• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Trường Ca ĐÊM TRÊN CÁT

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Trường Ca ĐÊM TRÊN CÁT

    Trường Ca ĐÊM TRÊN CÁT

    "Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán", đã hơn 150 năm từ ngày ông hy sinh, (Cao Bá Quát mất năm 1855) thơ ông vẫn tiếp tục “đánh đu” trên cả dao động và yên tĩnh. Ngưỡng mộ Cao Chu Thần, viết được một trường ca 600 câu về một đêm trong cuộc đời ngắn ngủi của ông, là một trong những điều mà nhà thơ Thanh Thảo cho rằng "bằng lòng hơn cả" trong cuộc đời mình...

    ********************

    Cao Bá Quát 高伯适 (1809-1855), danh sĩ đời Tự Đức. Ông có tên tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên. Thơ văn của ông được vua Tự Đức, một người giỏi văn thơ, đã phải ngợi khen: Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán(Văn như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát, đời Tiền Hán không có ai bằng). Cao Bá Quát là bạn thơ văn với Nguyễn Văn Siêu, tạo nên cặp nhà thơ Thần Siêu Thánh Quát.

    Ông sinh năm 1809 tại làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn Phú Thị, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Có tài liệu cho rằng quê gốc của ông ở xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá.

    Năm 1832 ông thi hương đỗ Á Nguyên, nhưng thi hội mãi vẫn không đỗ. Nhưng ông không đỗ, không phải vìkém tài mà là vì bị quan trường đánh hỏng. Năm 1841 ông được bổ giữ chức Hành tẩu bộ lễ.

    Tháng 8 năm 1841 ông được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên, thấy một số bài thi hay nhưng phạm húy, ông cùng bạn chữa giúp. Việc bị phát giác, tội ông đáng chém nhưng sau được xét lại, chỉ cách chức và tù 3 năm. Năm 1847 ông được mời làm ở Viện hàn lâm, sưu tầm văn thơ. Cảm kích trước thái độ ân cần giúp đỡ của hai vị công khanh là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương, ông gia nhập Mạc Vân Thi xã (do hai công khanh sáng lập).

    Do tính khinh miệt triều đình và vua quan, Cao Bá Quát bị đầy về làm giáo học ở vùng quê Quốc Oai và làm Quốc sư cho Lê Duy Cự, dòng dõi nhà Lê, nổi lên chống triều Nguyễn năm 1854. Lúc đầu quân khởi nghĩa dành được một số thắng lợi ở Sơn Tây, Nam Định, nhưng rồi bị quân triều đình đánh tan.

    Theo Thư mục chính biên thì ông bị bắn chết trong một trận đánh, nhưng có tài liệu cho rằng ông bị bắt giải về triều và bị chém đầu. Vua Tự Đức ra lệnh tru di tam tộc dòng họ Cao.


    ******************

    Trường ca "Đêm trên cát"

    Một đêm của nhà thơ Cao Bá Quát


    những con cá vàng ngủ mê trong điện Thái Hòa
    cặp mắt giấu sau bóng tối
    tiếng thở dài
    bàn tay nơi không thấy bàn tay
    phút chốc đốm lửa lóe sáng
    người lính canh bên con nghê

    bao giờ

    ta không định ra đi hay ở lại

    hoa gạo trong sương sớm
    nung nấu lòng kẻ xa
    ta đứng phía mặt trời lên chậm
    nửa đường đời cơn gió thoảng qua

    đừng nói đừng nhắc

    ta thèm nghe tiếng giã gạo
    vợ hiền tấm mẳn làm thuê
    và dòng sông chảy ta nghe
    mùa đông bãi quạnh lạnh tê gió lùa
    ta như thể cành bàng khô
    cắn răng chịu rét mà chờ lộc non

    bao giờ

    câu hát thời bé dại
    “ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng”…

    sẽ tới lúc chăng

    con nghê đá người lính canh hóa đá
    đêm cứng khô như một bức tường

    ai thả rơi từng bước chân
    hoang vắng… áo phong trần tả tơi

    ta đã giải trọn kiếp người
    với dòng sông dựng ngang trời thanh gươm

    với bài ca thuở khốn cùng
    hát bên người đói ngập ngừng xin cơm
    với tàn nhẫn lời roi song
    cháy trên da thịt hãy còn biết đau

    đừng nói đừng nhắc
    ta đã gượng dậy thế nào
    để ném những câu thơ
    như khạc từng búng máu

    có lúc vào canh ba sợi dây đêm chùng lại
    ta lấy chiếu đắp thêm cho chú nhỏ
    khêu bấc đèn ngóng đợi
    ngỡ vừa nghe tiếng kẹt cửa của hư vô
    giận mình chưa học được phép ngủ
    mắt trừng trừng mở trước vực sâu

    những con chuột nhắt
    gặm nhấm tấm vải hy vọng
    mà ta canh cửi suốt đời
    những con chuột nhắt
    bò qua khoảng không chóng mặt
    lên tận chín tầng trời

    khoảnh khắc ta hụt hẫng
    mây dưới chân tan loãng rã rời
    hố thẳm
    bao năm ròng chới với
    lòng mê man vin một chút danh hờ

    trên đất nước trận bão đen tàn hại
    bầy châu chấu từ đâu về che kín mặt trời

    lúa te tướp mặt người xanh xám
    dài làm sao những buổi chiều trống rỗng
    bụng quắt queo kiến bò
    cái đói thật tình xuống hai hàng nước mắt
    nào phải chuyện văn thơ

    nào phải lối đãi bôi thù tạc
    trăng trong chén anh
    là giọt rượu cặn cuối cùng
    của sông Trà một đêm khói sóng
    nhìn mắt bạn thấy bóng mình lẳng lặng
    mối hận bỗng trào lên cuộn xoáy con thuyền

    dù đi hay ở
    chẳng bao giờ ta quên
    bàn tay bạn giơ ngang như níu kéo
    như buông bắt cái gì tận xa vời
    ta chỉ là gã nhà thơ cùng đường quay trở lại
    lòng ước ao thoáng hạnh phúc mơ hồ

    tóc xõa đầu ngọn gió
    rối bời bao tâm sự
    ta già rồi chăng

    trước mặt bức tường cao thêm mãi

    gánh nặng lưng còng trèo non lội suối
    xòe bàn tay còn lại đất bùn
    mong tài năng nở rộ dưới vầng dương
    buồn cười thay
    nghe trong miệng vị sương mù nhạt thếch

    con chim quyên lỡ vận
    lang thang trên mặt đất
    tiếng kêu sao nghẹn ngào
    ta đã phí hoài quá nhiều sức lực
    gót chân mòn những bước không đâu

    ở nơi đó dường như tình yêu
    lần thứ nhất hoa xoan rơi lấm tấm
    mưa giêng hai thấm áo người ơi
    ở nơi đó ta nhỡ một nụ cười
    ba mươi năm sau nhớ lại còn muốn khóc

    nỗi nhớ của người đi trên cát
    mỗi bước mỗi lùi về tuổi thơ
    những khao khát bỗng thành chõ vỡ
    mắt đăm đăm cát trải mịt mờ

    thì cứ đi cứ đi và đi mãi
    như nước kia chảy không bến không bờ
    ta đã ném thơ mình vào thác xiết
    một sợi chỉ mành mỏng mảnh treo chuông
    một tiếng thét khi đầm lầy dâng ngập cổ
    trước mõm chó trước vó ngựa
    lần đầu thơ biết đến hiểm nguy

    hãy đứng lên ngọn lửa
    giữa màn đêm kinh sợ
    hãy thắp sáng lời nguyền rủa
    trước Ngọ Môn
    hãy uống cạn con đường
    đầy chông gai cạm bẫy
    hãy xuyên thủng bức tường
    bằng ngôn ngữ
    hãy chế ngự thời gian
    bằng lặng lẽ

    ta đã vãi tung những hạt giống của mình
    vào đất đai tăm tối

    bao giờ cho đến tháng ba

    trẻ gọi trâu lanh lảnh ngoài đồng lúa đang thì con gái
    lũy tre ngà lơ mơ
    cái áo khoác thanh bình
    tiếng tu hú trôi trong màu đỏ
    tháng năm về thức tỉnh những mầm sen
    có gì khiến ta bứt rứt
    có gì không thực
    qua vẻ hiền lành khép nép kia

    ta thích hoa phượng
    cháy tận cùng ngọn lửa
    dù phải thiêu đốt cả mùa hạ

    ai thảnh thơi ăn măng trúc mùa thu
    gió heo may ta cúi đầu từ biệt
    dăm bảy học trò mang rượu tiễn đưa
    các con đừng khóc
    ta đi đâu
    lênh đênh theo đàn chim di trú

    ai cắn răng qua cầu mùa đông
    cầm cố áo bông đổi vài đấu cám
    chợt ấm lòng nghĩ tới người thân

    nếu chỉ sống cho riêng mình
    cảm sao nổi phút tấm lòng kỳ lạ ấy


    ***

    đã trộn trong ta hàng ngàn số phận
    như bột nhào như vôi vữa
    mong một ngày hiện rõ
    chất thật mỗi con người

    lặng yên trên bề mặt
    gào thét dưới chiều sâu
    hiểu những giới hạn
    và khoảnh khắc
    một thành hai thành ba thành vô số
    mãi mãi dò tìm
    mãi mãi không thể nào chạm đáy

    những quả táo non chua chát
    ngọt ngay dưới mắt trẻ thơ
    cha lẩn thẩn đi học nghề mổ rồng
    đâu ngờ các con đói gầy đến thế
    như Thiếu Lăng thuở xưa về nhà
    ôm mặt khóc đất trời sầm tối

    những giọt nước mắt
    tắt nhanh trên cát
    những giọt nước mắt
    chẳng cần hóa ngọc
    ném gông dài làm chiếc thang mây
    cười dội tới những tầng cao chất ngất

    ta sống lại nhờ tiếng cười
    lần thứ hai chào đời từ ngục thất

    xin bạn đừng kinh ngạc
    vì sao chiếc mầm cây nhỏ nhất
    bị cả mùa đông nhào vô trấn lột
    bị bóng đêm lường gạt
    vẫn trần trụi lớn lên
    trên cánh đồng ngập ngụa
    trên màu lam lũ những ao bèo
    ta biết mình sẽ trở lại
    với bạn nghèo ăn bữa cơm rau dưa
    uống chén rượu thơm nồng không pha phách
    cất bằng thứ men truyền giữ đã bao đời

    ta sẽ trở lại
    dù phải húc đầu vào đá
    để mở cửa

    sau mùa đông là mùa xuân
    sau cái chết một bắt đầu khác nữa

    rêu nhuộm thời gian quanh gốc gạo
    đàn quạ kêu trên đỉnh tháng tư
    chuông chiều buông dòng sông chảy chậm
    sao vụt xanh dải ráng chưa mờ

    có tiếng gì chừng quen thuộc
    đến từ sắc trời phút giây thay đổi
    chừng gọi ta từ yên tĩnh không cùng
    hỡi người bạn đường mệt mỏi
    đâu là nơi dừng tạm bàn chân
    đâu con sóng dịu dàng
    đưa đẩy vành trăng
    đâu lời ru lúc quên lúc nhớ
    như mây mù mây tan

    gió
    cát
    quay cuồng
    chiếc lá
    xốc áo đứng lên
    lưu đày
    bầy cá nược đua theo thuyền
    trăng bầm đỏ
    mặt biển bùng cơn ác mộng
    con quái vật lừ lừ phun khói
    đang bò về phương Đông

    ta thét gọi
    chỉ mình ta tỉnh thức
    tiếng ta chìm như hòn sỏi giữa mênh mông

    lặng ngồi cho cạn đêm sương
    nâng chén rượu với hư không chuyện trò
    một đời trải bấy âu lo
    cái vui thiên hạ bao giờ vui chung
    bình sinh khoác mảnh chăn đơn
    đói no ấm lạnh thói thường khác nhau
    nỗi niềm lo trước vui sau
    hai con mắt mở chiêm bao mấy lần
    bước đi bước ở tần ngần
    trống hoang quán trọ trần gian gió lùa

    ta sẽ trở lại
    con người
    dài hơn mọi con đường

    giữa hai hàm răng là bóng tối
    những người trốn thuế trốn sưu
    bóng tối trùm lên cái nhìn hốt hoảng
    những người không muốn chết trước lăng vua
    như sỏi đá
    những người vốn rụt rè ai gọi cũng dạ
    suốt đời quẩn quanh chật chội lũy tre làng

    vì lẽ chi
    họ bỗng đặt vào ta bàn tay lửa

    ta có thể đưa tặng họ món ăn gì
    ngoài hy vọng?
    ta có thể trao cho họ của cải gì
    ngoài gánh nặng?
    khi ta giương ngọn cờ cay đắng
    vì lẽ chi họ hăm hở tụ về?

    không ban phát những lời hứa hẹn
    ta chỉ vung sự thật như cái vồ bằng đá
    giáng xuống những cơn mê

    hãy tỉnh dậy
    từ giấc ngủ
    nhằm đánh lừa
    cái bụng đói
    nhằm an ủi
    vết thương sâu
    hãy tỉnh dậy
    bóc lá cao
    lời đường mật
    vứt toa thuốc
    bọn lang băm
    chuyện mánh mung
    trò bố láo
    hãy tỉnh dậy
    chớ mộng du
    đừng khiếp sợ
    sống trên đời
    sông có khúc
    người có thời
    hết buồn khổ
    tới mừng vui
    hãy tỉnh dậy
    nào bạn ơi!

    ánh sáng của cây xanh
    bóng mát của đất lành
    ta nhận ra ngọn suối nơi dòng sông mình ngụp lội
    mà tiếng nói
    đột nhiên, lấp lánh

    ta nghe những cánh rừng quẫy mạnh
    trong hoang vu
    cây vươn vai ầm ào như bão
    có nhẽ ta chưa từng đến đó
    chưa dò xuống những bậc thang kỳ lạ
    để thám hiểm chính mình
    để vớt lên
    những cánh hoa cho mùa xuân khác
    gương mặt nào quá ư thân thiết
    và niềm vui hiếm hoi
    như rượu qúi nhiều năm chôn dưới đất
    giọng hát sau đền đài đổ nát
    cứ lay giật hoài cánh cửa riêng ta

    không phải bàn tay cẩm thạch
    chuyển đến cái vuốt ve bằng đá
    những rú gào xé rách màng tai

    khô khốc
    một tiếng kêu ngắn
    khô khốc

    khoảng lặng im đầy âm nhạc

    chờ đợi những bước chân
    của màu nâu trầm ấm


    gió như điên qua mái nhà cũ nát
    ta cứ ngồi và trôi trong đêm lễnh loãng
    này, bác gió
    sao không tung hê bọn ăn trên ngồi trốc
    lại đi giật tấm tranh anh em nghèo

    này, bác gió
    hãy thổi xuyên thân hình ta như ống sáo
    khúc nhạc dành cho những chồi non

    tính ta ưa chọc cười
    với bạn bè hay vui chén rượu
    những giấc mơ nào xa lắc
    thỉnh thoảng cập về bến cũ ghé thăm

    ánh sáng với mù sương
    ùa vào cùng một lúc

    con đường lầm lội
    gió hong khô lớp bùn váng bên ngoài
    lẽ “hành tàng” nhiều khi nói mãi
    sợ con chào mào trên cây khế rình nghe

    ta đứng đây
    nương tựa vào chính mình vào mặt đất
    nơi đặt bàn chân
    những chiếc lá run run bỗng xích lại gần
    với cái nhìn dịu dàng
    ta sẽ thở
    bằng lồng ngực chật căng sau manh áo vá
    tiếng nói âm u từ vô vàn mạch máu
    chảy nóng rực bầu trời
    ta sẽ đẩy tiếp sá cày
    trên khoảng đời còn hoang hóa

    nếu con người không biết đau khổ
    nếu con người đánh đổi
    cả cuộc sống cho sự bình yên giả tạo
    nếu con người tránh né
    những câu hỏi của riêng mình

    ta sẽ rung lên hồi chuông
    từng tiếng chuông sẽ vỗ vào vai họ
    như bàn tay một người bạn chân tình
    qua thời gian sấp ngửa
    rắn lại, óng ánh
    như hổ phách ngân nga trong thầm lặng
    những vòm cửa hình cánh cung
    đứng sững
    những hạt bụi đã bao lần quay đảo
    hoa cúc vàng lên ngôi
    những mái nhà xám hơn mây xám
    trôi chầm chậm qua sông
    những cây bàng chợt rùng mình cảm thấy
    một khung trời gãy gập của mùa đông

    như người thức giấc sau mộng mị
    mùa xuân dụi mắt cười ngơ ngác
    dòng sông mở mát xanh mời mọc

    vươn khỏi cô đơn
    hoa bừng tỉnh đón niềm vui ngây ngất
    hoa thanh thản chết đi từng khoảnh khắc
    hoa nhẹ nhàng báo trước những lo âu

    họ dẫn ta về đâu
    bị trói chặt giữa vòng dây và bóng tối
    giữa thói quen hàng ngày và nỗi sợ
    những chữ lạ viết mãi vào không khí
    thẩm vấn tra tấn ngục tù
    không duyên cớ không tuyên án
    tóc bạc trắng chờ lưỡi-dao-chưa-biết-bao-giờ-đến

    tại ta không muốn bỏ rơi những gì tốt đẹp
    ta mỏng manh như một con người
    với tình thương
    lấy lưng mình che đỡ những câu thơ non nớt
    lấy những câu thơ làm tấm áo che người đang rét
    trước ngọn roi gió bấc phũ phàng

    dù tất cả sẽ trôi qua

    nắm chặt bàn tay
    những ngôi sao mọc giữa bùn lầy
    sáng trong nước mắt
    con đường xuyên đám mây giông bão
    chiếc lá xoáy
    mưa hút vào thung lũng
    nghe giá lạnh tàn phá cơ thể

    ta đứng bên bờ sông bông cỏ nở hoa
    một giọng nói rất khẽ
    những chấm xanh nhỏ nhoi này là tín hiệu của mặt đất
    của mặt đất lớn lao thường xuyên bị đẫm đạp
    đến với ta như dòng nước mát
    như mắt con ta sau chuỗi ngày xa cách
    như hàng xoan non rưng rưng tháng giêng

    cỏ bồng bềnh câu thơ hoang dại
    cánh đu tiên mùa xuân
    ta đã bay quá lằn mức đời mình
    trên cả dao động và yên tĩnh

    bỗng tiếng gà như sóng
    vỗ tràn qua không gian

    khi người ta thức đến canh tư
    con mắt nhìn bóng đêm sẽ khác

    bạn ơi, vì sao quyến luyến
    trăng gác non đoài trăng chẳng nỡ quay lưng
    đời mấy lần gặp gỡ
    muốn vươn tay kéo núi về gần

    ban mai rồi sẽ tới
    như dòng sông lao xuống từ trời
    ta vục đầu vào khoảng xanh ngợp ấy
    tóc ướt đầm ánh sáng

    cơn sấm rền chớp xé tầng mây
    lúa phất cờ đứng dậy
    những hàng cây bùng cháy

    ta chờ đợi

    băng ngang trời đàn ngựa trắng

    rền vang móng gõ
    xanh đỏ tím vàng
    lúc hiện lúc tan
    tiếng trong tiếng đục
    những người chân đất
    những người thở dài
    những người cúi mặt
    chưa biết về đâu

    băng ngang trời đàn ngựa trắng

    ta vung thanh gươm
    theo chiều lá lúa

    bạn ơi đừng hỏi
    những người chân đất
    những người thở dài
    những người cúi mặt
    rằng họ là ai

    băng ngang trời đàn ngựa trắng

    những con cá vàng
    những con nghê đá
    một đốm lửa nhỏ
    một giọng nói người
    bàn tay bầm dập
    tìm nắm bàn tay
    bạn ơi đừng hỏi
    rằng ta là ai

    băng ngang trời đàn ngựa trắng

    cấy xuống đồng sâu
    đời người - dảnh mạ
    phải mùa nắng nỏ
    gặp bấc tháng ba
    héo quắt xương da
    sâu rầy phá hại
    tai ương chướng họa
    châu chấu tủa về
    cắn phăng gié lúa
    kêu trời không thấu
    lũ tràn vỡ đê
    nước mắt dầm dề
    nhòa trong mưa xối

    bạn ơi đừng hỏi
    ăn mày là ai

    băng ngang trời đàn ngựa trắng

    ta đã thấy những con tàu đồ sộ của một thế giới khác
    như hiện từ giấc mơ ma quỷ
    nhưng cái gì sẽ đổi thay?
    vẫn những người da đen còng lưng kéo xe cho người da trắng
    trên sân khấu cuộc đời vẫn bôi mặt vẽ mày nhí nhố gươm đao
    mục nát lại chồng lên mục nát
    những chiếc ngai sơn son thiếp vàng những võng lọng
    đình đám những tiệc tùng thừa mứa
    hệt như thời Nguyễn Du đã thấy
    và mặt trời cứ lẩn tránh
    không rõ vì xót thương hay xấu hổ hay hèn nhát
    bỏ mặc dân đen cho lũ sói diều

    muốn hỏi cây gạo làng Phú Thị mà hoa đỏ bao lần
    ám ảnh tuổi thơ
    muốn hỏi chiếc gông dài nặng hơn cả ngàn trang sách
    mùa xuân mang rượu lên núi cao
    muốn hỏi Ức Trai người anh hùng muôn thuở

    cái gì sẽ đổi thay?

    kêu một tiếng giữa rỗng không lạnh giá
    mù sương
    mắt ráo khô
    con đường cát lún
    vài ánh lửa chập chờn

    có lẽ xóm giềng đà trở dậy
    thơm thơm mùi khói nùn rơm
    hạt móc rơi trên tàu lá chuối

    ta đi và tất cả dâng lên

    gương mặt tiều tụy của đứa con
    mái nhà cũ phên tàn dậu đổ

    ta đi và tất cả dâng lên

    Quê hương
    nếu cần phải làm lại
    nếu phải làm ngay không trễ nải
    ta xin hiến nốt đời mình

    chỉ để gióng lên hồi chuông

    lớp người sau sẽ đến
    những ngọn sóng trong đêm
    khởi từ giờ tý
    nơi bản lề cánh cửa mở vào ngày mới
    ta xin đứng lại
    chiến đấu như một người
    chặn đường nỗi sợ
    và chết như một người
    đã vượt lên nỗi sợ

    ở những ranh giới mơ hồ
    đây là điều sáng rõ
    phải trả giá cho mỗi phẩm chất người
    dù rất nhỏ

    khi quả cây chín được trên cành
    nó không lo bao giờ rụng xuống

    Tháng tư năm Nhâm Tuất
    THANH THẢO
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 03-12-2010, 03:13 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    Tôi viết trường ca "Đêm trên cát"

    Có những tác phẩm được viết ra ngỡ như hết sức tình cờ. Có thể trước cái đêm tôi được hầu rượu nhà thơ Tế Hanh ở nhà anh Nguyễn Trung Hiếu thị xã Quảng Ngãi hình như vào năm 1981, tôi chưa hề nghĩ mình sẽ viết một bài thơ - chứ chưa nói một trường ca - về Cao Bá Quát. Dù tôi là người ngưỡng mộ nồng nhiệt Cao Chu Thần. Nhưng từ ngưỡng mộ tới viết được cái gì đó về thần tượng của mình, con đường ấy xa lắm.

    Nhớ cái ngày tôi và Ngô Thế Oanh đưa nhà thơ Tế Hanh từ Qui Nhơn ra Quảng Ngãi chơi, thì địa chỉ đầu tiên mà chúng tôi hướng tới ở Quảng Ngãi là nhà bác sĩ San, tục gọi là ông “San mập”- một người bạn vừa văn chương vừa đời thường vừa tiếu lâm, đúng là “ 3 trong 1”. Nhà anh San là một trung tâm tụ tập bạn bè, nhất là bạn văn nghệ, ở cái thị xã Quảng Ngãi nhỏ bé hồi đó. Tấp vào nhà bác San là lập tức được hưởng lộc của một bậc Mạnh thường quân hồ hởi và quí khách. Rượu tây, mồi nhậu “hàng hiệu”- hồi ấy là thịt gà hay cá chình gì đó - được gia chủ mang ra thết đãi. Nhà thơ Tế Hanh và chúng tôi ăn nhậu rất nhiệt tình, rất “buồn ngủ gặp chiếu manh”. Những ai đã sống thời bao cấp đói kém hẳn chia sẻ được cái ngọn lửa nhiệt tình ăn uống này. Nó thật thà hơn cả văn chương của chúng ta hồi ấy nữa cơ! Vì không phải lúc nào, tháng nào hay quí nào cũng được đánh chén cật lực toàn món “xịn” như thế.

    Sau khi hàn huyên ở nhà bác sĩ San, buổi chiều hôm ấy chúng tôi đưa nhà thơ Tế Hanh sang nhà bác Nguyễn Trung Hiếu, lúc bấy giờ đang làm “sếp” đài truyền thanh thị xã, gọi là “thăm chơi”. Bác Hiếu rất hiểu “ý nghĩa” của cuộc “thăm chơi” này, nên đã huy động bạn bè, kẻ góp rượu, người góp mồi nhậu. Và chúng tôi lại “lê thị liên hoan”. Đã quen thân với nhà thơ Tế Hanh từ trước đó, nhưng tôi không nghĩ ông lại dễ tính và hoà đồng như thế với các bạn văn nghệ tuổi em cháu mình. Thực ra, Tế Hanh rất thật thà và dễ thương. Ông không phải “đệ tử lưu linh”, nhưng buổi tối hôm ấy ở nhà anh Hiếu, tôi đã chứng kiến một Tế Hanh đầy hứng khởi và uống… rất được. Mặc dù rượu ở đó chỉ là rượu mật mía, có ngâm cái gì đen đen gọi là… rượu thuốc, nhưng chúng tôi đã uống rất hào sảng, và cảm thấy ngon như lúc uống rượu tây ở nhà bác sĩ San. Rượu vào, lời ra, trăng đã trên đỉnh đầu chúng tôi từ lúc nào (cuộc rượu vầy ngoài vườn nhà bác Hiếu), và lúc ấy… Tự dưng, hình như là Ngô Thế Oanh nhắc tới bài thơ Trà giang thu nguyệt ca của Cao Bá Quát. Tế Hanh đang hào hứng ca ngợi bài thơ này hết lời, thì bất chợt tôi chen ngang: “ Em sẽ viết một trường ca về Cao Bá Quát, chỉ dồn nén trong một đêm của nhà thơ. Sau một đêm thức trắng, mái tóc bạc của Cao Chu Thần bỗng…xanh lại.” Thực lòng, tôi không thể hiểu vì sao lúc đó mình nói như thế, cứ như cái trường ca ấy đã nằm trong đầu mình lâu lắm rồi. Và cả mái tóc bạc chuyển thành… xanh của Cao Chu Thần chỉ sau một đêm suy nghĩ, cứ như tôi đã nghiền ngẫm hình ảnh ấy từ lâu lắm. Thực ra, đó chỉ là câu nói buột thốt, nhưng hình như nhà thơ Tế Hanh - một người rất nhạy cảm - hiểu câu nói ấy như một lời hứa. Ông động viên tôi: “ Em phải viết đi. Cái tứ ấy hay lắm!

    Nếu đó chỉ là một câu đại ngôn khuếch khoác, thì khi rượu tan, mồi tàn, hẳn tôi đã quên ngay rồi. Vậy mà, cái khoảnh khắc như ai nói hộ mình ấy, với tôi đã thành một ám ảnh, một thôi thúc đâu đó từ bên trong. Sau lần đi Quảng Ngãi, về Qui Nhơn tôi đã lao vào tìm đọc tất cả những gì có được lúc ấy liên quan tới Cao Bá Quát. Nhất là thơ Cao Chu Thần, tôi đọc đi đọc lại tuyển tập thơ chữ Hán của Ông không biết bao nhiêu lần. Đọc cho ngấm, cho ngấu, cho đau, cho uất. Trong thơ Cao Bá Quát có đủ cả hỉ nộ ái ố ai lạc, nhưng vượt lên trên tất cả, là vẻ cương nghị thầm lặng, là cái tình sâu đậm, sự sẻ chia trong hoạn nạn, trong khốn khó của nhà thơ với nhân dân mình, với một người dân, một con người cụ thể, và với quê hương, với cái làng Phú Thị nhỏ bé có cây gạo đầu làng mà người lưu lạc mỗi khi trở lại quê nhà đều nhìn thấy từ rất xa. Đó là thơ của một nội tâm dữ dội, của sự dồn nén ghê gớm, và của sự bùng nổ giữa các dòng chữ. Hình như, tôi bắt đầu bắt sóng được với khối thơ-thuốc nổ ấy.

    Dù không thể hình dung mình sẽ viết cái trường ca ấy như thế nào, nhưng tựa đề Đêm trên cát với lời đề từ “một đêm của nhà thơ Cao Bá Quát” thì tôi đã nghĩ ra từ trước khi viết dòng thơ đầu tiên. Nó như một tiêu điểm mà bài thơ mình hướng tới. Ngay cả cấu trúc bên trong của bài thơ, tôi cũng mong muốn nó sẽ mang hình thức cấu trúc của một sonata với sự chặt chẽ, đối chọi, dồn nén cao độ và những cao trào bùng nổ. Tôi không học nhạc lý nhưng rất mê nhạc cổ điển, và hồi đó dẫu vất vả nhưng tôi vẫn tìm được cách để thường xuyên nghe nhạc cổ điển.

    Sau mấy tháng “tích điện Cao Bá Quát”, tôi đã viết được những dòng thơ đầu tiên. Tôi chỉ có thể viết từng đoạn, từng đoạn, nhiều khi bị ngắt quãng chút ít vì phải di chuyển từ Qui Nhơn ra quê Mộ Đức-Quảng Ngãi và ngược lại, nhưng tôi cảm thấy, chưa có trường ca nào tôi lại viết được liền mạch như thế. Những câu thơ nặng nề, uất ức cứ tuôn ra một cách như dễ dàng, như nhẹ nhàng. Tôi viết từng đoạn trong một cuốn sổ tay, rồi viết lại trong máy chữ. Có những đêm ngồi ở nhà thầy má tôi tại quê, nhà không có điện, tôi thắp ngọn đèn dầu hiu hắt và… viết. Những lúc ấy, giữa bóng đêm và bóng đèn nhập nhoạng, cứ như Cao Chu Thần hiện về trước trang giấy, lặng lẽ chuyện trò cùng tôi. Đó là những phút giây thật sự hạnh phúc.

    Trong cuộc đời không dài nhưng đầy giông bão của mình, Cao Bá Quát đã có lần tới Quảng Ngãi. Ông đã đi thuyền trên sông Trà, đã kịp đánh bạn với một hàn nho - một người rất yêu ông và yêu thơ ông - quê ở bên bờ sông Trà (có lẽ thuộc huyện Sơn Tịnh bây giờ), và đã viết một bài thơ đứng vào hàng kiệt tác trong thơ Việt, bài Trà giang thu nguyệt ca. Sau này, khi Đêm trên cát đã được đón nhận và được tái bản nhiều lần, tôi có nói với bạn bè, là người Quảng Ngãi, tôi tự hào vì là đồng hương với người bạn vô danh (chưa tìm hiểu được tên thật) của Cao Chu Thần.

    Người Quảng Ngãi yêu thơ và trọng nhà thơ lắm. Và người Quảng Ngãi cũng yêu những tay giang hồ lỗi lạc, đầy hùng tâm tráng khí nhưng lâm nghịch cảnh như Cao Bá Quát. Một sự “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” khi hai người bạn ấy gặp nhau, cùng nhau đi thuyền trên sông Trà một đêm trăng thu. Nếu không có người bạn quê bên bờ sông Trà ấy, làm sao Cao Chu Thần viết được Trà giang thu nguyệt ca ?

    Vào năm 1985, trong một buổi tiệc tỉnh Nghĩa Bình đãi khách mừng 10 năm giải phóng, tôi tình cờ lạc vào một bàn tiệc và ngồi bên giáo sư Vũ Khiêu. Tôi đã lễ phép thưa với giáo sư, là tôi nghĩ, có khi sự nghiệp của ông sau này chỉ còn lại bài dịch Trà giang thu nguyệt ca - giáo sư Vũ Khiêu đã dịch rất tuyệt bài thơ đó - liệu giáo sư đã thấy bấy nhiêu là đủ cho mình ? Tôi không nhớ giáo sư Khiêu đã trả lời thế nào, nhưng bài thơ ông dịch kiệt tác Trà giang thu nguyệt ca thì tôi nhớ.

    Thơ Cao Bá Quát là thơ mà mỗi thế hệ lại có thể khám phá những điều mới lạ tùy điểm nhìn của mình. Từ thế kỷ 19, thơ Cao Chu Thần đã mang đậm bản sắc cá nhân, đã mạnh mẽ khẳng định cá tính sáng tạo của mình, bất chấp những ràng buộc khắc nghiệt của thể chế phong kiến.

    Nhà thơ Cao Bá Quát trong khi vẫn là nhà nho thì đã có những suy nghĩ, những sáng tạo vượt quá khuôn khổ một nhà thơ-nho học. Ở một phía khác với Nguyễn Công Trứ, nhưng giống như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát là nhà thơ đầy cá tính, và quyết liệt giữ cá tính, giữ cách suy nghĩ đi trước thời đại của mình. Ông đã không thể thích hợp với thời mình sống, và đã có cái nhìn xa hơn nhiều nhà thơ cùng thời với mình. Vua Tự Đức đã không thể hiểu, và không thể chịu được Cao Bá Quát từ “độ chênh” tư duy và thẩm mỹ đó, chứ không chỉ vì những “lỗi” ngông ngạo hay thương người của Cao Chu Thần.

    Tôi muốn hình dung một Cao Bá Quát “của riêng mình” trong Đêm trên cát từ điểm nhìn ấy. Và, chưa bao giờ tôi viết một bài thơ dài hơn 600 câu thơ mà luôn trong trạng thái gần như “đang cơn” như thế. Linh hồn Cao Chu Thần đã phù hộ tôi, dắt dẫn tôi trong từng đoạn thơ, hay chính tôi trong trạng thái bất thường như thế đã “bắt sóng” được với thơ Cao Chu Thần - nghĩa là đã bắt sóng được với phần tâm huyết, sâu kín của nhà thơ. Nếu đọc kỹ thơ Cao Bá Quát, ta sẽ không ngạc nhiên về bước đường tư tưởng và hành động của ông, kể cả quyết định dấn thân cuối cùng là trở thành lãnh tụ khởi nghĩa nông dân.

    Tôi muốn cô đặc cả hành trình dài đầy phức tạp ấy của Cao Bá Quát vào một đêm thức trắng của ông. Một đêm cho cả một đời. Ở Đêm trên cát thì khi viết đoạn kết trường ca, hình ảnh “mái tóc bạc của Cao Bá Quát bỗng xanh cả lại” đã không xuất hiện như hình ảnh chợt đến với tôi ban đầu. Thay vào đó, là hình ảnh một quả cây: khi quả cây chín được trên cành/ nó không lo bao giờ rụng xuống/ - một quyết định nhận đường bình thản. Sự thay đổi đã lặn vào bên trong, không hiện rõ như hình ảnh “tóc bạc-tóc xanh”, nhưng cách khẳng quyết về một khả năng sống lại thì đã rõ.

    cỏ bồng bềnh câu thơ hoang dại
    cánh đu tiên mùa xuân
    ta đã bay quá lằn mức đời mình
    trên cả dao động và yên tĩnh ( Đêm trên cát)

    Thơ Cao Bá Quát, tôi nghĩ, luôn “bay quá” một cái gì. Và cho tới bây giờ, sau hơn 150 năm( Cao Bá Quát mất năm 1855) thơ ông vẫn tiếp tục “đánh đu” trên cả dao động và yên tĩnh.


    Ghi chú: Tôi viết xong Đêm trên cát vào tháng 4 năm 1982, cứ nghĩ để đó thôi. Nhưng đầu năm 1983, nhân dịp Tết, tôi đưa gia đình về quê ngoại các cháu, có tới thăm tạp chí SÔNG HƯƠNG lúc ấy chuẩn bị ra số đầu tiên. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm - bấy giờ là Tổng biên tập - hỏi tôi có sáng tác gì mới gửi đăng tạp chí, tôi đã đưa Đêm trên cát, nhưng cũng không dám hy vọng nhiều. Tạp chí SÔNG HƯƠNG số 1 ra, và Đêm trên cát được trích in tới gần 1/3, khoảng 180 câu thơ. Đến năm 1985 thì Đêm trên cát được in trọn vẹn trong tập thơ Khối vuông ru-bich của tôi tại nhà xuất bản Tác phẩm mới - Hội nhà văn. Năm ngoái, nhân một chuyến về Quảng Ngãi, nhà văn Xuân Cang có tới thăm tôi và xin một bản Đêm trên cát. Anh kể, quê anh ở làng Phú Thị( thuộc Gia Lâm - Hà Nội), chính là làng quê Cao Bá Quát. Nhà cha mẹ anh ở rất gần nhà thờ Cao Bá Quát. Anh còn kể một số chuyện linh thiêng lạ lùng về nhà thờ Cao Chu Thần. Làng Phú Thị giờ đã “phố hoá”, cây gạo đầu làng cũng không còn nữa.



    Quảng Ngãi tiết mạnh thu Mậu Tí
    thanh thảo


    Nguồn : Bài đã đăng trên Tuổi Trẻ ngày 2.10.2008 (xem trong mục Thấy Trên Mạng trên mặt báo này), nhưng bị cắt khá nhiều. Đây là bản tác giả gửi cho Diễn Đàn.


    Tôi viết trường ca Đêm Trên cát
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 03-12-2010, 02:43 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    Working...
    Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom