khác tê.
            - Chắc là Ê-li-da-bét?
            - Đúng con nớ đó. Con nhà ai mà đặt cái tên dài, khó nhớ dữ rứa…
            - Rồi ảnh đòi bác cưới Ma-ri-lin-mông-rô?
            - Đó, đúng chắc Rô đó chớ Rô mô nữa? Mà cái thằng ni răng ưa mấy con toàn tên chi lạ. Mi đã gặp mấy con nớ chưa?
            - Dạ, gặp thì chưa chứ mà thấy thì rồi.
            - Con mô được hơn? Chỉ cần cái tính thôi chớ đẹp xấu đâu cần. Bét cũng được mà Rô cũng tốt.
            - Nhưng mà không được đâu. Con tưởng ảnh muốn ai chứ đòi cưới mấy người này, sao cưới được.
            - Răng rứa?

            Sau khi nghe tôi giải thích, mạ anh cứ hai tay giơ lên đầu la trời. Từ hồi vợ chồng anh chia tay, mấy năm rồi mạ anh héo hắt theo kiểu sống vật vờ của anh. Ngày nào anh cũng say. Uống ở phòng vợ chồng tôi dù khuya mấy, anh cũng biết đường về vì hai nhà rất gần. Uống nơi khác anh lớ quớ, ậm ự ra hỏi người qua đường: “Nhà mạ tui mô, chỉ giùm?”. Khi say quá, không đi nổi thì cố đút hai cái cẳng chân nhỏ xíu qua hàng tăm xe cho khỏi mất rồi nằm xuống, quẹo đầu ngủ, hiền lành hồn nhiên không khác gì trẻ nhỏ.

            Có lần chúng tôi thấy anh nằm như vậy, cười mà muốn khóc. Người anh càng ngày càng co rút lại, đã bé còn bé thêm, khô quắt. Anh đi làm thất thường, ăn - ngủ vô chừng vô đỗi nhưng vẫn một kiểu say tình. Vẫn đắm lòng với những phụ nữ dáng cao cao và tóc dài dài, buông thả. Vẫn khiến được họ mê muội bởi tiếng hát mình. Phải. Chỉ tiếng hát và chấm hết.

            Những Hồng những Hoa những Đào những Tuyết… ngất ngây cùng bao tình ca mà anh kêu rêu bằng chất giọng nhẹ tênh mỏng mảnh của mình. Và rồi những ngọn nến tàn lụi, “party” kết thúc, đêm trôi qua. Anh bước ra khỏi một cuộc vui, mắt nheo lại bởi quàng quáng trước ánh sáng ngày, bước lấp vấp trên đường phố đông người, lóng ngóng giữa đời thực quá nhiều những chật vật bấp bênh. Những em Hồng, em Hoa, em Tuyết… có quay lưng, cũng là lẽ thường tình.

            ***

            Vợ chồng tôi rất tha thiết với chuyện lứa đôi của anh. Lúc đầu đã rất nhiệt tình vun vén nhưng về sau thì nản, mỏi. Càng ngày anh càng y hệt Bùi Giáng. Là sự bắt chước lúc đầu rồi thâm nhiễm dần mà anh không tự biết. Trong ước muốn tột cùng được trở nên như ông mà anh ra làm vậy. Mơ hồ quá mọi ranh giới nên anh một chút điên một chút tỉnh, những hồi ngô nghê khờ khạo và những hồi tinh quái khéo khôn. Một mớ lùng bùng quấn chặt lấy anh, bó siết.

            Rất thương và hiểu anh vậy mà không hiếm lần chúng tôi phải nổi giận vì bị anh phiền nhiễu. Giữa cuộc nhậu anh ném ly là chuyện rất thường. Chỉ tay giữa mặt ai đó, cười cười nói nói cũng là chuyện rất thường. Bắt mọi người phải im để gật gù tuyên bố: “Mày là mày tao là tao… Mỗi người là một cuộc đời” cũng là chuyện rất thường…

            Không có tôi, chắc anh bị dập mình nhiều phen. Đó là khoảng thời gian má con tôi dựa nhờ vào một quán bia hơi của người quen, ngay ngã tư để bán mấy thứ mồi đơn giản và bún thịt nướng. Chiều nào anh cũng ra đó dòm người ta ăn uống. Anh nói: Dòm chơi cho vui. Vui gì nổi, khi anh có cái kiểu dòm sinh sự như vậy.
            Dòm không đã đủ bị đòn huống gì anh còn lừ đừ tiến lại, kéo ghế ngồi trước khách nhậu và xua tay: “Uống đi. Nói làm đ. gì?”. Khách uống bia hơi cũng đủ loại, có người thông cảm bỏ qua, có người nổi giận đòi đánh.
            Tôi ở ngay đó lờ đi sao được dù nhiều lúc cũng muốn bỏ mặc. Anh gượng gạo cười hiền khô khi thấy tôi hùng hổ tiến lại, hùng hổ kéo anh đến một cái bàn trống nào đó, ấn người anh xuống ghế. Rất ít khi anh chống đỡ hay phản đối. Sau này, tôi luôn ứa nước mắt mỗi khi nhớ lại những tình huống như thế. Thương anh và thương mình đến xót xa.


            Ba
            Trưa đó anh qua, gặp bữa, cùng ăn cơm với cả nhà. Má chồng tôi xào bún số tám (một loại bún khô, bó thành từng bó hình số tám) với tôm, thịt, giá rất ngon nhưng lại quên cắt ngắn. Anh rất thích món này và có vẻ rất thú vị bởi cái sự quên ấy. Kéo cái đĩa lại gần và thay vì quấn những sợi bún vào đũa rồi hãy đưa vào miệng, anh cứ gắp sợi bún dài sòng sọc và bún dài tới đâu, anh giơ đũa lên cao tới đó. Ngồi chưa đủ, anh đứng bật dậy. Đứng trên đất chưa đủ, anh leo lên ghế và tiếp tục đưa đũa cao thêm, cao thêm.

