.
Lý Công Uẩn và Chiếu dời đô, áng văn bất hủ
Chiếu dời đô trên đất Hoa Lư
1000 năm trước, trên mảnh đất Hoa Lư, vua Lý Thái Tổ đã đọc chiếu dời đô trước văn võ bá quan để dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La nằm ở trung tâm của nước Đại Cồ Việt:
“…Thành Đại La nằm ở giữa trời đất đông tây nam bắc, có thể rồng cuốn hổ ngồi. Trên dưới đất rộng, bằng phẳng, cao ráo sáng sủa, muôn vật phong thịnh. Thật là nơi tụ họp của bốn phương, là đất kinh đô của muôn đời”.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, chiếu dời đô vẫn là một áng văn bất hủ thể hiện tầm nhìn sáng suốt của một vị vua với vận mệnh dân tộc Việt.
Kinh đô Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân Đinh Bộ Lĩnh đã nên ngôi Hoàng đế và đóng đô ở Hoa Lư. Xét về bối cảnh lịch sử thời đó việc định đô ở quê hương là một quyết định hoàn toàn đúng đắn.
Thứ nhất, sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, việc lập đô ở quê hương chắc chắn sẽ phát huy tốt nhất lợi thế nhân hòa, địa lợi của người lãnh đạo. Quê hương bao giờ cũng chính là hậu cứ vững chắc nhất, là nơi nuôi nấng những ước mơ, khát vọng để vị hoàng đế này lập nên những chiến công hiển hách.
Tư tưởng này trong lịch sử Việt Nam xuất hiện khá nhiều như Hai Bà Trưng lập đô ở Mê Linh, Hồ Quý Ly dời đô về Thanh Hóa, Nguyễn Huệ lập Phượng Hoàng Trung Đô và ngay cả các triều vua định đô ở Thăng Long cũng đều xây dựng quê hương mình thành kinh đô thứ 2 làm hậu cứ như nhà Trần với phủ Thiên Trường, nhà Lý với phủ Thiên Đức, nhà Hậu Lê với điện Lam Kinh, nhà Mạc với thành Dương Kinh .v.v.
Thứ hai, Kinh đô Hoa Lư có một thế phòng thủ cực kỳ vững chắc với đặc trưng: “Núi trong sông, sông trong núi, căn cứ thủy bộ rất thuận tiện. Sau lưng là rừng, trước mặt là đồng bằng, xa nữa là biển cả. Nơi đây non sông tráng lệ, phong thủy hài hòa xứng đáng chọn để lập đô được.” Thực tế đã chứng minh khi Cổ Loa là kinh đô, An Dương Vương từng bị quân giặc đuổi ra tận biển. Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha và các con tranh giành quyền lực cũng không giữ nổi ngai vàng để các thế lực khác tiến đánh kinh đô như chốn không người. Với Kinh đô Hoa Lư, không chỉ các thế lực thù trong mà giặc ngoài thời đó như Tống, Chiêm cũng không thể nào hàng phục được.
Thứ ba, Việc xây dựng kinh đô Hoa Lư vua Đinh Tiên Hoàng đã tính đến yếu tố tiết kiệm sức người và của. Với tiềm lực kinh tế yếu của một dân tộc vừa trải qua 1000 năm bắc thuộc thật khó có đủ thế mạnh quân sự để chống đối với các thế lực phương bắc. Khi xây thành Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh đã tận dụng tối đa điều kiện của tự nhiên với các ngọn núi, sông ngòi sẵn có làm thành quách. Chúng chính là những bức tường thành tự nhiên sẵn có và làm giảm bớt sức lao động của thần dân bằng việc nối các khoảng giữa hai vách núi bằng tường thành nhân tạo.
Trên nền tảng kinh đô ấy, Vua Lê Đại Hành đã mở mang, phát triển kinh tế và lập tiếp những trang sử vẻ vang trong lịch sử dân tộc là đại thắng quân Tống trên 2 tuyến bộ và thủy. Ông cũng là người dẹp tan họa Chiêm thành đem lại thái bình cho dân tộc.
Năm 1009, sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê, Vua Lý Thái Tổ tiếp tục ở lại kinh đô Hoa Lư. Lúc này nền kinh tế nước nhà đã có một bước phát triển mới. Hoàn toàn có đủ khả năng và sức mạnh đối phó với nạn ngoại xâm. Nhà vua nhận ra vị trí của Hoa Lư không còn phù hợp với việc phát triển mở mang thành chốn phồn hoa đô hội. Ông đã nung nấu viết chiếu dời đô để xây dựng kinh đô mới tại Thăng Long.
Trong lịch sử dân tộc đây là vị vua duy nhất khi dời bỏ kinh đô đã có quyết định ban chiếu trước văn võ bá quan. Chính vì kinh đô Hoa Lư có một vị thế đặc biệt quan trọng như vậy nên việc dời đô mới thực sự khó khăn và là một việc làm dũng cảm.
Phải có tầm nhìn sáng suốt và thấu đáo suốt chiều dài lịch sử mới dám rời bỏ cả một kinh đô mà các tiền nhân đã bao công xây dựng. Chiếu dời đô đồng thời khẳng định đây là lo cho vận mệnh dân tộc sau này chứ không phải vì ý riêng mình.
Sau khi dời đô về Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã cải Hoa Lư thành phủ Tràng An đồng thời mang các địa danh của Hoa Lư đặt tên cho Thăng Long mà còn đến hôm nay như: phố Cầu Đông, ô Cầu Dền, đường Tràng Tiền, chùa Một Cột .v.v. Lịch sử 1000 năm Thăng Long Hà Nội là trang sử hào hùng của dân tộc Việt mà không nơi nào có được. Năm 2010, đây sẽ là sự kiện trọng đại mang tầm vóc quốc gia.
Hôm nay, đứng trên đất Cố đô Hoa Lư 1000 năm tuổi, trước nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ, ta vẫn nghe văng vẳng đâu đây chiếu dời đô còn vang vọng. Đó là một áng văn bất hủ của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long - một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億万世子孫之計。上 謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延 長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。算數短促。百姓耗 損。万物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土 高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜之 丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
Lý Công Uẩn và Chiếu dời đô, áng văn bất hủ
Chiếu dời đô trên đất Hoa Lư
1000 năm trước, trên mảnh đất Hoa Lư, vua Lý Thái Tổ đã đọc chiếu dời đô trước văn võ bá quan để dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La nằm ở trung tâm của nước Đại Cồ Việt:
“…Thành Đại La nằm ở giữa trời đất đông tây nam bắc, có thể rồng cuốn hổ ngồi. Trên dưới đất rộng, bằng phẳng, cao ráo sáng sủa, muôn vật phong thịnh. Thật là nơi tụ họp của bốn phương, là đất kinh đô của muôn đời”.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, chiếu dời đô vẫn là một áng văn bất hủ thể hiện tầm nhìn sáng suốt của một vị vua với vận mệnh dân tộc Việt.
Kinh đô Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân Đinh Bộ Lĩnh đã nên ngôi Hoàng đế và đóng đô ở Hoa Lư. Xét về bối cảnh lịch sử thời đó việc định đô ở quê hương là một quyết định hoàn toàn đúng đắn.
Thứ nhất, sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, việc lập đô ở quê hương chắc chắn sẽ phát huy tốt nhất lợi thế nhân hòa, địa lợi của người lãnh đạo. Quê hương bao giờ cũng chính là hậu cứ vững chắc nhất, là nơi nuôi nấng những ước mơ, khát vọng để vị hoàng đế này lập nên những chiến công hiển hách.
Tư tưởng này trong lịch sử Việt Nam xuất hiện khá nhiều như Hai Bà Trưng lập đô ở Mê Linh, Hồ Quý Ly dời đô về Thanh Hóa, Nguyễn Huệ lập Phượng Hoàng Trung Đô và ngay cả các triều vua định đô ở Thăng Long cũng đều xây dựng quê hương mình thành kinh đô thứ 2 làm hậu cứ như nhà Trần với phủ Thiên Trường, nhà Lý với phủ Thiên Đức, nhà Hậu Lê với điện Lam Kinh, nhà Mạc với thành Dương Kinh .v.v.
Thứ hai, Kinh đô Hoa Lư có một thế phòng thủ cực kỳ vững chắc với đặc trưng: “Núi trong sông, sông trong núi, căn cứ thủy bộ rất thuận tiện. Sau lưng là rừng, trước mặt là đồng bằng, xa nữa là biển cả. Nơi đây non sông tráng lệ, phong thủy hài hòa xứng đáng chọn để lập đô được.” Thực tế đã chứng minh khi Cổ Loa là kinh đô, An Dương Vương từng bị quân giặc đuổi ra tận biển. Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha và các con tranh giành quyền lực cũng không giữ nổi ngai vàng để các thế lực khác tiến đánh kinh đô như chốn không người. Với Kinh đô Hoa Lư, không chỉ các thế lực thù trong mà giặc ngoài thời đó như Tống, Chiêm cũng không thể nào hàng phục được.
Thứ ba, Việc xây dựng kinh đô Hoa Lư vua Đinh Tiên Hoàng đã tính đến yếu tố tiết kiệm sức người và của. Với tiềm lực kinh tế yếu của một dân tộc vừa trải qua 1000 năm bắc thuộc thật khó có đủ thế mạnh quân sự để chống đối với các thế lực phương bắc. Khi xây thành Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh đã tận dụng tối đa điều kiện của tự nhiên với các ngọn núi, sông ngòi sẵn có làm thành quách. Chúng chính là những bức tường thành tự nhiên sẵn có và làm giảm bớt sức lao động của thần dân bằng việc nối các khoảng giữa hai vách núi bằng tường thành nhân tạo.
Trên nền tảng kinh đô ấy, Vua Lê Đại Hành đã mở mang, phát triển kinh tế và lập tiếp những trang sử vẻ vang trong lịch sử dân tộc là đại thắng quân Tống trên 2 tuyến bộ và thủy. Ông cũng là người dẹp tan họa Chiêm thành đem lại thái bình cho dân tộc.
Năm 1009, sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê, Vua Lý Thái Tổ tiếp tục ở lại kinh đô Hoa Lư. Lúc này nền kinh tế nước nhà đã có một bước phát triển mới. Hoàn toàn có đủ khả năng và sức mạnh đối phó với nạn ngoại xâm. Nhà vua nhận ra vị trí của Hoa Lư không còn phù hợp với việc phát triển mở mang thành chốn phồn hoa đô hội. Ông đã nung nấu viết chiếu dời đô để xây dựng kinh đô mới tại Thăng Long.
Trong lịch sử dân tộc đây là vị vua duy nhất khi dời bỏ kinh đô đã có quyết định ban chiếu trước văn võ bá quan. Chính vì kinh đô Hoa Lư có một vị thế đặc biệt quan trọng như vậy nên việc dời đô mới thực sự khó khăn và là một việc làm dũng cảm.
Phải có tầm nhìn sáng suốt và thấu đáo suốt chiều dài lịch sử mới dám rời bỏ cả một kinh đô mà các tiền nhân đã bao công xây dựng. Chiếu dời đô đồng thời khẳng định đây là lo cho vận mệnh dân tộc sau này chứ không phải vì ý riêng mình.
Sau khi dời đô về Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã cải Hoa Lư thành phủ Tràng An đồng thời mang các địa danh của Hoa Lư đặt tên cho Thăng Long mà còn đến hôm nay như: phố Cầu Đông, ô Cầu Dền, đường Tràng Tiền, chùa Một Cột .v.v. Lịch sử 1000 năm Thăng Long Hà Nội là trang sử hào hùng của dân tộc Việt mà không nơi nào có được. Năm 2010, đây sẽ là sự kiện trọng đại mang tầm vóc quốc gia.
Hôm nay, đứng trên đất Cố đô Hoa Lư 1000 năm tuổi, trước nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ, ta vẫn nghe văng vẳng đâu đây chiếu dời đô còn vang vọng. Đó là một áng văn bất hủ của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long - một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.
"Thiên đô chiếu" được khắc tại Tiêu Sơn tự, tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (ảnh: Báo Thái Bình)
遷都詔
Thiên Đô Chiếu
李公蘊
Lý Công Uẩn
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億万世子孫之計。上 謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延 長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。算數短促。百姓耗 損。万物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土 高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜之 丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
Âm Hán Việt
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?
Nghĩa:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô[1], nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô[2];, há phải các vua thời Tam Đại[3]; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương[4], ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)
Chú Thích:
1. Năm lần dời đô: Vua Thang (Thành Thang) đóng đô ở phía đông nam huyện Thương Khâu (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Trọng Đinh dời đô đến huyện Thành Cao (thuộc tỉnh Hà Nam). Hà Đản Giáp dời đô đến phủ Chương Đức (cũng thuộc tỉnh Hà Nam).Tổ Ất dời đô đến phủ Thuận Đức (tỉnh Hà Đông bây giờ). Bàn Canh dời đô đến huyện Yên Sư (hay Ân Sư thuộc tỉnh Hà Nam)
2. Ba lần dời đô: Chu Văn Vương đóng đô ở phía đông tỉnh Thiểm Tây. Chu Vũ Vương dời đô đến huyện Tương Yên (tỉnh Thiểm Tây). Chu Thành Vương dời đô đến huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam).
3. Thời Tam Đại: Ba nhà Hạ, Thương, Chu trong lịch sử Trung Quốc.
4. Cao Biền: Quan đô hộ Giao Châu của nhà Đường vào khoảng các năm 864-875. Cao Biền đắp thêm thành Đại La (Hà Nội ngày nay) vào khoảng năm 866.
.
Comment