            Cả nhà tôi ngừng ăn dõi theo anh như theo một màn kịch hấp dẫn. Anh vốn là người lóng ngóng, vụng về, uể oải, vậy mà, trông anh mới khéo léo biết bao khi tung hứng với đôi đũa, bỡn cợt với những sợi bún. Có vẻ anh hoàn toàn ý thức với trò chơi của mình, một thứ ý thức ngô nghê trẻ thơ và cũng ăm ắp những sành sỏi, lươn lẹo của kẻ lõi đời. Trông anh vừa lành hiền, trong trẻo vừa tinh ma, cáo già. Hết thảy làm nên một anh rất khác, một anh đáng yêu quá chừng.

            Tôi thầm ước ao: phải mà anh có thể lèo lái cuộc đời mình như thế, không hề nghiêng ngả, chênh chao, lấp vấp, rất tự tin mà ngẫu hứng đến lạ lùng.
            Một tuần sau bữa cơm ấn tượng đó, mạ anh nhờ người gọi tôi sang. Cụ bị ốm và rất cần người để tâm sự, thở than. Cũng chẳng có việc gì ngoài chuyện của anh. Cụ gằn giọng: “Vì răng tau bịnh? Cũng bởi hắn, do hắn”. Giọng mạ anh nghẹn đặc, tôi phải khuyên lơn, dỗ dành mãi cụ mới chịu nói, trong nước mắt ngắn, dài.

            Tức tưởi, uất ức nên thứ tiếng Huế vốn rất khó nghe của cụ càng khó nghe thêm. Tôi phải rất tập trung mới có thể thấu suốt được. Hiểu được sự việc thì lòng lại thêm hỡi ôi, chẳng biết phải nên khóc hay cười.
            Chả nhẽ anh đã đến nông nỗi này sao? Cụ bảo khổ tâm quá, vì anh nên suy nghĩ miết, rồi gặp lúc thời tiết đổi mùa vậy là nằm luôn, không cách chi dậy nổi. Một khuya, anh trở về, lại giường kêu mạ dậy để nói chuyện. Giọng cụ cất cao phẫn nộ: “Hắn hỏi tau răng mạ bịnh dữ. Bịnh rứa, già rứa răng mạ không chết đi, chớ sống chi lâu dữ rứa?”. Thà hắn say. Hắn có bia rượu thì cái mặt khác, cặp mắt khác, miệng hôi rình, còn đây đâu có mùi mè chi. Ngó bộ hắn tỉnh queo rứa mới hận chớ! Con ơi là con. Nhìn hắn đau quá, đau lắm…!”.


            Bốn
            Sau khi mạ anh mất, ba anh bán nhà, đưa cả gia đình vô sống trong Nam. Tin tức về anh và những người thân thi thoảng mới dội về. Nghe, chẳng vui nổi. Nghe, chỉ thêm chạnh buồn. Rồi một đêm anh xác xơ, nhớp nhúa xuất hiện trước mặt vợ chồng tôi đòi uống rượu. Thì uống.

            Ba người một khoảnh sân bé tẹo trước nhà. Ba người ba cái bóng im sững giữa khuya, hắt hiu. Buồn đến khóc được. Anh nói: “Tôi có vợ khác rồi. Con đó thua hai chục tuổi. Người miền tây. Mập ù. Tóc ngắn như con trai. Ca cải lương mùi lắm”. Tôi ngó lom lom vô mắt anh, thấy hoang hoác hút sâu trong đó là nỗi trống trải lẻ loi đến rợn ngợp. Tim thót đau, tự dưng thèm được hát nhưng vội hơn, anh đã cất tiếng.

            Rất yếu mệt và lửng lơ, anh hát: “Có nhiều khi tôi quá buồn… Bóng ai như tôi đi qua cánh đồng. Bóng ai như tôi đi qua cõi đời. Nhặt lại mình trong từng ngọn gió. Giống như con chim sẻ nhỏ. Tha về từng cọng vàng khô. Có nhiều khi tôi quá buồn…”. Một bài hát của Phú Quang phổ thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nghe và thốt nhiên nhớ đến ai đó, vẫn ngồi phía sau chiếc xe đòn dông của anh. Một ai đó tóc dài thả bay vờn lượn trên tấm lưng thon thả. Và anh nào chỉ một cách đạp xe chân với. Còn nụ cười hiền, giọng hát mỏng, lối sống phất phơ. Và anh và cả những Hồng những Đào những Tuyết những Mây..., những phụ nữ dáng cao, tóc dài thả buông mê nhạc Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng…

            Họ đang ở những đâu đâu, và anh, một chỗ nhỏ nhoi nơi mái hiên này. Họ trong những ngôi nhà chồng vợ riêng tư, mẹ con đầm ấm sum vầy. Họ và những bếp lửa gia đình bừng đỏ, rất nhiều những sớm trưa chập tối. Họ ở gần hay xa? Nơi này hay chỗ khác? Và anh, góc bé mọn nào giữa cuộc đời này rộng rãi thênh thang? Và anh, sao ló thó, lắt lay là thế khi cúi mình chỏng trơ tội nghiệp giữa khoảnh sân chật hẹp nhà tôi?

            ***

            Rồi anh mất. Anh ra đi vừa nặng trịch vừa nhẹ hều.

            Nhẹ, vì anh chẳng đau ốm bịnh hoạn gì. Và nặng, vì cũng nằm hôn mê mãi.
            Anh sống được nhờ rượu và thoát khỏi cõi trần ai cũng nhờ rượu. Say nên mới bắc ghế sửa điện. Say nên mới lập cập đứng đi loạng choạng. Say nên mới ngã nặng đến thế… Ngẫm ra, rượu đã có anh và anh chỉ có rượu. Ngẫm ra anh chỉ có tiếng hát, yếu mảnh lào khào…

            Rượu và tiếng hát ám vào anh, cho anh từng ngụm nhỏ nồng cay, khi bật rung tha thiết nhiều âm buồn, hụt, đứt. Và ngày qua, mùa qua, năm qua.
            Nhanh quá là một quãng đời. Chớp mắt đã mấy chục năm, từ khi Hoa bế con rời khỏi ngôi nhà của mạ. Rượu và một phận đời và một tiếng hát. Quá đỗi mong manh và quá đỗi lều phều.

            Và tiếng hát đã ngưng, và phận đời đã tắt, một ngày, cách đây những sáu năm.
            Nguyễn Mỹ Nữ

            .
            ----------------------------

            Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

            Comment

            • #7

              Buffet Truyện ngắn miền Trung

              Có dịp về quê ngao du sơn thủy cùng bạn bè mới thấy cảnh quê đẹp ,người quê chân chất thật thà , đặc biệt là vùng tây Quế Sơn. Tôi viết về vẻ đẹp thuần hậu của quê hương mình. Qua truyện , tôi muốn gửi đến các bạn trẻ một thông điệp : sống chậm và tình yêu thủy chung. T.A.Q.

              Nụ C
              ười Bí Ẩn


              Tôi đang ngắm những con đò ngược xuôi trên sông Hàn thì điện thoại reo. Ðầu bên kia, giọng nói trong vắt:
              - Anh đang làm chi đấy?
              - Ði dạo trên bờ sông Hàn nè!
              - Anh đi với ai thế?
              - Một mình chứ với ai!
              - Thế cho em đi cùng với được không?
              - Em nói giỡn hoài, em ở xa cả trăm cây số!
              - Không đâu, em đến ngã ba Huế rồi nè. Anh đón em nhé!

              Tôi định hỏi thêm vài câu nhưng Thủy Nguyên đã cúp máy. Mà cô bé ra đây làm gì? Chẳng lẽ đi công tác, hôm nay cuối tuần mà. Thôi thắc mắc làm gì. Tôi lại chỗ gửi xe, lấy xe máy đi đón.


              ***

              Tôi gặp Thủy Nguyên khi đi thăm Hòn Kẽm Ðá Dừng. Chúng tôi cùng đi trên một chuyến ghe phiên chở đến mấy chục người. Vui không thể tả. Lúc đi, mọi người mang xuống ghe bao nhiêu là trái cây mua ở chợ Trung Phước. Trái cây chợ Trung Phước được lấy từ làng Ðại Bình, mà trái cây của làng Ðại Bình thì ngon hết biết.

              Dù là đất miền Trung nắng lửa nhưng Ðại Bình trồng được đủ loại cây trái của Nam bộ, cả xứ lạnh Ðà Lạt hay Sa Pa. Chôm chôm, sầu riêng, măng cụt... đủ cả. Nhưng ngon nhất vẫn là đặc sản vùng núi miền Trung: bòn bon. Trái bòn bon Ðại Bình chua chua ngọt ngọt ăn quên thôi. Cả đoàn vừa ăn trái cây vừa đàn hát vang cả một khúc sông rộng.

              Thích ngắm cảnh sông nước hơn, tôi ra mũi ghe, bắt chéo chân ngồi nhìn những rặng tre xanh ngút ngàn hai bên bờ sông Thu Bồn. Ghe chui qua cầu Nông Sơn, cây cầu do tình thương của người dân khắp nơi đóng góp. Phía xa xa là ngọn núi Cà Tang cao vút.

              Kia là bãi bồi Ðông An cát cao ngất, còn đây Tí lở Tí bồi. Tí lở là sườn núi, Tí bồi là bãi cát vàng mênh mông. Giữa miền trung du nhưng có những làng sống trên sông nước. Những đứa trẻ chạy nhảy, nô đùa trên cát. Chiều xuống, người ta cặp ghe vào bãi bồi để nấu nướng. Có bà cụ chỉ tấp ghe vào chỗ khuất tránh gió thổi lửa nấu cơm. Cảnh nghèo đơn sơ trông đến se lòng. Nhưng nghèo mà yên bình quá! Những cô gái gánh nước tưới bắp, rồi gánh nước về nhà. Trước lúc về bao giờ các cô cũng tắm ngoài sông, cứ để quần áo mỏng ướt dính da, dấu chân in trên cát, bóng đổ dài trên cát.

              Hai bên bờ sông, những triền bắp xanh mát mắt đang mùa trổ bông, hương bắp ngây ngất. Tôi nhớ câu hát ru em của mấy đứa nhỏ hàng xóm thuở nào: Chèo ghe bẻ bắp bên sông/ Bắp chưa có trái bẻ bông đem về...
              - Sao anh ngồi có một mình?
              - Anh ngắm cảnh. Mấy khi được ngắm cảnh đẹp như thế này.
              - Anh lãng mạn quá ha? Anh ở xa tới phải không?
              - Cũng không xa lắm đâu. Qua bên kia đèo là tới làng anh - tôi chỉ tay về hướng đèo phía đông - Em có biết làng Gia Cát không?
              - Gia Cát? Em cũng ở làng ấy!

              Tôi tròn xoe mắt. Cô bé cũng ở làng mình? Sao mình không biết ta? Tôi cố vắt óc. Chịu. Tôi nhìn cô bé một lượt. Ở làng mình có cô gái đẹp thế mà mình lại không biết, tệ hết sức tệ!

              Nhưng tôi liền chống chế. Vì mình đi xa, lâu lâu mới về quê chơi vài ngày, khi về đi thăm lại bạn bè cũ và bà con cũng không hết, nói chi biết thêm ai. Mà tôi chỉ biết lớp lớn hơn mình thôi. Lớp nhỏ hơn một vài năm còn biết chứ hơn nữa thì chịu thua.
              - Anh xin lỗi, nhà em ở xóm nào?
              - Em là con út của chú Năm xóm Cây Khế đó anh!
              Tôi nhớ ra rồi. Xóm này trái đường nên tôi cũng ít khi qua lại. Nhưng ai chứ chú Năm thì tôi không sao quên được. Chú ấy thường cắt tóc cho tôi lúc nhỏ. Nhà chú xa nhưng chú hớt tóc đẹp nên con nít xóm tôi rủ nhau qua nhà chú hớt. Tôi nhớ khi qua nhà chú Năm có thấy đứa con gái tóc lơ thơ và vàng hoe như râu bắp, duy chỉ có đôi mắt sáng và đen như hai hột nhãn. Chắc là cô bé này chứ ai vô nữa. Ai dè bây giờ đã trở thành một thiếu nữ đẹp mặn mà thế này!

              ***

              Chiều tà, tôi cùng đoàn người vượt đèo. Thủy Nguyên không đi bằng ôtô của cơ quan nữa mà cùng đi xe máy với tôi để ngắm cảnh. Tôi đi sau cùng và đi chậm. Mọi người lao vút lên đèo rồi biến mất, chỉ còn hai đứa tôi. Thật vắng vẻ. Ðến đỉnh, xe đang chạy ngon ơ, tôi cho xe chạy chậm rồi dừng lại.
              - Vụ gì á? Vụ gì á?
              Tôi không trả lời. Sao cứ nghĩ xấu cho con trai hoài! Tôi chống chân đứng im ngắm cảnh từ đỉnh đèo Le thơ mộng, rất chi là thú vị. Tiếng chim kêu ríu rít. Núi rừng xanh bạt ngàn. Cũng thật lạ, hai con suối cùng xuất phát từ đỉnh Hòn Tàu nhưng một dòng đổ về hướng tây là suối nước nóng Tây Viên, còn đổ về phía đông là dòng nước mát hiền hòa.

              Hoàng hôn buông xuống, ánh nắng liếm trên lưng sườn núi, tắt dần trên những cánh đồng với con đường quanh co đẹp như bức tranh thủy mặc. Cảnh đẹp mà ngày xưa nhà thơ Khương Hữu Dụng đã từng dừng chân mở quán nước lưng đèo để nuôi hồn thơ.
              Nắng tắt, tiếng chim núi gọi bầy, sương là là đỉnh đèo. Thủy Nguyên ngồi sau không nói gì, hình như là mắc cỡ với câu nói ban nãy. Ðèo lộng gió. Cái gió se lạnh trong sương chiều. Tóc Thủy Nguyên cứ cứa vào mặt khiến tôi không cầm được lòng mình.
              - Cho anh mượn cái tay.
              - Mượn làm chi?
              - Cầm!
              - Lạ lắc mà cầm!
              Tôi thò tay ra sau, nắm lấy tay Thủy Nguyên. Bàn tay trong gió lạnh ngắt. Thủy Nguyên giật tay lại nhưng không rút khỏi được bàn tay khỏe mạnh của tôi nên cứ để yên. Bàn tay ấm dần lên rồi nóng bừng. Má Thủy Nguyên áp vào vai tôi cũng nóng bừng.
              - Anh cầm lái hai tay đi, đến khúc cua rồi kìa!
              - Té thì té chung, lo gì.
              Tôi vẫn cầm tay Thủy Nguyên nhưng cho xe chạy thật chậm, thật chậm. Chậm thế mà Thủy Nguyên cũng sợ, cứ ôm eo tôi cứng ngắc... Ở phố tấp nập, Thủy Nguyên đâu dám ôm tôi như vậy.

              Qua hết đèo, tôi đưa Thủy Nguyên đi ăn nghêu sò ốc hến ở bờ sông Hàn. Sau đó chúng tôi đi dạo. Nghe nói bên bán đảo Sơn Trà đẹp lắm, tôi hỏi đường rồi chở Thủy Nguyên ra đó. Lượn quanh bờ biển một vòng, gió biển mát rượi, đến bãi cát trắng chúng tôi dừng lại, ngồi uống nước dừa ngắm biển mà chẳng nói gì với nhau, đến khi sóng biển cao dần, bọt nước bắn lên tận chỗ ngồi mới giật mình nhìn đồng hồ.

              10 giờ rưỡi phải về vì Thủy Nguyên còn phải đến nhà cô bạn trên tận Hòa Khánh. Xe mới qua cầu Sông Hàn một đoạn thì nổ lụp thụp như hụt hơi rồi từ từ dừng lại. Xuống kiểm tra, hết xăng. Cây kim xăng xe thằng bạn bị kẹt, xăng cạn mà kim vẫn báo đầy. Tôi dắt, Thủy Nguyên đẩy một đoạn khá xa mới có chỗ bán xăng lẻ.

              Ðến ngã ba Huế đã 12 giờ kém. Thủy Nguyên gọi điện mấy lần cho bạn đều không có tín hiệu. Có lẽ cô bạn đã khóa máy và ngủ mất rồi. Bây giờ thì biết ngủ nơi đâu? Con trai lăn lóc đâu cũng được, con gái tìm chỗ ngủ thật khó quá. Không còn cách nào khác tôi phải chở Thủy Nguyên tìm khách sạn cho cô nghỉ qua đêm.

              Trúng mấy hôm hội chợ hàng Việt Nam - Lào - Thái Lan, đi đến gần chục khách sạn mới có một phòng trống. Gửi xe rồi mang giỏ xách lên tận lầu 4, chân tôi mỏi rã rời, lại quá buồn ngủ. Nhưng tôi còn phải đi gần chục cây số nữa mới đến nhà thằng bạn để ngủ nhờ. Tôi gọi trước cho nó. Chuông réo hoài mà không ai bắt máy. Thôi rồi, nó cài chế độ rung chứ không để chuông. Giờ này chắc nó cũng ngủ co giò từ lâu, cuối tuần uống vô mấy chai, ngủ say có sóng thần đổ vô nó cũng không hay.
              - Thôi cho anh ngủ lại đây sáng mai anh đi sớm, được không?
              - Ðược, nhưng chỉ có một chiếc giường, anh phải nằm dưới đất!
              Dưới đất cũng được, miễn có chỗ ngủ. Trời lạnh, tôi lấy tấm chăn đắp rồi nằm thẳng cẳng. Thủy Nguyên tắm rửa xong, lên chiếc giường nệm dày trải vải trắng muốt. Cô nằm được một lát thì kéo chiếc chăn tôi đang đắp: - Lạnh quá, không có mền em ngủ không được!
              - Có một chiếc thì làm thế nào? Hay là chúng mình đắp chung? Thôi chúng mình đắp chung nhé!

              Tôi lên giường nằm. Thủy Nguyên lấy vội chiếc gối để giữa và cấm tôi không được quay mặt vào trong. Hai chiếc lưng cũng không được chạm nhau. Ai vi phạm sẽ bị phạt. Tôi chưa nghe Thủy Nguyên nói sẽ phạt gì thì mắt đã díp lại, không còn biết trời trăng mây gió gì nữa.

              Ðang ngủ ngon thì có gì đó chạm vào hông khiến tôi tỉnh giấc. Quay lại, môi tôi chạm đôi môi mềm mại. Lòng rạo rực, tôi hôn Thủy Nguyên một nụ hôn thật ngọt. Thủy Nguyên cũng đáp lại bằng một nụ hôn thật ngọt. Bản năng đàn ông trỗi dậy, bàn tay tôi vụng về vuốt ve đôi gò má, mân mê cái cổ thon dài rồi nong dần xuống, mở cái cúc áo. Tôi trườn qua khỏi cái gối lúc nào không hay. Ðôi vòng tay tôi ghì chặt, tôi cũng được ghì chặt, hơi thở cả hai càng lúc càng gấp. Bàn tay tôi đang chu du thì Thủy Nguyên kêu lên:
              - Dừng lại!
              - Sao vậy?
              - Anh có... yêu em không?
              Câu hỏi làm tôi giật thót. Tôi lấy lại bình tĩnh bằng cách hít thật sâu rồi thở chậm, đều. Tôi mở mắt nhìn Thủy Nguyên. Cô cũng từ từ mở mắt nhìn tôi. Nếu trả lời không thì tôi sẽ làm cho Thủy Nguyên buồn. Nhất định là vậy. Nếu trả lời có là tôi dối lòng mình. Tôi đã yêu một người, một người tôi chưa được cầm tay, mấy năm rồi cũng chưa gặp mặt nhưng tôi cứ nhớ cứ thương, cứ chờ đợi và tin tưởng dù rằng chưa hứa hẹn gì với nhau.

              Mà sao tôi lại hôn một người con gái tôi chưa yêu thế này? Tôi vừa hôn một cô gái mà mình chỉ mới thinh thích bởi vẻ đẹp đằm thắm, cách nói chuyện thông minh và hài hước. Tôi luôn dặn với lòng mình là sẽ dành nụ hôn đầu đời cho người mình yêu kia mà. Tôi thấy mình có lỗi với chính mình, với người mình yêu. Tôi nhớ lại lời cô ấy: "Nếu chỉ một việc nhỏ anh làm cho em buồn thì coi như những gì từ trước đến nay anh có làm cho em vui đến mấy cũng bằng không...".

              Tôi không muốn mất người tôi yêu, tôi không thể làm cho người tôi yêu buồn. Tôi không muốn người tôi yêu giận. Tôi tự hỏi có phải Thủy Nguyên dễ dãi quá hay không? Tôi lại không ưa người dễ dãi. Dễ dãi với mình thì cũng dễ dãi với người khác thôi. Nhưng với sức mạnh của một người con trai thì liệu cô gái chân yếu tay mềm kia không dễ dãi có được không?

              Câu hỏi ấy càng gợi thêm trí tò mò và kích thích sự khám phá nơi tôi. Thế mà giờ đây chỉ có tôi và Thủy Nguyên trên chiếc nệm trắng muốt và êm ái trong một căn phòng đã khóa cửa trong, không thể có người thứ ba nào biết được. Và tôi cũng là một đứa con trai bình thường, cũng đầy tò mò và khao khát!

              Sáng sớm mai tôi lại đi rồi và sẽ đi rất xa, chắc gì sau này có dịp gặp lại Thủy Nguyên, càng không thể có cơ hội bằng vàng nằm cùng với cô trên chiếc giường nệm trắng muốt như thế này một lần nữa. Ngón tay tôi đưa lên môi lúc nào không hay. Tôi dằn lòng, không thể, nhất định không thể! Tôi nghiến hai hàm răng, cắn phải ngón tay đau điếng, một lúc sau nghe người mình dần dần hạ nhiệt. Rồi tôi thì thầm:
              - Nếu là có?
              - Thì em sẽ là... của anh!
              - Nếu là không?
              - Không yêu mà như thế này hả?

              Thủy Nguyên giận dỗi đẩy tôi một cái thật mạnh làm tôi lăn tròn. Ðột ngột tự ái của tôi bùng lên, sức mạnh của đứa con trai trỗi dậy. Tôi chồm lên cô như hổ vồ mồi. Nhưng tôi lại kịp đưa ngón tay lên miệng cắn thật đau một lần nữa. Thật trớ trêu. Sao người nằm đây không phải là người tôi yêu để tôi nói lời yêu thương ngàn lần, để tôi không phải kìm nén sức trai, để rồi tới đâu thì tới! Sao lại không phải chứ? Sao lại không phải chứ? Tôi càng nhớ người yêu quay quắt. Tôi cắn tay thật mạnh một lần nữa rồi nằm yên cho cơn đau lan tỏa khắp cơ thể. Khá lâu, chợt có ngón tay mềm mại gãi gãi vào lưng tôi.
              - Bộ nhớ người yêu à?
              Tôi không quay lại mà chỉ gật gật đầu.
              - Chứ người yêu anh ở đâu, xa lắm hả?
              - Xa lắm. Xa mà anh không bao giờ gặp được. Anh xin lỗi em. Anh không muốn lừa dối em (tôi biết rằng trước một người con gái mà nói về một người con gái khác là thằng ngu nhất trần đời nhưng không hiểu sao miệng tôi cứ nói, không dừng lại được), anh càng không muốn dối người anh yêu. Người ấy đã lâu rồi anh chưa gặp mặt, anh cũng chưa được cầm tay, chưa một lần hẹn ước nhưng anh luôn nhớ luôn thương và anh sẽ chờ cô ấy suốt đời...
              - Hoang đường, thật là hoang đường!
              Tôi cũng nghĩ là hoang đường. Tôi ước là hoang đường. Tôi cũng muốn quên đi lời dặn của cô ấy để bây giờ khỏi phải cắn mãi ngón tay đau! Nhưng biết làm sao bởi tình yêu bắt nguồn từ nhiều thứ, trong đó có cả niềm tin.


              ***

              Sáng ra khi xuống trả phòng, cô nhân viên khách sạn nhìn chúng tôi cười cười đầy tình ý. Chúng tôi nhìn nhau cũng cười cười. Không ai biết chúng tôi cười gì. Chỉ có ánh đèn trần phòng 404 mới biết.

              (Nghi Sơn, tháng 4-2006)

              Trương Anh Quốc
              ----------------------------

              Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

              Comment

              • #8

                Buffet truyện ngắn miền Trung - Trái Tim Đàn Bà - NTTT

                Tôi viết truyện ngắn Trái Tim Đàn Bà để riêng tặng cho một đồng nghiệp thân thiết của mình.Vẫn tin rằng , dù nhiều thương tổn , những trái tim đàn bà vẫn đầy ắp thương yêu. Ngô Thị Thục Trang.



                Trái Tim Đàn Bà

                Chị đô con, cao gần thước bảy, cùng tuổi con chuột với tôi, chỉ có điều sinh trước tôi hai con giáp. Ngày mới vào cơ quan, tôi kêu chị bằng cô. Nhưng chị cứ một chị hai chị làm tôi lây luôn. Ờ thì kêu chị cho…trẻ (lại thân mật nữa, chị bảo thế). Có lần chị cười bảo nếu có sự run rủi của số phận, biết đâu tôi đã là con chị. Tôi nheo mắt không có đâu, chị là chuột cống còn em chuột nhắt mà. Là nói cho vui thế thôi. Nhưng cuộc đời, ai mà biết được.
                Cũng như tôi vẫn thường hay nghĩ nếu ba mẹ tôi yêu nhau không phải giờ đó mà là một thời điểm khác thì người được sinh ra có còn là tôi nữa hay không? Có là tôi hay buồn những chuyện chẳng đâu vào đâu. Có là tôi từ nhỏ đến lớn chỉ thích để kiểu tóc con trai. Có là tôi lì lợm khi bị đánh đến sưng cả mông nhưng chỉ một câu nói yêu thương, một cái ôm vào lòng của ba mẹ là nước mắt chảy dài. Có là tôi dám tát vào mặt thằng con trai nói lời khiếm nhã, lại vụng về bỏ chạy trước một lời tỏ tình. Làm sao có thể trả lời những câu hỏi kiểu đó được, khi tôi đã là tôi?

                Chồng chị mất khi anh chị mới chung sống với nhau được năm năm và không để lại cho chị được đứa con nào. Anh bị lao mà chết khi mới ba mươi bốn tuổi. Chị bảo anh bị lao vì quá lo nghĩ. Rồi chị quay sang tôi: Chị thấy em cũng hay lo lắng lắm, vứt bớt đi mà sống cho nhẹ lòng, em ạ! Thực ra, những thứ tôi lo lắng là những thứ không đâu, tôi có lo cũng vậy mà không lo cũng vậy, chẳng thay đổi được gì.

                Có hôm, thấy chị ngồi tư lự, tôi chọc: “Tương tư anh chàng nào rồi đây!” Chị cười buồn: “Chị lo quá Thuyên ơi. Mấy đứa cháu nhà chị nó chẳng biết thương cha thương mẹ. Không chịu học hành tử tế, không biết tiết kiệm gì hết. Rồi mai mốt ra đời, chúng sống làm sao?”. Chị ơi, vậy mà bảo tôi hãy vứt đi lo nghĩ. Đó, chị không con cái mà có thoát được những điều lo lắng ấy đâu!

                Thỉnh thoảng, tôi ở lại trưa cùng chị. Nằm trên chiếc chõng vải, tôi vói sang chị: “Hay là chị lấy chồng đi, chứ cứ ở một mình vậy hoài thấy buồn quá!”. “Cũng nhiều người khuyên chị thế, nhưng mà chị sợ. Lấy chồng rồi lại chịu cảnh mẹ kế, con chồng. Mà biết người ta có thương mình thật lòng không. Hay cũng chỉ coi mình như osin cho con họ. Thế thì chị cứ ở vậy còn hơn”. “Nhưng sau này có tuổi…”. “Tới hồi chị có tuổi, thì đã có viện dưỡng lão, em đừng lo”. Bao giờ cũng vậy, nói chuyện được một lúc, chị lại bảo tôi đừng lo! Chẳng lẽ tôi lo vậy là thái quá?

                Chị khoe mới sắm dàn máy vi tính, để mà đọc cái này cái nọ. “Với lại mình cũng đã già đâu, không thể để tụt hậu với thời đại được”. Chị có vẻ vui hẳn ra từ khi có “người bạn computer” này. Chị nói nhiều hơn, lại còn lẩm nhẩm hát vu vơ nữa.

                Tôi thì vẫn sống trong mớ bòng bong lo nghĩ của mình. Thấy tôi về quê vẫn một mình, mẹ tôi sốt ruột, nói mát: “Chắc tao đến chết cũng không thấy mặt thằng con rể”. Tôi hững hờ: “Mẹ thấy mặt anh ta làm gì? Có bao giờ con rể lại chăm lo mẹ vợ đâu mà mẹ mong chờ!”. Nói với mẹ thế, nhưng lòng tôi rối mù. Vĩnh của tôi, anh bảo: “Mình yêu nhau thế này, thỉnh thoảng gặp nhau vui vẻ thế này, em không muốn lại đi muốn cảnh suốt ngày ở bên nhau, mặt nặng mày nhẹ với nhau vì tiền nong, con cái. Tình cảm mới quan trọng chứ sao em lại thích ràng buộc nhỉ?”.

                Tôi cãi: “Anh thật khác mọi người. Người ta yêu nhau là để cưới nhau, xây dựng hạnh phúc với nhau. Còn anh…”. Nhưng rồi cũng không rời bỏ được Vĩnh để đi tìm cho mình một bến bờ yên ổn khác được. Nhiều lần tôi khóc, hỏi vì sao số mình lại khổ thế này. Vĩnh ôm tôi vào lòng: “Vì em yêu anh chứ còn vì sao nữa. Em yêu anh từ kiếp trước, biết không chuột nhắt của anh?”. Và chỉ cần như thế, tôi đã quên tất cả.

                Quên tôi cần một gia đình bé nhỏ, sáng dậy ủi đồ cho chồng đi làm, đưa con đến lớp trước khi đến cơ quan, chiều chiều hai vợ chồng dẫn con đi tắm biển, tối tôi ngồi học bài cùng con. Quên tôi từng mơ ước được làm người phụ nữ hạnh phúc nhất trần gian. Chỉ cần một lời nồng nàn của Vĩnh, tôi lại nhắm mắt trôi cùng anh miên man và tin lời anh nói rằng chúng tôi đang hạnh phúc.

                Chị khoèo tay tôi: “Có bao giờ em chat chưa?”. “Em chỉ chat với bạn bè thôi, còn người lạ thì chưa bao giờ”. “Chị mới quen mấy người trên mạng, họ nói chuyện hợp rơ với chị lắm! Như thể họ hiểu chị hơn chính chị nữa”. Tôi định nói với chị rằng không nên tin những gì trên mạng, vì có ai phải chịu trách nhiệm gì vì những lời tán gẫu ấy đâu, nhưng thấy mắt chị long lanh vì niềm vui sướng lan tỏa, tôi lại không nỡ. Mà biết đâu tôi khó tính quá thật (tôi cứ đinh ninh rằng người thật việc thật còn chưa tin tưởng được, huống hồ…). Biết đâu, chị tìm được cho mình những người bạn thực sự, sẻ chia những buồn vui mà chị không nói được cùng tôi. Cũng như tôi có một blog cá nhân, tôi hay vào đó để trút những lời… điên khùng của mình.

                Tôi và Vĩnh lần này cãi nhau to. Thật ra chỉ mình tôi nói, và khóc, còn anh im lặng nhả khói thuốc. Nhưng đúng là lần này tôi khóc to nhất, từ trước đến nay. “Anh không định cưới em thì buông em ra cho em đi lấy chồng. Chứ cứ thế này em mệt mỏi quá. Em nghĩ kỹ rồi, không bao giờ em chấp nhận được cuộc sống như anh mong muốn. Vì trong em còn nhiều mong ước khác”. Tôi nói và khóc một thôi một hồi rồi tự động im lặng. Khi tôi đứng dậy toan về thì Vĩnh níu tay tôi lại: “Thì cưới. Cuối năm, em thích chưa?”.

                Chị ghé sát vào tai tôi: “Có người tỏ tình với chị, Việt kiều đang ở Mỹ.” Tôi tưởng nghe được cả nhịp tim chị dồn dập. Tôi kéo chị ra quán café cóc đối diện cơ quan.

                - Anh ấy bảo cuộc sống bên ấy tẻ nhạt lắm, chỉ có công việc và công việc. Hàng xóm cũng không biết mặt. Ảnh lấy bằng tiến sĩ hơn mười năm rồi. Hai đứa con của ảnh đã lớn, khuyên ảnh nên đi bước nữa vì mẹ chúng mất cũng khá lâu rồi.

                - Chị sẽ đi Mỹ à?

                - Không, chị từ chối rồi. Chị bảo ảnh hãy tìm một người bên đó để dễ tìm hiểu và nếu tiến tới được cũng dễ dàng hơn chứ tìm chi bên này, thủ tục rắc rối lắm. Chị thì không muốn đi đâu hết. Chẳng ở đâu sướng bằng quê hương bản quán mình, nhất là chị đã có tuổi rồi.
                Chị cứ khuấy mãi ly café trong khi tôi đã hút sạch một hộp Yomost: “Chị lên mạng chỉ để tìm người nói chuyện cho khuây khỏa. Ai ngờ lại gặp chuyện này. Người chị cứ lâng lâng mấy ngày nay em ạ. À! Còn chuyện này nữa, có bao giờ em gặp chưa? Có người hỏi chị một câu rất khiếm nhã: Bạn có muốn làm tình nhân của tôi đêm nay không? Chị hoảng quá, tắt máy luôn”.

                Tôi thấy thương chị hơn bao giờ hết, chuyện ấy đã là chuyện “xưa như trái đất” trên mạng rồi, lại làm chị hốt hoảng. “Nhưng chị từng này tuổi, tưởng như mọi xúc cảm trơ ra hết rồi, được nghe lại một lời yêu thương, cũng thấy đáng sống lắm em ạ!”. Hình như đã có lần Vĩnh nói với tôi sống trên đời này, chỉ cần được yêu thương là đủ để hạnh phúc, mọi ràng buộc chỉ làm cho con người mệt mỏi. Lúc bên Vĩnh, tôi cũng tin thế. Nhưng khi nhìn sang cuộc sống của nhiều người khác, tôi lại thấy mình chơi vơi.

                Vĩnh chở tôi về quê. Mẹ tôi bắt gà làm thịt đãi “con rể tương lai”. Lúc ngồi nhổ lông gà cùng tôi, con Loan thật thà: “Có vẻ nghệ sĩ quá. Không giống một người sắp đi làm rể”. Tôi trợn mắt, nó im. Nhưng đến bữa ăn, nó lại giở chứng: “Anh Vĩnh tuổi con gì?”. “Anh tuổi Mẹo”. “Chết! Mèo hay vờn chuột lắm đó. Chị Thuyên coi chừng nghen!”. Mẹ tôi tái mặt. Tôi đỡ lời: “Loan yên tâm đi. Chị là chuột máy vi tính đó, không dễ vờn được đâu”. Hôm sau, về thành phố, Vĩnh ôm lấy tôi: “Mất em, anh sẽ chết. Nhưng cưới em, anh sợ đó sẽ là cách để mất em nhanh nhất!”. Trời ơi, vì điều gì tôi và Vĩnh cứ đau hoài bên nhau thế này?

                Chị lại trầm ngâm, có khi còn hơn trước. Tôi thì đang dở dở ương ương chuyện với Vĩnh, dứt thì không dứt được, còn tiếp tục thì chẳng biết đâu là bến bờ. Tôi rủ chị: “Đi nhậu hè!”. Hai chị em đèo nhau ra biển. Gió chiều mát đến rợn ngợp, tưởng như có thể làm tan đi hết mọi muộn phiền trong tôi. Lời chị tan trong gió: “Anh ấy không liên lạc gì với chị nữa, từ bữa chị từ chối và khuyên ảnh nên tìm người bên ấy”.

                Gió làm rối tung mái tóc chấm ngang vai vì mong làm mới mình, tôi cố nuôi mấy tháng nay. Tôi hét thật to, vừa hét vừa chạy theo những con sóng đang vồ vập lấy chân mình: “Quên đi chị. Em cũng đang tập quên đây!”. Tôi bỏ chị một đoạn khá xa, vẫy tay: “Chị chạy lại đây đi”. Nhưng chị không chạy mà bước từng bước chậm rãi. Tôi kéo lấy tay chị: “Thôi, vào nhậu. Và hứa với em đừng nhắc đến đàn ông trong buổi tối này”.

                Chị đã giữ đúng lời hứa, không nhắc đến người đàn ông mà thật tình tôi không biết là có thật trên đời không nữa, hay chỉ là một trò đùa của ai đó. (Trong thế giới ảo, chuyện gì mà không thể.) Người đàn ông ấy, không biết thật giả làm sao, nhưng đã làm người đô lớn là chị xiêu vẹo giữa chuỗi ngày bình yên đến ngột thở của mình.

                Vĩnh gọi cho tôi: “Em đang ở đâu mà giờ chưa về?”. Tôi giả bộ lèm nhèm: “Anh biết để làm gì? Anh quan tâm để làm gì? Em sắp rơi vào vòng tay kẻ khác rồi, anh sung sướng chưa?”. “Em đang ở đâu? Để anh đến đưa em về”. Tôi tắt máy. Tưởng tượng cảnh Vĩnh đang điên tiết lên vì ghen, vì lo lắng, tôi thấy hả dạ. “Ai bảo dám vờn em! Ha ha”. Hình như tôi uống hơi nhiều, giọng đã lạc đi, dù chưa đến độ lèm nhèm như khi nói với Vĩnh.

                Chúng tôi ngồi rề rà đến khi chị kêu lên: “Trời ơi! Mười giờ!” thì dừng cuộc nhậu. Tôi chở chị về, gió khuya lành lạnh. “Thuyên! Vĩnh nó yêu em thế, lo cho em thế. Sao hai đứa lại làm khổ nhau mãi thế này?”. Chị hỏi tôi, tôi biết hỏi ai, đành đánh trống lãng: “Đã bảo không nhắc đến đàn ông mà chị”. Chị khép cổng rồi, tôi chợt thấy đường về xa thăm thẳm, dù nhà chị cách nhà tôi chỉ ba cây số. Vĩnh ơi, sao Vĩnh lại để em phải đi một mình giữa đêm khuya khoắt thế này?

                Chị lại khoe với tôi: “Chị từ bỏ những cuộc chat rồi. Chỉ thỉnh thoảng lên mạng nghe nhạc, đọc báo thôi”. Tôi chẳng biết nên vui hay nên buồn vì điều chị nói nữa. Tôi bạo dạn: “Còn ông Việt kiều đó?”. Chị cố làm ra vẻ hài hước: “Thôi em, mấy viện dưỡng lão đang khởi công để dành riêng cho chị đó!”. Tôi cố cười mà không cười nổi. Chị vẫn cần một người đàn ông chứ, ít ra để còn biết được yêu thương. Hay tôi lại lo xa?

                Vĩnh bị tai nạn. Người ta gọi bằng di động của Vĩnh cho tôi: “Ông xã chị đang đi thì ngã giữa đường. Xe cấp cứu chở đi rồi. Chị đến Bệnh viện Đa khoa gấp.” Tôi hớt hải chạy đến, thấy Vĩnh đang nằm bất tỉnh, trên người dây nhợ lằng nhằng. Tôi òa khóc. Cô y tá đang chăm sóc cho anh nói bằng giọng tỉnh bơ: “Có gì mà khóc. Anh ấy bị suy nhược cơ thể. Ngã giữa đường mà không bị xe sau cán là phúc cho nhà chị lắm đấy!”. Mấy người nuôi bệnh những giường gần đấy nhìn tôi bằng ánh mắt giễu cợt, kiểu như: “Chăm sóc chồng kiểu gì mà để chồng đến nỗi suy nhược cơ thể?”. Cầm trên tay chiếc di động của Vĩnh mà người ta trả lại, tôi bấm số của mình, hiện lên chữ “bà xã”. Vĩnh của tôi ơi, anh có hiểu hết mình không?

                Tôi đón Vĩnh từ bệnh viện, làm thịt bò tái rồi nấu cháo cá ép anh ăn. Anh ôm tôi từ sau: “Hay em về đây ở luôn nhé!”. Tôi không trả lời, cứ đứng yên vậy, lửa bếp gas xanh hiền dịu. Chợt tôi nghe giọt nước nóng bỏng rơi trên vai mình, và tiếng Vĩnh ấm nồng: “Anh cần em biết nhường nào. Đến bây giờ anh mới nhận ra điều ấy! Làm vợ anh, em nhé!”. Ôi, Vĩnh của tôi. Anh hiểu thêm điều gì sau những ngày nằm viện mà đã không còn sợ hôn nhân sẽ làm chết đi tình yêu?

                Và chị nữa, hiểu thêm điều gì sau từng ấy năm tựa vào công việc để sống. Để tin nhắn tôi nhận được từ chị trong ngày thứ tư của tuần trăng mật: “Hãy biết nâng niu hạnh phúc của mình nghe chuột nhắt!”. Ôi! Chị, dù đô lớn, dù bản lĩnh và xuất sắc trong mọi việc, vẫn mang trái tim của một người đàn bà. Trái tim ấy, sinh ra trên đời để thổn thức hoài vì những tổn thương…

                NTTT



                ----------------------------

                Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                Comment

                Working...
                X
                Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom